Theo Turgeniev* nhà tư tưởng ngữ văn Nga; thì từ ngữ
’Hư Vô’ đến như một kiểu thức trang phục thời thượng (vogue) một tên gọi cho một
ý tưởng phát ra từ những gì thuộc tri giác mà chúng ta cảm nhận được, sự lý đó
chỉ hiện hữu mỗi khi ta nhận thức triệt để với một kinh nghiệm tự chính nó mà
ra, không còn cách nào lý giải hơn nữa. Ấy là sự thật và hiện hữu. Tuy nhiên,
dù dựa trên bất cứ nền tảng nào của tập quán, khả năng hoặc bất luận là gì để
xác định cụ thể giá trị của nó và không thể có tính tiêu cực để phủ nhận. Thông
thường được coi là ’thực nghiệm chủ nghĩa’, một chỉ định từ về quan điểm cho một
từ ngữ mang nặng chất liệu trừu tựng và siêu hình.
Đối với Nietzsche, hư vô như danh xưng dành cho một chuyển động
có tính lịch sử, ấy là điều Nietzsche thừa nhận và sẳn sàng thực hiện như những
thế kỷ trước đây, đồng thời làm sáng tỏ cho một tương lai sắp tới; tất cả
những chuyển hướng nầy là cần thiết, lợi ích; đó là một tổng hợp đầy đủ trong một
câu văn ngắn gọn: ”Thượng đế đã chết”. Có nghĩa rằng ’Thiên Chúa / Christian
God’ đã mất hết toàn năng, toàn trí, toàn lực của hiện hữu và không còn chức
năng phán quyết của một đấng tối cao. Thiên Chúa chỉ được coi như ’ đấng siêu
nhiên’ trong một ý nghĩa tổng quát khác nhưng trọn nghĩa hơn – cho ’tư duy’ và
’mẫu mực’; ’chính yếu’ và ’giá trị vô cùng’, những thứ liệt kê trên đều
là hiện hữu...’
”God is dead”. That is to say, the ’Christian God’ also
stands for the ’transcendend’ in general in its various meanings – for ’ideals’
and ’norms’, ’principals’ and ’ends’ and ’values’ which are set above the
being…”
Hư vô chủ nghĩa/ Nihilism là một tiến trình thuộc về lịch sử
bằng bất cứ khi nào, một ưu thế lợi hại dành cho ‘đấng siêu-nhiên’ để rồi trở
nên vô hiệu hóa và tránh xa tầm nhìn về một ‘Thượng đế’; như vậy những gì hiện
hữu đều mất hết, sự sùng bái, thờ phượng, giáo điều đều không còn nữa. Hư
Vô tự nó đã trở nên hiện hữu; xuyên qua những gì về cái chết của Thiên
Chúa. Điều đó như chống lại nhưng không thể cản trở con đường sáng. Thượng đế ở
đây sẽ được tiếp nối, lưu truyền với niềm tin và điều đó đưa tới một thiên đường
có thực, hiệu năng và một xác thực cụ thể. Đối với Nietzsche hư vô chủ nghĩa
không phải là đường lối cho một vài quan điểm ‘để hướng tới’ cho mọi người,
cũng không những xem đây là một lối xử thế có tính cách lịch sử tôn giáo mà
‘ban phép’ với nhiều ý nghĩa khác nhau. Hư vô, nói đúng ra là một diễn trình
lâu dài nói lên hiện hữu của sự thật, tất cả là cần thiết đã một thời coi hư vô
là ‘siêu hình’. Nhưng rồi siêu hình không có nghĩa là giai đoạn ngưng nghỉ của
lịch sử. Dữ kiện nầy là bước bắt đầu với một cái nhìn quan tâm đúng đắng; với dữ
kiện đó như là ‘biến cố’: Thượng Đế Đã Chết là bằng chứng cụ thể, bởi Thượng đế
với con người không còn một liên lạc gần gũi. Thượng đế rút vào hư vô. Bỏ lại
trần gian! Nhận thức của Nietzsche hiểu như một triết thuyết, như lời bắt đầu
giới thiệu đến những thế hệ về sau với một tuổi đời mới hơn.
Hư vô là một sự thật chính yếu được gia tăng và nẩy nở, tất cả
thứ đó là thời kỳ đưa tới cứu cánh của hiện sinh để trở thành một cái gì vượt
lên trên mọi điều. Hư vô tự thân nó là một cái gì hoàn toàn tự do và một chức
năng xác thực cho một giá trị mới.
Nihilism is the increasingly dominant truth that all prior
aims of being have become superflours…nihilism has also perfected itself for
the free and genuine task of a ‘new valuation’. Nietzsche thường nhấn mạnh:
‘hãy nâng cao giá trị để mọi thứ có giá trị cho tới ngày nay’ (revaluation of
all values hitherto). Nhưng ở đây Nietzsche muốn ‘nâng cao giá trị’ khắp mọi
nơi có nghĩa là giá trị trước đây sẽ không còn nữa, nó biến vào hư không, chứ
không nằm trong cái ‘hư vô’ vô cùng. Ngụ ý rằng cõi như nhiên là một giá rị trực
diện với con người và cũng làm sáng tỏ cần thiết cho một giá trị hóa thể như thế.
Cái đó được coi là nâng cao giá trị hiện hữu, cho nên với siêu hình nó trở
thành giá trị cho một tư duy và bôi xóa những tàn tích trước đây.
Giữa lúc nầy; trở đi trở lại cái bất tận của sự khẩn cầu, một
diễn giải sắc bén của cái thứ ‘hư vô cổ điển’ tạo ra, mà tất thảy những thứ đó
tuyệt đối xóa bỏ từ đầu tới cuối, từ trên xuống dưới kể cả sự hiện hữu ở cõi
ngoài kia. Hư vô là thế đó; cụm từ ‘Thượng đế đã chết’ chỉ gợi ý một sự bất
khả tư nghị không những cho những người Thiên Chúa giáo nhưng vì chứa đựng một
yếu tố cao siêu vô tưởng, mà những thứ đó làm cho con người muốn tìm nơi an trú
vào những gì tự có của nó. Bởi vì; cao siêu diệu vợi, cõi ngoài kia, thiên đường
như cảnh trí tiêu tan, xoá bỏ, chỉ còn lại một duy nhất của tồn lưu vũ trụ.
Với hư vô; như đã nói là hết mình là nâng cao giá trị của tất
cả thời kỳ, giá trị nầy ở cùng một thực tại hiện hữu như thể một năng lực trong
một ánh sáng được tái xuất nhiều lần. Điều ấy trở nên một vị trí cần thiết, một
giá trị tuyệt đối cho nhân loại.
Trong 5 đề mục chính của hư vô chúng ta cần quan tâm: -những
gì thuộc về hư vô, - nâng cao giá trị của tất cả giá trị để mọi thứ
có giá trị cho tới ngày nay. - sẽ là năng lực. - tái xuất nhiều lần trong cùng một
thể thức. - và vượt qua mọi giới hạn con người.
Mỗi một thứ kể trên là một diễn tả hình ảnh siêu hình của
Nietzsche, đi từ một viễn cảnh dù cho dưới dạng thức nào thì viễn cảnh đó là một
xác định cụ thể cho tất cả. Vì thế siêu hình của Nietzsche là một chiếm cứ chỉ
khi nào cái gì đã được danh xưng trong năm cái tiêu đề đưa ra thì có thể là một
đắn đo suy diễn – cái đó là kinh nghiệm cần thiết – trong bước khởi đầu và những
gì trước đây đã liên kết bằng một gợi ý đơn thuần. Thus Nietzsche’s metaphysics
is grasped only when what is named in these five headings can be thought- that
is, essentially experienced-in its primordial and heretofore merely intimated
conjunction.
Nhu cầu cần thiết là phải có cái nhìn vào tư duy về thể chất
của hư vô một cách mạch lạc; về cái sự ‘nâng cao giá trị của tất cả giá trị’ ‘sẽ
là năng lực’ ‘tái xuất nhiều lần trong cùng một thể thức’ và ‘vượt qua mọi giới
hạn của con người’ và từ đó hãy cho chúng ta một dự đoán bén nhạy, cái đó chính
là thể chất của hư vô là những gì tự nó có lợi ích, nhiều sự khác biệt và nhiều
đẳng cấp khác nhau. Tuy nhiên hư vô chủ nghĩa cho phép chúng ta áp dụng vào mọi
trường hợp, vào mọi tình huống. Nhưng chúng ta cũng có thể có đầy đủ kinh nghiệm
của những gì đã trở thành danh tính như lời thốt trong cảm thức của Nietzsche.
‘Thượng đế đã chết’ điều nầy không còn xa lạ, bởi tự nó đã trở thành một cái gì
thuộc hư vô cổ điển (classical nihilism), để rồi; tự nó phô bày như một sự việc
hoàn tất của chủ nghĩa hư vô. Bằng những suy luận chính nó, miễn trừ từ những
suy luận cần thiết, điều đó cấu tạo ra thể chất của nó: trống rỗng/nihil là cái
đi tới Không/Nothing – như là tấm khăn mỏng che đậy một cái gì của vải thưa che
mắt thánh, cái đó chính là bưng bít sự thật của tồn lưu hiện hữu. Cho nên chi
phải hiểu hư vô chủ nghĩa là nền tảng (ground) cho một hư vô; những sự cớ như
thế Nietzsche đã nói hết trong tác phẩm ‘Ao ước Năng lực’(The Will to Power). Một
đối kháng giữa hiện hữu (being) và trống không (nothing) để đi tới sự sinh sôi
nẩy nở, ấy là bước hướng tới qua mọi thể thức thuộc về hư vô. Sau khi đối diện
với 5 đề mục nêu trên, thời tất cả là ‘trống rỗng/nihil/nothing’, thời tất cả
là thể chất của VÔ tức là KHÔNG? -The Ought-is it nothing?-. Bởi tự nó là vô
nghĩa -by no means-.Hư vô giờ đây là một đơn vị độc lập, tách rời mọi thế giới
bên ngoài để hòa nhập vào vũ trụ giới, đó là hoài bão của Nietzsch giữa hư vô
và hiện hữu như tiếng nói trung thực giữa người và thượng đế mà giờ đây thượng
đế trở thành hư vô có nghĩa là không hiện hữu mà chỉ có như nhiên là hiện hữu.
Một hiện hữu hư vô khác với hiện hữu ‘hư vô cổ điển’.
Hư vô được nhìn như một tiên đoán. Đối với Nietzsche
không bao giờ nghĩ để loại trừ trong nhiệm kỳ của một điều gì có tánh che đậy,
bưng bít để trở nên, cũng không hùa hay theo lệnh để tán tụng, ngợi ca; vì đối
với Nietzsche cho đó là hành động hèn hạ, bẩn thỉu và một diện mạo toan tính;
cái đó chính là sự lừa dối che đậy, một tư duy tôi lỗi (apocalypse) có thể đây
là giả thuyết cuối cùng, nhưng trong qui trình đó là tránh xa và chuyển thể
trong một ý thức phục hồi. Nietzsche ý thức hư vô là gì cho một thực nghiệm như
là một sự kiện thuộc chẩn y viện mà ra.
‘Nietzsche never thought except in terms of an apocalypse to
come, not inorder to extol it, for he guessed the sordid and calculating aspect
that this apocalypse would finally assume, but in order to avoid it and to
transform it into a renaissance. He recognized nihilism for what it was and
examined it like a clinical fact’. (A. Camus).
Nietzsche tự chẩn bệnh lấy mình., nói cách khác, ông ta bất
tín và mất hút vào nền tảng ban sơ của tất cả niềm tin -cụ thể là niềm tin cuộc
đời. “Người ta có thể sống như một phản kháng?” ‘Can one live as a rebel?’ (A.
Camus) Hay là : “Người ta có thể sống, niềm tin là cõi không?” ‘ Can one live,
believing in nothing?’ (F. Nietzsche) Lời nhận định trên như quả quyết, như
thách đố tin hay không tin một thượng đế như ta nghĩ. Vâng; nếu con người tạo
ra không nằm trong vị trí của niềm tin, nếu con người chấp nhận một hậu qủa bi
thương của hư vô, và nếu; như hiện hữu giữa sa mạc và đặc người ta vào một giải
bày tâm trạng trong một điều kiện nào đó thì con người sẽ cảm nhận được thuở
ban sơ, sự đau đớn và hân hoan như một bản năng tự nhiên…
Điều chắc chắn rằng không còn gì để nghi ngờ triết thuyết của
Nietzsche, ông xoáy quanh vào vấn đề phản kháng. Với nhiều lý lẽ chính xác
; bắt đầu bởi hiện hữu của phản kháng. Nhưng chúng ta sẽ có những cảm thức khác
nhau qua từng vị trí vai trò mà Nietzsche dựng nên. Với Nietzsche, phản kháng bắt
nguồn bởi tiếng thốt: ‘Thượng đế đã chết’ tợ như tiếng thốt của Zarathustra vào
cõi vô biên. ‘Tiếng ‘thốt/spake’ đó chính là tiếng nói của khước từ, vừa là tiếng
nói của phản kháng’ (Camus). Lý lẽ đó như một giả thuyết, một dữ kiện cấu
thành; rồi từ đó đưa tới phản kháng, đó là mấu chốt cho mọi thứ, mấu chốt tạo
nên cứu cánh; ở một vị trí sai lầm khác đã làm mất đi thánh hóa (deity), làm hư
hại cái thế giới hư vô, mà những gì Nietzsche đã nói tới với lòng ngay, cốt chỉ
để lại những gì còn lại như cung cấp một nền tảng (proving-ground) cơ bản dành
cho thượng đế mà thôi. Nietzsche thốt vì ông không còn tin tưởng ở mọi thứ vì tất
thảy mọi thứ là vô nghĩa, đều là phi lý, nhưng không thể hoài nghi cả tiếng thốt
như lời thét của mình.
Je crie que je ne crois à rien et que tout est absurde, mais
je ne puis douter de mon cri. (Metaphysical rebellion/ The rebel/ L’Homme
Révolté. A. Camus))
Ý niệm nầy chắc chắn đưa tới sự ‘phản đề’ đối với tín hữu
Thiên Chúa giáo. Ở đây Nietzsche không đưa ra một thể thức hay đề án ‘giết Thượng
đế’. Ông cho cái sự ‘đã chết’ là đúng với linh hồn của đồng sinh, đồng tử, một
cái gì đúng lúc, đúng thời, chớ không phải thượng đế là không chết. Thượng đế
trở nên vô tư, tức đã chết; đâu còn linh ứng để mà cầu xin, lúc xưa cũng như
lúc nầy thượng đế đi vào hư vô, vào cõi như nhiên mà chỉ còn lại trong ta một
‘nihi/nothingness/trống không’ tức thừa nhận hiện hữu của thượng đế bằng ý niệm
hư vô. Chất chứa một nội tại phản kháng không thể xóa trong ý thức : nó nằm lịm
trong trạng thái khẩn trương và không dứt để rồi đi tới tiếng thốt như đi vào với
hư vô, đồng loã với hư vô hai trạng thái phản kháng trùng phùng giữa Nietzsche
và Camus; họ gặp nhau trong hư vô thuyết. Giữa chối bỏ và phản kháng là một.
Như vậy Nietzsche không nói gì trong triết học một cách rõ ràng về phản kháng
nhưng đã thiết kế một triết thuyết về phản kháng. ngược lại Camus đem phản
kháng vào trong tác phẩm của mình là phản kháng trực diện, một ý thức phản
kháng triết học; bao hàm trong một chủ nghĩa hư vô. Với Heidegger, Nitzsche,
Camus đưa chủ nghĩa hư vô vào một phản kháng nội tại, thứ phản kháng của con
người, một lối phản kháng siêu hình: bởi đau khổ mà con người gánh chịu chính
là đau khổ có thật và chẳng ai tôi lỗi cả, nhưng vô tội chưa hẳn là hiện hữu sống.Tinh
thần phản kháng siêu hình hay phản kháng hư vô hai yếu tính nầy nằm trong chối
từ, không có cứu rỗi hay tế độ, ban ơn, do đó mong muốn một tuyệt đối của tồn
lưu. La révolte veut tout, ou ne veut rien. Phản kháng muốn tất thảy muốn hoặc
chối từ không muốn dù là hư vô vẫn là ‘hư vô phản kháng’. Christ vẫn có một đòi
hỏi của hư vô phản kháng…
Tóm lại, cuộc đời đang sống như đã nói là một phản kháng, một
chối bỏ, phủ nhận mà trong mỗi thứ đều hoài nghi sợ hãi, run rẩy, ‘run như run
thần tử thấy long nhan’ (HMT)* một tai họa giáng xuống, một thể loại gần như
thuộc về sinh vật học thường xẩy ra bên trong của con người. để rồi vượt qua đấng
tôn thờ như chạy vào một cái gì tầm thường với một năng lực mong muốn mà thực
ra đó là một nhầm lẫn, một thu nạp trong danh nghĩa ‘phản lại cái méo mó nửa vời’ (anti-semitic
deformity) những thứ đó Nietzsche không thể chấm hết để trút vào đó như một miệt
thị hay chối bỏ thượng đế, mà xem đây là cảnh giác giữa thượng đế với con người.
Chắc chắn rằng phản kháng, phản kháng siêu hình hay phản kháng hư vô có thể là
một chối từ và rồi Nietzsche ‘thốt’ lên lời tuyệt vọng cùng thời của ông:
«Lương tri tôi và cả chính bạn không còn lâu dài như một ý thức
lương tri» (My conscience and yours are no longer the same conscience). Lời
nói: ’Thượng đế đã chết’ đã đi vào hư vô hay hiện hữu? đó là một triết
lý của Nietzsche và con người đang đối diện với thượng đế!.
* Ivan Sergejevitsh Turgeniev (1818-1883).
* HMT = Hàn Mạc Tử.
SÁCH ĐỌC:
- ‘Nihilism’. by Frank A. Capuzzi. Italy and USA
1961.
- ‘Metaphysical Rebellion’. in The Rebel, trans. by
Anthony Bower. USA 1951.
TRANH VẼ: Phong Cảnh/ Landscape. Trên giấy cứng 12’X15’
Acylics+Mixed. Vcl 5/2012.
Võ Công Liêm








Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét