Lời nói đầu
Đây không phải là một luận văn triết học, nhưng là
tập hợp một số suy tư về một vài chủ đề nhất định được
đăng trong Tập San Định Hướng. Các chủ đề xem ra rời rạc, nhiều ý tưởng
lại được lặp lại nhiều lần; những hiện tượng đó đi ngoài quy ước của một
tác phẩm triết học theo khuôn khổ cổ điển; nhưng chúng vẫn được cho ấn
hành thành một quyển sách, vì xuyên qua những chủ đề đó tôi chỉ muốn đào
sâu câu nói lạ thường của Martin Heidegger:
Điều làm cho chúng ta suy nghĩ hơn cả trong thời đại của
chúng ta, một thời đại đang làm ta suy nghĩ, đó là chúng ta chưa từng suy
nghĩ [1].
Chúng ta chưa từng suy nghĩ, vì theo nhà tư tưởng này: "Có thể là con người truyền thống đã quá mải miết hành động và không mấy suy tư
suốt qua bao thế kỷ" [2].
Để hiểu thế nào là hành động theo quan điển của Martin
Heidegger, tôi xin ghi lại một cử chỉ đặc trưng của nhà tư tưởng này khi
ông đề tặng cuốn sách của ông: "Kant et le problème de la
métaphysique" tưởng niệm triết gia Max Sheler tạ thế bất ngờ vào
năm 1924. Vào đầu năm ấy, Max Sheler định cho xuất bản
cuốn "Anthropologie philosophique" (Nhân học triết học) nhằm
khai triển vấn nạn "con người là gì, vị thế của nó như thế nào
trong hữu thể?". Max Sheler được biết đến như một triết gia đã có
công truy cứu về bản tính con người, được gọi là nhân vị, kết dệt bởi các
hành vi yêu thương và liên đới.
Martin Heidegger không chỉ trích Max Sheler về việc triết gia
này đặt lại vấn đề con người như nền tảng của suy tư triết học, vượt qua
những hệ thống duy lý truyền thống chỉ tập chú truy
cứu các ý niệm trừu tượng. Nhưng Heidegger cảnh giác rằng những nội dung
như nhân vị, yêu thương, liên đới... có nhảy vọt ra khỏi tiền kiến về cách
đặt vấn đề căn bản về con người hay không? Tiền kiến đó ở trong câu hỏi khởi đầu
của Max Sheler "Con người là cái gì?". Chữ "cái
gì" hàm ngụ một vật thể trụ vào bản chất của mình, không tương
quan cần thiết với cái gì khác mình, đồng thời tiên đoán con người như một
vật thể có khả năng am tường các bản chất đó. Suy tư biến thành hành động
thu tóm toàn bộ các bản chất vật thể thành một tổng thể, một Đại Ngã đang
hình thành.
Nhưng truyền thống của lối suy tư đó như lời của Gioan: "Suốt đêm, họ đã chẳng bắt được gì" [3]. Tất cả là đêm tối vì con người không
phải là "cái gì", cũng không phải là toàn thể những
cái gì cộng lại, nhưng mỗi người là một "ai".
Chữ "ai" không phải là thế giới của hành
động qui về mình, nhưng là cảnh vực của Lời nói, để gọi tên mỗi
người khác mình, lôi mình ra khỏi cơn mê của "chấp ngã" hành động.
Cả một truyền thống triết học đã hành động quá nhiều để mặc
nhiên hay minh nhiên xây dựng cho cái tôi của thế giới vật thể; nên khởi đầu học
lại suy tư không phải làm thêm một thế giới của một "cái gì"khác
nữa; nhưng là tập lắng nghe âm vang của Lời ẩn kín giúp con người bước
vào ngưỡng cửa của cảnh vực của Ai và những ai.
"Ai?", một chữ mà mọi người đều đã s ử dụng, nhưng
ngay cả bậc thánh hiền cũng bất cập trước mầu nhiệm của con người khi nó
là "một ai".
Reichstett, ngày 05 tháng 03 năm 1994
Mối tình Non Nước
và
ý nghĩa thi ca
Nói và làm
Thắc mắc về con người nếu không bị quên lãng, thì cũng
chỉ được xem là một xa xỉ, một lãnh vực giải trí đứng bên ngoài những câu hỏi về
các chương trình hành động được xem là đúng đắn và thực tiễn. Chúng
ta không phải đã vượt qua thời đại của những thắc mắc "vô
ích" đó để sống trong thời đại của hành động hữu hiệu hay
sao? Chúng ta không phải đã sống trong thời điểm của ánh sáng
do lý trí con người làm nên lịch sử chính mình hay sao? Phải
chăng chỉ có kẻ mù mới không thấy thế giới "vinh quang" đó của con
người? Thời "vinh quang" của con người không còn là thắc mắc, nói,
nhưng là hành động, "biến sỏi đá thành cơm", và rốt ráo là "người
làm nên người", không phải vậy sao?
Thực ra, nếu thời đại chúng ta, những kẻ chính thức và triệt
để muốn làm nên một xã hội của con người "không nói", thì ý đồ
căn cơ đó không phải là phát minh của xã hội tân kỳ ngày nay, nhưng
nó gắn chặt với thân phận con người.
Văn hóa Do Thái, Kitô giáo gọi tên con người đó là Adam
hái trái cấm; thi ca Hy lạp cô động trong các nhân vật Oedipe, Prométhée; kinh
sách Trung Hoa đưa ra hình ảnh Bá Cổn, Tề Thiên, Trư Bát Giới, Sa Tăng; và Tây
phương cận đại được Goethe mô phỏng qua nhà thông thái Faust bán hồn cho quỷ: Khởi
thủy là hành động.[4]
Hành động gọi là khởi thủy, không phải là làm việc này
hay việc khác, nhưng biến ta thành một cái gì do tự ta và vì ta. Ngôn ngữ
nhà Phật gọi hành (karma), có căn nơi chấp ngã. "Chấp"
là đóng khung lại và biến thể "ngã" thành một cái gì tuyệt đối, bao
trùm. Trong vị thế độc tôn của "ngã", không còn có ai, có kẻ nào khác
để Lời nối kết mối tương giao. Hành động nguyên thủy đó biến tất cả
"kẻ khác" thành dụng cụ làm nên "ngã"; và Lời bấy
giờ đã bị biến thành phương thế cân đo, đong đếm phục vụ cho hành động "ta
làm nên ta" này.
Đi tìm một trật tự mới cho xã hội con người, phải
chăng chỉ là tổng hợp các yếu tố cũ nơi thế giới của Faust mà xã hội
đang đeo đuổi, phác họa ra một kiếp hành động khác trong muôn kiếp
đọa đày của karma - là bô lô, ba la thảo luận về các chương trình
hành động trong khung cảnh của "chấp ngã" như thế?
Trước những đổ vỡ của trật tự cũ, vấn đề ưu tiên và then chốt
có phải là tiếp tục nêu lên nhiều câu hỏi "phải làm gì?", hay
dừng lại giây lát lắng nghe một lời của "Ai" nói, một
âm vang làm nổ bung vỏ cứng của chấp ngã, để có được lời nói thật sự
nối kết người với người, tạo nên hồn của cuộc sống xã hội?
Nhà tư tưởng Jean Brun trong cuộc hội thảo quốc tế
về triết học tổ chức tại Roma năm 1978, đã mạnh dạn phát biểu:
Làm gì?
- Không có gì để làm cả! Không có gì để làm vì không có vấn đề
thêm một cái làm khác vào vô số cái làm đã đày đọa chúng ta. Vấn đề
là "chân chất tính thể của mình (être) [5].
Nói cách khác, trước tất cả mọi câu hỏi "làm gì?", ưu tiên và nền tảng phải là thắc mắc "làm người".
"Làm người" mà Khổng Tử gọi là Đạo
Nhân tức là cuộc sống nối kết trời đất người, mà trí năng và hành động của
chấp ngã đã biến thể thành phản ứng, tương quan vô hồn giữa vật này với vật
khác. Tìm lại người và quê hương của nó cũng là tìm lại lời nói chân thật biểu
lộ sự nối kết của Đạo Nhân.
"Lời nói", đơn sơ như thế, nhưng Khổng Tử phải dạy
con là Bá Ngư:
(Không học Thi, không có lời để nói)
Vậy lời nói từ thi ca là gì, mà bậc thầy của nhân loại, một kẻ
suốt đời dấn thân cải tạo xã hội như Khổng Tử đã đặt nó làm nền cho sinh hoạt
con người?
Cũng mang nỗi lo âu cho tình trạng Nước Non đôi cảnh chia
lìa, vì "hồn dân tộc" đã trốn thoát, kẻ sĩ Sảng Đình Nguyễn Văn Thích
đã dạy cho ấu nhi của vườn trẻ Hương Linh do người sáng lập tại Huế bài đồng
dao:
Cái nhà là nhà của ta
Công khó ông cha lập ra
Cháu con luôn gìn giữ lấy
Muôn năm nhớ Nước Non Nhà
Cái nhà là nơi cư ngụ cho xã hội tình nghĩa cụ thể
của con người, là nơi thể hiện tình Nước và Non.
Cái nhà của cuộc sống tinh thần con người là Lời, tức là
tương giao vô vị lợi của Đạo Lý, tình nghĩa, là nơi mà cái tôi, như thánh
Phanxicô Assisi nói, "đã chết đi" từ bao giờ:
cha sống vì con, vợ sống vì chồng, chồng lao nhọc vì vợ, và con cái
an tâm trong niềm tin vào cha mẹ.
Thi ca là cái nhà của lời con người, vì hồn thi ca không phát
xuất tự mình, diễn tả sự khôn ngoan hay trí tưởng tượng của mình, nhưng là dấu
tích của âm vọng từ Non Cao, của thần nhập từ bên kia bờ thế sự.
Hồn của Thơ và Tình Non Nước
Thơ là một lời nói, nhưng hình thức thô thiển nhất để phân biệt
với lời nói thông thường là tiết điệu nhịp nhàng của thơ. Tiến xa hơn nữa, người
ta đòi hỏi lời thơ phải đáp ứng những tiêu chuẩn đẹp đẽ của ngôn từ. Cũng còn
được đánh giá thật sự là thơ khi lời thơ đủ sức tác động đưa người nghe, người
ngâm, đọc, bước qua cảnh vực khác với thế giới đang sống. Từ tác động đó người
ta phải nghĩ đến thơ là sản phẩm của trí tưởng tượng, nhưng cũng còn là trí tưởng
tượng không sản xuất ra những ý niệm áp dụng vào hành động thực tiễn, hay bị
thúc bách bởi lợi ích của cuộc sống thực tiển. Không gì ngượng ngùng, nếu không
nói là xúc phạm với thơ hơn là phải nghe một bản vận văn ca tụng, nịnh hót một
chế độ để cầu chức tước hay kiếm ăn. Cũng như không ai xếp những câu vè quảng
cáo vào ngôn ngữ của thi ca. Những yếu tố sơ đẳng đó thường là những mẫu mực để
những nhà phê bình văn học xếp loại và đánh giá thi ca.
Trực diện với cuộc sống xã hội ngày nay, trong tiềm thức sâu
xa và tập thể của một con người gọi là văn minh, của các nhà thông thái, của một
Faust đã dùng "bàn tay" tự tạo nên mình thay lời nói, thì Đông cũng
như Tây hầu như đã không còn đoái hoài gì đến thi ca nữa. Nếu phía Đông đã chuyển
thơ thành dụng cụ phục vụ bộ máy sản xuất, thì Tây cũng chỉ còn mấy câu nói
xuôi tai dùng trong quảng cáo. Thi ca đã cáo chung không phải chỉ trong sách
báo, mà ngay cả trong cuộc sống dân gian. Một hiện tượng văn học qua đi trong sự
hững hờ, không nuối tiếc của ngay những kẻ gọi là làm văn hóa. Thi ca nếu còn
được nhắc nhở thì cũng chỉ là một sinh hoạt tối thiểu của một thế hệ quá tuổi sản
xuất, một trò giải trí lỗi thời. Đó là dấu chứng của một xã hội mang tiền kiến
vô thức thu gọn Chân Thiện Mỹ vào hiệu năng của hành động. Hiện tượng vắng bóng
thi ca không phải chỉ vì tâm thức con người không còn cảm nhạy về thơ vì đã mãi
ưu tư hành động; nhưng trước đó, thực tế của văn học thi ca đã từng mất hồn sống
của mình rồi.
Thơ mất hồn vì thơ chỉ được xem là sản phẩm của trí tưởng tượng
của con người. Nếu lấy ngôn từ của Kant để nói về trí tưởng tượng,
thì trí tưởng tượng hướng đến nhận thức sự vật gọi là trí tưởng tượng sản xuất (l'imagination
productive). Phải chăng khi trật lề không đóng khung được vào đối tượng nhận thức,
ngôn ngữ bấy giờ trở thành đối tượng của ảo ảnh để tạo thành thế giới thi ca! Từ
tiền kiến về thi ca là thế giới của không thực, sản phẩm của trí tưởng tượng
mông lung, thơ trở thành một lối tự thoát, một hình thức đào ngũ trước thực tế.
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió,
Thơ như thế không phải là Lời đến với người, nhưng
thơ là sản phẩm của trí tưởng tượng con người làm nên một thế giới ảo tưởng.
Thơ ấy kỳ thực cũng chỉ là lời của một hành động con người: hành
động sản xuất của giấc mơ. Nhưng hành động lại phải gắn liền với hiệu
năng; trong khuôn khổ này, thơ không đáp ứng tiêu chuẩn của hành động là hiệu
năng sản xuất, nên thơ tự mình đào thải chính mình.
Khi Khổng Tử nói "hưng ư thi", toàn nội dung của
tư tưởng ngài không cho phép ta quan niệm được thi ca theo nghĩa vừa trình bày.
Thơ hưng chấn tâm hồn, thơ tạo nền cho lời nói chân thật như Luận
Ngữ đã diễn tả, thơ như thế hàm ngụ việc nghe và nhận. Trong quan điểm "hưng
ư thi" đó, Khổng Tử nói rằng ngài thuật lại mà không làm ra.
Chỉ có thể thuật lại khi đã nghe và cảm nhận, khi ngộ được sức
hưng chấn của thơ. Chúng ta hãy tạm quên quan niệm lịch sử hàng ngang, một cái
nhìn quá tân thời đối với Khổng Tử để cập nhật ngôn ngữ thi ca của ngài khi
ngài nói về thuở Nghiêu Thuấn. Nghiêu Thuấn cũng là thời của "Đại
Ký Ức", không khác nội dung của Mnemosyne trong văn
hóa Hy lạp mà Heidegger giải minh:
Nơi Hoelderlin, Mnemosyne là tên của một nữ thần, con Trời và
Đất. Khi đính hôn với Zeus, Đại Ký Ức trở thành mẹ của thi hứng. Đùa chơi, nhảy
nhót, thi ca được Đại Ký Ức cưu mang. Chữ đó ở đây hẳn nhiên nói đến một cái gì
khác với khả năng được gọi là thuộc về tâm lý: tức là khả năng lưu trử hình ảnh
của quá khứ trong lối biểu tượng thông thường. Đại Ký Ức tư tưởng về điều đáng
được con người suy nghĩ. Nhưng tên của bà mẹ các niềm hứng khởi không có nghĩa
là "trí nhớ" được hiểu như là một hành vi của tư duy hướng đến bất cứ
một vật nào có thể tư duy. Đại Ký Ức ở đây là nguồn mạch tư tưởng, một khi tư
tưởng quay về với điều người ta đã từng suy nghĩ trước đó, vì điều này luôn muốn
được xem là tiên quyết. Đại Ký Ức là nguồn mạch làm ta suy tư đến điều phải lưu
ý trước bất cứ một điều gì... Đại Ký Ức, một kỷ niệm nằm trong ta buộc ta quay
về với điều phải suy nghĩ, là vùng đất làm trào vọt lên thi ca.[10]
Qua lối minh giải đó Heidegger muốn nói lên rằng Đại Ký Ức là
tiếng vọng khác lạ, một trái tim luôn khắc khoải (theo ngôn ngữ của thánh
Augustinô) như đã có từ bao giờ khi con người là người. Tiếng vọng buộc ta
phải suy nghĩ về một cái gì ngay cả trước sự suy nghĩ của ta. Một cái gì gần
gũi với ta, nhưng là khác với ta, khác đến nỗi nó vượt lên trên tất cả các hình
ảnh xa xưa nhất mà trí tưởng tượng và ký ức có thể mô phỏng. Huyền thoại Nghiêu
Thuấn, một hình ảnh quá khứ nhưng như không thuộc về thời gian lịch sử, một Đại
Mẫu Mực, một "nghĩa" của thân phận làm người và xã hội,
khi "nghĩa" được hiểu là "cái phải là như thế".
Thi ca cũng như tư tưởng không phải là sinh hoạt của tưởng tượng đẻ ra hình ảnh,
nhưng là sự nhớ lại theo ngôn từ thi ca của Platon. Nhớ lại không được hiểu
ngây ngô là quay về một thế giới trước khi con người là người; qua hình ảnh thi
ca đầy ắp trong các tác phẩm của Platon, thế giới bên kia, trước đây, cũng là
đây, trong tâm hồn con người. Trong tác phẩm Phèdre, ông viết:
Một loại nhập thần và xuất thần thứ ba là loại đến từ các Thần
Thi, và khi nó đến với một tâm hồn đơn sơ, trong trắng, khi nó thức tỉnh và làm
cho tâm hồn đó ngây ngất, trong nhịp điệu của ca nhạc cũng như trong tiết tấu của
tất cả các loại thể văn, khi nó ca ngợi các kỳ công của người thuở trước, thì
nó giáo hóa cho hậu thế! Ngược lại, ai không ngây ngất bởi thần thi mà chủ tâm
đi vào thi ca, với xác quyết rằng bằng kiến thức kỹ thuật có thể đủ làm cho
mình trở thành thi sĩ, kẻ đó hẳn chỉ là thi công bất toàn; trước thi ca của người
đầy thi hứng, thơ của kẻ sáng suốt bình thường không "có gì là
thơ cả [11].
Trong khuôn khổ của ngôn ngữ thi ca, nói đến hồn, Đại
Ký Ức, nhập thần, xuất thần tưởng chừng như nói đến một cái gì khác với một
chân trời sáng tỏ, mở toang của thế giới nhận thức thuộc lý trí. Đại Ký Ức như ở
bên kia bờ của cuộc sống gọi là tự nhiên, với những thúc bách, nhu cầu, kể cả
nhu cầu suy tư, tò mò hiểu biết của mình, cùng nhịp điệu với thời gian trôi chảy,
thích ứng với những hoàn cảnh không gian, và môi trường sinh hoạt thăng trầm của
xã hội. Thánh Phaolô gọi cuộc sống tự nhiên này là cuộc sống của thân xác, mang
tất cả ưu tư thế sự, của một loài người có thể có những tài năng được xem là
cao độ hơn các loài sinh vật khác; nhưng, chỉ thế thôi thì loài người đã mất hồn,
vì "sống" đối với người không chỉ là trôi chảy với thời
gian mà còn là khắc khoải về căn nguồn của mình. Thi sĩ Tản Đà nói:
Nước Non nặng một lời thề,
Hai câu thơ tiếp theo, Tản Đà đưa ta vào cốt lõi của hồn thơ:
Nhớ lời nguyện Nước thề Non,
Nước đi chưa lại, Non còn đứng không
Hồn thơ là nhớ lại một lời nguyện thề, gắn Non với thân phận
của Nước. Nhưng Nước mãi đi và Non vẫn đứng đấy một mình, như là không gì cả đối
với Nước!
Quên Non, Nước mất hồn, và người mất lời nói. Sinh làm kiếp
người, bơi vào giòng nước, nhập cuộc với đời, con người mang lấy nghiệp
"quên"; văn hóa Kitô giáo gọi là tội nguyên tổ, tội của tự do làm người,
vì con người là người. Thi hào Sophocle mượn hình ảnh của Oedipe để biểu tượng
cho "kiếp người quên lãng", không hay biết nguồn gốc
là Non, nên mãi nghĩ rằng thời gian luôn bung mở và nhận thức hiểu biết của con
người là chân lý trọn đầy. Hoặc nói như Héraclite, Non vẫn nói bằng muôn nghìn
cách, nhưng con người thế sự đầy ứ ưu lo cho mình mà thôi, nên nghe cũng chẳng
hiểu gì:
Họ nghe mà không hiểu gì, không khác những người điếc. Cách
ngôn áp dụng đúng trường hợp của họ: Họ hiện diện, nhưng kỳ thực
đang vắng mặt [13]
Œdipe, trong kịch bản của Sophocle, có ngờ đâu khi nhập cuộc
với thời gian thì cũng chính là lúc gươm của tự tay mình giết chết
thân phụ mình là Laios. Ngập vào "Nước" là thời gian,
con người đã nhúng tay vào tội nguyên tổ giết cha, tức quên Nguồn.
Con người biết thật nhiều, nhưng không biết Cha, nên lầm lạc và mãi lầm lạc.
Thi ca như kẻ mù, một sự đối nghịch của "ánh sáng" của thân xác trần
thế, qua hình ảnh người tiên tri mù Tirésias đến báo cho Oedipe hay rằng:
Bởi vì ông sỉ nhục tôi là kẻ mù, tôi sẽ nói cho ông hay việc
này: Ông có hai mắt, nhưng ông không thấy ông đã rơi vào hố thẳm, ông không biết
ông đang ở đâu và ăn nằm với ai. Ông có hay ai sinh ra ông không?
Ông không hay chính ông là thù địch của người thân của ông, kẻ sống cũng như
ngưới đã khuất [14]
Cũng như người mù Tirésias, người điên (kẻ không bình
thường theo khôn ngoan thế sự) của F. Nietzsche đã một lần nữa hét to:
Người điên có lúc cần phải hét to lên: "Thần đi đâu rồi?
Tôi nói cho bà con hay, chúng ta đã giết thần rồi. Bà con cũng như tôi! tất cả
chúng ta là những kẻ sát thần. [15]
Chúng ta giết Thần hay nói cách khác, Thần không đóng khung
trong thế giới chỉ có mặt ta dưới bóng nước. Thần vô phương, vì không có một
nơi nào ta định được cho Thần ở, dẫu Thần ở mọi nơi, như Trang Tử nặng lời nói
Đạo ở ngay trong đống phân bò. Hồn thơ là Thần đến, nhưng Thần không cư ngụ
trong lời hoa mỹ do tài con người xếp đặt. Một trăm thợ vẽ tài ba dẫu có sao lại
tinh tế đến đâu một bức tranh nhỏ của Van Gogh, cũng không làm cho những bức họa
đồ đó trào vụt lên cái thần của họa sĩ này.
Hồn thơ như một sức từ ngoài nhập đến. "Nhớ
Lời",không phải do suy tư mà nhớ, do "ngã" được định vị từ trong dòng nước thời gian tự quay lại nhìn mình. "Nhớ Lời" của Tản
Đà không có chủ từ rõ rệt đi trước, như đã mang âm hưởng câu nói bất hủ của đức
Buddhaghosa:
"Nhớ lời" là hồn thơ đến từ bờ bên kia.
Non cao những ngóng cùng trông
Suối tuôn giòng lệ chờ mong tháng ngày...
Thánh Augustinô trong cuốn Confessiones gọi nguồn của
nhớ là "Misericordia", tức là "Đại từ tâm" của
Non.
Nhớ như thế phải chăng là hồn thơ đã nhập vào lời trần, để lời
trần không còn nhi nhô hoan lạc với thời gian mở rộng, nhưng vướng lấy
âm hưởng của Non trong lối nói khác đời, tiêu cực, thiếu vắng. Augustinô đã hỏi
trời, đất, cây cỏ, nhưng Thần không phải chúng. Những nhà đại thi hào muôn thuở
của nhân loại đều nhập Thần để khai mở lối nói thi ca này. Tất Đạt Đa gọi nỗi
nhớ đó là "khổ", Lão Tử gọi là "vô", Kinh
Thư gọi là "Đạo tâm duy vi" không phải là đạo của tâm con
người vốn là "duy nguy", Pascal trong Pensées cảm nhận hồn
thơ nơi tâm thức về "thinh lặng miên viễn" [17].
Hồn thơ đến như một cơn đau, nỗi khổ vô tận của thời gian và
kiếp làm người "hay quên", một cảm xúc thiếu vắng mà không một yếu tố
chất liệu nào của trần gian lấp đầy được. Thi hào Hoelderlin gọi là nỗi "nhớ
quê - nhớ nhà". Heidegger lấy lại hình ảnh này để nói lên cơn đau đó:
Cảm được sự gần gũi của Lời thật xa, của lời thề
muôn thuở Non-Nước sẽ hưng chấn con người và cộng đồng huynh đệ thật
sự, để lời nói không chỉ làm dụng cụ tính toán của hành động, nhưng còn là sự sống
nối kết Đất Trời Người.
Lời thơ sẽ dẫn đưa lời trần thế, từ ưu lo khai thác, khám phá
vật này vật kia đến cảnh giới tương giao giữa người với người, được nối kết với
Non cao thật gần và thật xa.
Lời thơ sẽ tuyệt tác khi còn là tiếng vọng của Non cao
"khuất mặt" để từ đáy lòng con người cảm nhận nỗi khắc khoải về quê
nhà mình, cảnh vực của Nước Non Nhà để đón nhận cái "Khổ" cứu thoát.
Chú thích:
[1] M.HEIDEGGER, Qu'appelle-t-on
penser? bản dịch của Aloys Becker và Gérard Granel, PUF, Paris, 4è
éd. 1983, tr. 24
[5] Jean BRUN - La
Politique et le Mal radical, dans Religion et Politique, Actes du
Colloque à Rome,1978, Montaigne, Paris, 1978,tr 144
[18] M.
HEIDEGGER - Essais et conférences - Qui
est Zarathoustra de Nietzsche? - Gallimard - 1958, tr 125).
Đạo trong Lão học và trong Nho học
Những câu đầu tiên của Đạo Đức Kinh đã cho ta cảm tưởng đây
là một lối nói ngược đời. Thực thế, thành ngữ ngược đời của tiếng Việt
gói ghém hầu hết tư tưởng của Lão. Đời theo Lão là cái xuất hiện
ra bên ngoài, nghĩa là tất cả những gì mà con người thấy mình có thể nắm bắt được
do lòng thương, lý trí, khả năng hành động của mình, và tưởng là do khả năng
riêng của mình. Theo chính ngôn từ của Đạo Đức Kinh, đời là thiên hạ (chương
2) tức là toàn khối ngược lại với tích chi (chương
39) hoặc cổ chi [1] (chương
65).
Thiên hạ không phải chỉ là hiện tượng xã hội, số đông quần
chúng mà thôi, nhưng là cảnh vực của những gì con người có thể [= "khả" (chương
I)]. Xét về thời gian, đó là toàn bộ quá khứ, hiện tại, tương lai
con người có thể nhớ, đang sống và dự phóng cho tương lai. Nên tích chi, cổ
chi hay thời Nghiêu Thuấn chẳng qua là biểu tượng, một lối nói
thi ca về một cái thời mà không phải là thời của con người, do
bởi con người. Vì thế nên khi nói trở lại thời xưa, giữ Đạo
xưa, Đạo Đức Kinh đã diễn tả cái "chấp cổ chi Đạo" (Chương 14-C)
đó như thế này:
Xem mà không thấy, nên tên gọi là "Di"
Lóng mà không nghe, nên tên gọi là "Hi"
Bắt mà không nắm được, nên gọi là "Vi" [2]
Thế mà đã từ lâu, như đã mất nguồn thi hứng của tư tưởng, Đạo
là Nguyên Nguồn của Đại Ký Ức đã được hiểu lầm là tập tục sinh hoạt
của một thời kỳ còn man khai của lịch sử con người, tại một vùng đất
nào đó ở Trung Hoa, nên kẻ tìm học Đạo loay hoay bảo thủ những kỹ
thuật, thể chế đã qua đi trong lịch sử. Vì sớm dời nguồn của Đạo nên, theo Karl
Jaspers trong cuốn "Les grands philosophes" đã nhận xét về
cuộc tranh luận trong lịch sử về nội dung của Đạo nơi Khổng và Lão như sau:
... Cuộc tranh cãi sau này giữa những người học Lão và học Khổng
đã làm mờ mịt về những giai thoại này. Hai bên, sau đó vì xa nguồn, mà đã không
hiểu gì nhau. Người theo Lão học nhiều thế hệ liên tiếp đã trốn đời, sống khổ hạnh,
trở thành những kẻ làm phù phép, thâm cứu biến hóa của sự vật, họ muốn sống
lâu, thành kẻ làm bùa, bán thuốc dạo. Những kẻ kế tục của Khổng sống giữa đời,
tổ chức xã hội, cố uốn mình để tìm một số phương cách hữu hiệu hầu
lo bảo vệ cho lợi ích riêng; họ là những kẻ thi đậu, làm quan và bề
lâu bề dài trở thành những kẻ chỉ biết có phép tắc luật lệ, vô tâm, ích kỷ,
tham quyền và thụ hưởng. [3]
Lời phê phán về các trường phái sau này của Karl Jaspers có lẽ
quá gay gắt, chỉ nhìn phần tiêu cực của phần ứng dụng (dầu đã bị hiểu sai) tư
tưởng Khổng Lão, nhưng cũng là dịp tốt để làm ta phải giật mình đặt
lại vấn đề: Đạo theo Lão và Khổng là gì?
Theo như Phùng Hữu Lan trong cuốn "Lịch sử triết học
Trung hoa", thì thực sự Khổng và Lão không ai trong hai người đã viết sách
lưu lại cả. Về Khổng Tử, tác giả này nói:
Theo như trong cuốn Luận Ngữ nói về ông, Khổng Tử đã không
bao giờ có ý định tự mình viết cái gì để lại cho hậu thế cả. Viết sách trong cuộc
sống tư riêng và không chính thức là việc mà thời bấy giờ chưa từng được ai nói
đến, và chỉ xảy ra sau thời của Khổng. Ông là bậc thầy dạy tư đầu tiên ở Trung
Hoa, nhưng không phải là nhà văn đầu tiên. [4]
Về Lão Tử và Đạo Đức Kinh, Phùng Hữu Lan nhận định:
Không nhất thiết phải có sự tương quan giữa hai việc (Lão Tử
và Đạo Đức Kinh), vì rất có thể có một người tên là Lão Tử, lớn tuổi hơn Không
Tử, nhưng cuốn sách mang tên Lão Tử lại là một tác phẩm được viết ra sau
này [5]
Theo nhận xét đó [6], những
sách thường được nêu lên là của Lão hay của Khổng, hoặc đồ đệ của Khổng, không
những đã trình bày những tư tưởng uyên nguyên của Lão hay Khổng mà thôi, mà còn
là tổng kết những suy tư của một khối người tiếp sau thời hai vị, và gián tiếp
đã có những lối biện minh, giải thích cho lập trường của mình trước quan điểm của
đối phương. Đặc biệt trong cuốn Đạo Đức Kinh, những nhận xét về tên gọi, nhân,
nghĩa, lễ, trí cho thấy tác phẩm này không thể không biết đến trường phái danh
gia của Huệ Thi và Công Tôn Long, cũng như các nội dung của Nho học. Và phía Khổng
học, đặc biệt cuốn Trung Dung, một bản văn được sắp đặt có hệ thống và trình
bày nền tảng tư tưởng của Khổng Tử cũng hàm ngụ phần nào nhu cầu phải biện minh
sự nhất quán của Nho học trước những phê phán của phía Lão học.
Vì có phần suy nghĩ sắp xếp lại, chúng ta có được hai đoạn
văn cô động tư tưởng của hai tư tưởng Nho Lão:
- Chương 1 của Đạo Đức Kinh, và
- Mấy lời của Khổng Tử nói được tư tưởng truyền
lại trong phần đầu của Trung Dung.
Ở cả hai đoạn văn, chữ Đạo được nêu lên, và là nội dung chính
mà cả hai vị Lão Khổng muốn khai triển.
Đạo trong đoạn văn đầu của Đạo Đức Kinh [7]
Vì cách viết tiếng Trung Hoa cổ, không chấm câu, nên tùy mỗi
tác giả nghiên cứu, ta thấy có một lối đọc khác nhau. Và qua các bản dịch, ta
càng lại thấy mỗi câu có một cách hiểu khác.
Ngay trong các bản dịch Việt ngữ của hai tác giả Thu Giang
Nguyễn Duy Cần và Hạo Nhiên Nghiêm Toản, chúng ta đã thấy có ba lối chấm câu
khác nhau: 2 ở Nghiêm Toản, và 1 theo cách riêng của Nguyễn Duy Cần.
1- Đạo khả đạo phi Thường Đạo
Danh khả danh phi Thường Danh
Ở cả hai bản, một theo cách chấm của Vương Bật, một theo cách
chấm của Tư Mã Quang, Vương An Thạch, Tô Thức, Lương Khải Siêu mà Nghiêm Toản đều
có chép ra, nhà học giả Việt Nam này đã dịch:
Đạo có thể nói được không phải đạo thường;
Tên có thể gọi được không phải tên thường [8]
Nguyễn Duy Cần cũng dịch y như thế.[9]
Phùng Hữu Lan, qua Pháp ngữ có lối dịch tương tự:
Le Tao qui peut être enfermé dans les mots n'est pas le Tao
éternel;
Le nom qui peut être nommé n'est pas le nom permanant [10]
Một dịch giả khác là Liou Kia-hway đã dịch:
Le Tao qu'on saurait exprimer
n'est pas le Tao de toujours,
Le nom qu'on saurait nommer
n'est pas le nom de toujours [11]
Khi dịch ra, chúng ta thấy đã có một cái gì mất
đi; ngay trong cách dùng chữ lặp lại một cách cố ý của chính bản
văn không được khai triển.
Đạo khả đạo phi Thường Đạo
Ngay từ câu đầu có ba ý niệm về Đạo.
- Chữ Đạo đặt ở đầu câu được nêu
lên như một nội dung được đề cập.
- (Đạo) khả đạo: chữ "đạo" ở
sau được tất cả tác giả nêu lên như một động từ. Nhưng qua tất
cả các lối dịch, động từ "đạo" này được lồng vào ý niệm
suy nghĩ, nói, hoặc viết ra bằng chữ. Thật ra lối dịch đóđã bị tiền
kiến về phân tích ý niệm rồi. Thực vậy, Phùng Hữu Lan đã trách
cứ lối suy tư trừu tượng của Tây phương, khác với tư tưởng sinh động, trực
tiếp của Trung Hoa, khi ông nói: "Theo một số triết gia Tây phương,
muốn suy tư trước hết phải khám phá xem ta có thể suy tư điều gì; điều đó
có nghĩa là trước hết chúng ta phải "suy tư về sự suy tư của chúng ta
"trước khi suy tư về cuộc đời" [12]. Nhưng
khi dịch câu này, tác giả đó lại áp dụng lối đọc của suy tư theo tiền kiến tri
thức đó. Động từ đạo đằng sau ít nhất gượng lắm cũng phải dịch
là đi. Từ nguyên nghĩa, chữ Đạo trong ngôn ngữ Trung Hoa là đường để
đi. Nếu đào sâu hơn nữa khi đối chiếu lịch sử về hình thành bản văn, động từ đạo này
có thể được hiểu là nỗ lực thực thi đạo qua nhân, nghĩa, lễ, trí…
của nhogia thời đó. Hơn nữa, theo tinh thần phổ cập của bản văn, thì động từ đạo đi với khả nhằm
nói hết tất cả những nỗ lực và khả năng của con người hạn hẹp trong thế giới
mở toang ra cho nó.
- Thường Đạo: Chữ Thường ở
đây, cũng là nội dung của Trung Dung theo lối định nghĩa của Từ Trình Tử
xét về mặt tích cực của nó: "Bất thiên chi vị trung, bất dịch
chi vị dung".
Tại sao lại có Thường Đạo khác với Đạo khả
đạo?
Đây là câu vô đề, gọi là tiền đề, tư tưởng không tìm cái gì
xa hơn ngoài sự nhận xét rằng đã có sự khác biệt, xa cách. Nói cách khác
đây là "ngộ" được như thế, là một trực giác, chứ không phải
là kết quả truy tìm với những dữ kiện tìm kiếm trước đó: như tôi muốn gì, tôi
tìm gì hay tìm ai... Tuy thế, hệ luận của trực giác này trước hết là cảm
thức có sự xa cách giữa Đạo Thường và đạo mà con người có
thể (khả). Câu hỏi kế tiếp có thể được nêu lên một cách hữu lý là: Nếu "khả" tức
là sức con người mà không với đến được thì Đạo Thường ở đâu lọt vào cõi nhân thế
để có thể gợi lên? Trước khi nhảy vọt quá nhanh vào kết luận huyền bí, lấy đó
làm thuẫn đỡ cho nỗ lực suy tư, chúng ta nỗ lực tìm câu giải đáp từ
trong bản văn của Đạo Đức Kinh. Giải đáp đó là "năng tri cổ thỉ" [13] (=
khả năng biết cái ban sơ xưa).
Sách Đạo Đức Kinh luôn phân biệt Cổ và Kim như
trình bày ở trên:
Kim không có nghĩa là ngày nay hay tân thời, nhưng là
cái xuất ra bên ngoài, một bên ngoài được hiểu là vắng Đạo. Tư tưởng vắng
Đạonơi cuộc sống của con người trong thời gian cũng là một trong những đề
tài cổ điển của các bản văn Do thái giáo và Kitô giáo [14] cũng
như văn chương Hy lạp [15], và
chúng ta thấy nội dung này phảng phất trong tư tưởng của Kant về tri thức con
người.
Đối lại, Cổ là không phải trong thời gian mở
tung của con người, nhưng là "năng tri cổ thỉ". Và "năng
tri cổ thỉ "cũng không phải là lời nói vu vơ: nên ta có thể hiểu chữ
"khả" ở câu đầu đã được hạn chế trong một chiều kích nào đó, chứ chưa
phải là tất cả thân phận con người. "Khả" cũng
là "vi", là "Karma", tức là khả năng
người làm nên thế giới người. Ngoài "khả" đó còn "năng tri
cổ thỉ"; và "năng tri cổ thỉ" nầy chỉ có thể gợi lên
được khi nơi thân phận con người còn dai dẳng Đại Ký Ức, nỗi nhớ nguồn, dẫu ẩn kín, nhưng luôn gần. Vì ngoài "Đạo khả đạo"hàm ngụ
nghiệp quên Đạo Thường, con người còn được nâng đỡ bởi Đại Ký Ức,
nên Đạo Thường là đường thật cho nhân thế thì cũng là sự trở
về (= phục) tìm lại nguồn căn ẩn kín.
Trong khung cảnh lịch sử của bản văn, đây là thời phát xuất
những nhà tư tưởng lớn của Trung Quốc. Những đề nghị để tái lập trật tự xã
hội được nhiều trường phái đưa ra, đặc biệt là nho gia, chỉ chú tâm
vào mặt tạm gọi là kỹ thuật, dựa trên những nghi lễ, tổ chức
bên ngoài. Đạo lý chẳng qua là một lối biện minh cho tính toán chính
trị hay lợi ích của tư riêng, nhất là khi các vị vua
phong kiến của các nước nhỏ tranh hùng tranh bá, muốn thu lẽ phải,
sự chính đáng về cho mình. Bấy giờ Luật Trời bị che bởi phép tắc
kỳ quái của người, phép tắc của kẻ mạnh. Không khác gì cảnh hỗn
loạn của các chủ nghĩa nhân bản ngày nay. Đó có thể là một lý do Đạo Đức Kinh
đã xếp ngay sự phân cách Đạo dongười và Đạo Thường lên đầu sách.
Danh khả danh phi Thường Danh
Câu tiếp được các tác giả dịch là "tên có thể gọi
được không phải là tên thường".
Trước hết, như tác giả Phùng Hữu Lan đã lưu ý, câu này muốn
phê bác ngay lối lập luận quá nặng về kỹ thuật chơi chữ, lấy danh loạn
thực... của phái danh gia Huệ Thi, Công Tôn Long. Nhưng đây cũng có thể
là câu trả lời cho thuyết "chính danh định phận" của
nho gia. Nhưng chỉ thế thôi, thì sự nhất quán của bản văn thật lạc lõng .
Thực ra, Câu này phải dẫn đến ý của câu sau,
và không thể không liên quan nội dung của Đạo đã nói trước. Trong
chương 32, sách nói rõ: "Đạo thường vô danh", (= Đạo
Thường không có tên).
Sách Trang Tử XXV cũng nói: "Đạo không
phải là đời, nhưng đời cũng không phải là sự phủ định tận căn của Đạo.
Nên tên của Đạo cũng chỉ là một giả thiết đặt ra vậy
thôi". Như thế theo mạch văn, ta có thể dịch đầy đủ câu đó như sau:
Tên của Đạo, mà ta có thể nêu lên, thì tên đó không phải là Tên Thường của Đạo.
Thực ra thì câu nầy đã hàm ngụ ở câu trên. Thường Danh không
thể ở bên ngoài Thường Đạo, nhưng là một lối biểu lộ đặc loại của Đạo
trong sự sống cao cả của con người[16]. Danh thiết
định tương quan giữa Đạo với người, giúp người nhận ra thân thế của Đạo và
chính mình. Tiền cảm đó không phải là một nét riêng của văn hóa Trung Hoa hay Á
Đông; văn hóa Hy lạp cũng định nghĩa con người là sinh vật có được lời nói để gọi
tên, là sinh vật được tham dự vào Logos, là Lời căn nguyên
và bao trùm [17];
văn hóa Do thái Kytô giáo còn gọi Thượng Đế là Tên.
Nhưng tiền cảm hay âm vang đó như chỉ đến với con người nơi
trần gian (= thiên hạ, dưới bầu trời…) như một nỗi nhớ, một nỗi khắc khoải về
Quê Nhà, về Danh nối kết Đạo với người, mà mọi tên từ tâm trí và miệng
con người đều bất cập. Danh đó nói về thân thế của Đạo bằng lời nghịch thường:
Lời vượt lên mọi lời con người, dù lời con người tôn vinh hay từ chối Đạo; và
nói như Trang Tử là vượt lên ngay cả sự im lặng của con người. Tương quan Đạo
và người trong thân phận tại thế nay là cuộc chiến giữa thực tại con người luôn
có nguy cơ mãi nói, mãi tạo nhiều Danh theo ý mình và bên kia là âm
vang của Đạo nói với con người bằng Lời bác khước: Đạo của con người làm
ra, Danh của con người nêu lên không phải là Thường Đạo, không phải là Thường
Danh. Vết tích không phai mờ của Đạo nơi nhân tính là nổi nhớ, là cảm thức về hố
thẳm hay xa cách này.
Danh của Đạo, Lời gọi tên con người để đưa con người vào
tương quan với Đạo như đã bị lãng quên tự bao giờ nơi nghiệp làm người, nói
đúng hơn Danh đó dã bị lạm dụng (ngôn ngữ Đạo học gọi là vi) để
trở thành dụng cụ của ý muốn, thành sản phẩm của tài năng con người.
Đến dây có thể nói tên của Đạo là Vô Danh, theo nghĩa là âm
vang Lời từ chối liên lĩ mọi danh mà con người tìm cách gán cho Đạo.
Sau câu nói "Đạo thường vô danh" nêu
trên, Đạo Đức Kinh còn chú thêm hai tĩnh từ "phác, tuy tiểu" - Phác và tiểu nghĩa
là gì? Phác không phải là mộc mạc theo nghĩa bình dân, đơn
sơ. Phác là cái con người không đụng đến. Tiểu là nói đến
tinh tế, ẩn kín. Cũng như ở câu trên, với "khả" năng con
người, không thể có ai nhân danh được Đạo Thường, nghĩa là làm chủ được
nghĩa lý của Đạo Thường. Âm vang Đạo vẫn đến, nhưng không
phải như là tiếng của người, dẫu đó là tiếng xưng tụng Đạo.
2- Vô Danh thiên địa chi thỉ
Hữu Danh vạn vật chi mẫu
Hai câu tiếp quan trọng không kém vì nó nêu lên một vấn đề
thường được coi là cốt lõi của triết học, đó là hữu và vô.
Vương Bột, Nguyễn Duy Cần, Liou Kia-hway đều chấm câu thế
này:
Vô danh, thiên địa chi thỉ;
Hữu danh, vạn vật chi mẫu.
Còn Từ Mã Quang, Vương An Thạch, Tô Thức, Lương Khải Siêu lại
chấm:
Vô, danh thiên địa chi thỉ
Hữu, danh vạn vật chi mẫu.
Nguyễn Duy Cần dịch là:
Không tên, là gốc của trời đất,
Có tên, là mẹ của muôn vật [18]
Nghiêm Toản dịch các tác giả chấm câu cách khác:
"Không", là gọi cái trước trời đất,
Hai cách chấm câu biểu lộ hai cách suy nghĩ về cảm nhận Đạo
nơi Đạo Đức Kinh.
Cách thứ nhất muốn diễn tả tương quan giữa Đạo và thân
phận con người. Đạo, là trực giác vốn đã có nhưng vấn đề đặt ra không phải thắc
mắc về sự hiện hữu của nó, dẫu ở cấp độ nào, nhưng là thắc mắc về
cách thái cảm nhận Đạo, và Đạo tương quan thế nào đối với con
người.
Cách thứ hai, khi đặt nổi chữ Vô và chữ Hữu, thêm vào lối dịch
của Nghiêm Toản như là cái có trước đối với Trời Đất, diễn tả sự biện
minh một thực thể trong sự hiểu biết khách quan.
Cách thứ hai này là lối nhìn của siêu hình học Tây phương về
hữu thể. Theo lối tư tưởng này, giả thiết rằng tư tưởng Trung Hoa nói
chung và nơi Lão Tử có một ưu tư muốn tìm hiểu sự vật qua câu hỏi: cái
gì?. Trời, Đất, muôn vật là những cái có, và Đạo được gọi
là cái có trước, tức là "cái có sinh ra cái có khác".
Và từ đó phải suy luận có khuôn mẫu thời gian trước sau, và có
luật nhân quả mà con người cập nhật được.
Nhưng, như Phùng Hữu Lan đã nhận xét ở trên, lối suy tư đó
không phải à sự cảm nghiệm thông thường của Đông phương và ngoài khuôn khổ triết
học truyền thống.
Người ta biện minh cho lập luận này, khi nêu lên câu "hữu
sinh ư vô" ở chương 40:
Thiên hạ vạn vật sinh ư Hữu,
Hữu sinh ư Vô.
Thực ra khi đọc hai câu này, một độc giả tân thời sẽ thấy quá
rõ những đợt sinh thành tuần tự, và đằng sau là những thực tại Thiên hạ, Hữu,
Vô.
Đó là vấn đề cách đọc, hàm ngụ một lối suy nghĩ riêng. Thực
ra đây không phải là luận chứng nguyên nhân - hậu quả, mà là những cấp độ tiếp
cận, cảm ứng tương quan giữa Đạo và người: Tuy Đạo đến với ta trong sự sống, khả
năng ta cảm nhận nơi sức sống của muôn loài, nhưng Đạo không chỉ là thế, vì Đạo
mãi ẩn kín và từ chối tất cả những khả năng tạo hình của ta. Ẩn kín
mà vẫn bao trùm lấy ta; tình trạng này giải thích những lối nói lạ thường của Đạo
Đức Kinh.
Trang Tử trong cuốn sách cùng tên, chương XXV, nói
rõ hơn điểm này:
Quan điểm (về Đạo như là) tác giả tác tạo trời đất và quan điểm
ngược lại chỉ là những lời nói có giá trị rất hạn hẹp của lãnh vực các sự vật
khả giác.
Đạo không phải là cuộc sống, nhưng cuộc sống không phải là sự
chối bỏ tận căn Đạo. Vì thế nên các tên Đạo cũng chỉ là một giả thiết
đưa ra để dùng. Quan điểm về tác giả sinh vũ trụ và quan điểm ngược lại chỉ nhằm
một góc cạnh nhỏ của sự vật, mà nguyên lý cao cả nơi đó ta không thấy.
Nếu lời nói đã đủ để diễn tả, thì chỉ cần kêu tên Đạo suốt ngày để chiếm được Đạo.
Nếu như lời nói không đủ sức, thì chúng ta sẽ có thể nói cả ngày mà không thoát
ra khỏi khung cảnh của vạn vật .
Cái nhìn tối thượng về Đạo và về vạn vật, lời cũng không chứa
nổi, mà thinh lặng cũng không chứa nổi. Đạo vượt lên trên lời nói và
cả thinh lặng, vì nó ở bên trên tất cả các cách nói của con người.
Qua sự trình bày này của Trang, ta xác quyết Lão không đặt vấn
đề Hữu và Vô như những thực thể, hoặc cố tâm đi tìm một luận chứng nhân quả để
truy tìm một Tạo Hóa.
Không phải nói thế là tư tưởng Trung Hoa vô thần vì không đặt
ra quan điểm Đạo trong khuôn khổ Tạo Dựng. Nhưng tâm thức của Trung Hoa cảm nhận
ngay Đạo có đó, và ẩn kín, nhưng ảnh hưởng toàn bộ đời ta. Luận chứng nhân quả
nếu có nêu lên thì chưa đủ nói hết tính cách siêu việt của Đạo. Chữ "sinh" được
dùng, vì trên sự sống thân xác, sinh vật còn có những sinh hoạt gượng gọi
là "sinh" nhưng không phải chỉ gò bó vào nội dung đó. Ngay
cả trong việc xếp đặt ưu tiên "Quân, sư, phụ..." ta thấy phụ là
kẻ sinh thành không phải là một nội dung giá trị ưu tiên.
Trở lại câu nói của Đạo Đức Kinh, liên hệ với câu trên.
Vì không thể nhân danh Đạo ở mức nào cho đúng với Đạo, nên
trong thân phận người, nếu phải gượng gọi Đạo là:
Tạm dịch chữ thỉ là nguyên thủy để nói đến một cái
gì cao hơn thế, mà không phải ở trong khuôn khổ có thể so sánh. Phải
hiểu rằng trong ngôn ngữ Trung Hoa, Trời Đất là biểu tượng của Thần Thánh, biểu
tượng cao nhất trong niềm tin không những ảnh hưởng cuộc sống cá nhân, mà là giềng
mối xây dựng gia đình, xã hội.
Khi nói Đạo là cái nguồn của Trời Đất, thì trong khuôn khổ
ngôn ngữ Trung Hoa, Đạo Đức Kinh cũng nói đến cái gì cao vượt lên trên cả giềng
mối đó. Ở đây sự nhấn mạnh của Lão cũng không thể bỏ qua yếu tố lịch sử, khi
vua chúa nhân danh Trời Đất không những để cúng tế, mà còn cai trị tùy ý mình.
Thêm vào đó là các lối nghi lễ rườm rà và tốn kém đè nặng trên cuộc sống người
dân do lớp nho gia càng ngày càng bày biện thêm ra trong chính sự cũng như
trong gia đình. Hai chữ "Không Tên" nói lên yêu sách tuyệt
đối, kỳ cùng muốn thoát khỏi "cái làm" (= vi) nơi con người
đối diện với Đạo, không khác gì "Ungrund" của các nhà thần
bí của Đức sau này.
Nhưng Đạo thật ra cũng là Đạo thật gần, và đưa con người đến
gần với muôn loài. Vì thế, nếu phải gọi tên, thì Đạo là Mẹ chung tất cả. Chữ "Mẹ" không
những nói lên sự sinh ra, là hình ảnh của nguyên nhân
sinh thành, mà còn nói đến sự tự nhiên, không kiểu cách, không bị chi phối bởi "phải
làm mặt", đi ra xã hội. Một trong những lý do sau này, khi nói đến điều
phải làm và có thể làm của con người, thì Lão đã lấy các đặc tính này làm gốc: ôn
nhu, khiêm tốn, rút lui, không tranh giành, không kể công. Thật thế, vai
trò hình ảnh người cha, người đàn ông theo nghĩa là người làm nên lịch sử của
Hegel, Nietzsche hầu như không được nói đến trong tư tưởng của Lão.
3- Cố thường vô dục dĩ quan kỳ diệu
Thường hữu dục dĩ quan kỳ kiếu
Ở câu nầy, Nguyễn Duy Cần có lẽ theo quan điểm của
Vương Bột nên đã chấm câu và một lối dịch riêng. Theo tác giả này:
Cố,
Thường vô dục, dĩ quan kỳ diệu,
Thường hữu dục, dĩ quan kỳ kiếu
Còn các tác giả khác hoặc không chấm câu, hoặc chấm cách
khác:
Cố thường vô, dục dĩ quan kỳ diệu,
Thường hữu, dục dĩ quan kỳ kiếu
Theo cách thứ nhất, người ta có lối dịch này:
Bởi vậy,
Thường không tư dục, mới nhận được chỗ huyền diệu của Đạo;
Qua cách dịch này, ta thấy Nguyễn Duy Cần muốn chủ trương một
thuyết Nhất thể huyền đồng theo lối "Natura naturans" qua
cửa Hư Không.
Có thực sự tư tưởng của Trung Hoa nói chung và Lão Tử nói
riêng, chủ trương một loại "immanentisme ontologique" [hữu
thể mặc nội chủ nghĩa] về Đạo trong vũ trụ và phải đồng hóa với con người
không? Nếu trên bình diện tri thức, vấn đề hữu và vô ở trên
được đặt nổi thành đề tài tranh luận, thì ở đây việc áp dụng tư tưởng Lão và cả
Kinh Dịch trở thành cốt lõi của câu hỏi về Đạo trong Đạo Đức Kinh.
Câu hỏi đặt ra là trong Kinh Dịch ngay hai quẻ gọi
là Thuần Khôn và Thuần Càn có phải là một cái hữu, theo nghĩa
là một vật khả giác, một năng lực thiên nhiên nào đó trong vũ trụ biến hóa hay
không? Hoặc ở đây chúng chỉ được gợi lên như những nguyên lý? Đó là chưa nói đến
Thái Cực, không đứng vào một quẻ nào trong 64 quẻ của vòng biến hóa
cả!
Đạo của Lão cũng phải được hiểu là Thái Cực; từ đầu đến nay,
ta thấy Đạo vượt lên trên người, gần người và người có thể xa Đạo, chứ chưa thấy
Đạo đồng với người - (chúng ta sẽ giải thích chữ đồng và huyền trong
câu tiếp) -. Hơn nữa, Hữu là Mẹ muôn vật không thể dịch ngay là có dục theo
nghĩa tư dục cá nhân trong đó.
Do đó tôi đề nghị nên dịch:
Tại sao chữ "kiếu", có nghĩa là cái cọc, phân
chia địa giới các miền, lại phải dịch xa như thế? Bởi vì, theo sự nhất
quán bản văn, chữ Mẫu là mẹ sinh ra nhiều; nhiều nói
lên sự ngăn cách, tách rời, khác biệt nhau - ta thấy ý niệm đó ngay trong
tư tưởng Hy Lạp.
Hai vế của câu này, nếu muốn diễn tả cái tích cực của Đạo
trong hai cách biểu lộ cho con người. Nếu không, khi đọc câu sau, ta
sẽ đi lạc nội dung bản văn. Điều Đạo Đức Kinh muốn nói ở đây không phải là nhắc
lại cái ta có thể làm tạo ra việc ngăn cách Đạo, nhưng là nói ngược lại
rằng Có Tên (= Hữu, cảm ứng ta có về Đạo khi tiếp cận con người
và vạn vật muôn màu muôn sắc) là do từ một Mẹ phát sinh; Mẹ
đó là Đạo. Nên hãy luôn ở trong cái Hữu này. Và đây là một trong những lối giải
thích về thái độ trở về một Mẹ của Lão trong các chương sau. Chẳng hạn:
Ngã độc dị ư nhân
(Ta một mình khác người
Ta quý Mẹ nuôi)
Vì thế phải hiểu câu này là một lời giải thích thái độ cần có
của con người đối với hai lối khai mở khác nhau của Đạo cho ta, tương
ứng với câu trên.
4- Thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh
Tiếp đến, là câu nhắc lại cho thấy là đừng vì sự khai mở khác
nhau của Đạo cho người, mà hoặc lãng quên Đạo hay nghĩ rằng có hai cái Đạo khác
nhau.
Ở đây chúng ta cũng có hai cách chấm câu. Một là của
Nguyễn Duy Cần, có lẽ là theo Vương Bật:
Thử lưỡng giả đồng,
Xuất nhi dị danh.
(Hai cái đó, đồng với nhau
Cùng một gốc, tên khác nhau)
Vì xếp chữ cho thành thơ nên có lẽ tác giả Thu Giang đã có
công về việc này, nhưng khi dịch ra thì thật lúng túng. Hãy đọc lối giải thích
của tác giả về câu này: "Hai cái đó" là ám chỉ "Vô danh" và
"Hữu danh", "Vô dục" và "Hữu dục"… thực sự
không phải là hai mà chỉ là một; nó là bề mặt bề trái của một tấm huy chương,
nói theo danh từ ngày na. "Hai cái đó đồng với nhau" tên
tuy khác nhau, nhưng đồng một gốc mà ra, đeo nhau làm một khối" [27].
Không hiểu làm sao cái "hữu dục" chỉ thấy
chia lìa của Đạo (theo như tác giả dịch ở câu 2 trên đây) lại đồng với
cái "vô dục" của Đạo? Có lẽ Nguyễn Duy Cần, hoặc
không nhận ra điểm này hoặc muốn tuyệt đối hóa: "Không còn xa đạo,
hay gần đạo" tất cả nay đều như nhau. Kỳ cùng đều gói hết trong Đạo.
Khi đọc những trang của Đạo Đức Kinh theo cái nhìn này, có
lúc người ta thấy như có sự trùng hợp giữa quan điểm của Nietzsche và Lão. Sau
này một số nhà tư tưởng, tự nhận là nghệ sĩ tân Lão học, gọi là Phái Phong Lưu
đã không đặt vấn đề như Nietzsche, nhưng có những giải pháp sống như những kẻ
thường nhân danh tư tưởng của Nietzsche để thấy toàn nhân sinh là một trò
đùa không ác không thiện.
Kỳ thực, cũng như Nietzsche, Lão thấy có sự phân cách giữa thế
giới người gắn chặt với thời gian và bên kia là nguồn chân lý là Đạo. Hai bên đều
thấy những tiêu chuẩn tốt xấu phải trái do con người bày ra trong xã hội là quá
tương đối, không thể đáp ứng ước vọng tuyệt đối nơi con người, một
đòi hỏi nằm sâu kín, mà các giải pháp nhân vi chỉ là những lời an ủi
hảo huyền [28]. Có lẽ nặng lời hơn cả Nietzsche, Lão
nói:
Thiên địa bất nhân
(Trời đất không phải đạo nhân,
Coi vạn vật như loài chó rơm)
Nếu ta hiểu được đạo nhân quan trọng như thế nào
trong Nho gia, thì thấy được lời này ngang ngược như thế nào! Điều mà Nho
gia đưa ra trong đạo nhân, là có được sự tương thông hầu như
không đắn đo giữa Đạo và lòng của người. Lão Tử nhấn mạnh: Coi chừng!... vì
tâm của người và tâm của Đạo xa cách vời vợi [30]. Vì thế khi nói đến
đây, Lão Tử nhắn:
Đa ngôn sổ cùng
Bất như thử trung [31]
(Nói (nhân nghĩa) cho nhiều không cùng,
tốt nhất là giữ lấy Trung, tức là Đạo duy vi)
Và đó cũng là cái khác giữa Nietzsche và Lão. Trước trực giác
xa cách đời và Đạo, người và chân lý, Nietzsche là Prométhée thách
thức chân lý, tạo giả ảo làm chân lý như là một định mệnh riêng, một trò chơi tự
do. Đó là nghĩa siêu nhân của Nietzsche. Nhưng Lão trái lại, người
kiểu mẫu của ông là thánh nhân. Là kẻ tự bỏ cái cao ngạo (mình tự làm ra
mình = vi) để trở về với Đạo.
Thiên Đạo vô thân
(Đạo trời không thân ai
Nhưng luôn hỗ trợ người thiện)
Tốt xấu, phải trái, có không đã được dùng từ một sự hiểu lầm
là do người làm ra, như Adam và Eva đã lấy tay hái trái cấm để phân
biệt tùy ý mình. Nên tốt xấu, có không đã theo nghĩa của "thiên hạ"(chương.
II), thì đó là một sự lạm dụng Đạo vậy.
Nhưng như thế, không có nghĩa là chối bỏ con đường
ngay của kẻ theo Đạo, tức là Thiện.
Đạo Đức Kinh gọi thiện là thánh nhân của
thời xưa. Như đã trình bày, không phải cổ xưa là thời trước
ta, nhưng là Thời của Đạo, vượt lên thời "kim" là
thời gian trước-sau theo sự phân biệt của con người. Nietzsche không tin vào thời
của Đạo và gặp bế tắc trước cái tất định của thời gian qua đi (le temps
qui passe), do đó ông đành phải muốn nối lại các khoảnh khắc phù du trong những
vòng quay, gọi là sự trở về liên tục của vòng thời gian (le retour
éternel). Ông A bệnh hôm nay ngày X tháng Y, thì trong vòng quay tiếp cũng một
ông Á bệnh trong một ngày X' tháng Y'.
Nhưng, tư tưởng Trung Hoa, đặc biệt qua Kinh Dịch
và nơi Lão Tử, có phải nằm trong khuôn khổ đó không?
Trước hết, thử đặt vấn đề xem Lão Tử có đặt vấn đề đó không?
Đối với Lão, vấn đề thời gian qua đi không phải vấn đề, mà vấn đề là sự việc
đó có ngược với Đạo hay không do bởi con người muốn khác đi. Ưu tư có
lẽ hầu như duy nhất của Lão là xa Đạo. Thứ đến, toàn bộ Kinh Dịch, thường
bị hiểu lầm là một cuốn sách về vật lý đại cương, muốn giải thích sự vật là gì
một cách khách quan. Thực ra đó là một sự hiểu lầm tai hại. Không khác gì khi
người Trung Hoa nói thiên viên địa phương ( = trời tròn đất
vuông) thì người ta lại cho đó là một kiến thức sơ khai, hồ đồ. Kỳ thực, trời
tròn đất vuông là ngôn ngữ biểu tượng, lối nói thi ca nhằm gợi lên các chiều
kích của cuộc sống con người. Trong Kinh Dịch cũng thế, nơi mỗi hoàn
cảnh sống của con người luôn có sự hiện diện gắn bó của Thái Cực, Âm Dương, Trời Đất.
Nói cách khác "Đạo bất viễn nhân"(= Đạo không xa người): nội
dung đó là hồn của Dịch. Do đó vòng tròn của cách xếp 64 quẻ không phải là
quan niệm thời gian lặp lại hay xuắn ốc theo cái nhìn thuần vật lý; hay phải
quay lại cho hợp với ý muốn biến thời gian thành tuyệt đối do ý chí quyền lực của
con người như Nietzsche tưởng tượng ra. Vấn đề chính là trở về với Đạo.
Từ các nhận xét trên, ta theo cách chấm câu thứ hai (của Tư
Mã Quang, Vương An Thạch, Tô Thức, Lương Khải Siêu):
Thử lưỡng giả
đồng xuất nhi dị danh
và có thể dịch:
Hai sự biểu lộ đó của Đạo (Vô Hữu)
cũng là một Đạo, (vì đến với ta) mà mang tên khác
nhau.
Ở đây, lại một lần nữa, cần lưu ý rằng Vô là cái ở
bên kia trời đất, Hữu là Mẹ bao trùm muôn vật, nên Vô Hữu ở
đây là muốn gợi lên mức tột độ của cái nói được: Đạo không thể đồng hóa với ta,
nhưng luôn ở với ta. Sở dĩ như thế vì Đạo không phải là sản phẩm của phán đoán
phân biệt do lý trí con người làm ra (= vi). Vì thế Đạo còn được gọi
là Đạo vô vi.
5 - Đồng vị chi huyền
Huyền chi hựu huyền
Chúng diệu chi môn
Ba câu ngắn cuối cùng không có sự khác biệt trong lối chấm
câu của các học giả. Trước khi đi vào việc dịch câu này, chúng ta đặc biệt lưu
ý hai cái nhìn của hai học giả Nguyễn Duy Cần và Nghiêm Toản. Thực ra có một điểm
chung của hai vị là họ đều hướng đến việc nhận thức của sự vật muôn loài.
Nguyễn Duy Cần, trong lời ghi chú, đã nhận xét:
Đây là then chốt của triết học Lão Tử. Cái học Hyền Đồng của
ông mà Trang Tử đã diễn rộng ở Thiên Tề Vật [33]
Ở bản dịch câu này ra Việt ngữ, Nghiêm Toản cho ta thấy được
quan điển của ông:
Đều bảo là sâu kín mịt mờ. Sâu kín lại càng sâu
kín thêm, ấy là cửa phát ra mọi biến hóa khôn lường của sự vật [34].
Hơn thế nữa khi khai thác chữ "huyền", Nghiêm
Toản còn chú thêm:
Trước hết, ở Thiên Tề Vật sách Trang Tử mục tiêu chính không
phải là tích cực nói mọi sự đều như nhau; nhưng điểm chính là nêu
lên sự khác biệt giữa phán đoán con người và Đạo. Trang Tử muốn đẩy lý luận con
người đến cùng để thấy luận chứng xuôi ngược dựa vào sức người đều đưa đến bế tắc,
vì không biết dựa vào nền tảng nào để phán đoán.
Và người ta nhớ đến chương này qua câu chuyện Trang Chu mơ thấy
mình là bướm. Kỳ cùng, không biết Chu mơ thấy mình là bướm
hay bướm mơ thấy mình là Chu. Có phải "huyền" là "hảo huyền mộng
mơ" không, hay đây chỉ là câu chuyện nói cho thấy cái tương đối của phán
đoán con người trước sự vật!
Theo ý Nguyễn Duy Cần, mấy câu ngắn này của Đạo Đức
Kinh muốn nói đến sự đồng nhất - đồng đẳng của muôn vật và Đạo nằm
trong sự biến hóa mịt mờ đó. Thực ra thì chương Tề Vật Luận cũng có những câu
ở mấp mé cạnh cửa của quan điểm này:
Đây phải chăng là Dương Chu hơn là Lão Tử!?
Lão Tử trong Đạo Đức Kinh đặt nổi sự khác biệt giữa Đạo và thế
giới giả tạo của con người, do con người; và nhấn mạnh sự trở về Đạo qua việc
giảm thiểu cái tôi của mình, hơn là ưu tư đồng hóa Đạo với
hoàn cảnh thay đổi bên ngoài.
Hơn nữa, ở ba câu này, chữ Đồng và Huyền không
muốn nói đến vạn vật bên ngoài, mà nói về Đạo.
Tuy thế, Nghiêm Toản lại còn đi xa hơn Nguyễn Duy Cần khi dịch "chúng diệu" trong câu cuối là "mọi biến hóa khôn lường của
vạn vật".
Thứ nhất chữ "diệu" trong câu cuối không
có gì tương quan với biến hóa cả. Chữ diệu cũng như chữ vi của "Đạo
tâm duy vi" nêu lên ý niệm về những gì cao đẹp, hay nhất, tốt nhất, thật
nhất... nhưng con người hoặc không thể thấy, hoặc thoáng thấy thôi. Và chữ "chúng" cũng
không phải là "sự vật", nhưng nghĩa là "vô số",
đi trước chữ "diệu".
Sau đó, không những tác giả này muốn tân thời hóa quan điểm của
Lão qua chữ "biến hóa" mà thôi, mà còn đẩy chữ "huyền" trong
câu "huyền chi hựu huyền" vào sự hiểu biết vật chất khá cao
độ của khoa học nguyên tử ngày nay theo lối kiến giải của ông!
Ở đây, chúng ta đi vào chính bản văn và theo nhất quán của tư
tưởng Lão để cố hiểu ba câu cuối chương I.
Tư tưởng Lão, như trên đã trình bày, không nhằm mô tả hay
truy nguyên nguồn gốc của vạn vật. Tư tưởng của Lão là Đạo, tức là đường
đi mà con người phải theo. Có thể gượng gọi là một "thái
độ làm người cho phải lẽ", chứ không phải là khoa học khách
quan theo nhu cầu của học thuyết ngày nay.
Theo bản văn, chữ Đồng và Huyền trong "Đồng
vị chi huyền" là nhằm nói đến Đạo trong tương quan với con người. Do
dó, "Đồng" không có nghĩa là mọi sự đồng nhất bình đẳng,
nhưng "Đồng" ở đây là nhắc lại chữ "đồng" bên
trên, tức là nói đến nhất thống của Đạo, dẫu đến với ta qua việc xuất
hiện là Hữu hoặc Vô . Đối chiếu với sự phân biệt hữu vô
trong phán đoán con người, sự nhất thống lạ kỳ đó là "huyền",
là điều bí ẩn, siêu việt của Đạo.
Huyền chi hựu huyền
Đây có phải là một lối nói để chỉ mức độ tối đa, tuyệt đối
hay không? Cũng có thể hiểu như thế, nhưng theo chỗ chúng tôi nghĩ còn có một ý
nghĩa khác nữa .
Tác giả Liou Kia-hway đã dịch ra pháp ngữ là:
Obscurcir cette obscurité
Chữ "huyền" ở đầu được chuyển
thành một động từ và tạm dịch việt ngữ là:
Làm tối cái tối đó,
Đó là cửa của tất cả những tinh tế (vi diệu).
Theo Nguyễn Duy Cần diễn giải trong chú thích:
Huyền nghĩa đen là đen tối, sâu kín, hòa lẫn một màu; nghĩa
bóng là không thể phân biệt được giữa cái Vô và cái Hữu, vì nó đã đồng
với nhau về phẩm cũng như về sự hiện hữu, "đồng xuất" không
có cái nào trước cái nào, cả hai điều kiện lẫn nhau, hễ có cái này
là vì có cái kia [37].
Phần lớn các nhà tân lão học Trung Hoa đã hiểu Đạo
của Lão như thế. Và ngày nay các tác phẩm tây phương nghiên cứu Đạo học cũng
noi theo khuynh hướng này, và gọi tên nó là một "chủ nghĩa tối mờ về
hữu thể = obscurantisme ontologique". Nhưng thắc mắc đáng nêu lên là
tại sao từ Đạo học, một vấn đề tương quan giữa con người - Đạo, vốn bên kia bờ
của Trời Đất và Mẹ của muôn loài, nay lại bị chuyển thành một nhất khối vô hồn
của các thay đổi có tính cách vật lý nơi thiên nhiên?
Trong sách Liệt Tử, Đạo đã biến thành một mớ của các
thay đổi bất chấp con người, một bộ máy phi lý đối kháng với tính toán, hiểu biết
của lý trí, nên gọi là hư vô tuyệt đối (le vide parfait). Đây hẳn
là cái Vô Lý, đối ứng với cái Hữu Lý được đồng hóa với toàn vũ trụ của trường
phái khắc kỷ Tây phương. Nhưng đó là hai cực hữu vô mà Đạo học của Lão đã muốn
vượt qua ngay từ lúc đầu! Cũng vì vô lý, vô nghĩa nên trường phái phong lưu của
các văn gia tân lão học đã chuyển Đạo học thành một lối sống bất cần đời, say
sưa, ngạo mạn.
Căn nguyên của sự hiểu lầm Đạo rồi xử dụng lầm Đạo nằm nơi bước
trật chân khi đọc câu này.
Đấu trường của Đạo và đời là nơi con người không phải
nơi thiên nhiên. Đạo học không bao giờ muốn nhắm mục tiêu trả lời câu hỏi
"cái gì = quid", tiền kiến rằng Đạo là một đối vật để trí năng
con người phán đoán, xác nhận hay từ khước. Chữ "Hữu" không
muốn nói đến tất cả sự vật có một cách khách quan, giả thiết có người hay không
có người. Cũng như chữ "Vô" cũng không phải nói đến một cái
gì không phải là tất cả các sự vật khách quan đó. Ngay cả chữ khách
quan cũng chỉ là một lối nói giả thiết, tiêu cực đối kháng với một tiền kiến
của sự hiện hữu mặc nhiên của con người, gọi là chủ quan. Khi nói tư tưởng
Trung hoa bám sát cuộc sống chứ không phải là một tri thức luận, thì ta hiểu nhận
xét đó còn trừu tượng đi ngoài dự tính của tác giả Đạo Đức Kinh. Nhưng nếu ta lấy
một điển hình của cuộc sống hằng ngày, thì sự việc lại rõ hơn: chẳng hạn nói đến
Đạo như sự đối xử, thân cận giữa cha mẹ và con cái, giữa hai người tình với
nhau. Như thế, bám sát đời sống tức là những gặp gỡ, chung đụng mỗi ngày của cuộc
đời con người. Khi đưa sự sống đó vào tri thức luận, thì không khác gì đặt vấn
đề ba tôi, người tình của tôi là gì, có hay không, ai có trước, ai
có sau. Qua thí dụ thông thường đó, ta thấy khi đặt vấn đề như Jean-Paul Sartre
triết lý về tương giao cha mẹ và mình trong khung cảnh tri thức luận để phê
phán, để đánh giá, thì bấy giờ sợ rằng ta đã che lấp cuộc sống rồi. Và không
bao giờ câu trả lời của câu hỏi luận lý đó có thể với đến Đạo cha con, tình
nghĩa cả. "Hữu" và "Vô" trong Đạo Đức
Kinh không nằm trong vòng vi của câu hỏi luận lý như trong ví dụ nêu trên, và
cũng không chỉ nằm ở vòng nhân bản mà thôi. Vì thế, khi tân nho gia đưa Đạo vào
nhân nghĩa trong khuôn khổ thuần xã hội thì Đạo Đức Kinh mới xác quyết: "Trời
Đất không nhân, coi vạn vật như loài chó rơm" (chương V).
Không ai mổ xẻ tim xem tình yêu là gì ở trong đó, thì cũng
khó mà truy tìm Tâm của Đạo trong các mối tương quan thuần nhân bản hay thuộc
lãnh vực kiến thức về sự vật.
Như thế, ý nghĩa chữ Huyền Đồng không phải là tuyên
dương sự đồng đẳng hóa giữa Đạo với con người và thiên nhiên; trái lại
là lời cảnh giác con người về nguy cơ đồng hóa đó: Đạo đồng với chính
mình (= Đạo) khi khai mở ra với người, cũng như khi từ chối khai mở. Như thế "đồng" cũng
nói lên sự siêu việt của Đạo ở chỗ thật gần và cũng thật xa con người, chứ
không phải Đạo với người là một. Và hẳn nhiên là không đồng với cây cỏ thiên
nhiên theo nghĩa "natura naturans". Nhưng đối chiếu với thân phận
người để nói đến Đạo để thấy được siêu việt (= huyền) của Đạo,
thì việc đó cũng còn là tương đối. Đạo cao hơn thế nữa: “Huyền
chi vị huyền“ là đẩy con người đến bờ vực, là cửa của mọi sự vi
diệu. Bên kia bờ, Đạo Đức Kinh rất lạc quan, chỉ nói đến chữ "diệu".
Và ở đây ta thấy cái khác giữa bi kịch Hy Lạp, Do
Thái và tư tưởng Trung Hoa.
Do Thái không nhìn tới, nhưng quay lại cái bế tắc của con người
và kêu lên: "Từ vực sâu" (de profundis) tôi
kêu lên... xin thương xót. Vực sâu khi nhìn về tối tăm
nơi cuộc đời.
Hy Lạp, khi truy tìm chân lý, thì thấy khoảng trống ngăn
cách giữa "lời người" và "Lời bao trùm". Khoảng trống ngăn
cách là nghiệp lầm lạc buộc người với thời gian; sáng mắt hay mù lòa (Oedipe đã
tự đâm mắt mình) cũng không xóa được nghiệp. Ngay cả kẻ mù, kẻ ngược đời là
Térésias cũng chỉ thấy được sự ngăn cách như chuyện đã rồi, không thể cứu vãn
(xem kịch bản Oedipe - Vua của Sophocle). Chân lý luôn là thảm kịch và
đó là nghĩa thật của cuộc đời. Và "Lời khai mở ra" mà sức con người
tiếp nhận được chẳng qua cũng chỉ là bóng, là tiếng vọng của chân lý, hoặc
là vết thương đau nhắc nhở con người về thân thế lưu lạc của mình…
Nơi tư tưởng của Lão, cũng như trong tâm thức của
người Trung Hoa, điều không thể giải thích là tại sao bi kịch lại vắng bóng. Dẫu
dân tộc này cũng chứng kiến những cảnh tang thương không kém các dân
tộc khác, nhưng cảm thức Tâm của Đạo vẫn gần và luôn che chở, cũng như cảm thức
Tâm của Đạo thật siêu việt nhưng không tạo run sợ hoặc phản kháng.
Đó là điểm chung rất "Trung hoa" nơi Lão và Khổng
mà ta sẽ thấy ở phần sau.
Chú thích:
[1] Cũng
như lối nói của Khổng về thời nay khác với thời Nghiêu Thuấn.
[2] Đạo
Đức Kinh, chương 14-A, Bản dịch Thu Giang Nguyễn Duy Cần
[3] Karl
Jaspers, Les grands philosophes, cuốn 1, Plon - Paris -tr. 244
[4] Phùng Hữu Lan, Précis d’histoire de la philosophie chinoise, Ed. Le Mail -
Payot - Le Mail - 1985, Paris - tr. 58).
[5] Sđd
- tr. 110)
[6] Một
nhận xét dựa vào các yếu tố lịch sử và ngay cả nội dung của các bản văn,
nên rất có giá trị
[7] Đạo
Đức Kinh, chương 1
[8] Lão Tử -
Đạo Đức Kinh - Quốc văn giải thích - bản dịch của Nghiêm
Toản , Khai Trí, Sàigòn 1970 - quyển 1, tr. 3,
[9] Lão
Tử - Đạo Đức Kinh - bản dịch của Nguyễn Duy Cần, Văn học 1991,
tr. 34 .
[10] Phùng Hữu Lan, sđd, tr.111
[11] Lao-Tseu, Tao
T¨¨o King, traduit par Liou Kia-hway, Gallimard, 1967, tr 3
[12] Phùng Hữu Lan, sđd, tr. 24.
[13] Đạo
Đức Kinh, chương 14C
[14] Xem Sáng
Thế, Tin Mừng Gioan
[15] Xem
các bản kịch của Sophocle
[16] Trong
sách Sáng Thế của Do thái giáo và Thiên Chúa giáo, Thiên Chúa ban cho
Adam và Evà tên gọi và nói rằng con người là hình ảnh của Ngài; nhưng con người
có thể gọi tên các vật trước mắt trong trách nhiệm quản lý của mình. Còn Thiên
Chúa thì hoặc là Đấng không thể nào con người định cho một tên, hoặc Ngài được
tôn vinh là Tên.
[17] Xem Logos của
Héraclite
[18] Nguyễn Duy Cần, sd. tr. 34
Đạo trong chương đầu của sách Trung Dung
Trước khi đọc phần tóm lược trong mấy chục câu về tư tưởng
của Khổng Nho, Chu Hy Từ Trình Tử đã nêu hai chữ Trung và Dung để
nhấn mạnh đến phần cốt lõi, hình nhi thượng học của trường phái này. Thật thế,
khi đọc thoáng qua đoạn văn đó, ta nhận ngay khởi đầu và chung điểm của một tiến
trình tương quan giữa Đạo và con người. Về điểm này, hầu như tất cả các nhà
nghiên cứu Đông Tây đều đồng ý với nhau [1].
Khởi đầu đoạn văn là ba câu ngắn gọn vừa phong phú về nội
dung, vừa biện minh cho việc trình bày về Đạo.
Thiên mệnh chi vị tính,
suất tính chi vị Đạo,
tu Đạo chi vị Giáo
Nếu đọc thêm mấy câu sau, ta sẽ hiểu toàn bản văn chỉ nói đến
Đạo. Câu hỏi đặt ra là tại sao đặt chữ Tính đằng trước Đạo, điều mà Đạo
Đức Kinh đã đặt ngay ở vị trí đầu của câu đầu, chương đầu.
Theo như bài dẫn nhập của Từ Trình Tử, đây là những lời
(những ý thì đúng hơn) của Khổng Tử dạy học trò được Từ Tử, là cháu Khổng Tử,
thuật lại. Nhưng kỳ thực theo Phùng Hữu Lan thì "một phần lớn của tác
phẩm dường như ở một niên kỷ gần đây hơn… Trung Dung tượng trung cho giai đoạn
chót của sự phát triển suy tư siêu hình học của Khổng học xưa" [2].
Trước hết chúng ta thấy thật khó mà cho rằng đây là những lời
của Khổng Tử, vì ngoài chữ thiên mệnh được các sách ghi lại như là
thành ngữ mà Khổng Tử thường dùng, còn những chữ như "Đạo", Tính" dẫu
có nhắc đến thì cũng không phải là từ ngữ cốt yếu diễn tả đạo lý của Khổng.
Trái lại có những yếu tố lịch sử khác liên quan đến việc đề cao hai thành ngữ
này. Trong cuốn Luận Ngữ, người ta đã tường thuật có sự tranh cãi giữa Nho học
và Lão học. Và quan trọng hơn cả là trong những chương của sách Mạnh Tử, tác giả
thuật lại những cuộc tranh biện về Tính. Theo Phùng Hữu Lan, Khổng Tử nói
nhiều đến Nhân, phân biệt giữa Nghĩa và Lợi; nhưng "Khổng Tử, khi đề
ra các thuyết này, thì bỏ sót không cho thấy tại sao người ta phải hành động
như thế. Mạnh Tử cố gắng trả lời cho câu hỏi này và vì thế đã khai triển
một lý thuyết từng làm cho ông được người ta biết đến: đó là thuyết về sự thiện
sơ nguyên nơi tính người" [3].
Chúng ta biết Mạnh Tử là học trò của Từ Tư. Nên đoạn này cũng
có thể là sự hệ thống hóa tư tưởng của Khổng do Từ Tư; vị này đã nhấn mạnh đến
chữ "Tính" và dạy lại cho Mạnh Tử. Hoặc do chính Mạnh Tử và
đồ đệ sau này khai triển chữ Tính nhân danh uy tính của thầy là Từ
Tư.
Chữ Đạo được nêu lên như cốt lõi của bản văn cũng
là việc khá lạ lùng. Dẫu danh từ đó được mọi người dùng, nhưng không thể quên rằng
đây là danh từ gắn bó với học thuyết của Lão Tử, vốn đồng thời với Khổng Tử. Một
trong những giả thiết đưa ra, là vào thế kỷ thứ tư trước kỷ nguyên, Đạo học đã
trở thành phổ cập thách thức tư tưởng truyền thống Nho gia, và bản văn này là một
phản ứng trước những lời phê phán cho rằng Nho học chỉ là một lý thuyết thực dụng,
không biết đến những nền tảng cao hơn.
Từ việc đặt bước đầu ở chữ Tính, và suất Tính mới
gọi là Đạo rõ ràng cách đặt vấn đề của Trung Dung có khác với cách đặt
vấn đề của Đạo Đức Học.
Trong Đạo Đức Kinh, Đạo là sự quy hợp những gì được
Đạo khai mở ra và những gì Đạo ẩn dấu; và hơn thế nữa có thể nói Đạo là Đạo.
Trong Trung Dung, Đạo gắn liền với Tính, và chữ Tính xét
theo nội dung của chữ ấy trong cuốn Mạnh Tử thì rất giới hạn. Mạnh Tử đã có nói
đến Tính theo nghĩa chung khi tranh biện với Cáo Tử, nhưng trong ưu
tư chính của học thuyết của ông, Tính là nhân tính. Nho học không chủ
tâm đi tìm hiểu sự vật theo quan niệm khoa học, nghĩa là cái học khách quan về
các đối tượng mình đặt ra trước mắt. Học là tìm "nghĩa" tức
là cái phải làm để hoàn thành bổn phận làm người. Nhưng khi nói "suất
tính chi vị đạo", thì cũng đã nới rộng nội dung của Đạo lên một bình diện
phổ quát, tức là tất cả những sinh hoạt con người đi đúng theo bản tính chân thật
nguyên sơ của nó. Trái lại, Đạo ở các sách khác như trong Luận Ngữ, Đại
Học, thường đi đôi với một hành vi nhất định hay khung cảnh cá biệt, chẳng hạn: Bang hữu đạo bất phế; bang vô đạo miễn ư hình lục (Luận
Ngữ IV-I).
(Người ấy ở nước có đạo thì không lại bỏ rơi; ở trong nước vô
đạo, thì không bị gia hình)
Tam niên vô cãi ư phụ chi đạo, khả vị chiếu hỷ (Luận
Ngữ IV-20)
(Trong ba năm không thay đổi đạo của cha, đáng gọi là hiếu)
Đạo ứng dụng vào việc nước, việc nhà, đó là nội dung của đạo
thường được nói đến trong Nho giáo khởi thủy. Cũng như câu đầu của sách Đại Học -
Đại học chi đạo (= Đường lối của cái học thâm sâu) để ăn ở phải đạo trong gia
đình và ngoài xã hội...
Như thế, chữ Đạo trong Trung Dung đã được nới rộng nghĩa so với
truyền thống lúc đầu.
Thiên mệnh chi vị tính
Mệnh Trời là Tính
Một cách tích cực, câu này không nhằm nhấn mạnh chữ thiên
mệnh, nhưng nhằm đưa ra trụ gốc đầu tiên để giải thích học thuyết Nho gia
là Tính. Dầu vậy, chữ thiên mệnh rất quan trọng. Quan trọng đối
với Nho học, vì một hậu ý hay tiền kiến của học thuyết này mà ta phải truy tìm
mới hiểu được tại sao nó được đặt ở đầu câu. Hậu ý đó là sự biện minh cho giá
trị sinh hoạt của con người trong cuộc sống. Khi nêu lên đạo lý làm người, ngay
từ đời Khổng Tử (qua các câu truyện trong Luận Ngữ) đã có những nghi vấn về sự
khả thi và hiệu quả của nó. Ở sách Trung Dung, phần sau cũng nhắc lại thắc
mắc này, khi người ta nêu lên câu nói của Khổng:
Trung Dung kỳ chí hỹ hồ, dân tiểu năng cửu hỹ
(Trung Dung tuyệt đỉnh, nhưng đã từ lâu dân đã không thực hiện
được)
Để trả lời cho nghi vấn này, Khổng Tử nói:
Đạo chi tương hành dã dư, mệnh dã.
Đạo chi tương phế dã dư, mệnh dã (Luận Ngữ XI, 38)
(Đạo được người ta thi hành, đó là mệnh,
Đạo bị người ta bỏ phế, đó là mệnh)
Và trong chương XX, ông khẳng quyết:
Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử dã (Luận Ngữ
XX, 3)
(Ai không biết mệnh, không thể làm người quân tử)
Mệnh là mệnh lệnh, là sự sai khiến. Của ai ? - của Trời .
Nhiều tác giả đã vội đồng hóa "Thiên" của
Nho học và của tư tưởng Trung Hoa nói chung với Thiên Chúa ngôi vị được mặc khải
trong Do thái giáo và Kitô giáo. Khẳng quyết ở đây là không phải như thế. Hẳn
nhiên có những tương đồng về một số đặc tính giữa hai nội dung này, nhưng
sự khác biệt còn nhiều hơn là điểm tương đồng. Qua phần nhận định về "Đạo
là nguồn ẩn kín của Trời Đất" nơi Đạo Đức Kinh, ta thấy chữ Trời đó
cũng không giống với Trời (= Thiên) trong chữ thiên mệnh.
Trời trong thiên mệnh tạm dịch là "phải
là như thế". Nếu không quá tiền kiến khác biệt Đông-Tây, ta thấy
cùng một ý niệm đó trong bài thơ về hữu thể học của Parménide trong văn hóa Hy
Lạp: Trong đoạn VI của bài thơ ấy, Parménide khởi đầu chữ "χρη" (dịch ra pháp ngữ là Nécessité= cần phải); ở câu 10
chương I chữ " Δικη " (Justice = nghĩa lớn), và ở
chương VIII câu 30 chữ "Αναγκη" (De toute nécessité = khẩn
thiết phải).
Cũng như trong tư tưởng Parménide, đằng sau những chữ nêu
trên là không còn gì để nói nữa, trong tư tưởng của Khổng, ta thấy Khổng không
luận chứng những điều ông nói ra có thể áp dụng được trong thực tế hay không,
câu trả lời quay ngược lên trên: đó là mệnh trời phải như thế.
Đạo Đức Kinh khởi đầu bằng trận mạc giữa một bên là đạo
người (đạo khả đạo) và một bên là đạo thường. Nhưng đạo thường vừa
nêu lên thì cũng ám chỉ là đã ẩn dấu so với đạo người (= đời) đang có
trước mắt. Trung Dung không mô tả rõ tương tranh này một cách minh nhiên, nhưng
khởi đầu bằng thiên mệnh.
Và đây là mấu chốt của lời nói kỳ lạ gọi là tư
tưởng. Người ta thường nói học thuyết của Khổng Tử là thiên mệnh, điều
đó không sai. Nhưng thiên mệnh không phải là một bộ máy mù quáng, vô
lý như phái tân lão học, hoặc bộ máy hữu lý như phái khắc kỷ của truyền thống
văn hóa La mã Hy lạp xưa chủ trương.
Thiên mệnh tiên liệu một kiếp người có thể quên và phản
kháng; và sự tiếp nhận chân lý trong cuộc sống con người luôn đi với chữ cần
thiết, phải, công lý phải vậy... "Phải" ở đây không có
nghĩa là chiều theo một sự phổ quát của lý trí mà mình thông dự được chắc chắn
như trong triết học đạo đức của Kant. Điểm tinh tế đó cần lưu ý để phân biệt Đạo
của Trung Dung và "lý trí" phổ quát trong đạo đức học hình thức của
triết gia Đức. "Phải" vì vô lý, nói thế gần đúng mà chưa
đúng, "Phải" vì vượt lên trên lý trí của người.
Nếu cơn cám dỗ thường xuyên của các nhà nghiên cứu là muốn đặt
câu hỏi "Đạo là gì?" khi đọc ngay chữ Đạo ở câu đầu Đạo Đức Kinh,
thì ở Trung Dung khó có thể đặt ra câu hỏi "cái gì?" sau chữ Thiên Mệnh.
Và đó chính là tư tưởng của Khổng. Thiên mệnh không phải thuộc giới người, cũng
không phải là một vật. Điều đó hiển nhiên rồi. Đây là "Huyền chi hựu
huyền"; bên này bờ nhân sinh chỉ nghe vọng có tiếng "Phải như thế".
Nhưng "Phải như thế = thiên mệnh" của Khổng
lại khác với "phải như thế" của học thuyết Parménide (mà truyền
thống triết học hiểu và áp dụng [4]) rất xa. Truyền thống triết học đã hiểu chữ "Phải
như thế" trong bài thơ của Parménide trong khung trời mở tung, mọi sự
đã sáng tỏ (= hiển nhiên), nói cách khác trí khôn con người đương nhiên làm chủ
chân lý. Có là có và không là không trong quyền lực của lý trí mà con người mặc
sức sử dụng. Vì thế ba vế này thành một đẳng thức trọn đầy: hữu thể = lý
trí = lời nói con người.
Nơi tư tưởng Nho gia, - và điểm này là điểm đặc sắc của Nho
gia so với sự lãng quên trình bày của Lão - , là "Phải như thế" càng
được thực hiện, thì nó lại càng ẩn mình. Nội dung đó cảnh giác con người phải
luôn khiêm cung (nho là khịêm cung) và thận trọng trước nguy cơ thường trực
của thận phận làm người trong tương quan với chân lý, đạo nghĩa.
Nói cách khác "Thiên mệnh chi vị tính",
muốn trình bày cho thấy cái khởi đầu là Tính. Tính này đươc xây dựng
trên một nền tảng vốn không phải là nền tảng do con người làm nên. Nên ta có thể
gọi Tính là "Ungrund" (nghĩa là nền nhưng không
phải là nền do ta làm ra).
Theo chiết tự, chữ đạo được kết thành do chữ đầu với
bộ xướclà chân. Đầu là phần bất động, hàng dọc, hướng lên vô tận.
Chân bước đi trên mặt phẳng, hàng ngang, chuyển động trong không gian, thời
gian. Chữ Tính theo chiết tự cũng kết thành bởi hai chữ tâm và sinh. Tâm là
nói đến sinh hoạt bên trong, cái "tâm duy vi" của Kinh Thư, chỉ
sự ẩn kín, vi diệu, siêu việt. Sinh ra sự sống xuất lộ ra bên ngoài. Ở
đây Tính và Đạo như đồng một nghĩa. Nhưng nơi Trung Dung,
trong khung cảnh lịch sử hình thành quyển sách này, Đạo được nhìn nơi
phần động, sự thể hiện, còn Tính được mọi người (xem Mạnh Tử) xem là
một nguyên lý giúp ý thức về bản gốc. Ngay cả trong Luận Ngữ đã có khuynh
hướng xem Đạo là phần xuất lộ của bản gốc(= bản gốc mà sau này Mạnh Tử
gọi là Tính):
Quân tử vụ bổn, bổn lập nhi đạo sinh
(Luận Ngữ I, 2)
(Quân tử chăm chú về gốc, gốc mà thiết định được thì đạo phát
sinh)
Gượng mà nói thì có thể gọi Tính và Đạo như
là Tri và Hành, hợp làm một, cho dầu lối trình bày có trước
và sau. Tại sao lại nói là "gượng nói"? Tại vì thông thường người ta
nêu "tri hành hợp nhất" theo một nghĩa khác xa nếu
không nói là trái nghịch với tư tưởng tri hành nơi Nho học. Người ta
hiểu tri là biết sự vật để thực nghiệm nó trong việc biến chế. Nên
"tri hành" bị hiểu lầm là cái học thực dụng, là lý thuyết giúp cho sản
xuất, ứng dụng vào thực tế.
Trong Nho gia, Tri đã là Hành, và Hành đã là Tri. Tri
là đi vào "nghĩa" của con người, mà "nghĩa" là phải
trở nên như thế. Vì thế Khổng Tử nói "làm mà như không làm, vì
không phải ứng dụng sự hiểu biết sự vật để thực thi những công tác hiệu nghiệm
xảy ra bên ngoài, nhưng là hoàn thành nghĩa làm người. Do đó, dẫu thành hay bại,
thì đó vẫn là đạo, là lệnh trời".
Suất tính chi vị đạo
Noi theo Tính gọi là Đạo
Nói Tính là tính người, thì Đạo ở
đây cũng phải hiểu là nỗ lực của người thực thi tính người của mình.Tại
sao Tính người ở đây không gọi là Nhân? Đó luôn vẫn là câu hỏi,
vì cũng một nội dung Khổng Tử lại thường dùng chữ Nhân, mà ở đây lại
dùng chữ Tính. Xét về chiết tự, chữ Nhân cũng làm
thành do chữ nhân (là người) và hai vạch thêm vào là trời và đất, không
khác ý nghĩa biểu tượng tâm và sinh nơi chữ tính. Một
số tác giả cho rằng hai vạch này nói đến sự tương giao với người khác khi nêu
câu "Nhân là ái nhân" trong Luận Ngữ. Trước hết Nhân là ái
nhân mà thôi thì chỉ thấy được một nội dung có tính cách xã hội của Nho,
mà không bao thâu hết các định nghĩa mặc nhiên khác, chẳng hạn trong câu đầu của
cuốn Đại Học, hoặc đối chiếu với chữ vương trong quan điểm vương đạo
của Nho học.
Ở đây ta chỉ bằng lòng với nhận xét là điều mà Khổng Tử
gọi là Nhân, thì Mạnh Tử gọi đó là Tính. Và đó cũng là một chỉ dẫn
cho thấy cuốn Trung Dung đã phô diễn ý của Khổng qua lời Mạnh Tử.
Theo như câu nói của Mạnh "Nhân tính chi thiện
dã" [5], mà sau này trở thành câu đầu của cuốn Tam Tự
Kinh "Nhân chi sơ, tính bổn thiện", thì Tính được xem là
cái đến từ thiên mệnh, "cái phải là", không
phải chỉ là hình hài hay bản chất của vật nầy vật kia mà ta có thể truy cứu
theo sức mình. Và cũng nhắc ở đây, chữ Tính khác xa với đối tượng của
môn tâm lý học Tây phương, dẫu cho Tâm lý học đó là lối học cổ điển của triết học
xưa hay khoa tâm lý ứng dụng ngày nay. Tam Tự Kinh giải rõ là "nhân
chi sơ" để nói đến "Tính bổn thiện". Ở đây, chữ "sơ" cũng
là chữ "cổ" trong Đạo Đức Kinh, muốn nói đến một "thời
của thiên mệnh" của "Đạo" chứ không phải là lúc ban đầu của lịch
sử. Tính vốn thiện vì thuộc về "thời của cái phải là", ở đó người
tương giao với Trời Đất. "Sơ" là xưa, thời của mỗi
giây phút đời người được ghép chặt với thiên mệnh.
Như thế tư tưởng này có khác chi với quan điểm lạc quan quá mức
về khả năng con người trong các chủ nghĩa nhân bản tân thời và các biện chứng
tiến bộ về lịch sử không? Lạc quan về "Tính Thiện" nơi Mạnh Tử là lạc
quan về tiền kiến con người có khả năng lắng nghe được thiên mệnh,- cũng
như chúng ta đã trình bày về chữ "chúng diệu chi môn" ở
trên.
Lạc quan vì tin vào cảnh vực ngoài sức ta, khác và xa ta. Bờ
vực ngăn cách không làm hoảng sợ, tạo bi kịch hay phản kháng, nhưng vẫn là bờ vực.
Ngược lại, các chủ nghĩa nhân bản ngày nay cho rằng chữ "Thiện" là dự
phóng của trí khôn con người và ước muốn của con người, và do sức con người, là
tự do theo nghĩa là độc lập hay tự cô lập; nói cách khác “Thiện“ là tự đủ cho
mình, là không tương giao (đúng hơn là tự tách ra khỏi các mối tương giao), hay
còn gọi là giải phóng con người khỏi thiên mệnh, vất bỏ Đạo siêu việt.
3- Tu đạo chi vị giáo
Tu Đạo gọi là giáo
"Tu" được một số học giả Việt Nam dịch là sửa
sang lại. Ông Lê Trung Giáo trong cuốn Khổng Cấp Trung Dung, đã chú:
Tu là sửa sang, gìn giữ phẩm tiết [6]
Phùng Hữu Lan dịch là:
Cultiver la vie s'appelle culture spirituelle [7]
(Vun trồng đạo gọi là văn hóa tinh thần)
Trong lối nói thông thường, "tu" hàm ngụ cùng một nội
dung, nhưng hai cách biểu lộ:
1. Tu là sửa lại, tiền kiến sự sai trái trước mắt
2. Tu là theo, bảo tồn, gìn giữ khi ta hiểu ý nghĩa chữ Đạo
như "nghĩa" phải làm
Nhưng "tu" ở đây không phải là tự điều chỉnh, hay tự
khắc kỷ để đạt một mục tiêu do mình đặt ra.
Ta đọc lại lời nói bất hủ của Khổng Tử trong Luận Ngữ:
Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ, thiết tỷ ư ngã Lão
Bành (Luận
Ngữ, VII, 1)
(Ta thuật lại mà không tự làm ra, trung thành nên ham
thời sơ cổ, thử ví mình như ông Bành Tổ)
Ông Bành Tổ sống trọn kiếp để biết thời nguyên sơ đó, thời của
một Adam trong địa đàng khi Trời Đất Người hòa hợp, thời mà thời gian nơi con
người đã che khuất.
Vì thế Khổng Tử khuyên rằng muốn truyền lại, muốn làm thầy,
thì phải biết nhớ thuở nguyên sơ đó, phải cập nhật được Đại Ký Ức để:
Ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vi sư hỉ! (Luận Ngữ
2-11).
"Thuật, hiếu cổ, ôn cố" là phương thức để
"tu" Đạo, tức là giáo,cũng là tư tưởng, nói điều phải nói. Nếu giáo là
truyền lại, nói Đạo cho kẻ khác nghe, thì hẳn phải dùng lời chân thật. Lời đó,
Khổng Tử, khi dạy con là Bá Ngư, có nhắc: "Không học Thi, thì lấy gì
để nói". Kinh Thi là lời nhớ lại như ngôn ngữ Hy Lạp cũng
đã từng dùng chữ Đại Ký Ức để chỉ thần của thi hứng.
Nếu hủ nho đem các hình thức lễ nghĩa quá khứ của một thời
nào đó để thi cử, làm thầy, làm quan, lấy đó làm mẫu mực để lên mặt dạy đời,
đưa luật lệ đè nặng trên cuộc sống xã hội, thì họ đã phản Đạo của Nho học,
đúng như lời Đạo Đức Kinh mai mĩa.
4- Đạo dã giả bất khả tu du lỵ dã
Khả lỵ phi Đạo dã
Thị cố quân tử giới thận hồ kỳ sở bất đổ
Khủng cụ hồ kỳ
sở bất văn
Nếu Đạo Đức Kinh minh nhiên nhấn mạnh đến sự siêu việt của Đạo
khác đời, vượt lên trên đời, và khuyến khích người đừng sợ tiến gần đến điểm vi
diệu của Đạo, thì Trung Dung đã đặt Đạo vi diệu đó gần với người, qua cửa của
Thiên Mệnh. Gần đến nỗi không thể xa con người gây phút nào; nếu không như thế,
thì không phải là Đạo.
Đạo dã giả bất khả tu du lỵ dã
Khả lỵ phi đạo dã
Thi cố quân tử giới thận hồ kỳ sở bất đổ,
Khủng cụ hồ kỳ sở bất văn
(Đạo không thể xa người trong một giây phút,
có thể xa được thì không phải là Đạo
Nên, người quân tử hãy thận trọng về điều mình không thấy được,
hãy lo sợ điều mình không nghe được)
Đạo là thực thi cái tính nguyên sơ của mình, phải thực thi
luôn luôn, không có luật trừ, không có lúc nào được miễn. Nhưng "khả
lỵ" là thân phận con người như Lão Tử đã nói "Đạo khả đạo"
vậy. Con người thực tế đã xa Đạo, Khổng Tử minh nhiên nói như thế. Vì thế
có thể nói chữ "kim", hay "tân" là thời gian
con người, tức là "khả lỵ" (= có thể xa Đạo). Xa đạo không phải
chỉ áp dụng cho người vô đạo theo nghĩa thường, mà ngay con người kiểu mẫu của
Nho gia là "quân tử", cũng có thể xa. Xa không phải vì mình đã làm
sai, mà vì Đạo vốn là "điều phải làm", là "thời ẩn
kín, nguyên sơ". Do đó tâm tình của người trước Đạo không phải là
"tôn trọng luật pháp" như Kant nói, một luật pháp mà mọi người biết,
nhưng còn hơn thế nữa là phải cẩn trọng trước những điều không biết.
Ngôn từ đạo đức ngày nay hay nói đến tiếng lương tâm (= tâm tốt của mình); nhưng vì tâm tốt đó không phải là tâm duy
nguy, là ý thích bên trong của mình. Lương hay Thiện là Đạo
duy vi, một tiếng nói khác với lý luận và sở thích của ta. Tâm đó như
Thánh Augustinô nói là sự khắc khoải đến một Đấng giấu mặt, khác ta.
Ngày nay, ai cũng hiểu, tiếng lương tâm không phải là qui ước
xã hội; nhưng nguy cơ mà thời tân kỳ chúng ta đang gặp phải là đồng hóa lương
tâm với phán đoán bất chừng của cá nhân và tôn vinh đó là một quyền tối thượng…
Nho học nói đến Đạo Tâm là nhấn mạnh đến Đạo vượt lên lý trí
con người, chứ không phải là sinh hoạt tâm lý nào hay ý muốn cá nhân nào. Ở đây
hẳn Đạo của Nho và Đạo của Đạo Đức Kinh không khác nhau, nhưng một bên khởi từ
Đạo để nói lên sự vi diệu của Đạo, bên kia khởi từ thân phận người để nói đến sự
thận trọng và giới hạn mà con người cần phải ý thức.
Mặc hiện hồ ẩn, mặc hiển hồ vi
Cố quân tử thận kỳ độc dã
Càng xảy ra lại càng thu kín, càng tỏ ra lại
càng diệu kỳ;
Do đó người quân tử phải thận trọng khi ở một mình
Câu này là câu vừa biện minh cho câu "khả bất khả" của
Khổng Nho trước lời chỉ trích là "hữu vi" xuất phát từ phái
Đạo học, vừa giúp ta thấy được sự khác biệt giữa tư tưởng Trung Hoa nguyên thủy
và truyền thống triết học.
Theo các triết gia truyền thống, và cũng theo như điều phái Đạo
học nghĩ sai về Nho học, là khi Đạo đã khai mở cho người từ ngưỡng cửa
Thiên Mệnh, thì mọi sự nay thuộc quyền sử dụng của con người.
Vì thế có thể nói khi bình minh của tư tưởng vừa mới ló dạng,
thì mọi sự đã trở thành sai lạc, tăm tối. Sách Sáng Thế của Do Thái giáo và
Kitô giáo cho rằng khi con người vừa đạt được sự hiểu biết thì cũng lúc đó nó
đã hái trái cấm làm nên điều hiểu biết của mình, tự đồng hóa mình với Thượng Đế.
Bài học thực tế về kiếp người đó cũng đi với cái "phải là" của
Nho học. Cái "phải là" nhắc nhở rằng khi ta thấy được Đạo
thì cũng lúc đó Đạo ẩn dấu chính mình. Ta thực hiện được một điều, thì từng triệu
điều vi diệu thoát vòng tay của ta.
Câu sau đó thật lạ thường: Tại sao “vì thế mà người quân
tử phải thận trọng khi ở một mình“? Lời giải thích đơn giản nhất là dựa vào thực
tế hành đạo. Thông thường thì Đạo được chuyển thành một việc làm thuần xã
hội và lấy sự phê phán xã hội làm tiêu chuẩn để đánh giá [8]. Đạo là Nhân, và Nhân là nhân ái, đó là cốt lõi của Đạo. Lối
nhìn đó chưa đầy đủ, nhưng không sai. Nhưng tương quan của người với người
không phải chỉ mức độ xã hội theo nghĩa quần chúng, và lấy quần chúng làm nền
như Karl Marx chủ trương. Tương quan đó không do tập thể làm chuẩn, nhưng đến từ
Đạo phát xuất từ thiên mệnh. Thực ra, chưa có một chủ thuyết nào đề
cao chữ "nhân loại" như chủ thuyết xã hội của Marx. Nhưng nhân loại
theo mẫu mực của trí tưởng tượng con người tạo ra, gọi là ý hệ, không phải
là "nhân tính" vốn như thế và phải như thế, đặt trên cái nền
không do người xây nên như Nho học quan niệm. Đó là nguyên do khác biệt giữa
thuyết nhân bản của Marx, Sartre, và Nho gia. Sartre không cần phải biện minh với
ai, và cũng chả cần biện minh, vì nói theo sách Trung Dung, anh hùng của Sartre
là "vô kỵ đạn dã" (= không kiêng nể, sợ hãi gì cả). Người
lý tưởng của Marx thì chỉ có giá nơi tập thể xã hội, nên không có vấn đề ở một
mình, vì không còn mình nữa.
Lối giải thích thứ hai là câu nói nầy nhằm gián tiếp nói với
những vị tu tiên của của Đạo học. Giới này nghĩ rằng khi Đạo đến với họ như là
chuyện hi hữu, xem như một sở đắc cho cá nhân và của cá nhân! Nhưng giới nầy
hãy coi chừng, đừng tưởng ở một mình là thanh thản chiếm được Đạo.
Lối giải thích sát với nội dung bản văn hơn cả là người quân
tử khi ở một mình, xem như có điều kiện cắt đứt liên hệ vật chất với người và với
trời đất, nhưng họ phải luôn thận trọng, vì Đạo là sự nối kết Đất-Trời Người, Đạo
không thể rời ta trong một khoảnh khắc, bất cứ ở hoàn cảnh nào. Đây là một lối
nói về một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, để chỉ dẫn về tính cách bất miễn trừ của
sự gắn bó giữa cuộc sống con người và Đạo.
6- Hỷ, nộ, ai, lạc chi vị phát, vị chi trung
Phát nhi giai trúng tiết, vị
chi hòa
Vui, giận, buồn, sung sướng chưa phát ra là trung
Phát đúng với thời của Đạo là hòa
Qua phần nầy, bản văn giải thích chi tiết chữ “Tính“ và
chữ“Đạo“. Cái nhìn của Nho học ở đây phải nói là khác với Ấn Độ và Tây
phương. Ta lưu ý không phải là hai bên mâu thuẫn nhau. Nhưng cái nhìn ở
hai chiều kích khác nhau. Ấn Độ, Do thái và Hy Lạp khi nhìn thất tình, lục dục
thì thấy đó là sợi giây oan nghiệt sinh khổ. Nhưng phải lưu ý rằng những dữ kiện
đó được đánh giá là nguy cơ gây nên khổ lụy vì chúng đã được nhìn trong bối cảnh
của con người bên nầy bờ: mọi sự hữu như đầy gai góc, mồ hôi và nước mắt [9]. Nho gia nhìn những điều đó hàm ngụ trong tính, nghĩa là
"cái phải là", và ở đây thì nói một cách khác là "cái chưa phát
ra" [10]. Vì thế tính là trung. Rất tiếc là nhiều tác
giả dịch chữ trung là ở giữa theo nghĩa là trung bình ở giữa hai cực.
Chữ Trung ít nhất phải trình bày theo phương cách
tiêu cực như Chu Hy là "bất thiên chi vị trung". Tây phương có
ngôn ngữ biểu diễn thời gian khá phong phú khi chia các động từ. Nhập vào
thời gian thì động từ được chia; ngôn ngữ tây phương gọi là làm nghiêng đi
(= décliner). Chu Hi gọi là thiên (= nghiêng).
Về thời gian mà nói, Trung là thời không nghiêng, nghĩa là không một thời
nào của nhân vi cả [11]. Nói chưa phát ra là nói uyên nguyên nó như thế, là chưa đi
vào thời của hành động, của thể hiện do trí óc và bàn tay con người.
Nếu xét chữ Trung thường trùng với chữ Tâm,
thì lại càng rõ. Đây không là cái ở giữa theo sự cân đo của ta. Nhưng Trung cũng
là Tâm duy vi, là siêu vượt lên trên ước muốn, cân đo của ta.
Nếu chuyển Trung thành trúng, tức là đúng
theo nghĩa chân thật, thì cái trúng này không phải là đi theo đích ta nhắm,
nhưng là ở trong Đạo vốn ngoài (vượt lên) tầm nhắm của ta.
Qua câu nói đầu này, rõ là tác giả Trung Dung muốn cho thấy nội
dung cụ thể hơn về chữ Tính; và muốn chỉ dẫn thêm phương cách thể hiện của
Đạo [12]. Đạo khi thể hiện cùng cực ra, gọi là Hòa.
Chữ "trúng tiết" có nghĩa gì? Trúng là
ăn khớp, tiết là đốt tre, là một cái mấu mức giữa hai sự vật.
Một mặt, khi sự phát ra của tính vốn như thế,
nguyên sơ, đúng với chính nhịp điệu của nó, thì phát sinh một giây phút của
Đạo Thời -; giây phút của Đạo Thời ấy ở đây gọi là tiết.
Mặt khác cũng là sự nhập thế - theo lối nói tân thời của
Đạo vào Đời, tạo thành một khoảnh khắc đạo lý, ta gọi đó là đức hạnh như nhân,
nghĩa... Nên chữ tiết cũng có nghĩa là trung tín, ngay thẳng vì hàm
ngụ là "tâm hư" (trong câu tiết trực tâm hư)nghĩa là làm trống
cái tâm người của mình để chỗ cho Đạo Tâm ở. Do vậy cũng gọi là "vô
cầu" là sự thực thi Đạo ra bên ngoài khi tâm đã trống không, không
vương đến "chấp ngã".
Nên chữ Hòa của Nho học không phải là sự thuận ý của
những con người với nhau mà thôi, theo sự tính toán thiệt hơn của mỗi bên,
mà Hòa là nối kết đời với Đạo, người với Thiên Mệnh.
7- Trung dã giả, thiên hạ chi đại bổn dã,
Hòa dã giả, thiên hạ chi đạt đạo dã
Trung là gốc lớn của thiên hạ
Hòa là sư thành tựu của Đạo
nơi con người
Đây là quan điểm về tiến trình đạo lý của thân phận "phải
như thế của con người". Điều bên trong là thiên mệnh, việc
của Trời, tức là nguyên sơ phải thế, nhưng Hòa là việc thực thi Đạo của
người, có và cần con người, trong việc hợp tác với Đạo. Thánh Augustinô nói rất
hay: "Khi tạo dựng con người Thiên Chúa không cần ta, nhưng muốn cứu
ta, Thiên Chúa cần đến ta".
Theo Hegel, Tinh Thần hòa với chính mình sau khi đã nhập thể
vào lịch sử để cụ thể hóa qua những đau thương đối kháng và tổng hợp. Nho
học không bao giờ chủ trương một tiến trình lịch sử của Tinh Thần tự làm nên
mình. Không đợi một "vị lai" nào đó của thời gian để đạt Đạo. Từng
giây phút gặp gỡ Đạo Đời là Hòa, là chung điểm của Đạo người. Tinh thần, vật chất
như hai sự đối kháng của một nhất thể không có trong tư tưởng Nho học. Đạo
không phải là tinh thần còn mù mờ, và đời không phải là vật chất cụ thể. Đạo
không là vật chất cũng không là tinh thần, Đạo vượt lên trên sự phân biệt khốn
khổ đó .
Lại nữa, lịch sử của tiến trình hành đạo không phải làm lớn
lên, làm phong phú và hoàn thành từng bước của một nhất thể gọi là lịch sử con
người. Chuyện xưa của Kinh Thánh Do thái đã nói đến nỗ lực của con người tự
mình làm nên một thứ đạo nhân vi qua câu chuyện tháp Babel. Hegel muốn
nhân loại mỗi người qua mỗi thời đóng góp một viên gạch xây dựng dần tòa nhà của
Đạo do tự sức mình như thế. Và tòa nhà càng cao, người ta gọi là càng tiến bộ để
đến chung điểm hoàn thành ở một thời kết lịch sử. Nhưng thời kết lịch sử của mỗi
người, và nhân loại xét trong nội vi của quan điểm này là gì? Là sự
chết! Điều mà thi hào Eschyle đã nói về Promothée khi ông đem
sự hiểu biết đến cho người là: "làm cho người quên đi mình có thể chết". Phải
chăng các ý hệ về tiến bộ lịch sử, hoặc vì đã quá mơ mộng hảo huyền nên lãng
quên thân phận con người ’phải chết’, hoặc chưa lắng nghe được tiếng
vọng bên kia bờ để tiếp cận Đạo và thể hiện Thái Hòa chung toàn ngay trong mỗi
hoàn cảnh, trong mỗi giây phút hữu hạn của cuộc sống bình dị của mình!
Chung điểm thời gian của Nho học là Hòa, là trong từng
giây phút đời gặp Đạo.
Chữ thiên hạ không phải là toàn nhân loại theo
nghĩa là tất cả mọi người trên thế giới. Chữ thiên hạ được dùng ở đoạn
nầy trong sách Trung Dung (cũng như chữ thiên hạ ở chương 2 cuốn
Đạo Đức Kinh của Đạo học) nhằm chỉ là cảnh vực trần thế, là con người cụ
thể.
Nho học được xem là học thuyết cứu đời, an bang tế thế. Đúng
như thế. Nhưng hơn thế nữa, Nho học đề nghị phải tìm đạo nghĩa của
các mối tương giao ấy trên một nền tảng chân thật để con đường xuất xử của con
người không bị lầm lạc. Nền tảng đó luôn gần với người, vì nó là tương giao Đất Trời Người,
là Nhân, là vương đạo làm nên nhân tính; nhưng nền đó cũng rất
xa, vì làm người trong thiên hạ, không những không ai làm ra được
nền ấy, mà ngay cả bậc thầy như Khổng Tử cũng chỉ thoáng nghe được mà thuật
lại (= thuật nhi bất tác); và Lời gợi lên nền ấy cũng là Lời từ bên kia bờ,
là Đại Ký Ức. Vì Đạo thật gần và thật xa như thế, nên Khổng Tử không bao giờ có
kỳ vọng cho rằng Đạo của mình một mai sẽ được thực hiện và tạo thiên đàng ở trần
thế cho muôn dân. Quan điểm cưỡng ép Nho học vào các biện chứng lịch sử được
các tác giả tây ta lặp lại không lý đến cái chốt tư tưởng của Khổng trong nội
dung của Thiên Mệnh.
Vì thi hành Đạo, một đường lối không phải do mình tạo ra, nên
không thể có chủ trương quá khích, trái lại, rất bao dung và khiêm tốn,
nhưng cũng không yếu mềm đầu hàng dư luận, mị dân. Nếu có nói đến phần ứng
dụng cụ thể thì ta thấy được rõ ràng đặc tính này: người quân tử hành Đạo thì "thản
đảng đảng", không bực dọc khi thấy chương trình hành động của mình bị thất
bại, không huênh hoang khi gặt hái thành quả… Thành hay bại trên thực tế cuộc đời,
một khi đã thực thi được "ý nghĩa làm người", thì vẫn đạt Đạo.
Trí trung hòa,
thiên địa vị yên, vạn vật dục yên
Đạt đến Trung Hòa
Thì trời đất ở chỗ mình, vạn vật
sinh sôi nẩy nở
Mới đọc lên, thì người ta vội cho ngay Nho học đã đưa Đạo
vào vũ trụ thiên nhiên. Một vài tác giả Thiên Chúa giáo ghép liền ngay quan điểm
này vào ý niệm Thiên Chúa an bài vạn vật. Dẫu lối nhìn có vẽ hấp dẫn, nhưng bản
văn không nói như thế.
Chúng ta không thể tách rời đoạn văn ra khỏi khung cảnh “đạo
làm người“ của toàn chương. Trí trung hòa là mỗi giây phút con người
đạt được sự phối hợp với Thiên Mệnh, thực thi tính mình; như thế thì
thế giới mở ra cho mình là gì?: Đó là đạt được đạo, tức là thấy được cảnh
thái hòa trời đất và vạn vật.
Hình ảnh thi ca nơi cảnh thái hòa ấy muốn nói lên cái vi diệu
của Đạo được thực thi trong cuộc sống con người.
Đến đây, ta nhớ lại Đạo Đức Kinh trong phần kết của chương 1:
Huyền chi hựu huyền
Chúng diệu chi muôn
Đạo Đức Kinh lạc quan về bên kia bờ của Đạo, vượt lên thế giới
nhân sinh. Trung Dung lạc quan về bên này bờ của nhân thế khi thực thi được "tính", tức
là "nghĩa làm người".
Ngày nay với những tai họa của môi sinh, hẳn nhiên có kẻ cho
rằng vạn vật bị thiêu hủy, khô cằn vì không lý đến học thuyết bảo vệ
thiên nhiên, quên đặt nền trên thiên nhiên của Đông phương, của
Nho-Lão học. Có thể suy dài, suy vắn, người ta đi đến kết luận đó. Nhưng Đạo
trong Lão, trong Nho không hề có một tơ vương nào liên quan đến việc xây dựng
hay đề cao học thuyết chủ thiên nhiên cả!
Cả hai, đặc biệt là Nho học, đã nói đến đạo làm người và
chỉ có thế. Những gì bàn về thiên nhiên, cây cỏ bên ngoài là hình ảnh nói về cảnh
vực không nhân vi, một gợi ý nói về sự khác biệt của Đạo đối với thế
giới của con người quên Đạo. Còn hơn thế nữa, là không bao giờ dựa vào khoa học
cây cỏ để diễn dịch ra thế giới người như Aristote đã làm. Nếu có tai ương
thiên nhiên tàn phá cả một vùng, người quân tử vẫn đạt Đạo, mặc dầu cây cỏ có
khô héo. Đây là điểm trổi vượt và canh tân của Nho học so với quan điểm của
nhân gian, không riêng gì ở Trung Hoa mà phổ cập trong mọi dân tộc, về việc suy
luận tốt xấu, lành dữ dựa vào nguyên tắc nhân quả, về việc đối chiếu các biến
chuyển thiên nhiên, những biến cố bên ngoài để thẩm định nhân tính và dạo lý
làm người.
Chung điểm của Đạo trong Lão học và Nho học là nói đến đạo lý
làm người.
Người ta thường lạm dụng chữ nhân bản; nhưng ở đây là một
nền nhân bản khi hiểu chữ này là tư tưởng nói đến thân phận con người. Và
đây cũng là chống lại nhân bản theo nghĩa là chủ trương tôn vinh con người
làm chủ thể độc tôn trong vũ trụ.
Khi thấy được rằng ưu tư của tư tưởng là xét đến thân phận
mình và nghĩa của đời mình, thì không thể bóp méo cách đặt vấn đề của tư
tưởng Nho-Lão vào một hệ thống tri thức về sự vật. Trong Lão, trong Nho, không
thể có câu nói "Cela est", "Cái đó là hữu" như
một cái gì bất động nằm ỳ ra đó muôn đời muôn kiếp, như đã được tôn vinh làm nền
tảng cho hữu thể học truyền thống. Nhưng cũng không thể có lối nói "kỳ lạ"
của Kitô giáo, khi gọi Trời là Cha - một cách thân tình Cha con.
Khuynh hướng ngày nay, và hầu như là một phong trào rất
thịnh hành, khi người ta thấy những bất cập của truyền thống triết học duy lý
và khoa học kỹ thuật, thì liền quay tìm về Đông phương như đi tìm của lạ. Có
hai cám dỗ hay gặp phải: Một là người ta thấy Đông phương như một vùng văn hóa
của huyền bí, sắc sắc không không; hai là cho rằng văn hóa Đông
phương chẳng qua là một chủ thuyết về thiên nhiên, quan niệm vũ trụ như một nhất
khối đầy sinh khí, một đà năng lực kết tụ hồn của vật chất, cây cỏ và con người
làm một. Qua phần trình bày về Đạo của Nho Lão ở trên, ta ngạc nhiên về sự
hiểu lầm tai hại và thiển cận này.
Trong bài thuyết trình ở Giêrusalem ngày 20.11.1978, nhà tư
tưởng Jean Brun đã nói:
Nét đặc điểm của Tây phương của chúng ta ngày nay là cây hiểu
biết đã làm ngộp cây sự sống.
Nhưng sự sống đó có phải là cảnh hỗn mang, vô định của sinh vật,
là năng lực sống tâm sinh lý hay sự sống là "đường của người phải
đi" khi nối lại với Đạo vốn bên kia bờ của Trời Đất?
Phải chăng sau chu kỳ của một Tây phương hữu lý nay đã đến thời
vô lý Đông phương, một vòng quay oan nghiệt hữu vô mà Lão và Khổng đã giúp ta
vượt qua? Jean Brun đã mô tả nguy cơ đó như sau:
Tây phương là bàn tay đặt lên thế giới,
Đông phương là bàn tay rút ra khỏi thế giới [13]
Dẫu vọc vào hay rút ra, thì khởi thủy cũng là bàn
tay con người, là hành tạo nghiệp. Tây phương và Đông phương đó là cảnh
chiều của tư tưởng. Phải tìm lại, không phải một Đông phương sản xuất ra, làm
ra Đạo, nhưng một Hừng Đông của tư tưởng đủ sức nhắc nhở mỗi người nhớ rằng
mình có thể chết và không phải chỉ là như thế.
Chú thích:
[1] Xem Phùng Hữu Lan, sđd tr. 180
[1] Xem Phùng Hữu Lan, sđd tr. 180
[2] Sđd, tr 180
[3] Sđd, tr 87
[4] Truyền thống triết học đã không tiếp nhận tư tưởng
Parménide như là hứng khởi của thi ca, nhưng đã lồng lời của Parménide vào
khuôn luận lý hữu thể học.
[5] Mạnh Tử - Cáo Từ Thượng 1-2
[6] Lê Trung Giáo, Khổng cấp Trung Dung -
Trung tâm học liệu - Bộ giáo dục - Sài gòn, 1972.
[7] Phùng Hữu Lan, sđd. 188.
[8] Thật khó mà quên cái nhìn khá kỳ lạ, khác thường của nho
gia Nguyễn Công Trứ về công danh!.
[9] Xem Sách Sáng Thế 3, 17-19.
[10] Từ cổ chí kim các cuộc tranh cãi về tính người thiện-ác từ
cách nhìn khác nhau này.
[11] Xem chữ cổ, tích... ở phần trên.
[12] Xem câu "suất tính chi vị đạo" ở
trên.
[13] Jean BRUN, Les vagabonds de l’Occident, Desclée,
Paris, 1976, tr 13.
Nguyễn Đăng Trúc
















Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét