Thứ Năm, 7 tháng 10, 2021

Bông huệ đỏ 2

Bông huệ đỏ 2
Nguyên tác: Le Lys Rouge

XII. Buổi sáng, đầu đặt trên chiếc gối thêu phù hiệu hình chuông, Têredơ nghĩ tới những buổi dạo chơi ngày hôm trước, nghĩ tới những bức tượng Đức bà tuyệt mỹ giữa đám thiên thần, tới vô số tượng và hình vẽ trẻ em, tất cả đều xinh tươi, đều hoan hỷ và như đang cất tiếng hát ngây thơ ca ngợi sắc đẹp và vẻ duyên dáng của con người. Trong ngôi nhà thờ Brăngcaxi nổi tiếng, trước những bức tranh tường vừa êm dịu vừa rực rỡ như ánh bình minh huyền diệu, anh nói với nàng về họa sĩ Maxaxiô bằng một ngôn ngữ linh hoạt và bóng bảy khiến nàng như nhìn thấy người thanh niên - nghệ sĩ bậc thầy của những bậc thầy, cặp môi hé mở, đôi mắt màu xanh sẫm, mắt lơ đãng, đắm đuối hân hoan. Nàng ưa thích những cảnh mê ly ấy trong một buổi sáng còn tươi đẹp hơn cả ánh nắng mặt trời. Trước mắt nàng, Đơsactrơ là linh hồn của những hình thù tráng lệ ấy, là tinh thần của những sự vật cao quý ấy. Chính qua anh, ở anh mà nàng hiểu nghệ thuật và cuộc sống. Nàng chỉ chú ý tới cảnh tượng của cuộc đời chừng nào bản thân anh chú ý tới.

Mối đồng cảm ấy đã đến với nàng như thế nào? Nàng không nhớ lại rõ rệt. Lúc đầu, khi Pôn Venx ngỏ ý giới thiệu anh, nàng không mảy may muốn làm quen, không hề có linh cảm là anh sẽ làm nàng vừa lòng. Nàng có nhớ tới những bức tượng đồng thanh nhã, những bức tượng nhỏ bằng sáp ong có mang chữ ký của anh mà nàng đã từng thấy trong phòng trưng bày ở Săngđơ Max hoặc ở nhà Đuyrăng Ruyen. Nhưng nàng không nghĩ bản thân anh có thể là người dễ ưa hay hấp dẫn hơn biết bao nghệ sĩ và người yêu chuộng nghệ thuật mà nàng từng chế giễu trong những bữa ăn thân mật ở nhà mình. Khi gặp nàng, anh làm nàng vui lòng và trong lòng nàng nảy ra cái ý nghĩ thanh thản là lôi cuốn anh, gặp gỡ anh. Hôm anh tới ăn tối, nàng nhận thấy mình có một mối cảm tình rất thanh nhã đối với anh và bản thân nàng lấy thế làm kiêu hãnh. Nhưng chẳng bao lâu, anh làm nàng hơi khó chịu: nàng sốt ruột thấy anh qu khép kín trong cuộc sống nội tâm và lưu ý quá ít đến nàng. Nàng muốn làm anh xao xuyến. Chính trong tâm trạng sốt ruột, bực dọc ấy và trong lúc cảm thấy cô đơn, nàng đã gặp anh một buổi tối trước dãy rào sát viện bảo tàng Tôn giáo và nói chuyện với anh về Ravennơ, về nữ hoàng ngồi trên ngai vàng trong ngôi mộ cổ. Nàng thấy anh nghiêm trang và duyên dáng, giọng nói sôi nổi, ánh mắt dịu dàng trong bóng đêm, nhưng quá xa lạ, quá ngăn cách. Nàng cảm thấy khó chịu và lúc đó, đứng bên dãy hoàng dương phía ngoài sân bảo tàng, nàng bối rối không biết có nên ngày ngày gặp anh hay không bao giờ nhìn thấy nhau nữa.
Từ khi gặp lại ở Phlôrăngx, nàng một mực thích thú cảm thấy anh gần mình, thích thú nghe anh nói. Anh làm cho đời nàng dễ chịu, đa dạng và vui tươi, mới mẻ, hoàn toàn mới mẻ. Anh tiết lộ với nàng những niềm vui tinh tế và những nỗi buồn sâu lắng trong tâm tưởng, đánh thức những khoái cảm tiềm ẩn trong con người nàng. Giờ đây, nàng quyết giữ lấy anh. Nhưng bằng cách nào? Nàng thấy trước khó khăn; đầu óc tỉnh táo và khí chất của nàng khiến nàng lường hết những khó khăn ấy. Có lúc nàng tìm cách tự lừa dối lòng mình: nàng nghĩ bụng có lẽ anh là người mơ mộng, bồng bột, lơ đãng, say mê nghiên cứu nghệ thuật, nên không cuồng nhiệt đối với phụ nữ, có lẽ anh vẫn ân cần mà không yêu sách. Nhưng ngay lập tức nàng lắc đầu - mái tóc đen nhánh xõa ra lấp lánh trên gối - nàng không muốn tin luồng suy tư ấy. Nếu Đơsactrơ không phải là một chàng trai đa tình thì anh không có gì hấp dẫn nàng nữa. Nàng không còn dám nghĩ tới tương lai. Mắt lim dim, nàng sống giờ phút hiện tại, sung sướng nhưng lo âu.
Nàng nằm mơ màng. Thỉnh thoảng, trong bóng đêm lóe lên những tia sáng. Bỗng Pôlin mang thư từ và trà sáng tới. Trên một chiếc phong bì ghi ngày gởi từ câu lạc bộ đường phố Hoàng gia, nàng nhận ra nét chữ viết nhanh và rõ ràng của Lơ Mênin. Nàng đinh ninh sẽ nhận được lá thư này, nhưng lại ngạc nhiên là cái phải xảy tới quả đã xảy tới, giống như lúc nàng còn nhỏ, chuông đồng hồ bất di bất dịch điểm giờ học pianô.
Trong thư, Rôbe có những lời lẽ trách nàng đúng mực. Vì sao nàng ra đi không nói nửa lời, không để lại một câu tạm biệt? Từ hôm trở về Pari, sáng nào anh cũng mong thư nhưng không thấy tới. Năm trước, anh sung sướng nhận được, lúc ngủ dậy, mỗi tuần hai ba lần, những lá thư hết sức dễ thương và tinh tế, anh tiếc không thể cho in lại được. Lo lắng, anh chạy đến nhà nàng.
“Anh sững sờ khi được tin em đã đi. Chồng em tiếp anh, nói với anh là nghe theo lời anh ấy, em đi nghỉ cho đến cuối đông tại Phlôrăngx, ở nhà cô Ben. Ít lâu nay, anh ấy thấy em xanh và gầy, và nghĩ rằng đi thay đổi không khí sẽ có lợi cho sức khỏe em không muốn đi; nhưng vì em ngày một thêm mệt mỏi nên cuối cùng anh ấy đã thuyết phục được em đi.
“Riêng anh thì không thấy em gầy yếu. Trái lại, anh thấy sức khỏe em không hề có gì đáng lo ngại. Vả chăng Phlôrăngx không phải là một nơi nghỉ đông tốt. Anh không hiểu tí nào việc em ra đi, lòng anh vô cùng day dứt. Em hãy nói cho anh yên tâm ngay, anh van em…
“Em có thể nghĩ là anh thích thú nhận được tin em qua chồng em và nghe anh ấy tâm tình hay sao? Anh ấy buồn về sự vắng mặt của em và lấy làm tiếc là phải ở lại Pari lúc này vì công vụ. Ở câu lạc bộ, anh nghe nói anh ấy có thể làm bộ trưởng kia đấy. Anh kinh ngạc vì người ta không quen chọn bộ trưởng trong đám người lịch lãm.”
Rồi anh kể chuyện đi săn. Anh có mang về cho nàng ba tấm da chồn, trong đó có một tấm rất đẹp, nó là tấm da một con chồn dũng cảm bị anh cầm đuôi lôi từ trong hang ra và quay lại cắn anh vào tay. “Dẫu sao, anh nói thêm, đấy là quyền của nó”.
Ở Pari, anh có những điều lo nghĩ. Người anh em họ của anh ra tranh cử. Anh sợ anh ta bị thiểu số. Nhưng danh sách ứng cử đã niêm yết. Anh không dám khuyên anh ta rút lui, trách nhiệm ấy quá lớn. Mặt khác, nếu thất bại thì quả là rất khó chịu. Cuối thư anh năn nỉ nàng cho biết tin tức và sớm trở về.
Đọc xong, nàng từ từ xé thư, ném vào lửa và nhìn thư bốc cháy, trong lòng dâng lên một nỗi buồn lạnh lùng và trong lúc mơ màng không lấy gì làm thích thú.
Dĩ nhiên, anh ấy có lý. Anh nói điều anh phải nói; anh phàn nàn đúng như anh phải phàn nàn. Trả lời anh thế nào đây? Tiếp tục gây gổ, hờn dỗi anh hay sao? Vừa qua thì quả là chuyện hờn dỗi, nhưng bây giờ! Nguyên nhân hờn dỗi nhau, nay đối với nàng đã trở nên hờ hững tới mức nàng phải suy nghĩ để nhớ lại. Ồ! Không, nàng không muốn giày vò anh nữa. Trái lại, nàng cảm thấy âu yếm đối với anh biết bao nhiêu! Thấy anh tin yêu mình, với một thái độ điềm tĩnh hết mực, nàng lấy làm buồn và kinh hãi. Riêng anh thì không thay đổi. Anh vẫn là người đàn ông trước kia. Còn nàng thì không còn là người đàn bà ngày nào nữa. Giờ đây họ bị ngăn cách bởi những cái vô hình nhưng mãnh liệt như ảnh hưởng của khí trời đem lại cuộc sống hay cái chết. Khi cô gái hầu phòng tới trang phục cho nàng, bức thư nàng viết vẫn chưa xong.
Trầm ngâm, nàng nghĩ bụng: “Anh ấy tin cậy mình. Anh ấy yên tâm”. Điều đó là nàng sốt ruột hơn cả. Nàng bực mình với những con người giản đơn không ngờ vực bản thân họ và cũng không ngờ vực người khác.
Bước vào phòng ngổn ngang những áo xống, nàng thấy Vivian Ben đang viết. Cô bảo nàng:
- Darling này, cô có biết tôi làm gì trong lúc chờ cô không? Không làm gì cả và làm tất cả. Làm thơ. Ồ, Darling, thơ ca phải là sự bộc bạch tự nhiên của tâm hồn.
Têredơ ôm hôn Ben, và kề đầu lên vai bạn, nàng hỏi:
- Xem được chứ?
- Ồ, Darling, mời cô xem. Những câu thơ viết theo mô hình dân ca Pháp đấy.
Và Têredơ đọc:
Nàng ném viên cuội trắng
Xuống đáy nước hồ sâu
Cuội chạm mặt sóng lặng
Thành vòng nhỏ lăn lăn
Nàng bồn chồn, đau khổ
Như thể vừa vứt bỏ
Vào đáy nước hồ sâu
Trái tim mình nặng trĩu.
- Thơ tượng trưng phải không, Vivian? Giảng cho tôi nghe nào.
- Ồ, Darling, vì sao lại giảng, vì sao? Một hình tượng thơ ca phải có nhiều nghĩa. Cô tìm thấy nghĩa nào thì đó là nghĩa thực sự đối với cô. Nhưng có một cái nghĩa hết sức rõ ràng my love 1. ạ: ấy là không nên nhẹ dạ bỏ đi những gì ta đã đặt vào tim ta.
Ngựa đã thắng vào xe. Như đã y ước, họ sẽ đến thăm phòng trưng bày mỹ thuật Anbectinenli theo đường Đơ Môrô. Hoàng thân Anbectinenli chờ họ, và Đơsactrơ sẽ đến gặp. Xe lăn bánh trên những tấm lát rộng trên lòng đường. Vivian Ben, với giọng líu lo, khẽ khàng bộc lộ niềm vui nghịch ngợm và kiểu cách của mình. Trong lúc xe chạy giữa những dãy nhà quét vôi màu hồng, màu trắng, những mảnh vườn bậc thang có những pho tượng và vòi nước, cô chỉ cho bạn ngôi biệt thự náu mình dưới những rặng thông xanh nhạt, nơi các bà mệnh phụ và các chàng kỵ sĩ trong Đêcamêrông 2. đến tránh nạn dịch hạch lúc đó đang tàn phá Phlôrăngx, và họ kể cho nhau nghe những câu chuyện phong tình, hài hước hay bi thảm. Ben thú nhận ý nghĩ hôm qua của mình:
- Darling này, hôm qua, cô đi Cacmin cùng Đơsactrơ và để bà Macmê ở lại Phidơn. Bà ấy là một bà già dễ chịu, ôn hòa và lịch sự. Bà biết nhiều giai thoại về những người danh giá ở Pari. Và khi kể những giai thoại ấy, bà làm giống như anh chàng đầu bếp Pampalôni của tôi lúc anh ta dọn món trứng lập là: anh ta không cho muối vào trứng mà chỉ để bình đựng muối bên cạnh. Bà Macmê nói rất dịu dàng. Bà cũng để “muối” trong ánh mắt bà. Giống như đĩa trứng của Pampalôni, my love ạ: mặn nhạt thế nào tùy ý mỗi người. Ồ! Tôi rất mến bà Macmê. Hôm qua, sau khi cô đi, tôi thấy bà ngồi một mình, rầu rĩ trong một góc phòng khách. Bà nghĩ tới chồng, một ý nghĩ tang tóc. Tôi nói với bà: “Bà có muốn tôi cũng nghĩ về ông nhà không? Tôi sẵn sàng cùng bà nghĩ về ông ấy. Người ta bảo ông là một nhà bác học, và là thành viên Hội Hoàng gia Pari. Bà Macmê, bà hãy nói cho tôi biết về ông nhà”. Bà trả lời tôi là ông ta đã toàn tâm toàn ý dành cả cuộc đời cho người Etruyri! Ồ, Darling này, thế là ngay lập tức, tôi quý mến kỷ niệm về ông Macmê, người chỉ lo toan cho người Etruyri. Và thế là tôi nảy ra một ý ngồ ngộ. Tôi bảo bà Macmê: “Ở Phidơn, trong lâu đài Prêtôriô, có một viện bảo tàng nhỏ về người Etruyri. Mời bà đến thăm với tôi! Bà có muốn không?” Bà đáp đó là điều bà muốn biết hơn cả trong toàn bộ nước Ý này. Hai chúng tôi đến lâu đài Prêtôriô; chúng tôi thấy tượng một con sư tử cái và nhiều tượng nhỏ đàn ông bằng đồng thau, kỳ cục, hoặc rất béo hoặc rất gầy. Người Etruyri là một dân tộc cực kỳ vui vẻ. Họ đúc những bức tượng hoạt kê bằng đồng thau. Nhưng những bức tượng nhỏ kỳ cục ấy, bức thì nặng nhọc bê cái bụng thê lê, bức thì sững sờ bày cả bộ xương ra, và bà Macmê nhìn ngắm chúng, ca ngợi chúng với một nỗi lòng xót xa. Bà chiêm ngưỡng chúng như thể… có một từ tiếng Phá rất hay tôi đang cố tìm… như thể chúng là những tấm bia kỷ niệm những chiến công của ông Macmê ấy.
Mactanh - Benlem mỉm cười. Nhưng âu sầu. Nàng thấy bầu trời ảm đạm, đường phố nhớp nháp, khách qua đường tầm thường.
- Ồ, Darling này, hoàng thân Anbectinenli sẽ rất sung sướng được đón tiếp cô trong lâu đài ông ta.
- Tôi không tin.
- Vì sao, Darling, vì sao?
- Vì tôi không hề làm ông ta hài lòng.
Vivian Ben khẳng định là trái lại. Anbectinenli là người rất ngưỡng mộ nữ bá tước Mactanh.
Xe ngựa dừng bánh trước lâu đài Anbectinenli. Mặt trước tòa nhà xám xịt, trang trí kiểu quê mùa, có gắn những cái vòng bằng đồng thau, xưa kia, trong những đêm hội hè, dùng để cắm những bó đuốc nhựa thông. Ở Phlôrăngx, những cái vòng ấy đánh dấu nhà ở của những gia đình có danh vọng lớn. Tòa lâu đài có một vẻ kiêu hãnh dữ dằn; phía trong, nó trống rỗng, buồn bã, im lìm. Hoàng thân Anbectinenli sốt sắng ra gặp khách, đưa họ đi qua các căn phòng không còn đồ đạc, đến tận phòng trưng bày. Ông ta xin được thứ lỗi vì phải giới thiệu những bức tranh chắc hẳn không được đẹp lắm. Phòng trưng bày do hồng y giáo chủ Giuylô Anbectinenli thiết lập vào thời kỳ người ta ưa chuộng phong cách của Lơ Ghidơ 3. và của anh em nhà Carasơ 4. - phong cách ấy ngày nay đã lạc hậu. Tổ phụ hoàng thân Anbectinenli lúc đó thích sưu tập tác phẩm của trường phái Bôlônhơ. Nhưng ông ta sẽ giới thiệu với nữ bá tước Mactanh vài bốn bức vẽ đã từng được cô Ben ưa thích, trong đó có một bức của Măngtênha 5.
Ngay từ đầu, nữ bá tước Mactanh nhận ra một phòng trưng bày bị cắt xén, một cái kho những kiệt tác giả hiệu bán, những bức tranh cho các nhà hoạt động tài chính, như những bức trước kia thân sinh nàng đã được người ta mời mọc rất nhiều lần và đã bị ông khước từ vì tranh chỉ nhằm kinh doanh và thiếu thẩm mỹ.
Một người hầu phòng đến trình một tấm danh thiếp.
Anbectinenli đọc to lên cái tên Giăc Đơsactrơ. Lúc đó đang đứng quay lưng lại hai vị khách nữ, nét mặt Anbectinenli lộ vẻ bất bình một cách dữ tợn, vẻ bất bình chỉ thấy trên những bức tượng các hoàng đế La Mã bằng cẩm thạch. Đơsactrơ đứng trên bậc tam cấp chính giữa.
Anbectinenli bước ra gặp anh với một nụ cười rầu rĩ.
- Chính bản thân tôi, hôm qua, đã mời ông Đơsactrơ tới lâu đài Anbectinenli đấy! - Ben nói - Tôi biết sẽ làm anh vui lòng. Ông ấy muốn được xem phòng trưng bày của anh.
Và quả là Đơsactrơ muốn có mặt ở đây cùng với bà Mactanh. Bây giờ, cả bốn người đi giữa các tác phẩm của Lơ Ghidơ và của Anbanơ 6.
Ben nói líu lo với Anbectinenli những điều thú vị về tượng những ông già và những cô gái đồng trinh này; những tấm áo choàng trên tượng như bị một cơn giông bão vô hình lay động. Đơsactrơ âu sầu, cau có, bước tới bên cạnh Têredơ và hạ thật thấp giọng nói với nàng:
- Phòng trưng bày này là cái kho chứa những thứ cặn bã trong cửa hiệu các nhà buôn tranh trên khắp thế giới. Và ông hoàng này bán ở đây những thứ mà trước kia người Do Thái không bán được.
Anh đưa nàng tới trước một bức tượng Thánh tộc bày trên một cái giá phủ nhung xanh và trên đường viền có khắc tên Miken-Lănggiơ.
- Tôi đã từng thấy bức tượng Thánh tộc này ở các hiệu buôn ở Luân Đôn, ở Balơ, ở Pari. Vì các chủ hiệu không bán được hai mươi lăm đồng lui 7. - theo đúng giá trị của chúng nên họ giao cho anh chàng con cháu cuối cùng của dòng Anbectinenli này đòi người ta trả giá năm mươi nghìn phrăng.
Thấy hai người thì thầm và đoán khá rõ họ nói gì, Anbectinenli bước tới gần, vẻ rất duyên dáng:
- Có một bản sao phỏng bức tranh này mà người ta bày bán hầu như ở khắp nơi. Tôi không khẳng định bức này là nguyên bản. Nhưng từ xưa nó vẫn ở trong gia đình chúng tôi, và các bản mục lục cũ cho nó là sản phẩm của Miken-Lănggiơ. Tôi chỉ có thể nói đến thế.
Rồi quay trở lại với Ben lúc đó đang đi tìm công trình của các nghệ sĩ trước thời Phục hưng.
Đơsactrơ tỏ vẻ bứt rứt. Từ tối hôm qua, anh luôn luôn nghĩ tới Têredơ. Suốt đêm hình ảnh nàng làm anh thao thức. Giờ đây, anh vẫn thấy nàng dịu dàng nhưng dịu dàng một cách khác và còn khêu gợi ham muốn hơn cả đêm qua anh mơ thấy nàng trong khi thao thức. Giờ đây, không còn cái hình ảnh mờ nhạt và bập bềnh nữa mà là một sự khêu gợi nhục cảm sắc hơn, mạnh hơn, da diết hơn, và cũng một tâm hồn thầm kín hơn, bí ẩn hơn. Nàng buồn; anh cảm thấy nàng lạnh lùng và lơ đãng. Anh nghĩ bụng mình không là gì hết đối với nàng, mình trở thành một kẻ quấy rầy và lố bịch. Anh buồn bực. Giọng chua chát, anh thầm thì bên tai nàng:
- Tôi đã suy nghĩ. Tôi đã không muốn tới. Thế mà không hiểu vì sao tôi lại tới.
Nàng hiểu ngay anh muốn nói gì, hiểu rằng giờ đây anh sợ nàng, anh sốt ruột, nhút nhát và vụng về. Thái độ đó làm nàng thích thú và nàng thầm cảm ơn anh đã khiến lòng nàng rạo rực, ham muốn.
Tim nàng đập rộn ràng. Nhưng giả vờ hiểu là anh phàn nàn mất công vô ích vì những bức tranh chẳng ra gì, nàng trả lời anh là quả phòng trưng bày không có gì thú vị. Lúc nãy lo sợ làm nàng không vừa lòng, giờ đây anh yên tâm và tin rằng vì thờ ơ và lơ đãng, quả thực nàng đã không nắm được thanh điệu lẫn ý nghĩa của lời nói anh lỡ thốt ra.
Anh nói tiếp:
- Không, không có gì thú vị.
Vì giữ hai vị khách nữ ở lại ă cũng mời anh bạn của họ cùng ở lại. Đơsactrơ cáo từ. Anh soạn sửa ra về thì bỗng thấy mình đứng một mình với bà Mactanh trong gian phòng khách lớn vắng vẻ, trên các giá kê có đặt những cái hộp của các cửa hiệu mứt kẹo. Lúc nãy, anh có ý định trốn tránh nàng; giờ đây, anh chỉ muốn được gặp lại nàng. Anh nhắc nàng là ngày mai, nàng phải đến thăm Bacgiênô 8.
- Bà đã vui lòng cho phép tôi cùng đi.
Nàng hỏi anh có thấy nàng hôm nay là người âu sầu, khó chịu không. Ồ! Không, anh không thấy nàng khó chịu, nhưng hình như anh thấy nàng có đượm chút buồn.
- Than ôi! - Anh nói thêm, - những niềm vui, nỗi buồn của bà, tôi đâu được quyền biết đến.
Nàng lướt nhìn anh với một ánh mắt thoáng qua, hầu như nghiêm khắc.
- Ông không nghĩ là tôi sắp xem ông là người tâm tình chứ?
Chú thích:

1.

Tiếng Anh: Người yêu của tôi.

2.

Tập truyện ngắn của nhà văn Italia Bôcaxơ.

3.

Họa sĩ Italia, thế kỷ 16 - 17.

4.

Ba anh em Carasơ, họa sĩ Italia sinh ở Bôlônhơ, thế kỷ 16 - 17.

5.

Họa sĩ và nhà điêu khắc Itallia, thế kỷ 15 - 16, một trong những người khởi xướng nền Phục hưng Italia.

6.

Họa sĩ Italia, thế kỷ 16 - 17.

7.

Đồng tiền vàng ngày xưa của Pháp, giá trị 20 phrăng.

8.

Bảo tàng Quốc gia Italia

XIII. Sau bữa ăn tối, trong phòng khách để đầy chuông lớn, chuông bé, bà Macmê ngồi trước lò sưởi, ôm một con meo trắng trên đầu gối. Bị những cái tán đèn to tướng che khuất, ánh sáng đèn chỉ rọi lờ mờ lên mấy pho tượng Đức bà thành Xiênnơ với đôi bàn tay thon thả. Buổi tối mát trời. Bà Mactanh tươi cười, sung sướng tuy có mệt mỏi sau buổi dạo chơi, ánh mắt như còn in dấu bầu trời thoáng đãng và những hàng cây sum suê hai bên đường. Nàng cùng với Ben, Đơsactrơ và bà Macmê đến thăm tu viện Ema. Và giờ đây, say sưa ảo ảnh, nàng quên hết những nỗi ưu tư ngày hôm trước, những lá thư đến không đúng lúc, những lời trách móc kín đáo trong thư. Nàng chỉ còn thấy những căn buồng khắc chạm và vẽ hình trong tu viện với một giếng nước giữa thảm cỏ ngoài sân, những xóm làng mái ngói đỏ tươi và những con đường báo hiệu mùa xuân trong khi nàng lắng nghe những lời ca ngợi như vuốt ve, mơn trớn. Đơsactrơ vừa nặn một bức tượng Bêatrix 1. nhỏ xíu bằng sáp ong cho Ben. Còn Ben thì ngồi vẽ hình các thiên thần. Hoàng thân Anbectinenli cúi xuống nhìn, dáng điệu mềm mại, tay mân mê râu cằm và nhìn ra xung quanh, ánh mắt phong tình.
Giải đáp một ý nghĩ của Vivian Ben về hôn nhân và tình yêu, anh nói:
- Người đàn bà phải chọn. Họ không thể tĩnh tâm với một người đàn ông được phụ nữ yêu mến; nhưng với một người đàn ông không được phụ nữ ái mộ thì họ lại không có hạnh phúc.
- Darling, - Ben hỏi - cô sẽ chọn cái gì cho một người bạn thân?
- Tôi mong sao bạn tôi có hạnh phúc và tôi cũng mong sao bạn tôi được tĩnh tâm, Vivian ạ. Bạn ấy có thể tĩnh tâm khi khinh thị sự phản phúc, những nỗi lòng ngờ vực đến ô nhục, những sự nghi kỵ hèn hạ.
- Nhưng ông hoàng bảo một người đàn bà không thể vừa có hạnh phúc vừa có thể tĩnh tâm kia mà. Vậy Darling, hãy nói cho tôi biết bạn cô nên chọn cái gì. Darling, hãy nói, nói đi nào!
- Người ta không chọn, Vivian ạ, người ta không chọn đâu. Cô đừng để tôi nói tôi suy nghĩ như thế nào về hôn nhân.
Đúng lúc đó, Sulet xuất hiện, vẻ ngạo nghễ như một lão hành khất ở cửa ô các thành phố cổ. Ông ta vừa mới chơi bài với những người nông dân trong một quán rượu ở Phidơn.
- Sulet về kia! - Ben bảo - Ông ấy sẽ chỉ bảo chúng ta nên suy nghĩ như thế nào về hôn nhân. Tôi sẵn sàng nghe ông như nghe một nhà tiên tri. Ông ta không thấy những điều chúng ta thấy, nhưng lại thấy những điều chúng ta không thấy. Thưa ông Sulet, ông nghĩ thế nào về hôn nhân?
Sulet ngồi xuống ghế và giơ lên trời một ngón tay với vẻ Xôcrat 2.:
- Thưa cô, cô muốn nói sự hôn phối được tổ chức trọng thể giữa người đàn ông và người đàn bà phải không? Nếu thế thì đó là một lễ thánh. Do vậy hầu như bao giờ đó cũng là một sự phạm thánh. Còn hôn nhân hợp pháp, thì là một thủ tục. Tầm quan trọng mà xã hội chúng ta gán cho nó là một trò ngờ nghệch có thể làm trò cười cho phụ nữ trong Chế độ Cũ. Tiền lệ đó cũng như bao tiền lệ khác, chúng ta phải chịu là do sự sôi nổi của giới trưởng giả, sự bồng bột của các nhà tài chính và của các vị quan tòa, cái mà người ta gọi là Cách mạng và hình như được những kẻ sống vì nó hết lời ca ngợi. Nó chính là mụ Gigônhơ 3. mẹ đẻ của những trò ngu ngốc. Từ một thế kỷ nay, hàng ngày từ những chiếc váy tam tài của mụ ta, đã ra đời không biết bao nhiêu những sự dại dột khác. Thực ra, hôn nhân hợp pháp cũng chỉ là một việc đăng ký, như biết bao việc đăng ký khác của Nhà nước để đảm bảo địa vị của công dân: bởi vì trong một quốc gia có tổ chức, mỗi người phải có tấm phiếu của mình. Và trước Chúa, mỗi tấm phiếu đều có giá trị như nhau. Về mặt tinh thần, việc ghi tên trong sổ đăng ký cũng khó có khả năng xúi giục một người đàn bà có chồng đi ngoại tình. Có ai nghĩ tới chuyện phản lại lời thề của mình trước mặt ông thị trưởng? Phải là một người đàn bà kính tin mới dám thưởng thức cái thú vui ngoại tình.
- Nhưng thưa ông, - Têredơ nói - chúng tôi đều làm lễ cưới ở nhà thờ cả đấy.
Rồi, giọng chân thành, nàng nói tiếp:
- Tôi không hiểu vì sao một người đàn ông lại kết hôn cũng như vì sao một người đàn bà lại có thể làm cái việc điên rồ ấy vào cái tuổi mà người ta đã hiểu biết điều mình làm.
Anbectinenli nhìn nàng, vẻ ngờ vực. Tuy là người tinh tế, anh vẫn hoàn toàn không thể quan niệm người ta có thể nói không mục đích, một cách vô tư và để biểu đạt những ý tưởng chung chung. Anh hình dung nữ bá tước Mactanh-Benlem đã khám phá ra và muốn cản trở những dự định của anh. Nghĩ tới cách tự vệ và trả thù, anh nhìn nàng ra vẻ dịu dàng và nói, giọng thanh nhã âu yếm:
- Thưa bà, bà tỏ rõ niềm kiêu hãnh của các thiếu phụ Pháp xinh đẹp và thông minh, không chịu cảnh áp chế. Phụ nữ Pháp yêu tự do, và không một ai trong số họ xứng đáng với điều đó hơn bà. Bản thân tôi có sống ít nhiều ở Pháp. Tôi đã được làm quen và tôi khâm phục cuộc sống Pari thanh lịch, các khách thính, hội hè, những buổi đàm và các trò chơi. Còn chúng tôi, trong cảnh rừng núi, dưới những rặng ô liu, chúng tôi lại trở thành những kẻ quê mùa. Chúng tôi lấy lại những phong tục thôn dã, và đối với chúng tôi, hôn nhân là một cuộc giao duyên hết sức tươi mát.
Vivian Ben ngắm nhìn bức tượng mẫu Đơsactrơ để lại trên bàn và nói:
- Ồ, quả Bêatrix ngày trước là như thế, tôi tin chắc làm vậy. Ông Đơsactrơ này, ông có biết là có những kẻ độc ác nói rằng không hề có Bêatrix không?
Sulet tuyên bố ông ta nằm trong số ấy. Ông ta không tin Bêatrix quả có tồn tại cũng như không tin sự tồn tại của những người phụ nữ khác mà các thi sĩ tình yêu ngày trước dùng hình ảnh để thể hiện một tư tưởng kinh viện nào đó, tinh vi đến lố bịch.
Bất bình về những lời ngợi khen cuồng nhiệt mà mình không được nhận bao giờ, ganh tị với Đăngtơ cũng như với cả thiên hạ, vả chăng lại là một học giả rất tinh tế, ông ta cho lời bênh vực của Ben là không thỏa đáng nên phản công:
- Tôi cho là cô em gái ấy của các thiên thần chỉ sống trong trí tưởng tượng lạnh lùng của Đăngtơ, nhà thơ kiệt xuất, mà thôi. Chưa kể hình như đó chỉ là một lối phúng dụ đơn thuần, hay đúng hơn, một bài tập tính và một đề tài chiêm tinh học. Đăngtơ - chúng ta nói riêng với nhau - là một bác sĩ giỏi ở Bôlônhơ và có nhiều ý nghĩ điên rồ trong đầu, dưới chiếc mũ vải hình vuông, ông ta tin vào năng lực các con số. Nhà hình học sôi động ấy mơ màng trên những con số, và nàng Bêatrix của ông là một bông hoa số học. Chỉ có thế thôi!
Sulet châm tẩu thuốc.
Vivian Ben phản đối:
- Ồ! Ông đừng nói thế, ông Sulet. Ông làm tôi buồn đấy và nếu ông bạn Gơba 4. chúng ta nghe được thì ông ấy sẽ rất giận ông đấy. Để phạt ông, ông hoàng Anbectinenli sẽ đọc cho ông nghe bản thánh ca trong đó Bêatrix giảng giải những vết lốm đốm trên mặt trăng. Anh Ôxơbiô, mời anh cầm lấy cuốn Hài kịch thần thánh. Quyển sách bìa trắng anh thấy ở trên bàn ấy. Mời anh đọc.
Trong khi Anbectinenli đọc sách dưới ánh đèn thì Đơsactrơ ngồi trên tràng kỷ cạnh nữ bá tước Mactanh. Anh thì thầm say sưa ca ngợi Đăngtơ là nhà thơ khắc họa tinh tế nhất. Anh nhắc lại bức tranh nàng cùng anh xem hai hôm trước ở Xăngta Maria, bức chân dung nhà thơ trên mũ có vạnh nguyệt quế trong quang cảnh thành phố Phlôrăngx. Chừng ấy là đủ ể ca ngợi người nghệ sĩ. Nhưng nàng không nhận ra được gì hết, nàng không xúc động. Và nàng thú nhận: Đăngtơ quá âu sầu không hấp dẫn nàng. Vốn quen thấy nàng chia sẻ mọi ý kiến của mình về nghệ thuật và thơ ca, Đơsactrơ ngạc nhiên và có phần bất bình. Anh cao giọng nói:
- Có những cái vĩ đại và hùng tráng bà không cảm nhận được.
Ngẩng cao đầu, Ben hỏi những cái Darling không cảm nhận được ấy là những cái gì, và khi nghe nói đấy là thiên tài của Đăngtơ thì kêu toáng lên với một vẻ giận dữ giả đò:
- Ồ! Cô không tôn kính người cha, người thầy xứng đáng với mọi lời ca ngợi, vị giang thần ấy hay sao? Tôi không yêu cô nữa đâu, Darling ạ. Tôi ghét cô lắm.
Và như thể để trách cứ Sulet và nữ bá tước Mactanh, Ben kể lại tấm gương kính tín của một công dân Phlôrăngx cầm những cây nến thắp trên bàn thờ Chúa Giêsu và mang lại trước bức tượng bán thân của Đăngtơ.
Anbectinenli tiếp tục đọc thơ:
Ta thấy trong nàng viên ngọc vĩnh hằng.
Đơsactrơ khăng khăng muốn làm cho Têredơ ca ngợi những điều nàng không biết. Dĩ nhiên anh có thể dễ dàng hy sinh Đăngtơ và tất cả các thi sĩ với toàn bộ vũ trụ. Nhưng nàng ngồi cạnh anh, thản nhiên và khơi gợi, vẻ đẹp tươi mát của nàng mê hoặc anh, khích động anh mà nàng không hay biết. Anh khăng khăng muốn nàng chia sẻ những ý kiến, những niềm say mê nghệ thuật, cho đến cả những sở thích nhất thời, thoáng qua của anh nữa. Hạ thấp giọng xuống, anh thúc ép nàng với những lời lẽ hàm súc, có phần trêu chọc. Nàng bảo:
- Lạy Chúa! Ông dữ dằn quá đấy!
Thế là anh ghé sát tai nàng và nói vi một giọng sôi nổi mà anh cố kìm bớt lại:
- Bà cần hiểu tôi với cả tâm hồn tôi. Tôi sẽ không sung sướng nếu tranh thủ được bà với một tâm hồn xa lạ.
Lời nói làm Têredơ khẽ rùng mình cả vì sợ hãi lẫn sung sướng.
Chú thích:

1.

Người con gái Phlôrăngx lừng danh, thế kỷ 13, nhân vật bất hủ trong tác phẩm Hài kịch Thần thánh của văn hào Italia Đăngtơ.

2.

Nhà triết học Hy Lạp lừng danh, thế kỷ 4 trước C. N.

3.

Nhân vật sân khấu, thế kỷ 17, một người đàn bà khổng lồ sinh ra cùng một lúc một đám con lúc nhúc.

4.

Nhà thơ Pháp có nhiều sáng tác về Italia, thế kỷ 19.

XIV. Hôm sau, khi ngủ dậy, nàng định bụng viết thư trả lời Rôbe. Trời mưa. Nàng uể oải nghe mưa rơi tí tách. Chu đáo và tinh tế, Vivian Ben đã đặt lên mặt bàn cả một thếp giấy trang nhã, tờ thì trắng mịn như giấy trong Kinh thánh, tờ lại phơn phớt tím lấm chấm màu tro bạc; những chiếc ngòi bút bằng xenluloit trắng và nhẹ phải dùng như dùng bút vẽ; một thứ mực óng ánh, khi viết lên mặt giấy thì có cả màu thanh thiên lẫn màu vàng rực. Têredơ bực mình với những thứ tinh tế và cầu kỳ ấy, chúng không thích hợp với một lá thư mà nàng muốn viết đơn sơ và kín đáo. Nhìn thấy từ “bạn” dùng để gọi Rôbe trong dòng thư đầu tiên lấp lánh trên mặt giấy bạc và biến thành màu xanh biếc như màu lông cổ chim bồ câu và màu trắng lóng lánh như màu xà cừ, nàng nở một nụ cười nửa miệng. Những câu đầu tiên, nàng viết một cách khó khăn. Nàng viết vội phần sau, nói nhiều về Vivian Ben và về ông hoàng Anbectinenli, chút ít về Sulet, nói nàng có gặp Đơsactrơ ghé qua Phlôrăngx. Nàng ca ngợi mấy bức tranh ở các viện bảo tàng, nhưng viết không mấy hào hứng và chỉ cốt lấp cho đầy trang giấy. Nàng biết Rôbe không ưa thích gì hội họa và anh chỉ khen độc một bức tranh nhỏ vẽ một kỵ binh của họa sĩ Đơtay 1. mua ở hiệu Gupin. Nàng nhớ lại bức vẽ kỵ binh ấy một hôm anh kiêu hãnh chỉ cho nàng xem, trong buồng ngủ, bên cạnh tấm gương, dưới các bức chân dung của gia đình. Tất cả cái đó, trong ký ức xa xăm, hiện ra tủn mủn, chán ngấy, buồn bã. Kết thúc bức thư là những từ ngữ thân ái, và dịu dàng không có gì là giả tạo. Bởi vì nàng chưa bao giờ thực sự cảm thấy yên tĩnh và khoan dung đến mức này đối với Rôbe. Viết bốn trang thư, nhưng nàng chẳng nói bao nhiêu và lại càng để cho anh hiểu ít hơn. Nàng chỉ bảo nàng có thể ở lại một tháng ở Phlôrăngx, không khí ở đây rất tốt với đối với nàng. Nàng viết tiếp thư cho bố, cho chồng và cho quận chúa Xơniavin. Nàng cầm thư bước xuống thang gác. Bước vào tiền sảnh, nàng bỏ ba bức lên chiếc khay bạc dùng để đựng thư từ đưa đi bưu điện. Nghi ngại cặp mắt hay dò xét của bà Macmê, nàng chuồi vào trong ví xách tay lá thư viết cho Lơ Mênin, để trong lúc dạo chơi gặp thùng thư ở đâu thì bỏ ở đấy.
Hầu như ngay sau đó, Đơsactrơ đến mời ba bà bạn đi phố. Đứng chờ trong tiền sảnh, anh nhìn thấy ba bức thư trên khay.
Anh không tin thuật xét đoán tâm hồn qua chữ viết nhưng nhạy cảm với hình dạng con chữ như với một thứ hình vẽ có tính trang nhã riêng của nó. Chữ viết của Têredơ làm anh say sưa vì nó khiến anh nghĩ tới nàng và nó như một thứ thánh tích mới mẻ; anh cũng thưởng thức lỗi viết rất mực chân phương, nét bút táo bạo và giản dị. Anh ngắm nhìn địa chỉ trên thư nhưng không đọc, với một niềm say mê nhục cảm.
Sáng hôm ấy, họ đến thăm viếng nhà thờ Xanhtơ-Mari-Nouven mà trước đó nữ bá tước Mactanh đã đến xem cùng với bà Macmê. Nhưng Ben trách họ đã không chú ý xem chân dung Ginevra của Benxi 2. trên một bức tranh tường ở chỗ hát kinh trong giáo đường. “Phải đến xem bộ mặt tươi mát ấy - cô ta nói - trong ánh sáng ban mai tươi mát”. Trong lúc nữ sĩ Ben và Têredơ chuyện vãn thì Đơsactrơ bước theo bà Macmê, kiên nhẫn nghe bà kể những giai thoại về các viện sĩ hàn lâm ăn tối ở nhà các vị phu nhân trang nhã; và anh chú ý tới niềm băn khoăn của bà đã mấy ngày nay, bà thiết tha muốn mua một tấm mạng che mặt bằng tuyn. Ở Phlôrăngx, bà không tìm được tấm nào hợp với ý thích trong các cửa hiệu. Bà luyến tiếc đường phố Lơ Băc…
Ra khỏi nhà thờ, họ đi ngang qua cửa hàng người thợ giày mà Sulet đã nhận làm thầy. Ông lão đang vá những chiếc giầy thô kệch. Bên cạnh ông, cây hoắc hương vươn cao cái ngọn xanh rờn và con chim sẻ có chiếc chân gỗ thì kêu chiếp chiếp.
Bà Mactanh hỏi thăm sức khỏe và việc làm của ông lão, hỏi ông có mãn nguyện không. Ông trả lời bằng tiếng “có” duyên dáng của người Ý, khẽ thốt ra từ khoang miệng đã rụng hết răng. Nàng hỏi chuyện ông về con chim sẻ. Thì ra một hôm con vật tội nghiệp trụng chân vào nhựa thông đang sôi sùng sục.
- Tôi làm cho chú ta một cái chân gỗ bằng que diêm, và chú lại đậu trên vai tôi như xưa.
- Chính ông già tốt bụng này, - Ben nói - dạy không cho ông Sulet. Ở Aten, có một bác thợ giày tên là Ximông viết sách triết học và là bạnXôcrat. Tôi luôn luôn thấy Sulet giống Xôcrat.
Têredơ muốn biết tên, biết chuyện ông lão thợ giày. Ông cho biết tên là Xêraphinô Xtôppini, quê ở Xchia. Cho đến già, cuộc đời ông vẫn vất vả.
Ông nâng kính lên trán, để lộ cặp mắt xanh rất hiền từ và hầu như không còn khí sắc dưới hai mí mắt đỏ hoe:
- Trước kia, tôi có vợ, có con; nay thì không còn nữa. Trước kia, tôi biết những cái mà nay tôi không biết nữa.
Bà Macmê và Ben đi tìm mua mạng che mặt.
“Trên đời, - Têredơ thầm nghĩ - ông lão chỉ có ít dụng cụ, một nắm đinh, cái khay để trụng da và một cái chậu trồng hoắc hương, thế nhưng ông lão vẫn sung sướng”.
Nàng nói với ông:
- Cây hoắc hương này có mùi thơm và chắc sẽ sớm nở hoa.
Ông lão đáp:
- Nếu cái cây bé nhỏ tội nghiệp này nở hoa thì nó sẽ chết.
Từ giã ông lão ra về, Têredơ để lại trên bàn một đồng tiền.
Đơsactrơ đi cạnh nàng. Thái độ nghiêm trang, hầu như nghiêm khắc, anh nói với nàng:
- Bà biết?…
Nàng nhìn anh, chờ đợi.
Anh nói tiếp:
-… là tôi yêu bà không?
Nàng lặng im, đăm đăm nhìn anh, hai hàng mi chớp chớp trên đôi mắt xanh trong. Rồi gật đầu ra hiệu là “có”. Và anh không tìm cách giữ nàng lại, nàng bước đến gặp bà Macmê và Ben đang đứng ở cuối phố.
Chú thích:

1.

Họa sĩ Pháp, thế kỷ 19, chuyên vẽ về đề tài quân sự.

2.

Kiến trúc sư Italia, thế kỷ 14, người tham gia công trình xây dựng nhà thờ Phlôrăngx.

XV. Chia tay Đơsactrơ, Têredơ cùng với bà Macmê và Ben đến ăn trưa ở nhà một bà già quý tộc ở Phlôrăngx, người yêu của Victo-Emanuen 1. lúc còn là công tước miền Xavoa. Đã ba chục năm nay, bà chưa hề bước ra khỏi lâu đài bên dòng sông Acnô.
Bà đánh phấn, trang điểm, đầu đội bộ tóc giả màu tím và chơi ghita trong những căn phòng quét vôi trắng rông thênh thang. Bà tiếp giới thượng lưu Phlôrăngx, và Ben thường tới thăm bà. Trong bữa ăn, bà cụ ẩn dật tám mươi bảy tuổi ấy hỏi nữ bá tước Mactanh về nữ giới Pari mà bà có theo dõi qua báo chí và trong những buổi chuyện vãn. Vẻ phù phiếm của bà trong lúc hỏi han trở nên trang nghiêm do tuổi tác. Sống một mình, bà cụ vẫn tôn sùng khoái lạc.
Ra khỏi lâu đài, để tránh luồng gió lạnh trên sông, Ben dẫn hai người bạn đi theo những đường phố hẹp cũ kỹ với những ngôi nhà xây bằng đá đen; cuối đường bỗng xuất hiện chân trời và một ngọn đồi với ba thân cây mảnh mai trong bầu không khí trong lành. Họ tiếp tục cất bước và Vivian chỉ cho bạn, trên những mặt ngoài xấu xí của các ngôi nhà, nơi vắt lủng lẳng những thứ quần áo rách rưới, một viên đá cẩm thạch, một bức tượng Đức bà, một bông huệ, một tượng nữ thánh Catơrin đặt trong một cái khảm bằng vỏ sò trong tường. Họ đi bộ, qua những đường phố hẹp ấy của chốn cố đô, cho tới nhà thờ Ô Man Misen, nơi Đơsactrơ sẽ đến gặp họ. Giờ đây, Têredơ nghĩ tới anh, với một mối quan tâm thực sự. Bà Macmê thì muốn tìm mua một chiếc mạng. Ben bảo bà có thể tìm mua ở phố Coocxô. Câu chuyện mua mạng làm bà nhớ lại một trường hợp đãng trí của ông Lagrănggiơ. Một hôm, trong một buổi tối giảng bài, từ trên diễn đàn, Lagrănggiơ rút từ túi áo ra một chiếc mạng lấm chấm vàng để lau trán, đinh ninh đó là chiếc mùi soa. Thính giả kinh ngạc và rì rầm. Đấy là tấm mạng tối hôm trước cô cháu Gian Misô gửi ông trong khi hai bác cháu đi dự hòa nhạc. Và bà Macmê giảng giải: Lagrănggiơ tìm thấy mạng trong túi áo khoác nên mang nó theo để trả lại cho cháu, không ngờ vô ý, ông đã rút mạng ra huơ lên trước cử tọa, khiến không ai nhịn cười được.
Nghe nhắc tới cái tên Lagrănggiơ, Têredơ bỗnggôi sao rực cháy theo dự báo của nhà bác học này. Nàng vừa âu sầu vừa nghịch ngợm nghĩ bụng đã đến lúc ngôi sao ấy làm công việc tận thế của nó để cho nàng thoát khỏi cảnh bối rối. Nhưng phía trên dãy tường kiểu cách của ngôi nhà thờ cổ, nàng nhìn thấy bầu trời khô khốc vì gió biển, và sáng lên một màu xanh nhạt đầy vẻ uy hiếp. Ben chỉ cho nàng một pho tượng đồng đặt trong chiếc khảm có khắc chạm trong số tượng trang trí mặt trước nhà thờ.
- Darling xem, bức tượng thánh Giooc kia trẻ trung và oai hùng biết chừng nào. Thuở trước, thánh Giooc là chàng hiệp sĩ mà các cô gái hằng mơ tưởng. Và cô có biết là khi nhìn thấy Rômêô, Giuyliet đã thốt lên: “Quả là một thánh Giooc xinh đẹp!” không?
Nhưng Darling thấy tượng có vẻ đứng đắn, khó chịu và bướng bỉnh. Lúc đó, nàng bỗng nghĩ tới bức thư vẫn nằm trong ví.
Hình như ông Đơsactrơ kìa! - Bà Macmê lên tiếng.
Anh đi tìm họ trong nhà thờ, trước bàn thờ của Ooccanha 2. Chắc hẳn anh không thể quên sự hấp dẫn không sao cưỡng nổi của tượng thánh Gioocgiơ của Đônatenlô 3. đối với Ben. Anh cũng chiêm ngưỡng bức tượng nổi tiếng này, nhưng vẫn giữ một tình cảm đặc biệt đối với tượng thánh Mac, mộc mạc và thẳng thắn trong chiếc khảm bên trái phía con đường nhỏ có bức tường chống đồ sộ dựa vào ngôi nhà cũ kỹ của những người thợ chải len ngày trước.
Tới gần, Têredơ thấy một thùng thư ở tường trên con đường hẹp đối diện với tượng. Còn Đơsactrơ đứng ở chỗ thích hợp để ngắm tượng và say sưa nói:
- Vừa đến Phlôrăngx là trước tiên tôi đến thăm tượng. Tôi chỉ bỏ lỡ cơ hội có một lần. Chắc hẳn Đức thánh sẽ tha thứ cho tôi: Ngài là một con người tuyệt vời. Tượng không được quần chúng ưa chuộng và chú ý. Riêng tôi, tôi thích xem tượng. Tượng mới thật sống động. Tôi hiểu là sau khi làm cho bức tượng có hồn, Đônatenlô đã thốt lên: “Mac, vì sao tượng không nói đi?”
Chán ngắm tượng thánh Mac và thấy rát mặt vì gió lạnh, bà Macmê kéo Ben đi về phố Candaiôli để tìm mua mạng.
Cả hai người ra đi, để Darling và Đơsactrơ đứng lại ngắm bức tượng. Họ sẽ gặp lại nhau ở cửa hiệu bán thời trang.
- Tôi yêu, - Đơsactrơ nói tiếp - tôi yêu tượng thánh Mac này vì tôi cảm nhận rõ hơn so với tượng thánh Gioocgiơ, bàn tay và tâm hồn Đônatenlô, một người thợ giỏi và tội nghiệp suốt cả cuộc đời. Hôm nay, tôi lại càng yêu tượng hơn vì với vẻ chất phác đáng kính làm xúc động lòng người, tượng làm tôi nghĩ tới ông cụ thợ giày ở Xanta Maria Nôvenla mà sáng nay bã đã tiếp chuyện hết sức dịu dàng.
- A! - Nàng nói - Tôi không nhớ tên ông cụ nữa. Cùng với ông Sulet, chúng tôi gọi cụ là Căngtanh Matxix 4. vì cụ giống hình vẽ các ông già của nhà họa sĩ này.
Hai người quành qua góc nhà thờ để nhìn mặt trước, đối diện với ngôi nhà thợ chải len. Ở mặt trước ấy, dưới ôvăng ngói đỏ tươi, có đắp tấm phù đi u hình một chú cừu non. Têredơ chợt trông thấy cái thùng thư bụi bặm và han rỉ tới mức tưởng chừng người đưa thư chưa bao giờ lại gần. Nàng chuồi thư vào thùng, dưới ánh mắt ngây thơ của tượng thánh Mac.
Đơsactrơ nhìn thấy lá thư và cảm thấy lồng ngực như dội lên. Anh cố nói, cố cười, nhưng bàn tay đi găng bỏ thư vào thùng vẫn hiển hiện trước mặt. Anh nhớ lại sáng nay có thấy những bức thư của Têredơ trên chiếc khay trong tiền sảnh. Vì sao nàng không để bức thư này cùng với những bức kia? Không khó gì đoán ra lý do.
Anh đứng im, trầm ngâm, nhìn mà chẳng thấy gì. Anh tìm cách tự trấn tĩnh: có thể là một bức thư không quan trọng nhưng nàng muốn tránh cặp mắt tò mò khó chịu của bà Macmê.
- Ông Đơsactrơ, có lẽ đã tới lúc chúng ta đến gặp hai bà bạn ở cửa hiệu thời trang đường Coocxô rồi đấy.
Phải chăng nàng viết cho bà Sơmôn là người đã có mối bất hòa với bà Macmê? Nhưng ngay lập tức anh thấy điều mình giả định thật
Rõ ràng quá rồi! Nàng có người yêu. Nàng viết thư cho người đó. Có thể nàng viết: “Hôm nay em gặp Đơsactrơ, anh chàng tội nghiệp ấy say mê em”. Nhưng dù nàng viết thế hay viết gì khác thì điều rõ ràng là nàng có người yêu. Anh chưa hề nghĩ tới điều đó. Bỗng đột ngột biết nàng thuộc về một người khác, anh cảm thấy đau đớn trong cả thịt da lẫn tâm hồn. Và bàn tay ấy, cái bàn tay nhỏ nhắn chuồi bức thư ấy, vẫn hiển hiện trước mắt anh, làm mắt anh đau nhức nhối.
Nàng không hiểu vì sao anh bỗng trở nên âu sầu, câm lặng. Khi thấy ánh mắt anh băn khoăn nhìn thùng thư thì nàng đoán ra. Nàng thấy anh ghen tuông trong lúc không có quyền ghen tuông thì thật kỳ cục, nhưng nàng không giận.
Tới đường Coocxô, từ xa họ thấy bà Macmê và Ben từ cửa hiệu bán trang phục phụ nữ bước ra.
Đơsactrơ nói với Têredơ, giọng khẩn thiết, van vỉ:
- Tôi cần nói chuyện với bà. Ngày mai, tôi cần gặp riêng bà; sáu giờ tối, mời bà tới Lungacnô Axiaôli.
Chú thích:

1.

Vua Xacđenhơ (một hòn đảo ở Italia), đầu thế kỷ 19.

2.

Họa sĩ và nhà điêu khắc Phlôrăngx, thế kỷ 14.

3.

Nhà điêu khắc Phlôrăngx, thế kỷ 15.

4.

Họa sĩ Pháp, thế kỷ 15 - 16.

XVI. Nàng tới Lungacnô Axiaôli lúc sáu rưỡi, trong chiếc áo khoác màu nâu nhạt. Đơsactrơ đón nàng với ánh mắt tội nghiệp và hân hoan khiến nàng xúc động. Mặt trời chiều tà nhuộm đỏ dòng nước dâng cao trên sông Acnô. Hai người lặng im một lát. Rồi bước theo con đường hai bên chạy dài một cách đơn điệu các tòa lâu đài, đi tới Cầu Cũ. Nàng nói trước tiên:
- Ông thấy đấy, tôi đã tới. Tôi hiểu là tôi phải tới. Tôi cảm thấy mình không phải là không có lỗi trong chuyện xảy ra. Tôi biết rõ điều đó: tôi đã làm những gì phải làm để ông đối với tôi như hiện giờ ông đang đối với tôi. Thái độ của ông đã làm cho ông có những ý tưởng mà nhẽ ra ông
Anh hình như không hiểu. Nàng nói tiếp:
- Tôi là người ích kỷ, dại dột. Tôi mến ông, tôi khâm phục trí tuệ ông, tôi nghĩ tôi không thể sống không có ông. Tôi cố sức cuốn hút ông, giữ ông lại. Tôi làm duyên làm dáng… không phải bằng cách tỏ ra lạnh lùng, cũng không xảo quyệt, nhưng quả tôi đã làm duyên làm dáng.
Anh lắc đầu, không thừa nhận.
- Có! Tôi đã từng làm duyên làm dáng, tuy không có thói quen ấy. Nhưng tôi đã làm duyên với ông. Tôi không nói là ông tìm cách lợi dụng - dù ông có quyền làm như vậy, và cũng không cho là ông lấy thế làm kiêu hãnh. Tôi thấy ông không phải là người hợm mình. Có thể ông không biết gì hết về những điều đó. Những con người siêu phàm cũng có khi thiếu sâu sắc. Nhưng tôi biết rõ tôi đã không xử sự đúng lẽ. Tôi xin lỗi ông. Tôi đến đây là vì vậy. Chúng ta hãy là những người bạn tốt. Vẫn chưa muộn.
Vừa dịu dàng, vừa rầu rĩ, anh nói anh yêu nàng. Những giây phút đầu tiên của tình yêu này là những giây phút bình dị, êm đềm. Anh chỉ muốn được gặp nàng luôn. Nhưng chẳng bao lâu, nàng khiến anh rạo rực, trằn trọc không sao tự chủ được. Nỗi đau bùng lên đột ngột và dữ dội vào một hôm trên hàng hiên quán cà phê ở Phidơn. Và giờ đây, anh không còn đủ can đảm để đau khổ trong im lặng. Anh phải thổ lộ. Anh không tới đây với một ý định có sẵn. Anh nói lên nỗi lòng say mê của mình là vì buộc phải nói và bất đắc dĩ phải nói, không sao dừng được, với chính nàng về bản thân nàng, bởi đối với anh, nàng là người duy nhất tồn tại trên đời này. Cuộc sống của anh không còn thuộc về anh nữa mà là thuộc về nàng. Vậy nàng phải biết là anh yêu nàng, và không phải yêu với tình cảm âu yếm yếu ớt, mơ hồ, mà với một sự cuồng nhiệt khắc nghiệt, dữ dội. Than ôi! Anh có trí tưởng tượng chính xác và cụ thể. Luôn luôn anh biết, anh thấy điều anh mong muốn, và đấy là một sự dằn vặt.
Vả chăng, anh cảm thấy bên nhau họ sẽ có được những niềm vui làm cho cuộc đời đáng sống. Đời họ sẽ là một công trình mỹ thuật diễm lệ và kín đáo. Họ sẽ cùng nhau suy nghĩ và cảm nhận. Và đời họ sẽ là một thế giới những cảm xúc và ý tưởng diệu kỳ.
- Chúng ta sẽ làm cho cuộc sống thành một vườn hoa
Nàng làm như thể không hiểu ước mơ thơ ngây ấy.
- Ông biết rõ là tôi nhạy cảm với sức cuốn hút của trí tuệ ông. Tôi cảm thấy cần được gặp ông, nghe ông nói và tôi đã để ông nhận ra quá rõ điều đó. Mong ông tin vào tình bạn của tôi và đừng tự giày vò mình.
Nàng chìa tay. Anh từ chối và đột ngột đáp:
- Tôi không muốn tình bạn của bà. Tôi không muốn. Hoặc bà phải thuộc về tôi hoàn toàn, hoặc tôi không bao giờ gặp bà nữa. Bà biết rõ điều đó. Vì sao bà chìa tay cho tôi với những lời chế giễu? Dù bà muốn hay không, bà đã gieo vào lòng tôi một tình cảm đau đớn, một ham muốn tuyệt vọng. Bà là nguyên nhân nỗi niềm đau khổ và sự dằn vặt của tôi. Và bà bảo tôi làm một người bạn vui vẻ. Chính bây giờ bà là một kẻ làm điệu làm bộ và độc ác. Nếu bà không thể yêu tôi thì bà hãy để tôi đi, tôi sẽ đi không biết đến chốn nào để lãng quên bà, để thù ghét bà. Vì tôi cảm thấy vô cùng căm giận bà. Ô! Tôi yêu, tôi yêu bà!
Nàng tin lời anh, sợ anh bỏ đi và khiếp hãi trước nỗi buồn tủi phải sống không có anh. Nàng nói:
- Em đã tìm thấy anh trên đường đời. Em không muốn mất anh. Em không muốn.
Anh thì thầm, vừa rụt rè vừa dữ dội; lời nói nghẹn lại trong cổ họng. Từ những đỉnh núi xa xa, hoàng hôn ngả bóng và những tỉa nắng mặt trời cuối cùng nhạt dần ở đàng đông đông trên đồi Xan Miniatô. Nàng nói tiếp:
- Nếu anh biết đời em, nếu anh biết nó buồn tẻ biết bao trước khi gặp anh, thì anh hiểu anh là người như thế nào đối với em, và anh sẽ không nghĩ tới chuyện ruồng bỏ em.
Nhưng giọng nói điềm tĩnh của nàng, bước chân đều đặn của nàng trên hè phố làm anh tức tưởi. Anh giận dữ nói với nàng niềm đau khổ của mình, lòng ham muốn cháy bỏng của mình đối với nàng; anh không sao thoát khỏi nỗi ám ảnh giày vò: bất cứ ở đâu, vào lúc nào, ban đêm hay ban ngày, anh cũng thấy nàng, gọi nàng, dang rộng hai tay đón nàng. Bây giờ thì anh hiểu cái đó rồi, cái căn bệnh tuyệt vời đó
- Ý nghĩ tươi sáng, lòng dũng cảm thanh cao, niềm kiêu hãnh tinh tế của em, anh hít thở những đó như hít thở hương vị thịt da em. Khi em cất tiếng anh cảm thấy như tâm hồn em phảng phất trên môi, và anh đau khổ biết bao vì không được áp môi mình lên cặp môi ấy. Đối với anh, tâm hồn em cũng chính là hương, là sắc của em. Anh gìn giữ bản năng của con người nguyên thủy, và em đã đánh thức chúng dậy. Anh có cảm giác anh yêu em với một sự đơn giản man rợ.
Nàng im lặng, dịu dàng nhìn anh. Lúc đó trong bóng đêm, từ đâu xa có những luồn sáng rọi tới và vẳng lên tiếng hát não nề. Rồi như những bóng ma trước luồng gió, xuất hiện những tu sĩ dòng tu khổ. Một người mang thánh giá chạy trước. Mũ bịt kín mặt, tay cầm đuốc, đoàn người hát thánh ca đưa người chết ra nghĩa địa. Theo phong tục Ý, họ đi ban đêm, bước chân vội vã. Thánh giá, áo quan, cờ hiệu nhấp nhô trên bờ sông hoang vắng. Giăc và Têredơ đứng nép vào tường chỗ đám tang đi qua với các linh mục, các lễ sinh và dòng người che kín mặt. Tử thần như giục giã họ cất bước và ở xứ sở say mê khoái lạc này, người ta không chào vị thần hay quấy nhiễu ấy.
Đoàn người đen kịt đi qua như một cơn lốc. Chạy theo sau cỗ quan tài trên vai những bóng ma đi những đôi giày to sụ đóng đế sắt là những người đàn bà khóc lóc thảm thiết.
Têredơ thở dài:
- Chúng ta tự hành dạ mình trên trái đất này mà làm gì?
Anh hình như không nghe thấy và nói tiếp, giọng điềm tĩnh hơn trước:
- Khi chưa được biết em, anh không phải là người khổ sở. Anh yêu đời. Anh gắn bó với cuộc sống vì sự hiếu kỳ và những ước mơ. Anh thưởng thức vẻ đẹp của những thân hình và bản chất của chúng, thưởng thức những dáng vẻ bề ngoài mơn trớn, vuốt ve. Anh vui niềm vui chứng kiến và ước mơ. Anh tận hưởng hết và không phụ thuộc và bất kỳ điều gì. Ham muốn của anh, phong phú và dễ dãi, lôi cuốn anh một cách thoải mái. Anh quan tâm đến mọi thứ nhưng chẳng thiết tha một thứ gì: người ta sở dĩ đau khổ chỉ là vì dục vọng. Hôm nay anh đã biết đến điều đó. Anh chưa hề có dục vọng đen tối. Anh sung sướng mà không biết mình sung sướng. Ồ! Mà có là bao nhiêu đâu, chỉ đủ cho cuộc sống thôi mà! Giờ đây, anh không còn niềm hạnh phúc ấy nữa. Những niềm vui của anh, mối quan tâm của anh đối với các hình ảnh của cuộc sống và của ngh thuật, niềm hứng thú mạnh mẽ được tự tay mình sáng tạo nên một khuôn mặt mình mơ ước, tất cả những cái đó, em đã làm anh đánh mất hết, không còn gì và thậm chí em cũng không để anh luyến tiếc chúng. Anh không còn thiết tha gì cuộc sống tự do, yên tĩnh trước kia nữa. Anh cảm thấy trước khi gặp em, anh chưa hề sống. Và giờ đây, khi anh cảm thấy mình sống thì anh không thể sống xa em, cũng không thể sống gần em. Anh còn khốn khổ hơn cả những người hành khất chúng ta gặp trên đường Ema. Họ có không khí để thở. Còn anh thì chỉ có thể hít thở hương vị của em, song lại không có. Thế nhưng gặp em thì anh hoan hỉ. Chỉ có cái đó là có ý nghĩ trong cuộc đời anh. Lúc nãy anh ngỡ là anh thù ghét em. Anh đã nhầm. Anh yêu em say đắm và anh cảm tạ em về nỗi đau em đã gây cho anh. Anh yêu tất cả những gì quan hệ tới em.
Hai người bước tới gần hàng cây đen kịt sừng sững ở lối vào cùng Xan Nicôla. Bên kia sông, bóng đêm làm cho cảnh u tịch trên những bãi đất hoang càng thêm buồn bã. Thấy anh điềm tĩnh và đượm chút u sầu, nàng nghĩ tình yêu của anh, hoàn toàn trong tâm tưởng, đã cuốn theo lời nói, và ham muốn của anh đã trôi theo ước mơ. Nàng không ngờ anh khước từ nhanh đến thế và nàng hầu như thất vọng thấy mình thoát khỏi một bước hiểm nghèo mà mình khiếp hãi.
Nàng chìa tay cho anh, lần này mạnh dạn hơn lần trước.
- Thôi anh, chúng ta hãy cùng nhau kết bạn. Đêm đã khuya rồi. Chúng ta hãy trở về và anh đưa em ra xe đỗ ở quảng trường Xenhơri nhé. Vừa qua em đối với anh thế nào thì em vẫn thế ấy, vẫn là một người bạn thật tử tế. Anh đã không làm em phiền muộn.
Nhưng anh dẫn nàng đi về phía đồng quê, quang cảnh ngày một thêm hoang vắng trên bờ sông.
- Không, anh chưa nói được với em điều anh muốn nói thì anh không thể để em về. Nhưng anh không biết nói thế nào, không tìm ra lời để nói. Anh yêu em, anh ham muốn em. Anh muốn biết chắc là em thuộc về anh. Anh thề với em là nếu còn băn khoăn điều đó thì dù chỉ một đêm anh cũng không sao nhịn được nỗi hãi hùng ấy.
Anh ôm nàng vào lòng, và mặt áp mặt, anh dò xét ánh mắt nàng bị che khuất sau tấm mạng.
- Em phải yêu anh. Anh muốn như vậy và chính em cũng muốn như vậy. Em hãy nói là em thuộc về anh đi. Em nói đ
Nhẹ nhàng gỡ tay anh ra, nàng đáp giọng nhỏ nhẹ:
- Em không thể. Em không thể. Anh thấy rõ là em thành thật với anh. Lúc nãy em đã nói là anh không làm em phiền muộn. Nhưng em không thể chiều theo ý anh.
Và bỗng nghĩ tới người vắng mặt đang chờ mình, nàng nhắc lại:
- Em không thể.
Cúi xuống, anh lo âu dò xét ánh mắt nàng: cặp mắt nàng như hai vì sao chớp chớp và mờ dần đi.
- Sao vậy? Em yêu anh kia mà, anh cảm nhận và anh thấy được điều đó. Em yêu anh. Vì sao em lại để thiệt cho anh, không chịu thuộc về anh?
Anh kéo nàng vào lòng, muốn đặt cả miệng và tâm hồn mình lên đôi môi che kín sau tấm mạng. Lần này nàng lẹ làng thoát ra và nói:
- Em không thể. Anh đừng hỏi em nhiều hơn. Em không thể thuộc về anh đâu.
Hai môi anh run run, cả khuôn mặt như quằn quại. Anh hét lên:
- Cô có người yêu và cô yêu người ta. Vì sao cô lại đem tôi ra làm trò cười?
- Em thề với anh là em không hề muốn đem anh ra làm trò cười, và nếu trên đời này em có yêu một người thì người đó phải là anh.
Nhưng anh không nghe nàng nói.
- Hãy buông tha tôi! Buông tha tôi!
Và chạy về phía cánh đồng tối đen như mực. Dòng sông Acnô, giờ đây tràn lên bờ, tạo thành trên mặt đất nhớp nháp những vũng nước soi bóng trăng nửa tỏ nửa mờ. Anh bước qua nước và bùn, những bước chân vội vã, vô định và khủng khiếp.
Nàng sợ, kêu thét lên. Nàng gọi. Nhưng anh không quay đầu lại và không trả lời. Anh bỏ đi với một vẻ điềm nhiên đến đáng sợ. Nàng chạy theo sau anh. Chân bị đau vì đá sỏi, váy sũng nước, nàng bắt kịp anh, kéo mạnh anh về phía mình:
- Anh định làm gì thế?
Nhìn nàng, thấy đôi mắt nàng khiếp hãi, anh nói:
- Cô đừng sợ gì hết. Tôi bước đi mà mắt chẳng thấy gì. Tôi cam đoan với cô là tôi không tìm cách quyên sinh đâu. Ồ! Xin cô yên tâm. Tôi tuyệt vọng nhưng tôi rất tỉnh táo. Tôi tránh cô. Tôi xin cô thứ lỗi. Nhưng tôi không thể, không, tôi không thể nhìn mặt cô nữa. Hãy buông tha tôi ra, tôi xin cô. Vĩnh biệt!
Bối rối và không cưỡng nổi lòng mình, nàng đáp:
- Anh nghe em nói này! Làm được thế nào, chúng ta cố gắng làm.
Anh vẫn âu sầu, im lặng.
Nàng nhắc lại.
- Nào, anh nghe em nói này!
Nàng cầm lấy cánh tay anh. Bàn tay êm ái làm anh phấn chấn. Anh hỏi:
- Em bằng lòng à?
- Em không muốn mất anh.
- Em hứa với anh nhé!…
- Phải hứa thôi.
Và, bàng hoàng, lo sợ, hầu như nàng mỉm cười, trong bụng nghĩ sao anh thành công nhanh đến thế vì sự cuồng dại của mình.
Anh bảo nàng
- Mai, em nhé!
Nàng vội vã đáp, với bản năng tự vệ:
- A! Không, không phải mai đâu!
- Em không yêu anh rồi; chắc em hối hận đã nhỡ hứa.
- Không, em không hối hận, nhưng…
Anh năn nỉ, thiết tha. Nàng nhìn anh chốc lát, quay đầu, ngập ngừng và hạ thật thấp giọng xuống nói:
- Thứ bảy.
XVII. Sau bữa ăn tối, Ben ngồi vẽ trong phòng khách. Cô vẽ những khuôn mặt nhìn nghiêng của người Etruyri râu cằm tua tủa để rồi bà Macmê sẽ thêu lên mặt gối. Ông hoàng Anbectinenli chọn những sợi chỉ theo thị hiếu màu sắc của phụ nữ. Trời đã về khuya. Chơi cờ xong như thường lệ với anh chàng đầu bếp ở nhà chủ quán, Sulet trở về, vui vẻ thỏa thuê. Ông ta đến ngồi trên tràng kỷ, cạnh bà Mactanh và âu yếm nhìn nàng. Đôi mắt màu xanh long lanh khoái lạc, Sulet thốt ra những lời ngợi ca ngọt ngào, đầy thi vị tựa lời phác họa một bản tình ca ứng khẩu. Bằng những câu ngắn, dồn dập và kỳ cục, ông ta ca ngợi vẻ hấp dẫn của nàng.
Nàng nghĩ:
“Cả ông ta nữa!”
Và nàng thích thú trêu chọc ông, hỏi ông ta có tìm thấy trong các khu phố tồi tàn của Phlôrăngx một phụ nữ nào trong số những người ông ta thường nói tới không. Bởi nàng đã biết sở thích của Sulet. Ông ta không thể phủ nhận: người ta không lạ việc ông tìm thấy sợi dây chuông hội Thánh ở đâu. Bạn bè vẫn gặp ông ta đi trên đại lộ Xanh-Misen với những cô gái để đầu trần. Hứng thú của ông đối với những con người khốn khổ đó, ông đã nói tới trong những bài thơ đẹp nhất của mình.
- Ồ! Nếu tôi không nhầm thì những cô gái ông ưa thích, chẳng ra gì cả, ông Sulet ạ.
Ông ta long trọng đáp.
- Thưa bà, bà có thể nghe những lời ông Pôn Veux nói xấu tôi, và bà tha hồ xỉ vả. Tôi đâu chú ý tới cái đó. Bà không cần phải biết tối là kẻ thanh khiết và tâm hồn tôi trong sạch. Nhưng xin bà đừng nông nổi đánh giá những cô gái mà bà bảo là khốn khổ ấy, bà phải coi họ là những người đáng tôn kính vì lẽ họ khốn khổ. Người con gái bị khinh miệt và hư hỏng là thứ đất sét dễ nặn dưới ngón tay người thợ gốm thiên tài, là vật hy sinh để chuộc tội, là bàn thờ làm lễ thiêu tế vật. Các cô gái mãi dâm ở gần Chúa hơn những người đàn bà lương thiện đấy, họ không còn lối cao ngạo và họ khước từ niềm kiêu hãnh. Cái hư vô mà các vị phu nhân lấy làm vinh hạnh thì họ không hề tự hào. Họ có tính khiêm nhường, đó là hòn đá thử vàng đối với những đức hạnh Chúa ưa thích. Họ chỉ cần một chút hối hận là sẽ được lựa chọn đầu tiên, vì tội lỗi của họ, không hề gian ác và cũng không đem lại cho họ niềm vui, đã mang trong bản thân chúng sự chuộc tội và sự tha thứ. Lỗi lầm của họ, vốn là những nỗi niềm khổ đau, có quan hệ tới những giá trị gắn liền với đau khổ. Phải phục tùng ái tình thô bạo, họ không được hưởng một chút khoái cảm nào và do vậy họ gần giống những người đàn ông chịu thiến nhằm lên cõi cực lạc. Họ cũng là những người phạm tội như chúng ta, nhưng sự ô nhục chảy trên tội lỗi của họ như một thứ dầu thơm, nỗi đau khổ tẩy sạch nó như một hòn than rừng rực. Vì vậy Chúa chấp nhận ánh mắt đầu tiên họ hướng lên Người. Ở chốn thiên đường, một bà hoàng hậu và một nữ hoàng sẽ sung sướng nếu được ngồi dưới chân cô gái lang thang. Bà đừng nghĩ là ngôi nhà chốn Thiên đình được xây dựng theo quan điểm của con người. Thiếu hết mọi thứ mà, thưa bà.
Tuy nhiên Sulet thừa nhận có nhiều con đường dẫn tới hạnh phúc. Có thể đi theo con đường tình yêu.
- Tình yêu của người đời là thấp kém! - Ông ta nói - Nhưng nó đi lên theo những con đường dốc gian khổ và dẫn tới Chúa.
Anbectinenli đứng dậy. Hôn tay Ben, anh nói:
- Hẹn thứ bảy.
- Vâng chiều thứ bảy. - Vivian đáp.
Têredơ giật mình. Thứ bảy! Họ điềm tĩnh nói tới thứ bảy, như nói tới một ngày bình thường sắp tới. Cho đến lúc này, nàng không ngờ thứ bảy tới nhanh thế và tự nhiên đến thế.
Họ vừa chia tay nhau được nửa tiếng. Lơ đãng và mệt mỏi, Têredơ đang mơ màng trên giường thì nghe có tiếng gõ khẽ ở cửa. Cánh cửa trên hé cửa, và cái đầu nho nhỏ của Vivian xuất hiện sau tấm màn cửa thêu hình những cây ohanh sum suê.
- Tôi không quấy rầy cô chứ, darling? Cô không buồn ngủ phải không?
Không, darling không buồn ngủ. Nàng chống tay ngồi dậy, Vivian ngồi lên giường, người mảnh mai không hề làm nệm giường lún xuống.
- Darling, tôi biết cô rất khôn ngoan. Ồ! Tôi tin chắc như thế. Cô là người khôn ngoan cũng như Xatle là nghệ sĩ viôlông vậy. Ông ta chơi nhạc hơi sai đi một chút tùy theo ý muốn. Cô cũng vậy, có lúc cô lập luận không hoàn toàn đúng là vì cô thích thú muốn làm một kẻ kỳ tài. Ồ! darling, cô là người rất khôn ngoan và có óc phán đoán. Tôi đến xin cô một lời khuyên đây.
Ngạc nhiên và có phần băn khăn, Têredơ không nhận mình là người không ngoan. Nàng không nhận một cách thành thực. Nhưng Vivian không nghe.
- My love, tôi đọc Phrăngxoa Rabơle 1. nhiều lắm. Chính nhờ đọc Rabơle và Vilông 2. mà tôi học được tiếng Pháp. Họ là những bậc thầy ngày trước về ngôn ngữ. Nhưng darling này, cô có biết Păngtagruyen 3. không? Ồ! Păngtagruyen là một thành phố mỹ lệ và quý phái đầy rẫy lâu đài trong ánh bình minh rực rỡ, trước khi những người quét rác chưa đi qua. Ồ! Không, darling ạ, những người quét rác chưa dọn rác đi và các cô hầu gái chưa lau sân nhà thờ lát cẩm thạch. Và tôi thấy hụ nữ Pháp không đọc Păngtagruyen. Cô không biết tác phẩm ấy à? Khng à? Ồ! Không cần thiết. Trong Păngtagruyen, Panuêcgiơ hỏi y có nên lấy vợ không và làm trò cười cho thiên hạ, my love ạ. Và tôi, tôi cũng đáng cho người ta chế nhạo như y, vì tôi cũng đặt câu hỏi như thế với cô.
Têredơ trả lời với một vẻ khó chịu không che giấu:
- Ồ! Về cái đó thì đừng hỏi han gì tôi hết, bạn thân mến ạ. Tôi đã nói ý kiến của tôi với cô rồi.
- Nhưng, darling, cô chỉ nói là đàn ông lấy vợ là sai. Còn tôi, tôi không thể coi đó là lời khuyên đối với mình.
Bà Mactanh nhìn cái đầu xinh xinh như đầu con trai của Ben, cô ta để lộ vẻ mắc cỡ một cách kỳ cục, như cách một cô gái muốn yêu.
Nàng ôm hôn bạn và nói:
- Bạn thân mến, trên đời này, không có người đàn ông nào đủ ngọt ngào và tinh tế cho bạn đâu.
Rồi vừa nghiêm trang vừa âu yếm, nàng nói tiếp:
- Bạn không phải là một đứa trẻ: nếu có người yêu bạn và bạn cũng yêu, thì bạn hãy làm điều mình thấy nên làm và đừng bao giờ để tình yêu dính dáng tới những quyền lợi và mưu toan không có quan hệ gì tới tình cảm. Đây là lời khuyên của một người bạn.
Ben ngập ngừng một lúc không muốn hiểu. Rồi đỏ mặt và đứng dậy. Cô ta tự ái.
Chú thích:

1.

Nhà văn Pháp, thế kỷ 16.

2.

Nhà thơ Pháp, thế kỷ 15.

3.

Tác phẩm của Rabơle.

XVIII. Theo đúng lời hứa, bốn giờ chiều ngày thứ bảy, Têredơ đến trước cổng nghĩa trang người Anh. Cô gặp Đơsactrơ trước dãy sào đất. Anh tỏ ra nghiêm trang và bối rối, hầu như chẳng nói gì. Nàng hài lòng thấy anh không bộc lộ niềm vui. Anh nàng đi dọc theo những dãy tường vắng vẻ xung quanh các khu vườn tới một con đường nhỏ nàng chưa đến bao giờ. Nàng thấy ghi trên một tấm biển: Via Anphiêri 1. Đi khoảng năm chục bước anh dừng lại trước một lối đi hoang vắng.
- Đây rồi! - Anh nói.
Nàng nhìn anh, ánh mắt buồn vô hạn.
- Anh muốn em vào?
 Thấy anh cả quyết, nàng im lặng theo anh trong bóng tối ẩm ướt bao phủ lối đi. Anh vượt qua một cái sân cỏ chen mọc giữa những viên gạch lát. Ở cuối sân là một ngôi nhà nhỏ có ba ô cửa sổ, những dãy cột và một mái nhà khắc chạm hình những con dê và thủy thần. Đứng trên bậc tam cấp đầy rêu xanh, anh cho chìa khóa vào ổ, khóa không xoay và rít lên, anh nói, giọng thầm thì:
- Khóa bị rỉ.
Không suy nghĩ, nàng đáp như một người không hồn:
- Ở cái xứ này, chìa khóa nào cũng bị rỉ hết.
Hai người bước lên một thang gác xây theo kiểu Hy Lạp và hoang vắng như thế chưa có dấu chân người. Anh đẩy một cánh cửa và đưa Têredơ vào. Không nhìn ngó gì hết, nàng đi thẳng tới ô cửa sổ để mở, ngoảnh ra phía nghĩa trang. Phía trên bức tường, vươn lên những ngọn thông không hề có vẻ thê lương trên mảnh đất này, nơi tang tóc xen lẫn với hoan lạc và không làm vẩn đục hoan lạc, nơi niềm vui trong cuộc sống trải rộng đến chỗ yên nghỉ của những người chết. Anh cầm tay dắt nàng đến một chiếc ghế bành. Nàng vẫn đứng và nhìn căn phòng anh đã sắp đặt sao cho nàng khỏi thấy quá bỡ ngỡ và phiêu lưu. Mấy tấm vải hoa, với những họa tiết hài hước, phủ trên tường gợi lại những niềm vui của quá khứ với một vẻ âu sầu dễ thương. Anh treo trong một góc buồng bức tranh vẽ chì mờ nhạt họ đã nhìn thấy ở một cửa hiệu đồ cổ, bức tranh được nàng đặt cho cái tên gọi “hình bóng Rôdanba” 2. vì cái vẻ duyên dáng đã nhạt phai của nó. Một chiếc ghế bành êm ái, những chiếc ghế tựa sơn trắng; trên chiếc bànròn, mấy cái chén có vẽ hoa và mấy cái ly Vơnidơ. Ở bốn góc nhà là những tấm bình phong bằng giấy tô màu trên có những hình mặt người, những bức kí họa và những bài mục ca, dấu hiệu tâm hồn khoáng đạt của Phlôrăngx, Bulônhơ và Vơnidơ vào thời các đại công tước và các vị thống đốc cuối cùng. Nàng nhận thấy anh cẩn thận đặt khuất chiếc giường sau một bức bình phong có khắc chạm những hình trang trí vui mắt. Một tấm gương, mấy tấm thảm, và chỉ có thế. Anh không dám mua sắm gì nhiều hơn trong một thành phố mà những tay buôn đồ cũ láu lỉnh có thể dò theo dấu vết anh.
Anh đóng cửa sổ và đốt lò sưởi. Nàng ngồi trong ghế bành Anh quỳ xuống, hôn tay nàng và đăm đăm nhìn nàng, vẻ say sưa vừa rụt rè vừa kiêu hãnh. Rồi bỗng đặt môi lên mũi giày nàng.
- Anh làm gì vậy?
- Anh hôn đôi chân đã đưa em tới với anh.
Anh đứng dậy, dịu dàng kéo nàng vào lòng và đặt lên môi nàng một cái hôn thắm thiết. Nàng đứng sững, đầu ngả ra sau, hai mắt lim dim. Chiếc mũ vải rơi xuống, mái tóc nàng xõa ra.
Nàng hiến thân không một chút đắn đo.
Hai tiếng sau, trong bóng chiều, bước đi một mình trên đường phố, Têredơ bỗng thấy mình đứng trước hai ngọn tháp Xanh-Mari-Nouven mà không hiểu mình đã tới đây như thế nào. Ở góc quảng trường, ông lão đóng giày tươi cười ngồi khâu giày với những cử chỉ muôn thuở và con chim sẻ đậu trên vai.
Nàng bước vào gian hàng, ngồi lên chiếc ghế đẩu và hỏi bằng tiếng Pháp:
- Bác Căngtanh Matxix này, tôi đã làm gì và tôi sẽ ra sao đây?
Ông lão điềm tĩnh nhìn nàng, tươi cười, nhân hậu, không hiểu đầu đuôi ra sao và cũng không băn khoăn. Không có gì làm ông ngạc nhiên nữa. Nàng lắc đầu.
- Bác Căngtanh tốt bụng ạ, tôi đã làm như vậy bởi vì anh ấy đau khổ và bởi vì tôi yêu anh ấy. Tôi không ân hận gì hết.
Ông lão đáp theo thói quen bằng một tiếng “có” âm vang của ngôn ngữ Ý:
- Có! Có!
- Tôi không hành động sai trái phải không bác Căngtanh? Nhưng lạy Chúa, cái gì sẽ xảy ra bây giờ đây?
Nàng định ra đi. Ông lão ra hiệu cho nàng chờ một lát. Ông cẩn thận hái một cành hoắc hương nhỏ tặng nàng:
- Một chút hương thơm, thưa bà.
Chú thích:

1.

Tiếng Italia: Đường phố Anphiêri.

2.

Nữ họa sĩ ở Viaidơ, thế kỷ 17 - 18, chuyên vẽ tranh chì.

XIX. Một ngày sau.
Đặt cẩn thận lên bàn phòng khách cây gậy đi đường có nhiều mấu, chiếc tẩu thuốc và cái túi vải cũ kỹ, Sulet đến chào bà Mactanh đang ngồi đọc trước cửa sổ. Ông ta sẽ đi Axxidơ. Mình khoác tấm áo da dê, ông nom có vẻ như những ông lão chăn cừu trên những bức tranh Thiên chúa giáng sinh.
- Tạm biệt bà. Tôi xin tạm biệt Phidơn, tạm biệt bà lẫn Đơsactrơ cùng ông hoàng Anbectinenli bảnh trai và con yêu tinh Ben rất mực dễ thương. Tôi sẽ đi thăm núi Axxidơ. Chúng ta không nên gọi là núi Axxidơ nữa, mà là núi phương Đông vì lẽ mặt trời tình yêu mọc ở đó. Tôi sẽ đến quỳ trước ngôi một được ban phước lành, nơi có thánh Phrăngxoa trần trụi nằm nghỉ bên dưới, trong một cái âu bằng đá và đầu đặt trên một chiếc gối cũng bằng đá. Ngài không muốn mang theo, dù chỉ một tấm vải liệm của cõi trần thế này, nơi ngài khám phá ra cái bí ẩn của mọi niềm vui và mọi tấm lòng nhân hậu.
- Xin tạm biệt ông, ông Sulet. Ông nhớ mang về cho tôi một chiếc huy hiệu nữ thánh Clerơ. Tôi rất yêu nữ thánh Clerơ.
- Bà nói rất có lý, thưa bà. Clerơ là người phụ nữ đầy nghị lực và rất mực khôn ngoan. Khi thánh Phrăngxoa ốm đau và hầu như mù lòa đến nghỉ vài hôm ở Xanh Đamiông, tại nhà bà, Clerơ tự tay mình dựng cho ông một túp lều trong vườn. Ông mừng lắm. Mệt mỏi, đau đớn, hai mí mắt như bị cháy bỏng, ông không sao yên giấc. Những con chuột to tướng kéo đến quấy nhiễu ông suốt đêm. Ông bèn làm một bài thánh ca hào hùng ca ngợi Người anh Mặt trời rực rỡ và Người chị Nước trinh khiết, hữu ích và trong lành. Những bài thơ hay nhất của tôi, kể cả những bài về khu Vườn cấm, cũng không dễ hấp dẫn và huy hoàng một cách tự nhiên như bài thánh ca ấy. Và như thế là phải, vì tâm hồn thánh Phrăngxoa cao đẹp hơn tâm hồn tôi. Tuy tốt hơn tất cả những người đương thời mà tôi biết, tôi vẫn chẳng ra gì. Phrăngxoa rất hài lòng với bài hát ca ngợi Mặt trời. Ông nghĩ: các anh em tôi và tôi, chúng tôi sẽ đến các đô thành, ngày phiên chợ, chúng tôi cầm ống sáo đứng ở nơi công cộng. Những con người tử tế sẽ đến gần chúng tôi và chúng tôi sẽ nói với họ: “Chúng tôi là những thi sĩ giang hồ của Chúa, chúng tôi sẽ ngâm một bài thơ tự tình. Nếu hài lòng thì bà con sẽ thưởng cho chúng tôi”. Họ sẽ chấp nhận. Và hát xong, chúng tôi sẽ nhắc lại lời hứa của họ. Chúng tôi sẽ bảo họ: “Bà con phải thưởng cho chúng tôi. Và phần thưởng chúng tôi xin bà con là mọi người hãy yêu thương nhau. “Chắn hẳn để giữ lời hứa và không làm thiệt hại đến các thi sĩ giang hồ tội nghiệp của Chúa, họ sẽ tránh không làm hại người khác.
Bà Mactanh cho thánh Phrăngxoa là vị thánh dễ thương nhất trong tất cả các thánh.
- Tác phẩm của thánh Phrăngxoa bị hủy diệt ngay lúc sinh thời. - Sulet nói tiếp - Nhưng ông chết hạnh phúc vì ông lấy đức khiêm nhường làm niềm vui. Ông quả là nhà thơ hiền hòa chỉ biết ca ngợi Chúa. Cần có một thi sĩ khốn khổ khác tiếp tục nhiệm vụ của ông và truyền dạy cho thiên hạ một nền tôn giáo chân chính và niềm vui chân chính. Nhà thơ đó sẽ là tôi, thưa bà, nếu tôi biết kiêu hãnh vứt bỏ lý trí. Vì trên cõi trần này, mọi vẻ đẹp tinh thần đều được thực hiện với thứ trí tuệ kỳ lạ bắt nguồn từ Thượng đế và giống như sự điên dại.
- Tôi không làm ông thất vọng đâu, ông Sulet ạ. Nhưng tôi băn khoăn cho số phận ông dành cho những người đàn bà tội nghiệp trong cái xã hội mới của ông. Ông sẽ nhốt tất cả họ vào tu viện mất.
- Tôi thú nhận - Sulet đáp - là họ làm tôi rất lúng túng trong dự án cải cách của mình. Người ta yêu họ với một thái độ hung bạo đến chua xót và xấu xa. Khoái lạc họ mang lại không hề yên ổn và không dẫn tới niềm vui. Trong đời mình, tôi đã vì họ mà phạm hai ba tội khủng khiếp tuy người ta không biết đến. Tôi không tin là có lúc nào có thể mời bà dự bữa ăn khuya ở Xanhtơ-Mari-đê-Đănggiơ.
Cầm túi vải và cây gậy có chạm đầu người, Sulet nói tiếp:
- Những lỗi lầm trong tình yêu sẽ được tha thứ. Hay nói đúng hơn, người ta không làm gì có hại khi người ta chỉ yêu không thôi. Nhưng một tình yêu nhục dục chứa đựng bao nhiêu tình yêu thì cũng chứa đựng bấy nhiêu hận thù, ích kỷ và giận dỗi. Một buổi tối trên tràng kỷ này, vì thấy bà đẹp, lòng tôi đã bị xâu xé bởi vô số ý tưởng thô bạo. Lúc đó, tôi ở quán ăn về, nơi tôi vừa nghe anh chàng đầu bếp của cô Ben đọc một nghìn hai trăm câu thơ ứng khẩu tuyệt vời về mùa xuân. Lòng tôi tràn ngập một niềm vui siêu phàm, nhưng nó tiêu tan khi tôi trông thấy bà. Sự trừng phạt Evơ 1. phải chịu chứa đựng trong nó một chân lý sâu xa. Vì ở cạnh bà, tôi trở nên âu sầu và xấu xa. Trên môi tôi đọng những lời dịu dàng. Đó là những lời dối trá. Trong thâm tâm mình, tôi cảm thấy tôi là địch thủ, là kẻ thù của bà, tôi hận thù bà. Thấy bà tươi cười, tôi những muốn giết bà.
- Thật thế ư?
- Ồ! Thưa bà, một tình cảm rất tự nhiên thôi mà, và chắc hẳn do chính bà gợi ra nhiều lần. Kẻ tầm thường thì chỉ bất giác nhận ra điều đó, còn trí tưởng tượng mãnh liệt của tôi thì luôn luôn cho tôi nhận ra chính bản thân mình. Tôi chiêm nghiệm tâm hồn tôi, thỉnh thoảng nó rực rỡ, nhưng thông thường nó xấu xa. Nếu tối hôm ấy bà nhìn thấy nó, mặt đối mặt, thì bà phải kêu lên vì kinh hoàng.
Têredơ mỉm cười:
- Tạm biệt, ông Sulet, ông chớ quên huy hiệu nữ thánh Clerơ cho tôi.
Ông ta đặt vali xuống đất, và giơ cánh tay lên trời, ngón trỏ thẳng đứng lên, như người chỉ bảo và giáo huấn:
- Bà không có gì phải sợ về phía tôi cả. Nhưng người được bà yêu và yêu bà sẽ làm hại bà đấy. Tạm biệt bà.
Ông ta xách hành lý bước ra. Nàng thấy dáng người quê mùa lêu đêu của ông khuất sau hàng cây kim tước ngoài vườn.
Buổi chiều nàng đi Xan Maccô. Đơsactrơ chờ nàng. Nàng vừa muốn vừa sợ sớm gặp lại anh. Nàng cảm thấy một nỗi ki nhưng nó dịu đi vì một tình cảm xa lạ, hết sức êm đềm. Nàng không còn đê mê như lần đầu tiên hiến thân vì tình yêu, không còn cái ảo ảnh đột ngột về điều không sao cứu vãn được. Giờ đây, nàng bị chi phối bởi những ảnh hưởng chậm rãi hơn, mơ hồ hơn nhưng cũng mãnh liệt hơn. Giờ đây, một mộng tưởng kỳ thú làm nàng nhớ lại những vuốt ve, mơn trớn và làm dịu bớt vết thương lòng. Nàng băn khoăn, khắc khoải, nhưng không hề cảm thấy hổ thẹn và ân hận. Nàng hành động vì ý muốn của mình thì ít mà chính vì một sức mạnh nàng đoán biết ngày càng dữ dội hơn. Nàng tự tha thứ cho mình vì sự vô tư của bản thân. Nàng không dựa vào gì hết vì không hề tính toán gì hết. Dĩ nhiên, nàng phạm tội hiến thân khi không còn tự do nhưng chính vì vậy nàng không đòi hỏi gì hết. Có thể chỉ là một sở thích, một ham muốn trong chốc lát tuy dữ dội và thành thực. Nàng chưa trải qua những sự huyễn hoặc mạnh mẽ và bấp bênh như vậy, chúng vượt xa cái tầm thường hàng ngày về mặt tốt cũng như mặt xấu. Nếu đột ngột anh xa rời nàng và biến mất thì nàng cũng không trách anh, không giận anh - ít ra nàng cũng nghĩ bụng như vậy. Nàng sẽ ấp ủ kỷ niệm và dấu vết của cái hiếm nhất, quý nhất trên đời. Có thể anh không thật sự gắn bó. Anh chỉ tưởng mình yêu. Anh đã yêu nàng trong một tiếng. Nàng không dám mong ước nhiều hơn trong tình thế lúng túng, không minh bạch này. Nó làm cho sự chân thành và lòng kiêu hãnh của nàng bị tổn thương, trí óc của nàng mất sáng suốt. Ngồi trên xe ngựa trên đường đi Xan Macrô, cuối cùng nàng đinh ninh anh sẽ chẳng nói gì đâu về ngày hôm trước: kỷ niệm về căn buồng ái ân, nơi nhìn thấy những ngọn thông vươn cao như những cái suốt chỉ đen kịt, chỉ để lại cho anh, cho nàng giấc mơ của một giấc mơ.
Anh đứng cạnh bậc thang lên xuống xe chìa tay đón nàng. Anh chưa kịp nói gì nàng đã thấy, qua ánh mắt anh, anh yêu nàng và vẫn ham muốn nàng. Và cũng lúc đó, nàng thấy mình cũng muốn như vậy.
- Em - anh nói - em… Anh đến đây từ trưa, anh chờ, tuy biết là em chưa tới, nhưng anh chỉ có thể sống ở chỗ anh phải gặp em. Thế là em đã đến!… Em hãy nói đi để anh được nghe em, được thấy em.
- Thế anh vẫn yêu em?
- Chính lúc này anh yêu em. Anh tưởng anh yêu em khi em chỉ là cái bóng ma dục vọng của anh. Giờ đây, em là máu thịt mà anh đã đặt linh hồn anh trong đó. Có đúng là, em nói đi, có đúng em là của anh không? Anh đã làm gì để có được niềm hạnh phúc lớn nhất, niềm hạnh phúc độc nhất trên đời? Thế mà những con người chen chúc trên thế gian này, họ cứ ngỡ là họ sống! Chỉ có một mình anh sống thôi! Em nói đi, anh đã làm gì để có được em?
- Ồ! Nhưng cái gì phải làm, chính em là người đã làm. Em phải nói thật với anh. Chúng ta ở trong tình cảnh này là do lỗi của em. Anh thấy không, có phải bao giờ phụ nữ cũng thú nhận cả đâu, nhưng bao giờ cũng là lỗi ở họ cả thôi. Bởi vậy, bất luận thế nào, em cũng không oán trách anh đâu.
Một đám hành khất và người dẫn đường nhanh nhẹn, ồn ã rời khỏi cửa lớn nhà thờ đến vây quanh hai người. Thật không đúng lúc, nhưng ở đám người đó vẫn phảng phất một chút duyên dáng của người Ý thoáng đạt. Họ nhạy bén đoán định đây là một cặp người yêu, và họ biết những người đang yêu bao giờ cũng hào phóng. Đơsactrơ quẳng cho họ ít tiền và tất cả lại trở về cảnh nhác nhớn nhàn nhã của mình.
Hai người đến thăm cái trai phòng trong tu viện, nơi Phra Angiơlicô 2, với sự giúp đỡ của người anh em là Bênêdêtrô đã vẽ trên nền vô trần trụi những bức tranh chất phác cho các nhà tu hành, những người bạn của ông.
- Em có còn nhớ buổi tối mùa đông anh gặp em trên chiếc cầu vắt qua cái hầm trước bảo tàng Ghimê không? Anh cùng đi với em tới tận con đường nhỏ chạy dọc những khu vườn xinh xinh đến bến tàu Đơbily. Trước khi chia tay, chúng ta dừng lại một lát bên dãy lan can lơ thơ mấy hàng cây hoàng dương. Em nhìn hàng cây khô đét đi vì mùa đông. Và sau khi em về, anh nhìn mãi hàng cây.
Hai người bước vào trai phòng trước kia của Xavônarôn, tu viện trưởng Xan Maccô. Người hưng dẫn giới thiệu với họ chân dung và thánh tích của nhà tuẫn đạo.
- Hôm ấy, làm sao anh thấy được là em đẹp? Trời có sáng đâu mà.
- Anh thấy em cất bước. Hình dáng con người bao giờ cũng bộc lộ ra qua cử chỉ. Mỗi bước chân em đều nói với anh về những điều bí ẩn của nhan sắc lồ lộ và mê ly của em. Ồ! Anh chưa bao giờ có những suy tưởng sâu kín về em. Anh đâu có dám nói gì với em. Thấy em là anh sợ. Anh kinh hãi trước mặt em, người mà anh cho là làm gì đối với anh cũng được. Khi em đến, anh vừa say mê em vừa run rẩy. Nhưng xa em, trong anh nảy sinh tất cả những ý tưởng vô đạo của dục - Em tin như vậy. Nhưng anh có còn nhớ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau khi Pôn Venx giới thiệu anh không? Lúc đó, anh ngồi gần tấm bình phong. Anh nhìn những bức ảnh trỏ treo ở đấy. Anh bảo em: “Bức ảnh phụ nữ này do Xicacđi vẽ, giống thân mẫu Angđrê Sêniê 3.”. Em nói với anh: “Bà nội chồng tôi đấy. Còn thân mẫu Angđrê Sêniê thì thế nào?” Và anh đáp: “Chúng tôi có chân dung cụ: một phụ nữ Á đông rũ rượi.”
Anh không nhận đã nói khiếm nhã đến thế.
- Nhưng có đấy! Em nhỡ rõ hơn anh mà.
Trong bầu không khí lặng như tờ, hai người bước đi giữa tu viện, đến thăm căn phòng có bức tranh mỹ lệ nhất của Anggiơlicô. Ở đó, trước bức tượng Đức bà đang đứng đón nhận từ tay Chúa chiếc vương miện bất tử, dưới bầu trời mờ nhạt, anh ôm Têredơ vào lòng và hôn môi nàng, hầu như trước mắt hai phụ nữ. Anh đang tra cứu một cuốn Bađơcơ 4. trong hành lang.
- Suýt nữa thì chúng ta quên mất trai phòng của thánh Angtônin.
- Têredơ, anh sung sướng vì có em nhưng anh lại đau khổ vì có những cái thuộc về em mà anh không nắm giữ được. Anh đau khổ vì em không chỉ sống vì một mình anh và cho một mình anh. Anh muốn em hoàn toàn là của anh, cả hiện nay và cả trong quá khứ.
Nàng khẽ nhún vai:
- Ồ! Quá khứ!
- Quá khứ, đó là hiện thực duy nhất của con người. Tất cả những gì tồn tại hiện nay đều có quá khứ.
Nàng ngước lên nhìn anh, ánh mắt như những mảng trời đẹp lúc vừa nắng vừa mưa.
- Vậy em có thể nói với anh thế này: em chỉ cảm thấy em sống khi có anh mà
Trở về Phidơn, nàng nhận được lá thư vắn tắt với lời lẽ hăm dọa của Lơ Mênin. Anh không hiểu gì hết về sự vắng mặt kéo dài và sự im lặng của nàng. Nếu nàng không báo ngay cho anh biết ngày trở về thì anh sẽ đến tìm nàng.
Nàng đọc thư, không chút ngạc nhiên, nhưng buồn bã thấy cái phải xảy ra đã xảy ra và tất cả những gì nàng lo sợ đều đã đến với nàng. Nàng vẫn còn có thể an ủi anh, làm anh yên tâm. Nàng chỉ cần nói là nàng yêu anh, là nay mai nàng sẽ trở về Pari, là anh phải từ bỏ cái ý nghĩ điên rồ đến gặp nàng ở đây, là Phlôrăngx chỉ là một cái làng bé nhỏ, sẽ bị lộ ngay lập tức nếu anh đến. Nhưng nếu thế thì phải viết: “Em yêu anh”. Phải phỉnh phờ anh với những lời âu yếm. Nàng không có can đảm. Nàng hé cho anh biết sự thật. Nàng tự lên án mình với những lời lẽ mập mờ. Nàng nói một cách kín đáo về những linh hồn bị cuốn theo dòng đời: con người nhỏ bé xiết bao giữa mớ sự vật sôi động như một đại dương. Với một giọng rầu rĩ, âu yếm, nàng xin anh giữ một chút kỷ niệm êm đềm về nàng trong một góc nhỏ tâm hồn anh.
Nàng mang thư ra bưu điện ở quảng trường Phidơn. Trong cảnh hoàng hôn, trẻ em chơi nhảy cò. Từ trên đồi cao, nàng ngắm nhìn phố phường Phlôrăngx xinh đẹp như một viên ngọc quý đặt trong một cái ly thanh nhã. Và cảnh chiều thanh bình làm nàng giật mình. Nàng chuồi là thư vào hộp. Cho tới lúc ấy, nàng mới nhận thấy rõ rệt mình đã làm gì và hậu quả sẽ ra sau.
Chú thích:

1.

Theo Kinh Thánh, Evơ là người đàn bà đầu tiên, thủy tổ của loài người.

2.

Họa sĩ và cũng là nhà tu hành dòng Đôminic ở Italia, thế kỷ 15.

3.

Nhà thờ Pháp, thế kỷ 18.

4.

Cuốn cẩm nang du lịch mang tên tác giả (một nhà xuất bản Đức).

XX. Mặt trời ấm áp mùa xuân trải những tia nắng hồng nhạt trên quảng trường. Trưa đến, đám người bán ngũ cốc và bột từ nông thôn tới chợ, ra về hết. Những người bán kem đắp lên trên mặt bàn trải vải bông màu đỏ, những tòa lâu đài con con phía dưới có khắc chữ Bibite ghiacciate 1. Một niềm vui thanh thoát từ bầu trời tỏa xuống mặt đất. Buổi sáng, đi dạo chơi ở vườn bách thảo Bôbôli trở về, Têredơ và Giăc đi qua cái ban công nổi tiếng. Têredơ nhìn bức tượng Xabin 2. của Giăng Đơ Bôlônhơ 3. với cái vẻ tò mò chăm chú của một người đàn bà quan sát một người đàn bà. Còn Đơsactrơ chỉ ngắm Têredơ. Anh nói với nàng:
- Ánh nắng mặt trời rực rỡ mơn trớn đôi má hồng mịn của em, vuốt ve thân hình em, tôn thêm sắc đẹp của em, thật kỳ diệu.
- Vâng. - Nàng đáp - Ánh sáng nến làm nét mặt em đanh lại. Em vẫn nhận ra điều đó. Em không hợp với buổi tối, thật là không may: buổi tối chính là lúc phụ nữ có cơ hội ra mắt và làm đẹp lòng người ta. Buổi tối, quận chúa Xơniavin có một làn da rực rỡ; còn dưới nắng mặt trời thì vàng ệch. Cái đó, phải thừa nhận bà ta không hề quan tâm. Bà ta không làm đỏm.
- Còn em thì làm đỏm hay sao?
- Ồ! Có. Trước kia, em làm đỏm cho em, nhưng bây giờ thì cho anh đấy.
Nàng lại nhìn pho tượng Xabin cao lớn, lực lưỡng đang cố thoát ra khỏi hai cánh tay Rômanh 4.
- Người đàn bà đẹp phải có thân hình rắn chắc và tay chân thon thả như thế phải không anh? Em thì không có như vậy.
Anh nói để nàng yên tâm. Nhưng không phải nàng băn khoăn. Bây giờ nàng nhìn tòa lâu đài tí hon của anh chàng bán kem lưu động, những chiếc khay bằng đồng đựng kem lấp lánh trên tấm khăn trải bàn đỏ rực. Bỗng nhiên nàng thèm đứng ăn một cây kem như những người nữ công nhân vừa ăn lúc nãy. Anh bảo nàng:
- Em chờ một lát.
Rồi vội chạy về con đường ở phía trái.
Lát sau, anh trở lại trao cho nàng một chiếc thìa nhỏ bằng bạc mạ vàng, lớp mạ đã bị tróc đi một nửa, cuối cán thìa chạm một bông huệ Phlôrăngx, đài hoa lấm chấm màu đỏ.
- Em dùng mà ăn kem. Anh chàng bán kem không có thìa, và nếu em phải lè lưỡi ra mút kem thì cũng vui lắm đấy. Nhưng em không quen.
Nàng nhận ra chiếc thìa, một báu vật nhỏ nàng đã nhìn thấy hôm trước trong tủ kính một cửa hiệu đồ cũ bên cạnh.
Cả hai người hân hoan, không giấu được niềm vui tràn đầy và đơn sơ trong lòng. Họ nói với nhau những lời hầu như vô nghĩa. Và cũng cất tiếng cười vang khi anh chàng người Phlôrăngx vừa làm điệu bộ vừa kể chuyện theo lời những người kể chuyện ngày trước ở Ý. Nàng thú vị về điệu bộ làm trò tuyệt vời trên khuôn mặt tươi tắn với dáng dấp cổ kính ấy nhưng không hiểu chuyện kể những gì. Nàng hỏi Giăc:
- Anh chàng nói gì thế?
- Em muốn biết à?
Nàng muốn biết.
- Vậy thế này: hắn nói là hắn sẽ sung sướng nếu những con rệp trong giường hắn cũng được như em.
Nàng ăn xong kem, anh giục nàng đi thăm lại Ô Xan Misen. Ngay bên canh thôi mà! Chỉ cần đi tắt qua quảng trường là thấy ngay bảo vật bằng đá ngày xưa. Hai người ra đi. Họ ngắm nhìn tượng thánh Giooc và thánh Mac bằng đồng hun. Đơsactrơ thấy lại trên bức tường lởm chởm của ngôi nhà cái thùng thư, và nhớ lại với một sự chính xác đến nhức nhối bàn tay nhỏ nhắn đi găng bỏ thư và trong đó. Anh thấy cái mõm bằng đồng đã từng nuốt gọn điều bí ấn của Têredơ. Anh không sao có thể quay mặt đi được. Tất cả niềm vui trong lòng tiêu tan. Còn nàng thì vẫn say sưa ngắm nhìn bức tượng rắn rỏi của tác giả kinh Phúc âm 5.
- Quả là vị thánh này có vẻ trung thực và thẳng thắn. Nếu thánh nói thì có lẽ miệng chỉ thốt ra những lời chân lý.
Anh chua chát đáp:
- Nhưng không phải là miệng một phụ nữ.
Nàng hiểu tâm tư anh và nói rất dịu dàng:
- Sao anh nói với em như vậy? Em nói thành thực kia mà.
- Em bảo thế nào là thành thực? Em biết là phụ nữ bắt buộc phải nói dối chứ!
Sau một thoáng ngập ngừng, nàng đáp:
- Một người đàn bà là thành thực khi người đó không nói những điều dối trá vô ích.
Chú thích:

1.

Tiếng Italia: Nước giải khát ướp lạnh.

2.

Hoàng hậu La Mã, thế kỷ 2.

3.

Nhà nặn tượng ở Phlôrngx, thế kỷ 16.

4.

Hoàng đế La Mã, thế kỷ 2, chồng Xabin.

5.

Thánh Mac là một trong bốn nhà trưc tác kinh Phúc âm.

XXI. Trang phụ màu xám sẫm, Têredơ lướt nhẹ dưới rặng kim tước hoa. Hoa dương mai tựa những ngôi sao lấp lánh phủ kín triền dốc khu vườn. Hoa nguyệt quế ngào ngạt, rực rỡ trên những sườn đồi thoan thoải. Phlôrăngx nở đầy hoa.
Vivian Ben, trang mục màu trắng, đi lại trong khu vườn thơm ngát.
- Darling thấy đấy, Phlôrăngx quả là thành phố hoa. Người ta lấy bông huệ đỏ làm biểu tượng là đúng. Hôm nay là ngày hội đấy, daling ạ.
- A! Hôm nay là ngày hội?…
- Darling, cô không biết hôm nay là ngày một tháng năm, ngày Primavera 1. hay sao? Sáng nay, cô không thức giấc trong một cảnh thần tiên tuyệt vời hay sao? Ồ, darling, cô không tổ chức ngày hội Hoa? Cô, người yêu hoa, cô không cảm thấy vui mừng sao? Tôi biết cô yêu hoa mà, my love: cô dịu dàng với chúng. Cô đã từng bảo tôi là hoa biết vui mừg, biết buồn bã, là chúng cũng đau khổ như chúng ta kia mà.
- A! nói là chúng cũng đau khổ như chúng ta à?
- Ồ! Cô đã bảo tôi như vậy. Hôm nay là ngày hội Hoa. Phải tổ chức hội theo phong tục của tổ tiên và theo nghi thức do các họa sĩ ngày xưa quy định.
Têredơ nghe mà chẳng hiểu gì hết. Nàng vò lá thư vừa nhận được trong bàn tay đi găng. Lá thư dán tem bưu điện Ý và vẻn vẹn hai dòng:
“Đêm nay, tôi đã tới khách sạn Anh, Lungacnô Axxiaoli. Tôi chờ cô trong buổi sáng mai. Buồng số 18“.
- Ồ, darling, cô không biết phong tục ăn mừng mùa xuân vào ngày một tháng năm ở Phlôrăngx hay sao? Nếu thế thì cô không thể hiểu hoàn toàn ý nghĩa bức Mùa xuân, bức tranh tuyệt vời phảng phất một niềm vui mơ màng của Bôttixenli 2. vẽ về ngày hội hoa. Trước kia, vào ngày đầu tháng năm này, cả thành phố sống trong hân hoan, darling ạ. Các cô gái ăn mặc quần áo ngày hội và kết những vành hoa sơn trà, đi thành từng đoàn dài dọc sông Coocxô, dưới những cổng chào kết hoa và họp thành những đội đồng ca trên thảm cỏ tươi, dưới tán nguyệt quế. Chúng ta sẽ làm như họ. Chúng ta sẽ nhảy trong vườn.
- A! Chúng ta sẽ nhảy trong vườn?
- Đúng thế, darling ạ, và tôi sẽ tập cho cô cách nhảy của người Tôxcan thế kỷ XV mà ông Môrixông, vị niên trưởng trong số các giám đốc thư viện Luân Đôn, tìm thấy trong một bản viết tay. Cô sớm trở về nghe, my love; chúng ta sẽ đội mũ hoa và sẽ nhảy.
- Phải đấy, bạn thân mến, chúng ta sẽ nhảy.
Và, đẩy cửa vườn, nàng vội chạy theo con đường nhỏ, con đường bị nước bào mòn như một dòng khe, lởm chởm đá dưới những hàng cây hoa hồng. Nàng nhảy vào cỗ xe đầu tiên trên đường. Anh chàng xà ích cắm những bông xa cúc lam trên mũ và cán roi ngựa.
- Khách sạn Anh, Lungacnô Axxiaôli!
Nàng đã từng biết Lungacnô Axxiôli… Nàng đã tới đó một buổi chiều và nàng nhớ lại ánh nắng mặt trời vàng ruộm, chói chang trên dòng sông xao động. Sau đó là đêm tối, là tiếng sóng nước rì rào trong vắng lặng, là những lời nói, những ánh mắt làm nàng rạo rực, là cái hôn đầu tiên của người yêu và những giây phút đầu tiên của mối tình không sao cưỡng nổi. Ồ! Đúng, nàng nhớ lại Lungacnô Axxiaôli và bờ sông phía bên kia Cầu Cũ… Khách sạn Anh… Nàng biết rõ: mặt trước khách sạn bằng đá ngoảnh ra bờ sông. Cũng còn may là anh ấy tới đây, vì anh cũng có thể đến ở khách sạn Thành phố, trên quảng trường Manin, nơi ở của Đơsactrơ. Cũng còn may là hai người không ở đối diện với nhau trong cùng một hành lang… Lungacnô Axxiaôli!… Người chết mà Đơsactrơ và nàng thấy những người thầy tu mang đi như chạy trên đường, giờ đây, đã nằm bình yên đâu đó, trong một nghĩa trang có hoa lá…
“Buồng 18”
Một phòng khách sạn không trang trí, có lò sưởi theo kiểu Ý. Một bộ bút vẽ bày ra cẩn thận trên bàn và cuốn chỉ nam ngành đường sắt. Không một cuốn sách, một tờ báo. Anh ngồi kia: trên gương mặt gầy gò hiện lên nỗi đau khổ sâu đậm, một dáng dấp như người đang bị sốt. Nàng cảm thấy có một điều gì nghiêm trọng và nặng nề. Anh chờ đợi một lời nói, một cử chỉ, nhưng nàng vẫn xa lạ, không dám làm gì hết. Anh đưa ghế mời nàng ngồi. Nàng đẩy ghế ra và vẫn đứng.
- Têredơ, có một điều gì đó tôi không rõ, cô nói đi.
Im lặng một lát, nàng trả lời chậm rãi, khó nhọc:
- Lạy Chúa, tại sao anh lại bỏ đi, khi tôi ở Pari?
Nghe giọng nói rầu rĩ, anh nghĩ và anh muốn tin đó là một lời trách móc âu yếm. Sắc mặt anh ửng hồng. Anh sôi nổi đáp:
- A! Giá như anh biết trước! Thực ra, buổi đi săn ấy, chắc em biết rõ là anh chẳng mất quan tâm! Nhưng lá thư ngày 27 (anh có cái tài nhớ ngày tháng) của em khiến anh bàng hoàng. Chắc lúc đó xảy ra điều gì. Em hãy nói hết cho anh biết.
- Lúc đó, tôi nghĩ anh không yêu tôi nữa.
- Nhưng bây giờ, khi em đã biết là ngược lại thì sao
- Bây giờ…
Nàng ngồi im một lát thõng xuống đan vào nhau.
Rồi, với một vẻ điềm tĩnh bề ngoài:
- Lạy Chúa! Chúng ta hiến thân cho nhau mà không hay biết. Có bao giờ chúng ta hay biết đâu. Anh trẻ, trẻ hơn tôi, vì chúng ta tuổi suýt soát nhau. Chắc hẳn anh có những dự định cho tương lai.
Anh kiêu hãnh nhìn nàng trực diện. Nàng nói tiếp, thái độ ít tự tin hơn:
- Những người thân, mẹ anh, các cô anh, vị tướng - bác anh đều có những dự định cho anh. Đó là điều rất tự nhiên. Tôi có thể là một vật cản… Tôi không còn dính dáng gì tới cuộc đời anh thì tốt hơn. Chúng ta sẽ giữ kỷ niệm tốt về nhau.
Nàng chìa bàn tay đeo găng cho anh. Anh vẫn đứng, hai tay khoanh lại:
- Thế là cô không muốn tôi nữa? Cô tưởng cô làm cho tôi sung sướng hơn bất kỳ người đàn ông nào, rồi bỏ rơi tôi, và mọi cái sẽ kết thúc đơn giản như vậy? Cô nghĩ thế nghĩa là cô không còn lưu luyến gì tôi nữa!… Cô vừa nói gì với tôi? Yêu rồi bỏ. Hiến thân cho nhau, rồi bỏ nhau… Ồ! Cô, tôi đâu phải là người mà người ta dễ dứt ra được.
- Vâng, có thể anh đã đặt ở tôi nhiều hy vọng hơn người khác, trong trường hợp tương tự. Đối với anh, tôi không phải chỉ là để tiêu khiển. Nhưng nếu tôi không phải là người đàn bà mà anh tin tưởng, nếu tôi lừa dối anh, nếu tôi nông nổi… Anh biết đấy: người ta đã nói… Vâng, giá như tôi đã không xử sự với anh đúng như tôi phải xử sự…
Nàng ngập ngừng một lát rồi nói tiếp, giọng nghiêm trang và chân thành không ăn khớp với những điều nàng nói:
- Nếu tôi hiến thân cho anh, chỉ vì những sự cám dỗ, vì hiếu kỳ, nếu tôi bảo anh tôi không phải là đứa có tình cảm đúng đắn…
Anh cắt ngang lời nàng:
- Cô nói dối.
- Đúng, tôi nói dối. Và tôi nói dối không khéo. Tôi muốn bôi đen quá khứ của chúng ta. Tôi có lỗi. Như anh đã biết đấy. Nhưng…
- Nhưng làm sao?…
- A! Cái đó! Tôi đã nói mãi với anh rồi đấy; tôi không tin chắc ở mình. Có những người đàn bà - như người ta vẫn nói - có thể tin chắc ở mình. Tôi đã từng bảo anh tôi không như họ và tôi không tin chắc ở bản thân mình.
Anh lắc đầu lia lịa như một con thú bị chọc tức nhưng còn lưỡng lự trước khi xung trận.
- Cô muốn nói gì? Tôi không hiểu, không hiểu gì hết. Cô hãy nói rõ... cho rõ, cô nghe không? Có một cái gì đó giữa chúng ta. Tôi không biết là cái gì. Tôi muốn biết cái đó. Cái đó là cái gì?
- Như tôi vừa nói với anh đấy, tôi không phải là người đàn bà tin chắc ở mình, và anh không nên trông cậy vào tôi. Không! Anh không nên. Tôi không hề hứa hẹn gì hết… Vả chăng, giá tôi có hứa, thì lời nói là cái gì?
- Cô không yêu tôi nữa! Ồ! Cô không yêu tôi nữa, tôi thấy rõ lắm. Nhưng mặc cô! Tôi, tôi yêu cô. Trước kia, cô không nên hiến thân. Giờ đây, cô đừng hy vọng thoát thân. Tôi yêu cô và sẽ giữ cô lại… Cô nghĩ cô có thể lặng lẽ thoát khỏi bước này sao? Cô hãy nghe tôi nói chút đỉnh. Cô đã làm tất cả để tôi yêu cô, để tôi gắn bó với cô, để tôi không thể sống không có cô. Chúng ta đã cùng nhau hưởng những lạc thú vô song. Và cô đã không từ chối phần mình. Ồ! Tôi đâu có cưỡng đoạt cô. Cô muốn lắm chứ! Mới cách đây sáu tuần thôi, cô không mong muốn gì hơn. Đối với cô lúc đó, tôi là tất cả. Có những lúc chúng ta không còn biết tôi có phải là cô và cô có phải là tôi nữa không. Thế rồi, bỗng nhiên cô muốn tôi không biết gì nữa, tôi không quen cô nữa, cô muốn đối với tôi, cô chỉ là một kẻ xa lạ, một người đàn bà nào đó bất chợt gặp trên đường đời. A! Cô quá tự tin đấy! Nào, có phải tôi mơ màng không? Những cái hôn của cô, hơi thở của cô bên người tôi, những tiếng rúc rích của cô, những cái đó không có thật chăng? Tôi bịa ra tất cả chăng? Ồ! Không có gì phải nghi ngờ: cô đã từng yêu tôi. Tình yêu của cô, tôi vẫn cảm thấy trên người mình. Thế đấy, tôi không thay đổi. Tôi vẫn như xưa. Cô không có gì phải trách tôi. Tôi không lừa dối cô, tôi không yêu ai khác. Không phải tôi tự ca ngợi mình. Vì quả tôi không thể yêu ai khác. Khi đã biết cô thì những người đàn bà nhan sắc nhất cũng đều vô vị. Tôi không bao giờ có ý nghĩ lừa dối cô. Tôi vẫn luôn luôn xử sự với cô một cách hào hiệp. Vì sao cô không yêu tôi nữa? Cô trả lời tôi đi, nói đi. Cô hãy nói là cô vẫn yêu tôi đi. Cô hãy nói đi vì quả là như thế. Têredơ, đến đây, đến đây, em sẽ cảm thấy ngay lập tức là em vẫn yêu anh như em đã từng yêu anh trước đây, trong cái tổ ấm của chúng ta ở đường Xpôngtini, nơi chúng ta đã sung sướng biết bao nhiêu. Em đến đây!
Anh ôm choàng lấy nàng, nồng nhiệt, hai cánh tay thèm khát. Còn nàng, ánh mắt hết sức hãi hùng, nàng đẩy anh ra với một nỗi kinh hoàng lạnh lùng.
Anh hiểu, dừng lại và nói:
- Cô đã có tình nhân!
Nàng chậm rãi cúi đầu, rồi ngẩng lên, im lặng và nghiêm trang.
Thế là anh đánh nàng vào ngực, vào vai, vào mặt. Nhưng ngay lập tức, anh lùi lại, xấu hổ. Anh cúi mặt, im lặng. Hai môi nhấm nhấm móng tay, anh thấy bàn tay bị xước chảy máu vì đụng phải chiếc kim găm trên áo lót của nàng. Anh ngồi sụp xuống ghế bành, thờ ơ như kẻ không hồn và rút mùi soa lau máu.
Còn nàng thì đứng dựa vào cánh cửa, đầu ngẩng cao, sắc mặt xanh xao, ánh mắt mơ màng. Nàng gỡ tấm mạng bị rách ra và sửa lại mũ với một sự chăm chút bản năng. Nghe tiếng vải sột soạt - thứ tiếng xưa êm đềm biết bao - anh giật mình, nhìn nàng và trở lại giận dữ.
- Kẻ đó là ai? Tôi muốn biết kẻ đó là ai.
Nàng không nhúc nhích. Trên khuôn mặt tái nhợt, in dấu nắm tay phũ phàng. Nàng đáp, dịu dàng nhưng kiên quyết:
- Tất cả những gì có thể nói với anh, tôi đã nói. Đừng hỏi gì tôi. Chỉ vô ích thôi.
Anh nhìn nàng với một ánh mắt dữ dằn nàng chưa từng thấy bao giờ.
- Ô! Cô không phải xưng tên hắn ra. Tôi sẽ tìm ra thôi.
Nàng lặng im, buồn cho anh, lo lắng cho anh. Lòng khiếp hãi, kinh hoàng nhưng nàng không ân hận, không xót xa, không sầu não, tâm hồn ở tận đâu đâu.
Anh như có cảm giác mơ hồ về những gì đang diễn ra trong óc nàng. Thấy nàng dịu dàng và thanh thản đến thế, thấy nàng đẹp hơn lúc nàng thuộc về mình và đẹp cho một kẻ khác, anh những muốn giết nàng, anh thét lên:
- Cô đi đi!
Rồi, rã rời vì hành động hận thù vừa qua, vội xa lạ với anh, hai tay ôm lấy đầu, anh khóc nức nở.
Nỗi đau ấy làm nàng xúc động, nàng hy vọng có thể an ủi anh, có thể làm cho cuộc chia tay bớt cay đắng. Nàng có ảo tưởng có thể làm anh quên nàng.
Với thái độ thân thiện và tin cậy, nàng đến ngồi cạnh anh:
- Anh cứ trách mắng tôi đi. Tôi là kẻ đáng trách mắng và hơn nữa còn đáng khinh. Anh cứ khinh bỉ tôi nếu anh muốn và nếu người ta có thể khinh bỉ một con người khốn khổ phó mặc số phận cho cuộc đời. Anh cứ tùy ý phán xét. Nhưng trong giận hờn, xin anh hãy giữ lại một chút tình bạn, một kỷ niệm chua xó nhưng êm đềm tựa tiết trời mùa thu với cả ánh mặt trời lẫn gió bấc lạnh giá. Tôi đánh như vậy. Mong anh đừng quá nghiêm khắc đối với người khách dễ chịu và phù phiếm đã lướt qua cuộc đời anh. Mong anh chia tay tôi như chia tay một cô gái lữ hành buồn rầu đi đâu không ai biết. Bao giờ ra đi cũng âu sầu biết bao! Lúc nãy, anh giận dữ. Tôi không trách anh đâu. Tôi chỉ đau khổ thôi. Mong anh giữ lại một chút cảm tình. Ai biết rồi sẽ ra sao? Tương lai bao giờ cũng là điều bí ẩn. Tương lai rất mơ hồ, rất tăm tối trước mắt tôi. Mong sao tôi có thể tự nói với lòng mình là tôi đã xử sự tử tế, giản dị, ngay thẳng đối với anh, và anh cũng không quên điều đó. Với năm tháng, anh sẽ hiểu, anh sẽ tha thứ. Từ nay, mong anh rủ chút lòng xót thương.
Anh không nghe nàng nói, nhưng giọng nói dịu dàng, âm thanh trong trẻo của nàng làm dịu lòng anh. Anh thảng thốt nói:
- Cô không yêu hắn. Chính tôi mới là người cô yêu. Vậy thì…?
Nàng ngập ngừng rồi thốt ra:
- A! Nói yêu cái gì, không yêu cái gì, đó là điều không dễ đối với một người đàn bà, ít ra cũng là đối với tôi. Vì tôi không biết những người khác họ làm thế nào. Nhưng cuộc sống thì không khoan dung. Người ta bị xô đẩy, bị thúc bách, bị lay động…
Thái độ hết sức điềm tĩnh, anh nhìn nàng. Anh nảy ra một ý nghĩ; anh đi tới một quyết định. Đơn giản thôi. Anh tha thứ, anh lãng quên, miễn nàng trở lại ngay với anh.
- Têredơ, em không yêu hắn phải không? Đấy chỉ là một sai lầm, một sơ sót trong chốc lát, một việc khủng khiếp và ngu ngốc mà em đã làm vì yếu đuối, vì bất ngờ, có thể vì hờn giận nữa. Em hãy thề với anh là em sẽ không gặp lại hắn nữa.
Anh cầm cánh tay nàng:
- Em thề với anh đi.
Nàng lặng im, hai hàm răng nghiến chặt, nét mặt ủ rũ; anh bóp mạnh cổ tay nàng. Nàng kêu lên:
- Anh làm tôi đau!
Thế nhưng anh vẫn theo đuổi ý định của mình. Anh kéo nàng đến tận chiếc bàn trên đặt bộ bút vẽ, lọ mực và mấy tờ giấy viết thư có hình vẽ màu xanh mặt ngoài khách sạn Anh với vô số cửa số.
- Cô hãy viết theo lời tôi đọc. Tôi sẽ cho mang thư đi.
Nàng cưỡng lại, và anh đẩy nàng quỳ xuống. Kiêu hãnh và điềm tĩnh, nàng đáp:
- Tôi không thể, tôi không muốn.
- Vì sao?
- Vì… Anh muốn biết à?… Vì tôi yêu anh ấy. ột ngột anh buông cánh tay nàng ra. Giá có khẩu súng sáu trong tay thì có thể anh giết nàng. Nhưng hầu như ngay lập tức, cơn giận của anh thấm đượm nỗi buồn và giờ đây trong cơn tuyệt vọng, chính anh là người muốn chết.
- Điều cô nói đó có đúng không? Có thể như thế được chăng? Có đúng thế không?
- Tôi làm sao biết được? Làm sao nói được? Làm sao hiểu được? Làm sao tôi còn có được một ý nghĩ, một tình cảm, một tia sáng về bất kỳ điều gì? Làm sao…
Rồi nàng gắng gượng nói thêm:
- Làm sao vào lúc này tôi có thể nghĩ đến điều gì khác ngoài nỗi buồn của tôi và nỗi thất vọng của anh?
- Cô yêu hắn! Cô yêu hắn! Hắn có cái gì, hắn như thế nào khiến cô yêu hắn?
Anh kinh ngạc đến sững sờ, đến tê dại. Nhưng điều nàng nói đã chia rẽ họ. Anh không còn dám thô bạo nữa, không còn dám lôi kéo, đánh đập, giày vò nàng như một cái gì xấu xa, bướng bỉnh nhưng là của anh nữa. Anh nhắc lại:
- Cô yêu hắn! Cô yêu hắn! Nhưng hắn đã nói gì, đã làm gì khiến cô yêu hắn? Tôi hiểu cô: những lúc ý tưởng của cô làm tôi khó chịu, tôi không hề nói với cô. Tôi cam đoan hắn thậm chí cũng không phải là một người thanh nhã. Và cô tưởng hắn yêu cô. Cô tưởng thế à? Thế thì cô nhầm đấy: hắn không yêu cô đâu. Hắn chỉ lấy làm kiêu hãnh mà thôi. Hễ có cơ hội là hắn sẽ bỏ rơi cô. Khi đã làm thương tổn kha khá đến danh dự cô, hắn sẽ đoạn tuyệt thôi. Và cô sẽ ê chề trong cảnh lẳng lơ của mình. Năm tới, người ta sẽ bàn tán về cô: “Cô ta lê la với khắp mọi người”. Tôi lấy làm buồn phiền cho ông cụ cô, ông là bạn tôi và ông sẽ biết cách xử sự của cô và cô đừng hy vọng đánh lừa được ông.
Nàng ngồi nghe, ô nhục nhưng bớt băn khoăn, nghĩ rằng giá anh khoan dung thì nàng còn đau khổ nhiều hơn.
Là con người bản tính đơn giản, anh thực sự khinh miệt nàng. Sự khinh miệt ấy làm anh dễ chịu. Lúc nãy, anh giận lên đến tận cổ.
- Việc đó xảy ra như thế nào? Cô có thể nói với t chứ?
Nàng nhún vai, vẻ thương hại tới mức anh không dám tiếp tục nói với giọng đó nữa. Anh trở lại căm hờn.
- Cô có hình dung là tôi sẽ giúp cô cứu vãn bề ngoài, là tôi sẽ đến nhà cô, tiếp tục gặp chồng cô, và vờ đóng vai người tình của cô không?
- Tôi nghĩ là anh sẽ làm điều mà một người đàn ông lịch duyệt phải làm. Tôi không xin anh gì hết. Tôi những muốn giữ kỷ niệm về anh như về một người bạn tuyệt vời. Tôi những tưởng anh khoan dung và tốt bụng đối với tôi. Điều đó giờ đây không thể được nữa. Giờ đây, tôi thấy không bao giờ người ta có thể chia tay nhau tử tế cả. Sau này, sau này, anh sẽ đánh giá tôi đúng hơn. Vĩnh biệt!
Anh nhìn nàng. Giờ đây nét mặt anh biểu lộ sự đau khổ hơn là căm giận. Chưa bao giờ nàng thấy đôi mắt anh ráo hoảnh và có quầng đến như thế, hai bên thái dương cằn cỗi với mấy sợi tóc lưa thưa như thế. Hình như chỉ trong một tiếng đồng hồ mà anh đã già hẳn đi.
- Tôi muốn báo trước cho cô biết. Tôi không thể gặp lại cô được. Cô không phải là người đàn bà tôi có thể gặp lại trước mặt mọi người sau khi tôi đã từng chiếm đoạt cô mà rồi cô không còn thuộc về tôi nữa. Tôi đã nói điều đó với cô. Cô không giống những người khác. Cô có một thứ thuốc độc mà cô đã cho tôi uống và giờ đây tôi cảm thấy nó trong khắp cơ thể, trong mạch máu mình. Vì sao tôi lại quen cô kia chứ.
Nàng nhìn anh, vẻ khoan dung:
- Vĩnh biệt! Và mong anh cứ nghĩ là tôi không đáng để anh phải thiết tha luyến tiếc đến thế.
Còn anh, khi nhìn nàng đặt tay lên khóa cửa, và cảm thấy sẽ mất nàng, sẽ không bao giờ còn gặp nàng nữa, thì anh thét lên một tiếng và nhảy vọt ra. Anh không còn nhớ gì nữa. Chỉ còn lại nỗi sững sờ về một tai họa lớn quá sức, về một sự mất mát không sao cứu vãn nổi. Và từ sâu thẳm của nỗi kinh hoảng, trong anh dâng lên một dục vọng. Anh muốn một lần nữa chiếm đoạt nàng, chiếm đoạt người đàn bà sẽ mãi mãi ra đi. Anh kéo nàng về phía mình. Anh ham muốn nàng một cách tự nhiên, với tất cả sức mạnh của một ham muốn thú vật. Nàng cưỡng lại với tất cả ý chí còn lại, ý chí tự do và cảnh giác. Nàng thoát ra được, lòng bị xúc phạm tan nát, đau đơn và thậm chí không chút khiếp sợ.
Anh hiểu lúc này làm gì cũng vô ích; anh nhận ra điều lúc nãy anh không thấy được. Sự tình đã diễn ra đúng như vậy và nàng không còn thuộc về anh nữa vì đã thuộc về một người khác. Đau đớn trở lại, anh nguyền rủa và đẩy nàng ra ngoài.
Nàng đứng một lát trong hành lang, kiêu hãnh chờ một tiếng nói, một ánh mắt xứng đáng với mối tình vừa qua của họ.
Nhưng anh lại hét lên: “Đi đi” và sập mạnh cửa.
Nàng trở lại Anphiêri, trở lại ngôi lầu vắng lặng hôm nào. Với các tượng thủy thần và đàn dê khắc trên đá, lầu vẫn giữ nguyên kỷ niệm về những cặp người yêu thời quận chúa Êlida. Ngay lập tức, nàng cảm thấy thoát khỏi thế giới đau khổ và tàn bạo và như được đưa tới một đoạn đời không biết gì đến buồn đau. Dưới chân cầu thang lác đác những cánh hoa hồng. Đơsactrơ ngồi chờ nàng. Nàng ngả vào lòng anh, hoàn toàn phó thác. Anh bế trên tay người đàn bà trước kia đã từng khiến anh sợ hãi, run rẩy giờ đây mê man như một cái xác quý giá vô ngần. Mắt lim dim, trong lòng nàng dâng lên một nỗi tủi nhục xót xa lẫn một niềm hân hoan diệu kỳ. Mệt mỏi, buồn đau, nàng nhớ lại những nối chán chường trong ngày với thái độ thô bạo của Rôbe, đồng thời cảm thấy lấy lại được tự do, cảm thấy cần lãng quên tuy còn vương vấn một chút sợ hãi. Tất cả khiến nàng càng thêm âu yếm. Ngả mình trên giường, nàng quàng hai tay vào cổ người yêu.
Sau những giờ phút đắm đuối là những niềm vui trẻ con. Họ cười cười, nói nói những chuyện không đâu, họ đùa giỡn, cắn những trái cây đặt bên cạnh, trên chiếc đĩa vẽ hoa. Trên mình chỉ còn chiếc sơmi mỏng màu hồng trễ xuống vai, để hở một bên ngực và bên kia núm vú hồng hồng lộ ra sau lớp vải mỏng, nàng thưởng thức thân hình lồ lộ của mình. Hai môi nàng hé nở, hai hàm răng lấp lánh. Vẻ băn khoăn và nũng nịu, nàng hỏi anh có thất vọng không sau những phút giây anh đắm say mơ tưởng tới nàng.
Ánh nắng mặt trời dịu dàng rọi vào phòng. Anh say sưa nhìn ngắm nàng, nói những lời yêu đương và hôn nàng thắm thiết.
Họ đắm mình trong những sự vuốt ve đằm thắm, những lời trêu chọc âu yếm, những ánh mắt hoan hỉ. Rồi bỗng nhiên trở nên trang nghiêm, mắt tối sầm lại, môi mím chặt, như bị một cơn giận dữ kỳ dị giày vò, cơn giận dữ biến ái ân thành thù hận, họ lại vồ vập lấy nh trong hoan lạc, trong sự tìm kiếm cái tận cùng.
Nàng hé mở cặp mắt đắm đuối và mỉm cười, đầu đặt trên gối, máu tóc xõa ra, dịu dàng như một người bệnh trong thời kỳ điều dưỡng.
Anh hỏi nàng vì sao có vết đỏ nhỏ bên thái dương. Nàng đáp nàng không nhớ nữa và điều đó chẳng quan trọng gì. Hầu như nàng chỉ nói dối chút đỉnh và nói dối “thực lòng”. Quả là nàng không còn biết nữa.
Họ nhớ lại chuyện của họ - đẹp đẽ và gần gũi - nhớ lại quãng đời từ ngày họ gặp nhau.
- Anh còn nhớ lúc đừng ngoài hàng hiên, sau hôm anh đến chứ? Hôm đó, anh nói với em những điều mơ hồ, chẳng có đầu đuôi gì cả. Em đoán anh yêu em.
- Lúc đó, anh sợ tỏ ra ngờ nghệch trước mặt em.
- Lúc đó đúng là anh tỏ ra khá ngờ nghệch; đó là thắng lợi của em đấy. Em bắt đầu sốt ruột thấy anh chẳng có vẻ gì xúc động khi ở bên em. Em yêu anh trước khi anh yêu em. Ồ! Em không lấy thế làm xấu hổ đâu.
Anh rót vào miệng nàng một giọt vang sủi bọt vùng Axti 3. Nhưng trên mặt bàn có một chai vang Traximen 4. Nàng muốn thưởng thức thứ vang này để nhớ lại cái hồ hoang vắng và mỹ lệ, nơi nàng đã đến thăm một buổi chiều, nhớ lại mặt hồ trong vắt gợn sóng lăn tăn. Lúc đó là lần đầu tiên nàng đến thăm đất Ý, cách đây đã sáu năm.
Anh trêu chọc nàng đã khám phá ra vẻ đẹp của các sự vật trong lúc không có anh.
Nàng đáp:
- Không có anh, em không biết nhìn, không thấy gì hết. Vì sao anh không tới sớm hơn?
Anh trả lời nàng bằng một cái hô đằm thắm. Và khi ra khỏi cơn đê mê, trong niềm sung sướng đến tuyệt đỉnh, cơ thể vừa khoái lạc vừa mệt mỏi, nàng thốt lên:
- Đúng rồi, em yêu anh! Đúng rồi, bao giờ em cũng chỉ yêu một mình anh!
Chú thích:

1.

Tiếng Latinh: Ngày đầu xuân.

2.

Họa sĩ Italia ở Phlôrăngx, thế kỷ 15 - 16.

3.

Thành phố Italia, nổi tiếng về sản xuất rượu vang trắng.

4.

Thành phố Italia, nổi tiếng về hồ Pêrudơ

XXII. Lơ Mênin viết cho nàng: “Bảy giờ tối mai, tôi khỏi hành. Cô hãy ra ga.”
Nàng ra ga. Nàng thấy anh mặc măng tô dài màu xám, đứng trước dãy xe ngựa của khách sạn, vẻ đứng đắn điềm tĩnh. Anh chỉ nói:
- À! Cô đã đến kia đấy!
- Thì anh gọi tôi đến kia mà.
Anh không dám thú nhận anh đã viết thư với niềm hy vọng phi lý là nàng sẽ trở lại yêu anh và mọi chuyện khác sẽ quên đi, hoặc nữa là nàng sẽ nói với anh: “Chỉ là một thử thách”
Giá nàng nói như vậy thì anh tin ngay.
Thất vọng thấy nàng lặng im, anh nói với một cách lạnh lùng:
- Cô có gì cần nói với tôi? Người phải nói là cô, chứ không phải là tôi. Tôi, tôi không có gì phải giãi bày cả. Tôi có phản bội đâu mà phải thanh minh.
- Anh đừng độc ác, đừng bội bạc với quá khứ. Đó là điều tôi phải nói với anh. Và tôi vẫn phải nói với anh là tôi chia tay với nỗi buồn của một người bạn thực sự.
- Chỉ có thế thôi à? Nếu vậy thì cô đi nói với hắn, cái đó quan hệ tới hắn hơn là tới tôi.
- Anh gọi tôi, và tôi đã tới; anh đừng làm phải ân hận là đã tới.
- Tôi lấy làm tiếc là đã làm phiền cô. Chắc hẳn cô có thể sử dụng thì giờ thứ vị hơn. Tôi không giữ cô. Cô hãy về gặp hắn, có chết thèm đi rồi mà.
Chợt nghĩ những lời nói tội nghiệp và khốn khổ ấy thoáng thể hiện nội đau muôn thuở của nhân loại, và các tác phẩm bi kịch cũng đã minh họa những nỗi đau tương tự, nàng có cảm giác buồn bã pha lẫn chút châm biếm và bất giác hơi nhếch mép. Anh lại ngỡ nàng cười.
- Xin cô đừng cười và nghe tôi nói đây: Hôm kia ở khách sạn, tôi muốn giết cô. Chỉ suýt nữa thôi, nhưng bây giờ thì tôi hiểu thế nào rồi. Bởi vậy tôi không làm việc đó nữa đâu. Cô có thể hoàn toàn yên tâm. Vả chăng, để làm gì? Vì tôi muốn giữ phép lịch sự cho bản thân mình nên sau này tôi sẽ đến thăm cô ở Pari. Người ta sẽ bảo là cô không thể tiếp tôi. Tôi sẽ thăm chồng cô, và cả thân sinh cô nữa. Để chia tay, vì tôi sẽ đi một chuyến du lịch hơi dài ngày. Tạm biệt cô!
Lúc anh quay lưng lại, Têredơ thấy Ben bà Anhectimenli ở ga hàng hóa, bước ra và đi về phía mình. Ông hoàn rất bảnh. Vivian hớn hở đi bên cạnh.
- Ồ, darling, gặp cô ở đây thật ngạc nhiên và thủ vị! Hoàng thân và tôi, chúng tôi vừa đến xác nhận ở cơ quan Hải quan chiếc chuông vừa mới được gửi tới.
- Á! Chuông đã tới hả cô?
- Darling, nó đã tới đây, cái chuông của Ghibecti 1! Tôi vừa nhìn thấy trong cái chuồng gỗ. Nó không kêu vì đang bị nhốt. Nhưng ở Phidơn, tôi sẽ đặt nó vào vào cái tháp. Khi nó cảm nhận được không khí Phlôrăngx, nó sẽ hân hoan gióng lên tiếng chuông lanh lảnh. Chim câu sẽ bay đến và chuông sẽ rung lên cùng một nỗi vui buồn của chúng ta. Nó sẽ rung lên vì cô, vì tôi, vì ông hoàng, vì bà Macmê tốt bụng, vì ông Sulet, vì tất cả bè bạn chúng ta.
- Bạn thân mến, chuông không bao giờ rung lên với những buồn vui thực sự cả. Chúng chỉ là những viên chức trung thực chỉ biết những tình cảm công khai mà thôi
- Ô, darling, cô nhầm rồi. Chuông nằm trong nỗi niềm thầm kín của tâm hồn; chúng biết hết tất cả. Nhưng tôi rất sung sướng được gặp cô ở đây. Ô, my love, tôi biết vì sao cô ra ga. Cô gái hầu phòng đã tiết lộ bí mật của cô. Cô bé bảo tôi là cô mong chờ chiếc áo màu hồng mãi không thấy tới và cô sốt ruột đến héo hon đi. Nhưng cô đừng bun phiền. Bao giờ cô cũng là người đẹp tuyệt vời, my love ạ.
Ben dắt bà Mactanh lên xe ngựa.
-Về nhanh lên, darling; hôm nay Giăc Đơsactrơ đến ăn tối và tôi không muốn để ông ấy phải chờ.
Họ đi trong buổi chiều tà vắng lặng, trên những con đường nhỏ ngào ngạt hương vị hoang dã.
- Darling, cô có nhìn thấy những búp sợi của các nữ thần Paccơ 2, những cây bách ở nghĩa trang kia không? Tôi muốn đến nghỉ ở đó.
Têredơ lo lắng suy nghĩ: “Họ đã không thấy anh ấy. Không biết cô ta có nhận ra anh không? Chắc không. Chỗ mình đứng lúc ấy đã, thỉnh thoảng lại lóe lên những tia sáng làm lóa mắt người ta. Có điều, Ben có biết anh ấy không? Mình không nhớ năm ngoái cô ta có gặp anh ở nhà mình hay không”.
Điều khiến nàng băn khoăn là cái vẻ hớn hở có vẻ nham hiểm của anh chàng hoàng thân.
- Darling, cô có muốn có một chỗ cạnh tôi, trong nghĩa trang thôn dã kia, chúng ta sẽ yên nghỉ bên nhau dưới một ít đất và nhiều khoảng trời không? Nhưng tôi có lỗi đã đưa ra một lời mời mà cô không sao chấp nhận được. Cô không được phép ngủ giấc ngủ nghìn thu dưới chân đồi Phidơn, my love ạ. Chỗ yên nghỉ của cô phải là Pari, trong một ngôi mộ tráng lệ, bên cạnh bá tước Mactanh-Benlem cơ!
- Vì sao? Bạn thân mến, cô nghĩ là vợ hắn phải gắn bó với chồng, cả sau khi chết nữa à?
- Chắc chắn phải như thế, darling ạ. Hôn nhân là cho hiện tại và cho cả vĩnh hng. Thế ra cô không biết câu chuyện cặp vợ chồng trẻ ở tỉnh Ovecnhơ à? Hai ngươi chết hầu như cùng một lúc và được an táng trong hai ngôi mộ ở hai bên đường. Nhưng mỗi đêm, một cây tầm xuân lại ngả cành cây đầy lá đầy hoa của nó từ ngôi mộ này sang ngôi mộ kia. Nó muốn hai cỗ áo quan được đặt cạnh nhau.
Trên đường, họ gặp một đám rước đi ngược lên đồi, gió chiều thổi trên những ngọn nến còn lại trên những chiếc chân nến bằng gỗ thiếp vàng. Những dòng người quần áo màu trắng, màu xanh thuộc các giáo đoàn đi theo sau những cây cờ hiệu sặc sỡ. Tiếp đến là một chú bé tóc hung uốn quăn, trần truồng, khoác tấm da cừu non, đóng vai thánh Giăng và một cô bé bảy tuổi, mái tóc lượn sóng vàng ánh đóng vai nữ thánh Mari-Mađơlen. Dân Phidơn đi theo rất đông. Ông ta hát, một tay cầm một cây nến, tay kia cầm sách, cặp kính màu xanh đặt trên sống mũi; những tia sáng vàng hoe bập bùng nơi những đường gãy góc trên khuôn mặt ngắn và dẹt, nơi những cái bướu trên mái đầu gồ ghề của ông ta. Bộ râu cắm hoang dại vểnh lên, cụp xuống theo nhịp bài thánh ca. Do tác dụng của những mảng tối và mảng sáng dữ dội trên khuôn mặt, ông ta có vẻ vừa già lão vừa lực lưỡng tựa những ẩn sĩ có khả năng chịu cả một thế kỷ khổ hạnh.
- Ông ta đẹp quá - Têredơ thốt lên - Ông ta tự mình làm trò cười cho mình. Quả là một nghệ sĩ lớn.
- Ồ, darling, vì sao cô lại muốn ông Sulet không phải là một người kính tín? Vì sao? Niềm tin bao giờ cũng đem lại nhiều nguồn vui và nhiều cái đẹp. Các nhà thơ biết điều đó. Giá không có niềm tin thì Sulet không thể làm những câu thờ tuyệt diệu như ông đã làm.
- Thế còn bạn, bạn có niềm tin không, cô bạn thân mến?
- Ồ! Có, tôi tin Chúa và tin lời của Giêsu.
Kiệu, cờ lệnh, những khăn choàng màu trắng đã khuất sau những chỗ gập ghềnh trên con đường khúc khuỷu. Nhưng lửa nến vẫn chiếu những tia sáng vàng rực trên mái đầu trần của Sulet.
Một mình Đơsactrơ ngồi chờ trong vườn. Têredơ thấy anh đang chống tay trên lan can ngoài hiên, nơi anh cảm nhận những nỗi đau đầu tiên của tình yêu. Trong lúc Ben và Anbectinenli tìm chỗ đặt lầu chuông để nay mai treo chuông, thì anh kéo người yêu đi về phía rặng kim tước.
- Thế mà em hẹn gặp anh trong vườn. Anh chờ em đã một tiếng, một tiếng đằng đẵng. Nhẽ ra em không nên đi. Em vắng mặt làm anh ngạc nhiên và thất vọng.
Nàng đáp một cách mơ hồ là nàng bắt buộc phải ra ga, và Ben đã đánh xe ngựa đưa nàng về.
Anh xin lỗi đã tỏ ra băn khoăn. Nhưng mọi cái đều làm anh kinh hoàng. Hạnh phúc của anh cũng khiến anh sợ hãi. Mọi người đã ngồi vào bàn khi Sulet xuất hiện với bộ mặt của một kẻ phóng đãng cổ lỗ; một niềm vui dữ dội lấp lánh trong đôi mắt sáng rực. Từ khi Axxidơ về, ông ta chỉ sống với tầng lớp cùng dân, suốt ngày uống vang Siăngti với các cô hầu và các nghệ nhân. Ông giảng thuyết cho họ về niềm vui và sự trong sạch, về sự ra đời của Chúa Giêsu, về sự bãi bỏ thuế khóa và chế độ quân dịch trong tương lai không xa. Sau khi đám rước kết thúc, ông ta tập hợp đám người lang thang lại trong nhà hát La Mã đổ nát và bằng một ngôn ngữ hổ lốn cả tiếng Pháp lẫn tiếng Tôxcan, ông ta đọc một bài thuyết giáo mà ông vốn thích đọ đi đọc lại:
“Các nhà vua, các nhà thượng nghị sĩ và các quan tòa đã nói: “Cuộc sống của dân chúng nằm trong tay tôi” Thế nhưng họ dối trái, chẳng khác nào cỗ áo quan nói: “Ta là cái nôi”.
“Cuộc sống của dân chúng nằm trong mùa lúa trêu các cánh đồng đang chín vàng dưới con mắt của Chúa. Nó nằm trong những dãy nho leo trên các cành du non, và trong tia nắng và giọt mưa của đất trời thắm đượm hoa trái trong các vườn cây quả.
“Nó không nằm trong các đạo luật do bọn nhà giàu và bọn quyền thế đặt ra nhằm duy trì quyền uy và sự giàu có.
“Những người đứng đầu các vương quốc và các nước cộng hòa ghi vào sử sách rằng quyền của con ngươi là quyền chiến tranh. Và họ ca ngợi bạo lực. Và họ tôn kính những kẻ chính phục; và ở những nơi công cộng, họ lập tượng đài cho con người và con ngựa chiến thắng. Nhưng quyền của người ta không phải là giết chóc: bởi thế, người chính trực không đắc cử trong các cuộc bỏ phiếu. Người ta có quyền không dung dưỡng sự điên rồ và tội ác của một ông hoàng được đưa lên cầm đầu một vương quốc hay một nước cộng hòa: bởi thế, người chính trực không nộp thuế, và không đóng đồng nào cho bọn quản lý. Người đó sẽ yên ổn hưởng thụ kết quả lao động của mình, sẽ làm ra bằng lúa mù mình gieo vãi và sẽ ăn trái những cây mình chn.”
- A! Ông Sulet - hoàng thân Anbectinenli nghiêm trang nói - ông rất có lý khi quan tâm đến tình trạng khốn khổ của đồng ruộng tươi đẹp của chúng ta mà thuế khóa đã làm cho kiệt quệ. Đánh thuế đến ba mươi ba phần trăm thu nhập thì còn thu được gì nữa của đất đai? Chủ và tớ đều là nạn nhân của bọn quản lý cả thôi.
Đơsactrơ và bà Mactanh ngạc nhiên về sự thành thật bất ngờ trong giọng nói ông hoàng.
Ông ta nói thêm:
- Tôi yêu nhà vua. Tôi đảm bảo lòng trung thành của mình. Nhưng tôi thông cảm với những nỗi đau khổ của nhân dân.
Sự thực là ông ta khéo léo ra sức chuẩn bị một sự nghiệp duy nhất: hồi phục khu trang trại Caxentinô mà thân sinh ông ta, hoàng thân Caclô, quan hầu của Victo-Emmanuyen 3. đã để cho ba phần tư rơi vào tay bọn cho vay nặng lãi. Thái độ khéo léo bề ngoài của ông ta che đậy một sự ngoan cô dai dẳng. Ông ta là kẻ vụ lợi và chỉ theo đuổi một lợi ích riêng của mình. Chính vì muốn trở lại thành một điền chủ lớn ở Tôxcan mà ông ta buôn bán tranh cô, bán bất hợp pháp những bức họa nổi tiếng trên trần lầu nhà mình, lấy lòng các bà và cuối cùng muốn kết hôn với Ben mà ông ta biết là người kiếm ra tiền rất sành sỏi và quản lý nhà cửa rất thành thục. Ông ta thành thực yêu ruộng đất và nông dân. Những lời nói sôi nổi của Sulet - mà ông ta hiểu một cách mơ hồ - khuấy động tình yêu ấy trong lòng ông ta. Ông bất giác bộc lộ tư tưởng của mình:
- Ở một đất nước mà chủ và tớ hợp thành một gia đình duy nhất thì số phận của người này tùy thuộc vào số phận của những người khác. Thuế khóa làm chúng tôi khánh kiệt. Anh em tá điền của chúng ta là những người dũng cảm biết bao! Họ là những người làm ruộng đầu tiên trên đời này.
Têrendơ thú nhận là trước đây nàng không nghĩ như thế. Nàng chỉ thấy có riêng các cánh đồng ở Lôngbacđi là được cày bừa cẩn thận và có vô số mương máng cắt ngang dọc. Còn Tôxcan, thì nàng thấy như một vườn cây ăn quả hoang vu.
Anbectinenli mỉm cười đáp là có lẽ Têrendơ không nói như vậy nếu nàng hạ c đến thăm trang ấp của ông ta tuy chúng đã phải chịu đựng những vụ tranh chấp kéo dài và tốn kém. Nếu đến nàng sẽ thấy thế nào là người nông dân Ý.
- Tôi rất quan tâm đến điền địa của mình. Chiều nay khi ở đây ra về, tôi có được hai niềm vui là gặp ở ngoài ga cô Ben ra xem chuông và bà Mactanh đang chuyện vãn với một người bạn Pari.
Anbectinenli tin là Têredơ sẽ khó chịu khi nghe nói tới chuyện gặp gỡ ấy. Nhìn xung quanh bàn, thấy Đơsactrơ không giữ nổi cử chỉ ngạc nhiên đượm vẻ băn khoăn, ông ta liền nhấn mạnh:
- Xin bà thứ lỗi cho một kẻ quê mùa dám tự phụ am hiểu thiên hạ: tôi nhân ra người nói chuyện với bà là một người Pari: ông ta có vẻ như người Anh, và trong lúc làm ra vẻ cứng rắn, ông ta vẫn tỏ ra hoàn toàn thoải mái và đặc biệt sôi nối.
- Ồ! - Têrendơ hững hờ đáp. - Đã từ lâu tôi không gặp ông ta. Và tôi hết sức ngạc nhiên khi bỗng dưng thấy lại ông ta ở Phlôrăngx trước khi ra đi.
Nàng nhìn Đơsactrơ nhưng anh làm như không nghe thấy gì.
- Nhưng tôi biết ông ấy. - Ben nói - Ông Lơ Mênin ấy mà. Tôi đã hai lần ngồi ăn cạnh ông ấy, ở nhà bà Mactanh, ông ta trò chuyện với tôi rất thú vị. Ông ấy bảo tôi ông thích bóng đá, chính ông đã đưa trò thể thao này vào đất Pháp và hiện nay môn bóng đã rất thịnh hành. Ông ấy cũng kể với tôi những buổi đi săn. Ông yêu loài vật. Tôi nhận thấy dân săn bắn rất yêu loài vật. Tôi bảo đảm với cô là Lơ Mênin nói chuyện tuyệt vời về loài thỏ, darling ạ. Ông ta biết thói quen của chúng. Ông ta bảo xem thỏ nhảy múa dưới ánh trăng, trong những bụi thạch thảo thật thú vị. Ông cam đoan với tôi là chúng rất thông minh, và ông đã cam đoan với tôi là chúng rất thông minh, và ông đã từng thấy một con thỏ già bị đàn chó săn đuổi, dùng từng thấy một con thỏ già bị đàn chó săn đuổi, dùng chân buộc một chú thỏ khác ra khỏi hang để đánh lừa. Lơ Mênin có nói chuyện thỏ với cô không, darling?
Têredơ đáp là nàng không biết và nàng thấy dân đi săn là những kẻ chán ngấy.
- Darling này, cô không biết Phaniông đâu. Ồ! Tôi tin chắc Đơsactrơ biết cô ấy. Cô ấy đẹp và thân với các nhà thơ. Cô ở trên đảo Côx, trong một ngôi nhà nhỏ trên sườn đồi trồng đầy chanh và cây nhựa điều chạy thoai thoải xuống tận bờ biển. Người ta bảo cô ta thích nhìn “ánh mắt” màu da trời của sóng biến. Tôi lể chuyện Phaniông cho Lơ Mênin nghe, và ông ta rất thích thú được biết chuyện. Cô ta nhận được một người đi săn một con thỏ con, hai tai dài ngoằng bị bắt khi đang bú mẹ. Cô ta bế con thỏ trên đầu gối và nuôi nó bằng những cánh hoa mùa xuân. Nó yêu Phaniông và quên mất mẹ. Nhưng nó đã chết vì ăn quá nhiều hoa, Phaniông khóc nó, đem chôn nó trong vườn chanh, dưới nấm mồ mà từ giường nằm cô có thể nhìn thấy. Mất thỏ con, Phaniông được an ủi bằng những lời ca của nhà thơ.

Ben phản đối. Cô không bao giờ cho Lơ Mênin là người đáng chán khi ông ta nói về những chú thỏ nhảy múa dưới ánh trăng, trong các bụi thạch thảo hay các ruộng nho. Nàng cũng muốn nuôi một chú thỏ conPhaniông.

Bà Maomê cho rằng Lơ Mênin có cách xử sự thanh nhã và chín chắn làm vui lòng người, mà lớp thanh niên không hề có. Bà rất muốn gặp ông ta và nhờ giúp một việc.
- Việc cho người cháu họ tôi ấy mà. - bà nói - Hắn là đại úy pháo binh, được cấp trên yêu mến và nhận xét tốt. Viên đại ta, thủ trưởng của cháu, trong một thời gian dài làm việc dưới quyền một ông bác của ông Lơ Mênin là tướng Đơ La Brisơ. Tôi sẽ rất biết ơn ông Lơ Mênin nếu ông ấy vui lòng nhớ ông bác viết mấy chữ cho đai tá Phôrơ giúp đỡ chán tôi. Và chẳng nó không xa đối với ông Lơ Mênin. Năm qua, hai người đã gặp nhau trong buổi khiêu vũ hóa trang do đại úy Đơ Lêxxay tổ chức ở khách sạn Anh cho các sĩ quan trong doanh trại Caăng và cho thanh niên các gia đình tử tế vùng lân cận.
Đầu cúi thấp, bà Macmê nói thêm:
- Dĩ nhiên, đám phụ nữ được mời không thuộc giới thượng lưu. Nhưng nghe nói có những người rất nhan sắc. Họ được mời từ Pari về kia đấy. Cháu tôi - người kể lại những chi tiết này - hóa trang thành người đánh xe trạm. Còn Lơ Mênin thì đóng rất đạt vai lính khinh kỵ của Tử thần.
Ben bảo rất buồn phiền không được biết Lơ Mênin đến Phlôrăngx. Nếu biết được thì nhất định cô đã mời ông ta đến nghỉ ở Phidơn.
Cho đến cuối bữa ăn, Đơsactrơ tỏ vẻ rầu rĩ và lơ đãng. Lúc chia tay, Têredơ có cảm giác anh tránh không bắt tay.
Chú thích:

1.

Nhà kiến trúc, điêu khắc và họa sĩ Italia, ở Phlôrăngx, thế kỷ 14-15

2.

Ba nữ thần ở chốn âm phủ quyết định sinh mạng con người.

3.

Vua Xacđenhơ (một hoàn đảo Italia).

Anatole France
Dịch giả: Nguyễn Trọng Thịnh
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chung một dòng trôi

Chung một dòng trôi Màu chiều đỏ ối hắt xuống dòng sông nhiều nỗi ưu tư, lũ ve kêu hè dường chừng như đã mệt, “tiếng hát” thưa dần rồi t...