Nhà văn Vũ Bằng (1913 - 1984) là người có số phận cuộc đời và
văn nghiệp vào loại éo le nhất trong các nhà văn Việt Nam hiện đại.
Chỉ đến năm 2000, khi được Tổng cục II - Bộ Quốc phòng xác nhận tư cách công
dân, công trạng thì Vũ Bằng mới “Từ bên trời thương nhớ thênh thang trở về và
đường hoàng gia nhập vào nền văn học Việt Nam hiện đại” (1). Mặc dù không phải đến
lúc ấy những tác phẩm ký xuất sắc của Vũ Bằng như Miếng ngon Hà Nội và Thương
nhớ mười hai mới được độc giả biết đến và yêu mến nhưng quả là từ lúc ấy,
đọc tác phẩm của Vũ Bằng, người ta thấy có một cái gì đấy rất đỗi thiêng liêng
khi thấm thía tâm sự “Ngày Nam đêm Bắc” như tiếng con đỗ vũ khắc khoải nhớ
thương nước cũ. Hai tập tùy bút là hoài niệm, hồi tưởng của nhà văn về quê
hương Bắc Việt thân yêu trên nhiều mạch nguồn văn hóa bằng một hồn văn trữ tình
đắm đuối. Cả hai được viết khi “Vũ Bằng lạc lõng ở Sài Gòn quanh năm chói chang
nắng nhớ thương bốn mùa Hà Nội”(2), mà trước hết là nhớ những “thời trân” mang
hồn vía một vùng đất nổi tiếng là “bờ xôi ruộng mật”.
Trong lịch sử văn học dân tộc, nhà văn Vũ Bằng không phải là
người đầu tiên và duy nhất viết về các món ăn ngon của người Việt nhưng có thể
nói không ngoa rằng, viết về văn hóa ẩm thực say mê nhất, khắc khoải nhất vẫn
là Vũ Bằng, bởi “phải là một con người chứa chất một niềm đau không thể giãi
bày cùng ai, gánh chịu một nỗi cô đơn khủng khiếp lắm mới tuôn ra được ngòi bút
mình những câu văn như có ma ám, từng dòng, từng dòng như bị một thế lực siêu
nhiên vừa hành hạ, vừa chắp cánh cho tâm hồn, cho cõi lòng để bao nhiêu tài hoa
biến thành niềm thương nhớ thấu trời thấu đất!”(3). Cảm hứng của Vạn Lý Trình
Vũ Bằng trong hai cuốn sách hoa ấy là nỗi nhớ niềm yêu dường như là tuyệt vọng,
dường như thuộc về “một tiền kiếp xa xôi” của một “người khách thiên
lý” tương tư cố quán vời vợi nghìn trùng không còn có cơ hội trở lại, gặp lại.
Vì vậy, những trang văn của Vũ Bằng về nghệ thuật thẩm vị của người Hà Nội, rộng
ra là của người dân Bắc Việt là những trang văn độc đáo, độc đáo đến mức có một
không hai.
1. Bằng cái nhìn lãng mạn hồi cố, Tiêu Liêu Vũ Bằng đã làm
nên nét đẹp lý tưởng của các trang ký ẩm thực. Ông đã tạo dựng nét đẹp văn hóa - lịch sử của mỗi miếng ngon. Trong nỗi nhớ nôn nao về “quà quê”, nhà văn bày tỏ
quan niệm: “Thế nhưng mà những cái quà đó đã đem đến cho lòng ta bao
nhiêu sự đắm say, bao nhiêu thú vị, bao nhiêu cảm giác mông lung, nhã lịch! Ta
cầm lấy mà thấy như ôm chút hương hoa đất nước vào lòng. Ai đã bảo ăn uống là một
nghệ thuật? Hơn thế, ăn uống là cả một nền văn hóa đấy.” Nếu như Nguyễn Tuân
“trong một miếng ăn cũng thấy rộng được ra những điều cao cả yên vui trên đất
nước bao la giàu có tươi đẹp” (Phở) thì Vũ Bằng nhận ra cội rễ sâu xa của vẻ đẹp
văn hóa ẩm thực, mỗi miếng ngon là tinh hoa sáng tạo của cả dân tộc đúc rút qua
bao thế hệ: “Ăn một miếng ngon của đất nước thấy bừng lên ở trong lòng một
mối hạnh phúc, vì đã được ăn vào trong mình một chút gì của đất nước, một tinh
tuý truyền từ năm, tháng nọ sang tháng, năm kia”. Trong dòng ký ức về quê
hương, những hoài niệm của nhà văn về miếng ăn thật thiêng liêng, đầy ắp niềm tự
hào: “… những miếng ngon mà người Việt Nam ăn vào thấy ngát mùi đất nước
Việt Nam, thấy mình Việt Nam hơn, và thấy thích thú, kiêu hãnh được trời cho
làm người Việt Nam”. Sự tự hào ấy xuất phát từ cách ăn “đã đi đến chỗ tinh
vi, triệt để, không dễ gì các nước vỗ ngực là văn minh, mà cũng không dễ gì các
nước có một nền văn hoá hai ba trăm năm đã biết ăn như vậy”. Qua con mắt chiêm
ngưỡng, tấm lòng nhung nhớ của Vũ Bằng, miếng ngon Hà Nội không còn thuần túy là chuyện ẩm thực nữa mà đã thành nghệ thuật, thành những áng văn rung động
lòng người, thậm chí, miếng ngon có thể ví như “tuyệt tác của Nguyễn Du”!
2. Thiên nhiên Bắc Việt qua ngòi bút Vũ Bằng không chỉ lộng lẫy,
thi vị, tình tứ mà còn là thiên nhiên hòa thuận với con người, cung cấp nhiều sản
vật, thời trân cho con người. Đọc Miếng ngon Hà Nội và Thương nhớ
mười hai, người đọc dường như hình dung được “nhịp hải hà” qua những món ăn mùa
nào thức nấy. Tháng hai cá anh vũ Việt Trì nướng chả, tháng ba hái về mấy ngọn
rau cần tươi hơn hớn nấu bát canh với tôm he, tháng tư ngon biết chừng nào cái
quả cà Nghệ muối mặn ăn với nước rau luộc hay canh trứng cua đồng vắt chanh cốm
thơm lạ thơm lùng…, tháng chín có cốm với hồng, rươi với vỏ quít, gạo mới với
chim ngói, tháng mười gió bấc mưa phùn nấu nồi cơm ba giăng ăn với cá mương đầm
Vạc, tháng mười một mùa nhể bụng cà cuống lấy chất thơm…
Đã chất chứa tâm sự u uẩn lạc loài, lại sống ở một không gian
xa lạ thiếu hẳn “cái rét ngọt ngào” cùng với thứ “mưa tím hắt hiu”,
lòng người lữ thứ tất sẽ tìm về với những thời trân trời đất ban phát riêng cho
Bắc Việt cơ hồ giải toả bớt tâm trạng “nhớ vẩn vơ, buồn nhẹ nhẹ. Cái buồn
không se sắt, cái nhớ không da diết, nhưng chính cái buồn, cái nhớ đó mới thực
sự làm cho ta nhọc mệt, và thẫn thờ. Lòng người, cũng như cánh hoa, chóng già
đi vì thế.” Những hoài niệm về cốm mùa thu đẹp một cách cảm động. Đó là thức
quà “trang nhã”, “tinh vi”, được “thần thánh hoá”trong tâm thức
người Việt, trong những dịp vui mừng như biếu xén, lễ lạt, sêu Tết, nhất là sêu
cưới. Chàng trai gặp cô gái, biết đã bắt tình nhau, vội vã “để anh mua cốm
mua hồng sang sêu” được nhà văn nâng lên thành “nhân sinh quan”: “Tôi
đố ai tìm được một thứ sản phẩm gì của đất nước thương yêu mà biểu dương được
tinh thần của những cuộc nhân duyên giữa trai với gái như hồng với cốm!” Vì
thế cứ mỗi lần thấy ngọn gió vàng hiu hắt lay động cành trâm, lòng người phiêu
bạt lại cảm thấy cõi lòng se sắt, hiu hiu muốn khóc vì nhớ mùa cốm làng Vòng đã
xa lăng lắc…
3. Nghệ thuật ẩm thực của người Việt mang tính tổng hợp cao cả
trong cách chế biến lẫn cách ăn. Vũ Bằng là người sành ăn nên rất chú trọng sự “thích
khẩu” có được từ “cái ngon toàn diện”. Nhà văn thụ cảm miếng ăn bằng
sự cộng hưởng các giác quan, bằng lạc thú ngũ quan li ti, vi tế. Đứng trước
hàng phở, ấn tượng mạnh nhất đối với Vũ Bằng là “cảnh bài trí nên thơ” từ “một
bó hành hoa xanh như lá mạ, dăm quả ớt đỏ buộc vào một cái dây, vài miếng thịt
bò tươi và mềm, chín có, tái có, sụn có, mỡ gầu có, vè cũng có…”. Rồi cái cảm
giác ấm áp ngon lành khi “một làn khói toả khắp gian hàng, bao phủ những
người ngồi ăn ở chung quanh trong một làn sương mỏng, mơ hồ như một bức tranh Tàu
vẽ những ông tiên ngồi đánh cờ ở trong rừng mùa thu”. Cả cái bát phở “thịt
thì mềm, bánh thì dẻo, thỉnh thoảng lại thấy cay cái cay của gừng, cay cái cay
của hạt tiêu, cay cái cay của ớt, thỉnh thoảng lại thấy thơm nhè nhẹ cái thơm của
hành hoa, thơm hăng hắc cái thơm của rau thơm, thơm dìu dịu cái thơm của thịt
bò tươi và mềm” nghe “lâm ly” hơn cả câu nói hữu tình của người
yêu, có thể ví như “sau một thời gian xa cách được ngã vào trong vòng tay một
người vợ đẹp mà đa tình”! Cũng như khi đọc một áng văn hay, gấp sách lại vẫn
còn dư âm dư vị, còn suy ngẫm trầm mặc, “bài thơ phở” Vũ Bằng ăn xong
rồi vẫn khiến phải đắn đo, ngẫm nghĩ, bàn luận mãi… Tương tự thế, ký ức bánh cuốn
Thanh Trì cũng làm nên “nỗi sầu Hà Nội” khi lấy ngón tay nhón từng
chiếc bánh mướt mát nép mình trên tàu tiêu xanh màu ngọc thạch chấm vào chén nước
chấm màu hổ phách đưa lên môi dìu dịu, êm êm như “cái hôn yêu trong buổi trao
duyên thứ nhất”. Lòng người tư hương vẫn còn nguyên cảm giác “phiêu phiêu
như mở hội” khi nghĩ về đĩa thịt cầy, tô dựa mận y như khi thưởng thức bản
nhạc Đanuyp xanh của nhạc sĩ Áo Johan Strauss “cuồn cuộn một cách êm dịu, có
đôi khi lại như nhảy nhót lên trong ánh sáng”…
4. Với nhà văn Vũ Bằng, cái ngon bao giờ cũng đi liền với cái
đẹp và nhà văn không chỉ xuất hiện với tư cách một thực khách sành điệu mà còn
là một thi nhân hoạ khách, một nhà mỹ thuật tài hoa. Mỗi món ăn là “một
bài thơ ý nhị”, “một bản đàn hoà âm tuyệt diệu”, một bức tranh với những đường
nét, gam màu dữ dội bắt mắt. Ở nơi xa vời vợi, phong vị những “món quà căn
bản” của Hà thành rành rẽ đến nôn nao. “Một nhúm bánh phở, một ít hành hoa
thái nhỏ, điểm mấy ngọn rau thơm xanh biêng biếc, mấy nhát gừng màu vàng thái
mướt như tơ, mấy miếng ớt mỏng vừa đỏ màu hoa hiên vừa đỏ sẫm như hoa lựu… ba bốn
màu sắc đó cho ta cái cảm giác được ngắm một bức hoạ lập thể của hoạ sĩ trong
phái văn nghệ tiền tiến dùng màu sắc hơi lố lỉnh, hơi bạo quá, nhưng mà đẹp mắt”. Hoặc
một bát thang “bún chần kỹ đơm ra từng bát, rồi trứng tráng, giò thái chỉ,
thịt gà băm với nấm hương, ruốc, tôm he, rau răm cũng băm nhỏ; giữa, một hai miếng
trứng muối đỏ như hoa lựu: tất cả những thứ đó tạo thành một bức hoạ lập thể
có những màu sắc rất bạo mà lại ưa nhìn trông vui mà lại quý.”
Nhà nghiên cứu Văn Giá cho rằng: “Trước miếng ăn, nếu Thạch
Lam hiện ra như một thi nhân, Nguyễn Tuân như một tao nhân, còn Vũ Bằng chỉ như
một thường nhân” (4). Có lẽ, sự phân biệt như thế chỉ có tính chất tương đối mà
thôi. Vũ Bằng quả không giấu giếm sự háu ăn và sự thích khẩu “nhấm nhót” nhưng
rõ ràng miếng ăn đã được nhà văn thơ hóa, miếng ăn đi liền với cái đẹp nhã lịch,
mỗi món ăn là một ký ức văn hóa, là “hồn non nước”. Cữ đào bói quả tháng
hai, “người đàn ông lạc phách” lại trở về với vùng biên thuỳ Bắc Việt có những
rừng đào bát ngát ngút ngàn. Nhặt quả đào rơi trên nệm cỏ, lòng du khách thoáng
chút e ngại, sợ cầm mạnh thì làm mất mát cái đẹp “trên khắp mình đào ưng ửng
hồng có những sợi lông tơ óng ánh như lông tơ trên mặt cô gái dậy thì”. Đi trên
những con đường nóng bỏng tháng tám phương Nam, khách thiên lý triền miên
trong nỗi nhớ ngây ngất hương thơm dịu dàng của lúa nếp xanh non được những bàn
tay lá sen xanh muôn muốt màu ngọc thạch nâng đỡ ôm ấp. Cái đẹp “tương phản”,
cái đẹp “não nùng” của cốm Vòng xanh mướt màu lưu ly bên cạnh những
trái hồng trứng thắm mộng như son Tàu được những mảnh lá chuối tước tơi như những
búi tơ hồng quấn quýt “là một bức tranh dùng màu rất bạo của một hoạ sĩ lập thể,
trông thực là trẻ, mà cũng thật là sướng mắt!”
5. Như những cây bút ẩm thực nổi tiếng của đất kinh kỳ, Vũ Bằng
cũng quan tâm đến những món ăn bình dị, dân dã chứ không lưu tâm mấy đến những
cao lương mỹ vị. Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng… gặp nhau ở quan niệm, thái độ
trân trọng giá trị thẩm mỹ kết tinh trong sự dung dị của những món ăn thuần Việt.
Thạch Lam viết về bánh cuốn, cháo hoa, xôi đậu, cơm nắm, lòng lợn tiết canh,
bánh cốm, phở gánh…, Nguyễn Tuân ca ngợi phở, cốm, giò lụa…, Vũ Bằng không quên
những “bửu vật ngàn năm đất Thăng Long” ấy mà ngay đến ngô rang, khoai lùi, cái
cà, cái dưa, cái tương, cái mắm đối với ông cũng “ngon quỷ khóc thần sầu”.
Ông không bỏ sót một loại chè nào từ chè bà cốt, chè đậu đãi, chè hoa cau đến
chè lam, chè củ mài, chè củ từ, chè đường…, cũng không quên một loại quả nào từ
vải tiến Cầu Họ, bưởi Đoan Hùng, mận Thất Khê, cam Bố Hạ, hồng Việt Trì, mít
Gio Linh đến quả quít tháng mười “sao mà nõn nường đến thế, sao cái vỏ nó
mỏng đến thế, sao màu sắc tươi lạ tươi lùng đến thế”, cả cái trái bồ quân “đẹp
một màu huyết dụ”, cái quả bàng quế “hột đỏ như son”…
Cùng viết về miếng ngon đất Tràng An nhưng mỗi nhà văn có
cách tiếp cận riêng. Thạch Lam say mê những cuộc phiếm du qua khắp các ngõ phố,
ngắm nghía những hàng quà rong rồi ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm về nét đẹp của Hà Nội
băm sáu phố phường. Tùy bút của Thạch Lam là những “bài thơ kháu khỉnh” (từ của
Khái Hưng dành cho Hà Nội băm sáu phố phường) của một thi sĩ thích rong
chơi. Nguyễn Tuân là tạng người thích khoe kiến thức uyên bác tầng tầng lớp lớp
làm cho chuyện thẩm vị thành cuộc nhàn du của bậc thức giả thông kim bác cổ. Tuỳ
bút Nguyễn Tuân là những pho khảo cứu công phu, tỉ mỉ. Vũ Bằng có khác, Vũ Bằng
ở trong hoàn cảnh “người lữ hành đơn côi” nhân chuyện miếng sống miếng chín mà
giãi bày niềm thương nỗi nhớ phần tử đêm ngày. Vì vậy ký Vũ Bằng vừa có đầy đủ
phẩm chất văn Thạch Lam, Nguyễn Tuân vừa như huyết lệ thư của người tha hương
dành lòng gửi về nơi mây Tần quê cũ.
6. Ký của Vũ Bằng là ký trữ tình nội cảm, Miếng ngon Hà
Nội và Thương nhớ mười hai là những khoảng lặng hướng về nơi sâu
kín nhất trong tâm hồn. Trong những lần trở về không - thời gian thiêng đã mất,
nhà văn trải lòng không dứt với bất cứ cái gì dẫu bình dị, nhỏ nhặt nhưng giờ
đã trở nên vô cùng thiêng liêng và xiết bao trìu mến. Bên cạnh ngôn từ hàng
ngày tự nhiên, giản dị, đậm chất đời, cả một kho mỹ từ pháp, nhất là những biện
pháp tu từ so sánh và ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được nhà văn trưng dụng tối đa
làm cho câu văn ngập tràn hình ảnh, rưng rưng cảm xúc, chất chứa bao niềm thơ,
nâng tâm hồn và trí tưởng tượng con người bay lên. Mở đầu Thương nhớ mười
hai, người “tự ngôn” đã ví von “lòng người xa nhà y như thể là khúc gỗ bị
mối ăn, mục nát lúc nào không biết. Trông bề ngoài thì không có gì khác lạ,
nhưng cầm một cánh hoa khẽ đập vào thử mà xem: tiếng gỗ kêu nghe mệt mỏi, u buồn,
mà nếu gõ mạnh thêm chút nữa, ta sẽ thấy gỗ vỡ tan, để lộ ra những tảng mục lỗ
chỗ như tổ ong, tiết ra một thứ bụi vàng hanh hao, nhạt nhẽo.
Con tim của người khách tương tư cố lý cũng đau ốm y như là gỗ mục.” Câu văn dài, nhiều cảm thán, hô ngữ, “tãi” ra như cảm xúc miên man, nỗi nhớ bất tận. Không ít những câu văn bố trí đăng đối, hô ứng nhịp nhàng, mang dáng dấp biền ngẫu đưa lại phong vị cổ điển man mác hợp với típ người lữ thứ tư hương. Trong động hướng tìm về nguồn cội, giọng điệu chủ yếu của hai tập ký là trữ tình hoài nhớ đến nồng nàn, đắm đuối: “Mùa thu ở Bắc Việt xa xưa ơi… Mộng từ ngọn gió, cánh hoa mộng đi, mộng từ tiếng nhạn về én đi mà mộng lại, mộng từ bông sen tàn tạ trong đầm mà mộng lên, mộng từ sắc ố quan hà mà mộng xuống.”
Con tim của người khách tương tư cố lý cũng đau ốm y như là gỗ mục.” Câu văn dài, nhiều cảm thán, hô ngữ, “tãi” ra như cảm xúc miên man, nỗi nhớ bất tận. Không ít những câu văn bố trí đăng đối, hô ứng nhịp nhàng, mang dáng dấp biền ngẫu đưa lại phong vị cổ điển man mác hợp với típ người lữ thứ tư hương. Trong động hướng tìm về nguồn cội, giọng điệu chủ yếu của hai tập ký là trữ tình hoài nhớ đến nồng nàn, đắm đuối: “Mùa thu ở Bắc Việt xa xưa ơi… Mộng từ ngọn gió, cánh hoa mộng đi, mộng từ tiếng nhạn về én đi mà mộng lại, mộng từ bông sen tàn tạ trong đầm mà mộng lên, mộng từ sắc ố quan hà mà mộng xuống.”
Viết bằng hoài niệm, viết trong “nỗi thèm tiếc mờ mờ”, viết bằng
thứ tình yêu gián cách cả về không gian cả thời gian, những trang ký Vũ Bằng có
sức hút và ám ảnh kỳ lạ. Qua việc kể tả miếng ngon của “đồng đất mình”, nhà văn
đã làm bừng lên, sống dậy tất cả vẻ đẹp lịch lãm, tinh tế của cảnh vật, sản vật,
con người, văn hóa, mỹ học… của ngàn năm Thăng Long - Hà Nội. “Những miếng ngon
Hà Nội, qua ngòi bút Vũ Bằng, đã gợi lên cả một không gian và thời gian đã lùi
xa vào dĩ vãng. Nó đâu phải chỉ là miếng ăn mà còn là màu sắc, hương vị và linh
hồn của quê hương đất Bắc.”(5)
Nói đến văn học thế kỷ XX viết về “phong cách ăn” Việt Nam,
không ai có thể quên được ba đỉnh cao: Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng. Tuy mỗi
người có con đường riêng, giọng điệu riêng nhưng cả ba đều tự hào, ngưỡng mộ
văn hóa ẩm thực nổi tiếng nhã lịch của người Việt. Cả ba nhà văn là người Hà Nội,
hiểu Hà Nội sâu sắc, yêu Hà Nội tha thiết nhưng chỉ có Vũ Bằng là phải viết
trong tình cảnh “buồn nhớ xa xôi, mang nặng trong lòng những biệt ly xứ sở”. Những
dòng ký Vũ Bằng hay một cách kỳ lạ, hay đến mức như “nhập đồng” mà một người có
số phận trơn tru có lẽ không bao giờ tới được. Vì thế, Vũ Bằng là một nhà văn độc
đáo, hai lần độc đáo!
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
(1) Văn Giá - Kết thúc một giai đoạn tìm kiếm Vũ Bằng và những
tiếp nối - Báo Văn nghệ số 11 (2148) ngày 17/3/2001, trang 7.
(2) Tô Hoài - Vũ Bằng “Thương nhớ mười hai” - Tạp chí Văn học
số 1/ 1991, trang 66.
(3) Triệu Xuân - Nhà văn Vũ Bằng, người lữ hành đơn côi - Lời
giới thiệu Tuyển tập Vũ Bằng, NXB Văn học, 2000.
(4) Văn Giá - Vũ Bằng bên trời thương nhớ - NXB VHTT, 2000.
(5) Từ điển văn học (bộ mới) - NXB Thế giới, 2004.
Chế Diễm Trâm
Theo https://www.vanchuongviet.org/







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét