Phạm Thiên Thư - Khi sư ông xả thân làm tín đồ thơ!
Chân dung Phạm
Thiên Thư
|
Trung thành
với phong cách ngôn ngữ Truyện Kiều của Nguyễn Du, Phạm Thiên Thư đã
vượt qua bút pháp ước lệ tượng trưng của chủ nghĩa cổ điển, khai triển tứ thơ
nhẹ tự sự, nặng trữ tình trong những màn độc thoại nội tâm sâu sắc tình
tiết. Đọc Đoạn trường vô thanh, bạn đọc sẽ hỏi: đây là tiểu thuyết bằng
thơ? hay khúc ngâm? Rõ ràng nghiêng về khúc ngâm. Da thịt Hậu Kiều thì
hồng hào tươi tốt, nhưng xương cốt của nó lại mềm yếu. Bằng cách để cho các
nhân vật hồi ức, Phạm Thiên Thư đã tô đậm thêm những chỗ còn thiếu sót và mờ
nhạt của Truyện Kiều Nguyễn Du. Nghệ thuật biểu hiện linh hoạt và ngôn
ngữ cẩm tú của Đoạn trường vô thanh có khá nhiều câu, đoạn, chương hay
nghiêng ngửa với Đoạn trường tân thanh. Hai quyển Kiều có giá trị bổ
sung nâng đỡ làm đẹp cho nhau, chứ không phải loại trừ nhau như có người lầm
tưởng.
Chân
tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.
VẠN HẠNH
Thiền sư
Đã yên vị
tọa thiền mà mắt còn lem lém liếc về cõi tục, đã đem thân nương cửa Phật những
tưởng được cởi trói nào ngờ lại đem nợ chằng vào thân! Thật là đa đoan, đa
mang, Phạm Đại Đức rõ là một ông sư phá giới!
- Thưa
không!
Là nhà sư,
Phạm Thiên Thư đã dốc toàn tâm tu hành. Nhưng Phạm không phải là một tu sĩ khổ
hạnh ép xác khắc kỷ phục lễ, Phạm tu theo lối riêng. Lúc Phạm trì tụng:
Tay nào
nghiêng nón thơ che
Tay nào lần
chuỗi Bồ đề xanh xao...
Nến khuya
lửa hắt hiu vàng
Trang kinh
lác đác đôi hàng nhạn sa
Ý nào hoá
hiện ngàn hoa
(Động hoa
vàng)
Lúc Phạm hồi
tưởng:
Mặt trời đỏ
thẫm bên cồn
Dòng chim
bay quẩy hoàng hôn qua đèo
Em ngồi bên
suối cheo leo
Lơ thơ tóc
biếc còn neo ráng vàng
(10)
Lúc Phạm
trằn trọc:
Thoảng tiếng
mưa rơi đậu trước thềm
Mùa thu gõ
guốc gió qua êm
Chừng như
cánh mộng cô hàng xóm
Nở với hoa
quỳnh lúc nửa đêm.
(Mộng hoa)
Lúc Phạm
vui: "Sông xanh xanh nhé một dòng - mùa xuân cắp rổ ra đồng với
hoa" (Động Hoa Vàng). Lúc Phạm buồn chán: "Dài thân nằm ngẫm
vô thường - Nghiêng vò đổ cái chán chường vào say" (47). Lúc Phạm nhớ
thương: "Năm sau em bỏ đi rồi - Ta về ngồi lắng mưa rơi giậu buồn"
(Động Hoa Vàng). Lúc Phạm yêu: "Trong hồn thơ, em là tượng biếc - Ngồi
tung hoa xuống cõi mênh mông" (Tượng biếc). Phạm băn khoăn trước lẽ
nhiệm màu Phật pháp:
Bước vào hỏi
Đấng chí tôn
Bạch thầy:
"Cái lẽ sinh tồn là đâu"
Hỏi chi
Người cũng lắc đầu
Xuyên câu
hỏi lại thành xâu bồ đề.
(27)
..và Phạm đã
phát hiện ra cái hư vô siêu hình:
Soi mình
thấy cái chơi vơi
Lượn bay như
một cánh giơi mù lòa
Hiện nguyên
hình một đóa hoa đại quỳ.(84)
Trời ! Phật
tử mà lên chùa chắc chết mê chết mệt ông nhà thơ này ngâm thơ hơn là lắng nghe
sư thầy Tuệ Không thuyết pháp? Đạo Phật đã thấm vào trong máu của Phạm, người
thở ra là hơi thiền đạo. Thật đúng cốt cách của một thi sĩ hào hoa hơn là một
đệ tử của Phật.
Vào trước và
sau thập kỷ 70 của thế kỷ trước, Phạm Thiên Thư xuất hiện trên bầu trời thi ca
Phật giáo miền Nam như một ngôi sao sáng.
Lấy các giáo
lý của đạo Phật làm nền tảng tư tưởng, thế giới thơ ca của Phạm khai triển xoay
quanh cái gốc này. Phạm mang khát vọng dấn thân với ý tưởng táo bạo muốn Việt
hóa, thi hóa, trẻ hóa đạo Phật. Phạm đã cả gan viết lại kinh Phật bằng ngôn ngữ
của thi ca và người đã tỏ ra khá tinh tế, lịch lãm trung thành với nguyên bản ý
kinh.
Bài kệ chính
yếu của Kinh Kim cương, Phật dạy: "Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm
thanh cầu ngã, thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai" (dịch nghĩa:
Nếu đem sắc tướng để mong nhìn thấy ta, hoặc đem âm thanh để nhận biết ta thì
người ấy đã lạc đường, không thể nào gặp được Như Lai). Phạm Thiên Thư đã thi
hoá với hình tượng như sau:
Dùng thân
vàng thấy Phật
Dùng khánh
ngọc cầu ta
Người đó lạc
tà đạo
Với cung
cách đó, Phạm Thiên Thư đã cất công nỗ lực hết mình soạn lại Kinh Kim Cương thành
Kinh Ngọc; Kinh Hiền Ngu thành Kinh Hiền, Kinh Hiếu; Kinh
Pháp Cú thành Kinh Thơ. Với hàng chục ngàn câu thơ lục bát khá nhuần
nhuyễn chở nặng những ngụ ngôn, truyền thuyết, huyền thoại, giáo huấn, với một
bút pháp biến hoá, Phạm đã Việt hoá biến đức Thích Ca Mầu Ni thành đức Phật của
Việt Nam, Ấn Phật thành Việt Phật. Những sai sót không thể không tránh khỏi khi
Phạm Thiên Thư đã không nhìn nhận Kinh Phật như một văn bản để tụng niệm mà
nhìn nó dưới góc độ một tác phẩm thi ca. Tôn giáo thường đem mình đồng hoá mọi
người, còn Phạm làm thơ là tìm cách phân thân mình ra thành một người khác để
ngắm nghía mình rõ hơn. Muốn chở được đạo - Phạm nghĩ - phải nhờ con
thuyền nghệ thuật mới thấm sâu được vào lòng người.
Nếu một sư
ông chỉ chắm chúi miệt mài với kinh kệ thì ta đâu có một thi nhân. Phạm Thiên
Thư vốn thực con nhà nòi - nòi tình. Cái giống đa tình này là giòng giống chung
của những ai nặng nghiệp bút nghiên.
Tình yêu
trong thơ Phạm Thiên Thư là một thứ tình đầu đời của các trẻ mới lớn, đương
choai. Nó như đóa sen trinh trắng nở giữa cuộc thế mong manh, chật hẹp, luôn
tiếc nuối, ngầm đau, mất mát. Nhà thơ chỉ nhìn thấy "dáng em nho nhỏ -
trong cõi xa vời". Giai nhân của Phạm mỏng manh như cái bóng, những em
Ngọ, em Ngọc làm bằng hương hoa, không da thịt phàm trần. Người yêu của Phạm
không có những em nào đẹp quyến rũ, mê tơi, bốc lửa. Người yêu của Phạm là
những thục nữ yểu điệu, mềm mại như tơ, tha thướt như liễu, ảo như sương, khó
cận kề được. Tấm thân các nàng sinh ra không phải là để hưởng lạc ái ân mà chỉ
để tôn thờ. Phạm đã thành tâm tu hành dưới bóng mát của người đẹp bằng một thứ
tình chay tịnh tinh khiết. Tiếng nói yêu đương của Phạm cất lên thủ thỉ từ
trong các hoài niệm hồi chưa vào chùa: sáng rụt rè rước em này, chiều len lén
đón đưa em nọ, những cuộc hò hẹn ấp úng trước cổng trường, cổng chùa, bên gác
chuông, những ánh mắt thơ ngây hồn bướm mơ tiên đưa tình qua cửa Phật. Ta cứ
luôn thấy trái tim thắm đỏ của nhà thơ đập phập phồng, rối rít một nỗi em em
dưới lần áo nâu sồng. Với tấm chân tình đằm thắm, trong cõi phù sinh, thế cũng
đủ cho lòng người diệu vợi chơi vơi. Phạm yêu là để thấm thía cái bọt bèo của
kiếp người.
Việc một tu
sĩ Phật giáo làm thơ tình nghe ra cũng ngồ ngộ thiệt nhưng đó là một việc hợp
lẽ tự nhiên. Thực ra, chuyện này Phạm bị oan. Mà thôi... tôi cần chi phải nói
ra. Cứ để Phạm mang cái nghi án trái ngang này cho thêm phần sương khói ảo
huyền. Có điều cần phải hiểu về Phạm: ta không thể nào tìm thấy sắc dục, vật
dục trong thơ Phạm Thiên Thư. Nó hoàn toàn thánh thiện. Phạm Thiên Thư không
thể đắc đạo nhưng bạn đọc vui mừng có được một chàng Phạm Thái tài hoa mới.
Em nằm dưới
mộ bi
Buồn không
trăng đầu dẫy
Nhớ xưa em
dậy thì
Bâng khuâng
nhìn trăng lên
Pháp Loa
nói: "Khẩu thuyết xuất gia, tâm hành thế nghiệp..." (Miệng nói
xuất gia nhưng tâm theo chuyện thế tục...). Với Phạm Thiên Thư, chuyện thế tục
là chuyện văn chương ngàn năm thiên cổ sự.
Trong thâm
tâm Phạm Thiên Thư rất kính trọng thiên tài Nguyễn Du với tập đại thành Truyện
Kiều. Chính thi tài của Nguyễn đã cho phép người mượn một chuyện lá cải của
Trung Hoa để giãi bày chữ tiết trong tâm sự u uẩn của mình mà làm nên danh tác,
nhưng Phạm không phục và chấp nhận Nguyễn đã vay mượn quá nhiều từ đề tài, cốt
truyện, văn liệu, địa điểm, thời gian, điển cố....(1). Tinh thần dân tộc cực
đoan đó đã dẫn tới việc Phạm dám táo gan viết Hậu Kiều với tên mới Đoạn trường
vô thanh (Niềm đau không tiếng) nối điêu vào kiệt tác của một thiên tài! Dưới
ánh sáng của kinh Kim cương, Phạm viết Hậu Kiều là để thấm đậm tư tưởng của đạo
Phật cùng ý thức Việt hoá, thoát ly hẳn những ảnh hưởng ngoại lai trong việc
tiếp thu di sản văn hoá của cha ông. Đoạn trường vô thanh đề cao dân tộc, thiên
nhiên và lao động, coi như cội nguồn của thân - tâm giúp con người vượt thoát,
phục sinh khỏi mọi bế tắc tư tưởng để sống khỏe mạnh, an hòa và tiến hóa, giải
thoát khỏi tai ách vận nghiệp quá khứ, Đoạn trường vô thanh gồm 27 chương,
3.296 câu lục bát, dài hơn Tân thanh 42 câu. Mỗi chương được trình bày như một
bức tranh về đời sống nàng Kiều. Tác giả đã xoá bỏ mọi điển tích từ chương Hán,
thay thế bằng hình ảnh, anh hùng điển cố, lịch sử thuần túy Việt Nam: Trần Hưng
Đạo chỉ kiếm xuống sông Hoá thề diệt giặc thay cho Kinh Kha, Từ Thức cởi áo từ
quan thay cho Lưu Thần Nguyễn Triệu, tâm trạng Mai An Tiêm bị đày thay cho
Chiêu Quân cống Hồ và Tô Vũ bị cầm tù xa cố quốc, sông Thương thay cho sông
Tiền Đường, những Tiên Dung - Chử Đồng Tử, Tản Viên, Thánh Gióng, Bạch Vân...
cũng không bỏ sót. Phạm Thiên Thư đã thổi một luồng gió mát ca dao dân ca, tục
ngữ dân tộc vào tác phẩm. Các phong tục tập quán được khai thác triệt để.
Cho thơ hoà
với mênh mang
Cho mênh
mang đọng hạt đàn vô thanh
Đoạn trường
vô thanh là truyện thơ hư cấu nghệ thuật nối tiếp Đoạn trường tân thanh của
Nguyễn Du từ sau ngày Kim - Kiều tái hợp. Bản cáo trạng cuối cùng này của thi
hào Nguyễn Du được nhà thơ Phạm Thiên Thư đẩy tới cao trào trong tiếng kêu
thương lặng chìm, không tiếng. Hậu Kiều có thêm một số nhân vật mới: Tiểu
Nguyện là con gái Thúy Vân và Kim Trọng; Trần Nguyện Mai là chiến hữu của Từ
Hải tại Giao Châu; Hồ Ông là dòng dõi Hồ Quý Ly lưu lạc bên Tàu thời Minh, thầy
học của Kim Trọng, Vương Quan và Thuý Kiều, người chủ trương học phái "tri
hoà hành hoá" (biết nên hòa, làm nến hóa) đặc biệt từ dân tộc Việt; Ẩn Lan
là con gái Hồ Ông, người yêu đầu đời của Vương Quan; thầy Văn Chương là nhà sư
sáng lập phái "Thi tông" dùng thi ca khai mở Phật tánh, thầy dạy Đạo
cho Thuý Kiều; Ngô Khôi là học trò của Hồ Ông sau này (thời Hồ Ông ở ẩn). Tác
giả đã dời địa điểm của truyện về đất Phong Châu, nước Đại Ngu. Những địa danh:
Đá trắng, Mai Sưu, Đa Cóc, Yên Mô, Đền Mẫu... đều thuộc vùng Chí Linh, Hải
Dương - nơi Phạm Thiên Thư lớn lên thời thơ ấu và niên thiếu tại điền trang của
gia đình (1943 - 1951).
Với Đoạn
trường tân thanh, Nguyễn Du đã thi hoá Thanh Tâm Tài Nhân, diễn bày số phận
Thuý Kiều trong một xã hội thối nát, thì với Đoạn trường vô thanh, Phạm Thiên
Thư diễn bày cái tâm thức trưởng thành của Thuý Kiều như đoá hoa ngát hương
trong vũng lầy xã hội phong kiến. Hai quyển Kiều có chỗ nhất quán là cuộc đời,
ý thức vượt lên định đoạt thân phận con người, đòi quyền sống, quyền tự do và
hạnh phúc. Nhân vật trung tâm, người anh hùng, "người vác thập tự trong
cuộc đoạn trường" của Hậu Kiều vẫn chính là nàng Kiều tuyệt tài, tuyệt
sắc, đa tình và đức hạnh chứ không phải ai khác. Nàng đã giở sang trang đời khác
với cuộc sống mới sang trọng và bình yên. Chỉ vì lòng tự trọng, tự tôn người
tình xưa, Kiều đã chủ động đổi tình cầm sắt ra cầm kỳ. Đường đường là một quý
bà - bạn thân của quan huyện Kim danh giá, nhưng tuổi thanh xuân mới chẵn 30
của nàng đã chết trong cảnh sống độc thân vò võ. Thân tâm Kiều vẫn đầy giông
bão nội tâm. Đã xa rồi cảnh tượng hãi hùng "Canh khuya, thân gái dặm
trường", đời đã hửng sáng, nhưng Kiều vẫn bị ám ảnh vẩn vơ bởi tài mệnh
tương đố, duyên nghiệp nhân quả, tình là dây oan, cùng những tín ngưỡng dị đoan
đè nặng lên số kiếp.
Viết Hậu Kiều, Phạm Thiên Thư vẫn phải thủ vai một nhà tư tưởng và người nghệ sĩ với trái tim nhân hậu thăm sóc nốt phần đời còn lại cho nàng. Đó là cách nhà thơ muốn giải vận nghiệp dân tộc. Qua những biến động ghê gớm của cá nhân lịch sử, chúng ta đi tìm cái chúng ta đã mất. Không như Nguyễn Du, Phạm Thiên Thư không trà trộn các ngôn ngữ triết thuyết khác nhau Nho Phật Lão chen lấn vào. Kiều vẫn bị hành hạ tâm linh. Phạm buộc để cho Kiều tiếp tục nghĩ suy về lẽ hưng phế của cuộc thế, trời đất với ý hướng tích cực:
Viết Hậu Kiều, Phạm Thiên Thư vẫn phải thủ vai một nhà tư tưởng và người nghệ sĩ với trái tim nhân hậu thăm sóc nốt phần đời còn lại cho nàng. Đó là cách nhà thơ muốn giải vận nghiệp dân tộc. Qua những biến động ghê gớm của cá nhân lịch sử, chúng ta đi tìm cái chúng ta đã mất. Không như Nguyễn Du, Phạm Thiên Thư không trà trộn các ngôn ngữ triết thuyết khác nhau Nho Phật Lão chen lấn vào. Kiều vẫn bị hành hạ tâm linh. Phạm buộc để cho Kiều tiếp tục nghĩ suy về lẽ hưng phế của cuộc thế, trời đất với ý hướng tích cực:
Xét trong
trời đất vô cùng
Biển dâu sắp
đặt lạ lùng cao xanh
Bao nhiêu
cung điện tan tành
Xô đi dựng
lại dưới vành trăng tươi
Thăng hoa
cuộc sống con người
Phế hưng
trải rộng lẽ trời tự nhiên.
Kiều thật cả
nghĩ. Nàng luôn băn khoăn lục vấn, triết luận kiếm tìm nguyên nhân nào đã đẩy
con người vào vực thẳm. Tai họa nghiệt ngã đâu có trừ riêng ai:
Hay rồi một
trận gió mưa
Bùn đen kia
hẳn không chừa đài hương
(Khói mờ
ngoài sông)
Trong cái
hỗn độn đó, kiếp người thật mong manh, ngắn ngủi, vô nghĩa:
Đời người
như cánh hoa lay
Trần gian
thơm một đôi ngày lại thôi
(Chải tóc
thu phong)
Trách lòng
tự đúc nên khuôn
Trách người
chia những vai tuồng thấp cao
Vui buồn
trong giấc chiêm bao
Rồi đem vọng
tưởng khép vào tâm can.
(Tẩy nước
cành dương)
Tinh thần
bấn loạn, con người chuốc vào thân những "vọng tưởng" để tự
hành tội mình. Chỉ từ khi thấm nhuần triết lý sống của thầy học Hồ Ông, Kiều
mới cảm thấy tịnh tâm, thanh thản hơn, sao cho trong trùng vây của ý thức tư
tưởng phải vượt lên để không sống uổng những ngày thừa còn lại:
Thường
khuyên: mình đã loạn mình
Cái tâm
khiến lụy cái hình lao đao.
Truyền đời
xây tiếp tâm lao
Càng giăng
bẫy quỷ, càng nhào khe ma
(Khói mờ
ngoài sông)
Suy nghĩ của
Kiều trên đường quy cố hương thật đáng lưu ý. Những câu hỏi đau đáu nhói buốt
xuyên qua tâm trí nàng về cõi thế mù loà này vẫn tiếp tục dày vò nàng:
Cõi người
chất ngất hờn oan
Cuộc cờ bày
xoá mấy bàn đua tranh
Ném ra xe
ngựa tung hoành
(Mây thu
cuộn vàng)
Giải pháp
chữ tâm mà Nguyễn Du đặt ra cuối Truyện Kiều còn được Phạm Thiên Thư tán thành
và khai triển tiếp nối. Bước chuyển biến trong nhận thức nàng Kiều tuy có chậm
chạp, như lời dạy bảo của nhà sư chùa Văn Chương "Con người cứ mãi xa
nguồn - đày mình giữa những chán chường quẩn quanh", nhưng cuối cùng
cũng tới đích. Thuý Kiều về quê, núi non vùng trung du Chí Linh đã giúp nàng
ngộ được cái chân lý cao quý, cái hạnh phúc xa vời mang mang nội tại trong tâm
từng giúp nàng tự chỉnh trong tha hoá đau khổ:
Mặc ai tìm
kiến Tây Thiên
Riêng ta
biến cái não phiền thành hoa.
Hoài công
sớm tối ê a
Chi bằng hái
cúc ươm trà ngẫm thu
Thiên nhiên
và lẽ biến dịch sẽ làm nhiệm vụ thanh hoá con người. Phải chăng cái nôi thiên
nhiên, quan hệ nhân văn đã tạo nên tâm đức Kiều từ lúc chào đời, từ màu xanh
thôn mạc đến những tín ngưỡng dân gian từng ám thị vào tâm thức?; vượt khỏi
những hệ lụy, định kiến tôn giáo đưa Kiều gắn bó sâu xa với đất nước ông cha,
mang lại cho nàng niềm vui, sức sống và sự ổn định tâm hồn?
Cho thơ hòa
với trăng sao
Cho trăng
sao hoà chiêm bao cõi người
Khí thiêng
sông núi nên lời
Cỏ cây giam
kín một đời tinh anh
Nét đặc sắc
trong Hậu Kiều là những lần Kiều đánh đàn. Mỗi lần nàng so đây là mỗi khác. Tuỳ
tâm trạng buồn vui mà âm thanh biến ảo dưới ngọn bút kỳ tài của thi nhân.
Trong đoạn
đoàn viên, sau khi dở ngón đàn tuyệt diệu đánh cho Kim Trọng nghe, nàng thề sẽ
cuốn dây từ đấy, nhưng rồi nó như một nghiệp dĩ, một công cụ giải buồn khó từ
bỏ được. Đây là lúc thanh vắng, Kiều độc cầm:
Giờ Kiều lại
nối âm thanh
Thử đem
sương gió tựu thành cung dây
Tiếng đàn rã
liễu rời mây
Ngón tay dã
hạc vờn bay dặt dìu
Hai hàng lau
lách đìu hiu
Đồi phong lá
gọi bóng chiều xác xao
Lúc đó,
chàng Kim đến, nghe lén, đề nghị đổi âm sắc, đàn lại chuyển cung vui:
Hồn xanh
xanh ngắt da trời
Hoa thu não
ruột rung mười ngón son
Nửa cung ngơ
ngác trăng non
Nửa cung
nắng quái sông còn vàng phai
(So dây gợn
sóng)
Nghe tiếng
đàn của kỹ nữ bây giờ ở huyện đường do Kim Trọng chiêu đãi, Hồ Tôn Hiến hồi
tưởng ngón đàn của người "giết chồng, cứu nước" trong ngày tàn binh
lửa hồi nào "Tay Kiều lướt mấy đường tơ - năm cung còn đến bây giờ vọng
vang":
Bốn dây như
điếng như tê
Nỉ non oán
động, não nề sầu câm
Tiếng đàn
than lặng khóc thầm bấy nay
(Những đêm
tàn rượu)
Nhờ tiếng đàn
của Thuý Kiều mà Hồ Tôn Hiến giải thoát được khỏi con mắt ám ảnh của Từ Hải khi
chết:
Tưởng chừng
chim hợp mây tan
Đậu về reo
hát hiên ngoài triền miên
Hồ nghe nhẹ
bẫng ưu phiền
Dây đàn ấm
mạch suối thiêng tỉnh người
Mắt Từ như
cánh hạc trời
Bay lên mất
hút ở nơi vô cùng
(Dậy sống
Tiền Đường)
Cây đàn trên
ngựa phân vân
Bốn dây tay
chợt buông ngân tiếng hờn
Tiếng chi
thác đổ mây vờn
Chừng nghe
kiếm gẫy xanh rờn lửa reo
Tiếng chi
suối lệ tuôn theo
Chừng nghe
sương tụ, gió heo hút đời.
(Vương mấy
tơ đồng)
Thăm mộ Từ
Hải, trong ký ức Kiều, hình bóng đấng trượng phu hiện lên ngang tàng, lãng mạn "Tưởng
chàng bẻ kiếm dựng râu - Nốc nghiêng bát rượu, trên đầu cài trăng".
Tiếng đàn đồng vọng lập tức vang lên trong lòng cố nhân:
Tiếng ngân
chìm đắm mơ màng
Một dây to
nhỏ hồn man mác trời
Buông chi
tiếng nhặt tiếng rơi
Trong u ẩn
gió nghe tơi tả lòng
(Chải tóc
thu phong)
Kiều hồi
tưởng buổi tối đánh đàn cho Kim Trọng và sư thầy Văn Chương nghe. Nhà sư trợ
điện giúp Kiều tỉnh thức khỏi nghiệp đàn, hoà tâm cảm vào thiên nhiên đại Đạo:
Mây ùn mười
ngón lâng lâng
Viền trăng
hư ảo trên tầng khói xây
Đất dồn nhựa
mạnh ngất ngây
Ánh trăng
đọng xuống mấy dây lặng chìm.
(Tơ thiêng
nhập hóa)
Tại sao con
người lại ngu ngốc đem lòng giam vào hữu thanh? Trong phút chốc bừng tỉnh, Kiều
đã hoàn toàn giác ngộ:
Diệu hành là
tiếng không ta
Không âm
thanh ấy mới là âm thanh
Tiếng đàn
trong Hậu Kiều quả là cả một nghệ thuật thiền, một công án thiền. Lắng nghe
những âm sắc Kiều gảy, mỗi người tự mở ra cho mình một chân trời riêng.
Trong lần
hành hương về Tiên Điền mới đây, Phạm Thiên Thư đã ngoại cảm bên mộ Người:
Đem chuyện
Tàu thi hóa tiếng ta
Hẳn muốn
chứng minh cho học giới
Tiếng mình
dư sức tỏa hương hoa
(Năm 2000
đọc lại Nguyễn Du)
Phạm đã tỏ
ra thông cảm và nhìn nhận đúng bản chất của văn hoá vay mượn. Nếu ham chuộng
thái quá thì "nô dịch đưa voi đạp mộ nhà". Theo Phạm, Nguyễn
đã không còn "Rút hay người thêm để hay ta" mà còn tiến xa hơn
"tỉnh thức dòng nô dịch - Kinh viện hơn Tàu mới dễ xoay"; rõ
ràng là "Cụ không thuần túy làm văn nghệ - Hay đẹp dùng như dấy nghĩa
binh". Hẳn "nho ta" đã nhận thức ra nguyên lý
"Tự chủ đầu tiên phải giữ hồn - Có cồ tâm mới vững biên cương".
Bám chắc vào
cơ sở tiếng Việt thuần tuý giàu và đẹp, không hề vay mượn, ngôn ngữ của Phạm
Thiên Thư được chắt lọc tinh túy nên đẹp óng ả, gợi tình.
Chất tạo
hình trong thơ có họa của Phạm Thiên Thư khá phong phú, điêu luyện. Những vật
vô tri đã bộc lộ được tính linh con người. Hình sắc, ánh sáng, bố cục, không
gian, thời gian trong bút pháp uyển chuyển và linh hoạt của Phạm Thiên Thư đã
vẻ ra được những bức tâm cảnh điêu nghệ. Đây là khoảnh khắc Kiều bâng khuâng
hồi tưởng "Tiểu khê cỏ vẫn xanh gầy - Mùa thu chết đuối bóng mây giữa
dòng" (Kiều ngồi ven suối). Một nét phác thảo dung nhan: "Người
buồn lãng đãng sương mù - Gió tai tái lạnh về ru nét mày" (Mây thu
cuộn vàng). Cảnh bồn chồn trên đường hồi hương: "Cỏ cây thấp thoáng qua
màn - Dập dồn vó ngựa gõ khan mặt đường" (Mây thu cuộn vàng). Cảnh
Kiều trở lại viếng sư thầy ân nhân Giác Duyên "Non xưa am vắng u hoài -
Cây trơ sắc nhớ, cỏ dài ngọn trông" (Tẩy nước cành dương).
Tả nhớ mong đợi chờ "Tóc nàng dài sợi hoàng hôn - Cò bay dằng dặc cô thôn gọi chiều" (Bao năm tơ tưởng). Tả tâm trạng hoang mang, rối loạn: "Tỉnh ra thương phận lạc loài - Tưởng hoa còn rụng trên vai liễu mềm" (Lắng tiếng chim vang). Tả bàn chân đi nặng ưu tư giữa chiến trường xưa: "Rã rời từng bước rêu nhung - Hài gieo giữa cõi vô cùng hoang mang" (Chải tóc thu phong), lúc lại rưng rưng "Bước chân nẫu nhớ mùi quê - Đất truyền nhựa mạnh, mừng tê tái mừng" (Bao năm tơ tưởng). Những chấm phá liên tưởng sắc nét: "Chim nào hót giữa lùm mai - Chừng như thoảng tiếng thở dài trên yên" (Chải tóc thu phong), "Sườn non nửa mảnh trăng nhô - Cong thành một nét mơ hồ mi ai" (Chải tóc thu phong), "Cho sầu thêm võ hoa dong - Tỳ bà đẫm một nét cong trăng vàng" (Năm cung trường lệ)...
Tả nhớ mong đợi chờ "Tóc nàng dài sợi hoàng hôn - Cò bay dằng dặc cô thôn gọi chiều" (Bao năm tơ tưởng). Tả tâm trạng hoang mang, rối loạn: "Tỉnh ra thương phận lạc loài - Tưởng hoa còn rụng trên vai liễu mềm" (Lắng tiếng chim vang). Tả bàn chân đi nặng ưu tư giữa chiến trường xưa: "Rã rời từng bước rêu nhung - Hài gieo giữa cõi vô cùng hoang mang" (Chải tóc thu phong), lúc lại rưng rưng "Bước chân nẫu nhớ mùi quê - Đất truyền nhựa mạnh, mừng tê tái mừng" (Bao năm tơ tưởng). Những chấm phá liên tưởng sắc nét: "Chim nào hót giữa lùm mai - Chừng như thoảng tiếng thở dài trên yên" (Chải tóc thu phong), "Sườn non nửa mảnh trăng nhô - Cong thành một nét mơ hồ mi ai" (Chải tóc thu phong), "Cho sầu thêm võ hoa dong - Tỳ bà đẫm một nét cong trăng vàng" (Năm cung trường lệ)...
Phạm đã miêu
tả vẻ đẹp của ngoại cảnh để đi sâu vào thế giới tâm hồn nhân vật. Tác giả bài
trí thiên nhiên rất có trọng tâm, phép đậm nhạt liều lượng dùng có chủ ý. Tính
cách nhân vật được xây dựng trên nhiều nền vẻ của thiên nhiên. Cái này làm nổi
cái kia, cái kia tôn cái nọ. Phạm đã sử dụng thành thạo và nhuần nhuyễn thể thơ
lục bát như cây thiết bổng trong tay Tôn Hành Giả. Tài dùng chữ của Phạm có chỗ
đạt đến trình độ "hoá công".
Cây cầu lửng
giữa trăng sao
Phải chăng
cửa ngõ đi vào huyền căn
Tiếng tơ kết
kén ôm tằm
Biết đâu hoa
bướm trăm năm một lần.
Phạm có
những đoạn thơ quỷ khốc thần sầu:
Lên non trẻ
hái hoa vàng
Còn reo nhặt
được kiếm han rỉ cùn
Đêm về bần
bật kiếm run
Mồ hồi thép
toát hiện hồn ba quân.
(Mây thu
cuộn vàng)
bên những
câu thơ thanh tao, dung dị:
Tàng hoa
trắng cội phù vân
Tiếng chim
khuyên rụng trong ngần như sương
Bao năm vẫn
một mùi hương
Trước sau
thơm đến dị thường trong ta
Phải chăng
hoa của quê nhà
Thơm trong
hoài niệm mới là mãi tươi.
Bút pháp tả
cảnh, tả tình của Phạm Thiên Thư khá là cổ điển, rất Nguyễn Du. Ngôn ngữ thi ca
của Phạm Đại đức đã làm cho chúng ta khó mà nhận ra được vết hàn nối giữa hai
tác phẩm Truyện Kiều và Hậu Kiều:
Sông dài cởi
yếm hoàng hôn
Bầy chim ngủ
đậu bên cồn lại bay
Gió về đưa
ngọn sóng say
Tiếng ca mục
tử cuối ngày gọi trâu
Bãi xa cỏ
tím rầu rầu
Mái đình rêu
vọng trống chầu nhịp mưa
(Ai để hoa
dung)
Bè ai thả vó
ven đê
Nửa ngâm
ráng đỏ, nửa kề mây xanh.
(Chải tóc
thu phong)
Mênh mang
hoa trải gấm phơi
Hoa lay
tưởng ngọn bút trời phê văn
(Lòng như
khối ngọc)
bên những âm
hưởng trữ tình trong trẻo, thắm khỏe, mộc mạc của ca dao nơi tâm trạng Vương bà
nhớ quê xa:
Quê nhà dù
cất mái tranh
Mà trong
thân tộc, mà quanh bạn bè
Hiền hòa
khóm trúc bờ tre
Vẳng nghe
tiếng cuốc sang hè gọi khan.
(Khói mờ
ngoài sông)
…
Trung thành
với phong cách ngôn ngữ Truyện Kiều của Nguyễn Du, Phạm Thiên Thư đã vượt qua
bút pháp ước lệ tượng trưng của chủ nghĩa cổ điển, khai triển tứ thơ nhẹ tự sự,
nặng trữ tình trong những màn độc thoại nội tâm sâu sắc tình tiết, lớp lang.
Đọc Đoạn trường vô thanh, bạn độc sẽ hỏi: đây là tiểu thuyết bằng thơ? hay khúc
ngâm? Rõ ràng nghiêng về khúc ngâm. Da thịt Hậu Kiều thì hồng hào tươi tốt,
nhưng xương cốt của nó lại mềm yếu. Bằng cách để cho các nhân vật hồi ức, Phạm
Thiên Thư đã tô đậm thêm những chỗ còn thiếu sót và mờ nhạt của Truyện Kiều
Nguyễn Du. Nghệ thuật biểu hiện linh hoạt và ngôn ngữ cẩm tú của Đoạn trường vô
thanh có khá nhiều câu, đoạn, chương hay nghiêng ngửa với Đoạn trường tân
thanh. Hai quyển Kiều có giá trị bổ sung nâng đỡ làm đẹp cho nhau, chứ không
phải loại trừ nhau như có người lầm tưởng.
Tác phẩm Đoạn trường vô thanh
|
Những chương,
đoạn: Về cuộc du sơn (Bức thứ 3: Ruổi rong nhật nguyệt, từ câu 45 đến 114); So
dây sóng gợn (Bức thứ 5, từ câu 199-266); Thăm lại am Giác Duyên (Bức thứ 8:
Tẩy nước cành dương, từ câu 645-752); Năm cung trường lệ (Bức thứ 9, từ câu
753-782); Vương Quan thương nhớ Ẩn Lan (Bức thứ 16: Ai để hoa dung, từ câu
1756-1816), Vương Bà nhớ quê (Bức thứ 18: Khói mờ ngoài sông, từ câu
1967-1980); Kiều thăm mộ Từ Hải (Bức thứ 20: Chải tóc thu phong, từ câu
2.299-2.334); Thúy Kiều trở lại cố hương (Bức thứ 22: Mây thu cuộn vàng, từ câu
2.719-2.770); Kiều thăm mả Đạm Tiên (Bức thứ 25: Kiều ngồi bên suối, từ câu
3.065-3.144)... có thể xem là những tuyệt bút.
Trong bốn
người viết nối Truyện Kiều, nhà thơ Phạm Thiên Thư là người xuất chúng thành
công hơn cả. Phạm Thiên Thư đã đem hết can đảm, tài năng, tấm lòng khóc thương
Tố Như vĩ đại bằng cách tạo tác ra được một lâu đài thơ tráng lệ, tỏ rõ là một
môn đệ âm tri kỷ của Người. Hẳn Nguyễn tiền bối cũng được ngậm cười nơi chín
suối.
Đoạn trường
sổ gói tên hoa
Xưa là giọt
lệ nay là hạt châu.
Hạt châu
lấnh lánh - đuốc tuệ tỏa sáng soi đường cho ta tìm về với những giá trị thiêng
liêng giữa cội nguồn dân tộc.
Đoạn trường
vô thanh chiếm giải Nhất thơ (bộ môn trường thiên) năm 1973 do cụ Á Nam Trần
Tuấn Khải làm chánh chủ khảo. Tác phẩm đã được in đi in lại nhiều lần ở trong
và ngoài nước (2)
Kìa đường
dân tộc mong tìm mở
Đây khách
tâm hồn khó nín thinh
Điệu xưa tô
lại nét thâm tình
Đoạn trường
- ai đã qua cầu ấy
Lắng thử Vô
thanh tiếp Hữu thanh.
(Cảm đề - Á
Nam Trần Tuấn Khải)
Sau ngày
miền Nam giải phóng 30-4-1975, Phạm Thiên Thư chuyển sang hoạt động y học. Là
người sáng lập và là chủ trường phái chữa bệnh bộ môn Điện công Phathata hay
thể dục thân tâm, Phạm không quên mình là nhà thơ, đã sáng tác một số thơ vui
cho người bệnh thư giãn thần kinh, phục hồi sức khỏe. Đưa tiếu lâm vào lâm sàng
cũng là cách phát huy tinh thần "nụ cười bằng mười thang thuốc".
Trong dưỡng sinh, đa số học viên già, mang nhiều chứng bệnh mãn tính, nhất là
chứng buồn. Thơ vui đã làm các cụ bớt căng thẳng, ăn ngủ dễ hơn. Phạm đã chọn
thể thất ngôn tứ tuyệt với ngôn ngữ dung tục, ngộ nghĩnh, đề cập đến những vấn
đề gần gũi đời thường:
Áo tắm dùng
khi xuống pít-sin
Cốt che đại
khái chỗ ưa nhìn
Chỉ riêng
phải mặc thi hoa hậu
Trình rõ eo
đùi, kiểm chứng "dzin"
(Áo Tắm)
Mùa thu qua
nhà thăm giậu cúc
Em nghiêng
hái hoa, xanh áo lục
Mùa đông qua
nhà hỏi cội mai
Sao đẹp như
em chồng vẫn "đục"
(Cúc)
Có khi lại
khai triển một nhân vật tiểu thuyết hay giai thoại:
Kim mơ thấy
chàng là chú rể
Vào nhà
Vương ông rất oai vệ
Kiều nhi
chúm chím cười như hoa
Mà sao long
lanh đôi ngấn lệ. (Chú rể)
Ngoài bộ
Tiếu liệu pháp, Phạm Thiên Thư còn viết Huyền ngôn. Những lời huyền diệu này
giống như danh ngôn, chở nặng những thông điệp tư tưởng. Huyền ngôn của Phạm
Thiên Thư đã suy ngẫm, thai nghén, đúc rút trên từng chặng đường đời của tác
giả, được chia ra nhiều phẩm:
1
Những loài
hoa không tranh cãi nhau ngoài đồng về phẩm giá của mình. Cái đẹp chỉ đẹp trong
muôn hương ngàn sắc, huống chi chúng ta cứ muốn giành lấy sự toàn vẹn cho riêng
mình.
2.
Bên dưới
chùm cẩm tú cầu xanh biếc như vẩy ngọc có ẩn một chú sâu vàng.Ta có nên nhặt ra
hay để chú sâu nghi kỵ tiệt đứt mọi công quả ?Ta không sợ nắng gió làm hoa
không rực rỡ, chỉ e sự hủy hoại đã phục sẵn lòng hoa.
3.
Ai cũng
giành trồng những loại hoa quý cho riêng mình, chẳng ai chịu tưới xanh một thảm
cỏ cho châu chấu trú ngụ. Chỉ có trời là rộng lượng với muôn loài.
4.
Đóa bụt hồng
ngoài bờ giậu đâu phải nở cho thi nhân. Cánh bướm trên cỏ xanh đâu phải bay vì
hương sắc. Muôn loài đều vì chính mình. Bạn chớ bận tâm về những lời phẩm luận
của thế tục.
5.
Bông hồng
nhung nở cúi chào mặt trời buổi sáng, trên đài hoa đang ứa những hạt lệ khóc
giã biệt chiều tà. Từng khắc một vừa sinh vừa hoại diệt. Ta chớ buông từng hơi
thở vô công.
6.
Ngọc nhiều
loại góp vào càng làm tôn vẻ đẹp lẫn nhau. Người tài vô đức ở đời ngồi lại tự
bôi bẩn lẫn nhau.
7.
Đào xuống
nghìn thước không chắc kiếm được vàng ngọc. Chỉ cần bới mấy tấc đất trồng cây,
tới mùa có thể đổi được hàng trăm thứ quý.
8.
Sắm ngọc ai
cũng muốn chuốc cả đôi. Tài nghệ thì ai cũng muuốn riêng mình độc đáo. Họ chèn
ép nhau để chẳng ai bằng được riêng mình. Nhờ vậy mà trăm hoa đua nở rộ. Ấn
xuống chính là giúp người khác vọt lên cao.
9.
Của trời bao
la chẳng ai thèm lấy. Châu ngọc vung vãi chẳng ai thèm vơ. Nhưng chỉ vài hạt
thóc lép họ moi móc vào tận đáy túi của nhau. (Phẩm Ngà
ngọc)
10.
Kẻ đắc ý cả
cười, mắt cũng rưng lệ. Người thất cơ thầm khóc, nước mắt đẫm chéo khăn. Được -
mất, thành - bại, khóc- cười, hạt nước mắt đều tròn giống nhau.(Phẩm Khóc
cười)
Huyền Ngôn
của Phạm Thiên Thư đọc rất thú . Có thể nói đó là những áng thơ văn xuôi tuyệt
mỹ. Tôi nhớ có lần Phạm Thiên Thư bàn về thơ, khá xác đáng trong trường hợp của
người: "Thơ hay phải dày kinh nghiệm, phải chiếm cảm quan, phải san trí
tuệ, phải để trong tâm, phải trầm trong nhạc, phải nạp trong tình, tụ hình nơi
khoảng trống, để sống với tất cả".
Tổ quốc của
các tu sĩ là tu viện. Phạm tuy thân ở trong chùa những tâm lại ở ngoài chùa.
Nhà sư bồ tát này lo cả việc đạo lẫn việc đời, chuyên chú chu toàn cả hai. Toàn
bộ thi phẩm của Phạm Thiên Thư nhuốm sắc thái đặc biệt khác người vừa đạo vừa
đời, sắc bất dị không, không tức thị sắc và rất Việt Nam.
Từ việc thi
hoá những bộ kinh cốt tùy của đạo Phật, Việt hoá thiền qua 10 bài Đạo ca (nhạc
Phạm Duy) đến việc nối điêu vào Truyện Kiều, viết Huyền ngôn, Sử thi, Từ điển
cười Tiếu liệu pháp, khai sáng môn Điện công Phathata... tiếp tục biểu dương
tinh thần y dược dân tộc, cái đầu của Phạm Thiên Thư thật đáng sợ. Ý thức tự
tôn dân tộc cao cả và thái quá của Phạm là động lực thúc đẩy nhà thơ sáng tác.
Tinh thần tiến công khoa học, vượt người xưa là một thái độ đáng nể trọng. Phạm
Thiên Thư chỉ vụt qua bầu trời thơ ca miền Nam như một ánh sao băng. Mới 35
tuổi đời (1975), Phạm để lại mười vạn câu thơ! Chúng tôi đã tập trung đọc ròng
rã một tháng nhưng vẫn không hết những cái Phạm đã viết. Người hẳn có tới "mười
cánh tay" - một cỗ máy làm thơ khủng khiếp, ào ạt. Kinh Hiền với
12.000 câu viết trong một năm rưỡi; tập thơ Quyên từ độ bỏ thôn Đoài 112 bài
thơ viết trong 23 ngày. Trong núi thơ đó, cái hay nhiều, cái dở cũng lắm. Chúng
tôi thật sự phân vân. Phạm Thiên Thư sáng tác nhiều như vậy nhằm mục đích gì?
Có lẽ Phạm học theo lối người Ấn Độ viết trường ca ? Dù lý do gì đi nữa, làm
thế cái lượng tránh sao khỏi không làm nhảm cái phẩm của mình ra
CHÚ THÍCH :
(1) Nguyễn
Du đã dịch 30 câu thơ và 27 lần mượn ý, chữ trong thơ cổ Trung Quốc, 46 lần
mượn chữ Kinh Thi, 50 lần mượn chữ, ý trong các kinh truyện khác, 69 lần mượn
điển tích trong các sách Thần tiên truyện, Tình sử vv…, 21 lần mượn chữ và điển
tích trong các sách Phật, Lão.
(2) Đoạn
trường vô thanh (Hậu Kiều), NXB Thanh Niên, HN 2004.
(Rút từ bộ
THI NHÂN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI)
THÁI DOÃN
HIỂU
















































Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét