"Động hoa vàng" của Phạm Thiên Thư -
Cõi thiền hay không gian thoát tục
VanVN.Net - Bài thơ “Động hoa vàng”
là một trong những thi phẩm nổi tiếng nhất trong cõi thơ Phạm Thiên Thư. Xuất
hiện khoảng đầu thập niên 70 ở miền Nam, bài lục bát 400 câu này là một câu
chuyện tình yêu trong sáng, cao khiết không nhuốm mùi tục lụy…
Tựa một viên ngọc lung linh huyền
ảo, nó dẫn người đọc tìm về một thế giới tịch lặng, đơn sơ đẫm hương Thiền. Nơi
ấy con người có thể tìm được con đường nuôi dưỡng chân tâm hầu mong một cuộc
sống bình an, thanh thản. Hẳn không mấy khó khăn để nhận ra rằng văn hóa Thiền
thấm đẫm trong từng câu, từng chữ và làm nên nét đẹp thâm trầm, ý nhị cho bài
thơ. Hương Thiền tỏa trong “Động hoa vàng” trước hết ở không gian nghệ thuật.
Từ câu chuyện “gã từ quan” coi thường danh lợi, chán ghét những thị phi, giành
giật trong cõi đời mà tìm về nơi thông xanh suối biếc, nương náu chốn núi rừng,
nhà thơ đưa ta đến không gian bát ngát của động hoa vàng. Động hoa vàng là đâu?
Là một động Hoàng Hoa heo hút miền biên viễn trong thơ “Chinh phụ ngâm”:
"Xót người lần lữa ải xa
Xót người nương chốn hoàng hoa dậm
dài"
Hay là một thung lũng hoa vàng nào
đó trong thực tại. chỉ biết đó là không gian mơ ước của những con người quá mệt
mỏi trước thời cuộc, muốn tìm về thiên nhiên để thanh lọc tâm hồn mình. Từ động
hoa vàng, nhà thơ nói đến rất nhiều những hình ảnh thuộc về không gian. Đó là: miền
tuyết thơm, suối tơ huyền, suối hoa rừng, cội thu xanh, đồi dạ lan, miền cỏ
hoa, bến hoa tươi, đường lặng im, non xanh, thềm trăng, lưng núi phượng…
Tất cả những hình ảnh thanh thoát mà đơn sơ ấy thuộc về một không gian thoát
tục. Không ồn ào náo động, không phù phiếm lòe loẹt, tất cả ở trong một trạng
thái vắng lặng, thanh bình, nhẹ nhàng và trong sáng . Đó là không gian của văn
hóa Thiền – không gian tịch lặng, phảng phất nét sabi trong thơ Hai- cư :
Một con chim gõ kiến
Gõ ngoài trụ hiên”
( Basô – Nhật Chiêu dịch)
Đặc biệt, không gian thoát tục ấy là
một không gian được phủ đầy hoa, đầy trăng và tiếng chim. Có đến 38
lần Phạm Thiên Thư nhắc đến động hoa, thảm hoa, giàn hoa…15 lần nhắc đến trăng
và 32 lần sử dụng hình ảnh cánh chim, tiếng chim trong bài thơ “Động hoa
vàng”. Đó là một đồi dạ lan trong miền u tĩnh:
“ Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan”
là hương hoa trong ấm trà mùa đông:
“ Đất nam có lão trồng hoa
Mùa hoàng cúc nở ướp trà uống đông”
hay cánh hoa dại ven đường:
“ Bông hoa trắng rụng bên đường
Cánh thơm thông điệp vô thường tuyết
băng”
Đó là ánh trăng in dấu giày:
“ Người về sao nở trên tay
Với hài đẫm nguyệt thêm dài gót hoa”
“ Bóng trăng tịch mặc hiên nhà
Thành đàn nảy hạt tỳ bà quyện hương”
Cùng với trăng, hoa là tiếng chim,
người đọc có cảm giác tiếng chim như ngập tràn không gian:
“ Tiếng chim trong cõi vô cùng
Nở ra bát ngát trên rừng quế hương”
Đó là tiếng chim linh thiêng theo
văn hóa Thiền và đời sống tâm linh người Việt, là bầy nhạn trắng
mùa xuân:
“ Mười con nhạn trắng về tha
Như lai thượng trụ trên tà áo xuân”
là con hạc nhuốm màu huyền thoại:
“ Hạc xưa về khép cánh tà
Trăng, hoa và tiếng chim, hương hoa
thoảng thoảng, ánh trăng nhẹ nhàng, tiếng chim trong vắt làm cho không gian trở
nên tịch lặng, linh thiêng, thấm đẫm thiền vị. Đó là nơi con người có thể lắng
lòng lại, thả hồn vào cõi thinh không để tìm sự bình an, thanh thản. Không gian
“ Động hoa vàng” trong thơ Phạm Thiên Thư có nét gì đó tựa cõi Bồng Lai nơi
chàng Từ Thức gặp tiên, tựa suối hoa đào trong “ Đào hoa nguyên ký”, tựa không
gian trong thơ Hai-cư
Các du nữ ngủ
Trăng và đinh hương”
( Basô – Nhật Chiêu dịch)








Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét