Mặc dầu tiếng tăm của họa sĩ Đặng Tin Tưởng không được
biết đến một cách rộng rãi so với nhiều họa sĩ thuộc thế hệ đầu của Trường Cao
đẳng mỹ thuật Hà Nội, mà tiền thân là trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương,
nhưng trong số những tác gia của tranh sơn khắc Việt Nam, ông lại là người có
khá nhiều đóng góp. Là một người bền bỉ với nghệ thuật nên cho đến nay, dù thị
lực ít nhiều đã suy giảm, nhưng Đặng Tin Tưởng vẫn tiếp tục sáng tạo trên những
thể loại hội họa khác.
Giản dị như tính cách của một người nông dân, tác phẩm và con
đường sáng tác nghệ thuật của ông dường như được định sẵn. Sinh ra tại một làng
quê ở Hải Dương, bằng một năng lực nghệ thuật tự thân, Đặng Tin Tưởng tham gia
vào phong trào vẽ tranh cổ động những năm 1964-1966. Năm 1967, ông được nhận
vào khoa đồ họa Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam. Trong suốt thời tuổi trẻ,
ông đã từng có mặt trên các chiến trường miền Bắc. Có lẽ, những năm tháng này
đã giúp ông trưởng thành với việc khắc họa lại sự sôi động của cuộc chiến tranh
bảo vệ tổ quốc vĩ đại, nhưng đồng thời cũng là dịp để ông có thể ghi chép lại
các phong cảnh, danh thắng đất Việt.
Nghệ thuật Việt Nam những năm 60 của thế kỷ trước chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa từ Liên Xô và Trung Quốc, do
đó, thế hệ các họa sĩ như ông dường như đã được rèn luyện một thói quen quan
sát phản ánh một cách trung thực nhất hiện thực cuộc sống. Với Đặng Tin Tưởng
điều này đã trở thành một thế mạnh, khi ông chọn tranh sơn khắc là một thể loại
chính để theo đuổi. Những tác phẩm tranh sơn khắc của ông được xem là những tác
phẩm thật sự công phu với sự kết hợp giữa tư duy hình nét của phương Đông và lối
nhìn thấu thị chi tiết của phương Tây. Những tác phẩm sơn khắc đồ sộ về các
danh thắng kiến trúc cổ Việt Nam như Đền Ngọc Sơn, Vịnh Hạ Long, Xuân đất
Việt, cũng như các tác phẩm về sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại đất nước
như Cảng than Cửa Ông, Lòng núi Ngọc sông Đà, Công trường xây dựng có
thể xem như là những nhân chứng sinh động của một giai đoạn mỹ thuật ở miền Bắc
XHCN (1).
Điều đặc biệt là đối với thể loại tranh khắc, một trong những
thể loại tranh độc đáo của Việt Nam, là khó để có thể tìm ra một phong cách
riêng. Dường như chúng bị quy định bởi một kiểu dạng khắc, một lối tư duy về
hình cũng như một công thức dùng màu. Do vậy, rất ít họa sĩ Việt Nam theo đuổi
thể loại này mà tạo được những tiếng nói cá nhân. Đặng Tin Tưởng lại là một
trong số ít đó và có những đóng góp không nhỏ cho thể loại nghệ thuật này. Một
trong những hạn chế nhất của tranh sơn khắc Việt Nam là việc tạo ra các hòa sắc
trên tranh. Thông thường, các tác phẩm này sau khi khắc nét, thường dùng chất
liệu bột màu hay sơn dầu để thể hiện cho các phần khắc lõm trên tranh. Tuy
nhiên, do màu được vẽ trực tiếp dưới lớp thí của vóc vốn có đặc tính hút thấm mạnh
nên các tác phẩm tranh khắc thường bị xuống màu chỉ sau một thời gian ngắn. Để
khắc phục nhược điểm này, Đặng Tin Tưởng đã sáng tạo ra cách ủ vóc sơn sau khi
khắc khiến cho những phần nền bị lột bỏ sau quá trình khắc được gia cố. Kỹ thuật
này cần sự kiên trì và khéo léo để làm sao cho tác phẩm sau khi ủ sơn ta, mặt
vóc vẫn không bị mất đi độ nhẵn bóng cần thiết đặc trưng cho chất liệu. Bên cạnh
đó, ông cũng sử dụng đa chất liệu để tạo nên những hiệu quả khác nhau trong việc
tạo nền cho sơn khắc. Ví dụ, sau khi xử lý nền vóc ổn định, Đặng Tin Tưởng còn
dùng cả bột điệp và sơn dầu để tạo nên một số mảng sáng trong tranh. Chất liệu
điệp đã khiến cho độ trong trẻo của sơn khắc được rực rỡ hơn và cũng giúp hạn
chế sự xuống màu theo thời gian của tranh sơn khắc.
Là một người khá cầu toàn trọng việc tạo nên những tác phẩm
có chất lượng cao, Đặng Tin Tưởng không chỉ đơn thuần làm phác thảo mà còn cầu
kỳ ngay trong khâu làm vóc sơn. Ông đặt thợ làm màu nền cho tác phẩm tùy theo
yêu cầu của nội dung tranh, phá vỡ một thói quen rằng cứ vẽ tranh khắc
là chỉ sử dụng một màu nền đen. Cái màu nền đen cố hữu ấy, theo ông,
phần nào làm hạn chế sức biểu cảm của một thể loại nghệ thuật tạo hình chưa thực
sự được đầu tư khai thác. Tiêu biểu nhất trong số những tác phẩm sáng tạo theo
cách này là bức Vịnh Hạ Long (năm 2000). Đây cũng là tác phẩm sơn khắc
cuối cùng được hoàn thành trước khi ông gặp vấn đề về thị lực. Ông đã chọn màu
đỏ nâu làm màu nền chủ đạo cho tác phẩm, đồng thời chủ ý đặt vóc cho cả phần
khung khiến cho bức tranh và khung tranh tương hỗ nhau, nâng cao thêm giá trị
cho toàn bộ tác phẩm. So với các tác phẩm khác trước đó, thì bức này đã ít nhiều
mang tính chất cách tân. Các nét khắc, mảng chạm được trải rộng hợp với sắc
vàng của sơn mài và vàng của sơn dầu khiến cho bức tranh khắc này mang một sắc
thái hoàn toàn khác.
Ở một số tác phẩm khác, không chỉ đổi sắc vóc để hợp chủ đề,
mà Đặng Tin Tưởng còn sử dụng lối phối kết hợp giữa khắc và vẽ để tạo ra những
hiệu quả đan xen. Điển hình là bức Xuân đất Việt, các nét khắc vẫn được
xem như yếu tố chủ đạo tạo nên xương cốt của tác phẩm. Bên cạnh đó, để tạo
không gian xa hút tầm mắt mà yếu tố nét khắc đơn thuần kiểu đơn tuyến bình đồ
nhiều khi không diễn được hết, ông đã sử dụng ngôn ngữ tạo hình theo lối sơn
mài. Mặt khác, với thủ pháp đồng hiện, Đặng Tin Tưởng đã thu toàn bộ những
phong cảnh, cũng như những phong tục đặc trưng của mỗi vùng miền để đưa vào một
không gian chung. Đây cũng có thể xem như tác phẩm tranh khắc đồ sộ để đời của
ông.
Nhưng, có lẽ với ông, sáng tạo là không ngơi nghỉ và nghệ thuật
thì không có điểm dừng. Với Đặng Tin Tưởng, trong vòng 10 năm trở lại đây, nghệ
thuật của ông rẽ sang một lối khác, mà ở đó nhu cầu của nội tâm dường như đã
tìm được một giá trị mới. Chúng phá bỏ đi mọi rào cản, mọi nguyên tắc, để tung
hoành. Khác xa với những bức tranh khắc tỉ mỉ, kỳ khu, cẩn trọng đến từng chi
tiết thì giờ đây tranh giấy gió, sơn dầu, acrylic lại bật lên được hình ảnh một
con người khác trong ông. Một con người phóng khoáng tự do với sự tri kiến về
thiên nhiên bằng tất cả sự từng trải của mình. Từ loạt tranh vẽ về hoa, thổ cẩm
Sapa cho đến những sáng tác gần đây nhất về hồ Gươm có lẽ cũng chỉ là cái cớ để
người nghệ sĩ giãi bày lòng mình. Sự phóng bút ào ạt để cho màu sắc tự tuôn chảy
đã tạo nên những tác phẩm gần về với lối trừu tượng. Dường như phong cách này của
ông là do ảnh hưởng không ít từ người bạn, cũng là họa sĩ đàn anh, Trần Lưu Hậu,
trong những chuyến đi dài ngày về miền núi. Cái khoáng đạt của núi rừng khiến
con người ta mở lòng và cái nội lực mạnh mẽ không phải do con mắt nhìn mà do
cái tâm được thắp sáng đã khiến ông trở nên mạnh mẽ. Tất cả hình ảnh hiện lên
trong tranh ông đôi khi chỉ là những nét chấm phá tưởng chừng rất sơ lược nhưng
người ta có thể đọc ra ở đó một linh thần của sự vật. Chúng cũng giống
như linh thần của họa sĩ được truyền cảm vào đầu ngọn bút mà hình ảnh vẫn rõ
ràng ở trơng tâm. Hình ảnh trên những bức tranh Sapa và đặc biệt các tác phẩm về
hồ Gươm, dù là được vẽ với toan và acrylic hay với giấy dó và mực nho, màu nước,...
thì dường vẫn gợi nhiều về quá khứ, như thể theo một thói quen chiêm nghiệm của
riêng ông. Có thể do yếu về thị lực nên trên tranh vẽ về sau này, ông thường
dùng rất nhiều sắc mạnh, như ông vẫn đùa: "Giờ, tôi vẽ chủ yếu theo kiểu
hú họa”.
Tuy thế, ở đó, vẫn còn nguyên tâm thức của người làm đồ họa lâu năm. Sự chi tiết tỉ mỉ là một ưu điểm trong tạo hình của ông. Do đó, bên cạnh những nét bút tưởng chừng như phóng bút và kệ cho màu sắc được loang nhòa theo độ thẩm thấu của giấy mực, hay sự chồng xếp của những lớp màu dầu, acrylic, những nét mái cong - một điểm nhấn chính xác của kiến trúc, tỷ lệ - đã khiến cho tranh ông trở nên có hồn. Chính những chi tiết này đã khiến cho tranh ông vừa mang dáng nét bay bổng của một kẻ chỉ quan tâm đến cảm xúc, nhưng đồng thời sâu thẳm bên trong đó lại là một hiểu biết rất cặn kẽ về cảnh vật. Chúng cũng khiến cho người xem thoạt đầu chỉ cảm thấy như những tác phẩm này quá ư là cẩu thả, dễ dãi, nhưng càng ngắm, càng trầm lắng lại cùng thiên nhiên cảm xúc thì lại càng thấy chúng sâu thẳm hút mắt. Đặc biệt là những bức vẽ bằng acrylic, cái đậm nhạt, cái thưa mau của nét màu đã tạo nên những lớp nền khác nhau của cảnh vật.
Tuy thế, ở đó, vẫn còn nguyên tâm thức của người làm đồ họa lâu năm. Sự chi tiết tỉ mỉ là một ưu điểm trong tạo hình của ông. Do đó, bên cạnh những nét bút tưởng chừng như phóng bút và kệ cho màu sắc được loang nhòa theo độ thẩm thấu của giấy mực, hay sự chồng xếp của những lớp màu dầu, acrylic, những nét mái cong - một điểm nhấn chính xác của kiến trúc, tỷ lệ - đã khiến cho tranh ông trở nên có hồn. Chính những chi tiết này đã khiến cho tranh ông vừa mang dáng nét bay bổng của một kẻ chỉ quan tâm đến cảm xúc, nhưng đồng thời sâu thẳm bên trong đó lại là một hiểu biết rất cặn kẽ về cảnh vật. Chúng cũng khiến cho người xem thoạt đầu chỉ cảm thấy như những tác phẩm này quá ư là cẩu thả, dễ dãi, nhưng càng ngắm, càng trầm lắng lại cùng thiên nhiên cảm xúc thì lại càng thấy chúng sâu thẳm hút mắt. Đặc biệt là những bức vẽ bằng acrylic, cái đậm nhạt, cái thưa mau của nét màu đã tạo nên những lớp nền khác nhau của cảnh vật.
Đối với loạt những tác phẩm phong cảnh hồ Gươm gần đây của
ông không chỉ đơn thuần là những hình ảnh hiện hữu tháp Bút, đài Nghiên, cầu
Thê Húc, tháp Hòa Phong, mà ở đó còn chứa đựng những giá trị lịch sử của con
người và cảnh vật. Biết bao điều đã in sâu vào ký ức của họa sĩ sau nhiều năm cầm
bút, khắc họa lại phong cảnh nơi đây với một cảm thức bền bỉ, sống động. Những
cây gạo, hay cây cổ thụ trăm năm trước cổng đền Ngọc Sơn mặc dầu giờ đây không
còn nữa, nhưng với Đặng Tin Tưởng thì nó vẫn sống như một phần thiết yếu của
ngôi đền. Tháp Rùa với cành phượng là là rủ sát mặt nước, hay phía xa là phố xá
cổ xưa, hay một Hà Nội toàn cảnh, với tháp chuông nhà thờ lớn, cầu Long Biên,
đã khiến cho hồ Gươm của ông không còn đơn thuần là phong cảnh, không đơn thuần
là cái ta nhìn thấy, tri giác được, mà là ký ức của một tình yêu Hà Nội đến cháy
lòng.
Có thể nói Đặng Tin Tưởng cẩn trọng đến từng chi tiết trên những
bức tranh sơn khắc, nhưng bên cạnh đó, với bút, mực, sơn, toan, ông lại vẽ như
một kẻ lãng du tung hoành. Và hơn tất thảy, ông vẽ cho niềm say mê của mình
không bao giờ nguôi, cạn, để cảm thấy cuộc đời mình tràn ngập niềm vui và lẽ sống.
Ghi chú:
Ghi chú:
1. Nguyễn Quân, Tranh Đặng Tin Tưởng, in trong sách cùng tên, Nxb Mỹ
thuật, Hà Nội, 2008.





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét