Với chức năng này, quốc hội đóng vai trò như mắt xích liên kết giữa
chính phủ và nhân dân, trong đó, quốc hội đứng về phía dân và đại
diện cho dân. Đây là chức năng cực kỳ quan trọng của quốc hội.
Khả năng đại diện cho nhân dân của quốc hội cao đến đâu thì
chứng tỏ nhà nước dân chủ đến đó. Nói cách khác, khả năng quốc
hội đại diện cho nhân dân chính là một trong số các chỉ dấu về mức
độ dân chủ của quốc gia. (Xem Chương III, “Về tính đại diện”, ở
Phần III, Dân chủ).
Ở Việt Nam dưới thời cộng sản, do độc đảng và bầu cử phi dân
chủ, tính đại diện của Quốc hội được tuyên giáo hiểu là mức độ mà
quốc hội đại diện được cho cả nước, tức là mức độ Quốc hội phản
ánh cả xã hội, làm sao để Quốc hội như một xã hội thu nhỏ, có đủ
thành phần về giới tính, dân tộc, nghề nghiệp... (Xem Chương
VII, “Hệ thống chính trị CHXHCN Việt Nam”, của Phần VI này).
4. Bầu chọn nhân sự lãnh đạo
Cơ quan lập pháp ở hầu hết các nước dân chủ đều có vai trò quan
trọng trong việc lựa chọn ra một số hoặc tất cả các chức vụ hành
pháp cao cấp nhất. Ví dụ nổi bật là những cuộc “bầu cử” gián tiếp
của cơ quan lập pháp để chọn ra thủ tướng, ở một số nước theo chế
độ cộng hòa đại nghị. Tất nhiên, không phải lúc nào cơ quan lập
pháp cũng bỏ phiếu trực tiếp để chọn ra người vào vị trí này trong
số rất nhiều ứng cử viên khác nhau. Nhưng cứ mỗi khi họ bỏ phiếu
bất tín nhiệm thì, trên thực tế, điều đó có nghĩa là họ đang tiến
hành bầu lại hoặc bãi miễn một vị thủ tướng đã từng được bầu
chọn: Nếu việc bất tín nhiệm được thông qua thì thủ tướng phải từ
chức; nếu không thông qua được thì thủ tướng tiếp tục tại vị.
Ngay cả trong chế độ cộng hòa tổng thống, cơ quan lập pháp
cũng có quyền bầu chọn nhân sự. Chẳng hạn, Hiến pháp Mỹ quy
định rằng, nếu không có ứng viên tổng thống hoặc phó tổng thống
nào kiếm được đa số phiếu của Đại Cử tri Đoàn, thì Hạ viện sẽ
chọn ra tổng thống từ hai hoặc ba ứng viên có số phiếu lớn nhất, và
Thượng viện sẽ chọn phó tổng thống theo một cách khác. Chưa có
tổng thống hay phó tổng thống nào được bầu lên thông qua cơ chế
này suốt từ năm 1824 đến nay (năm đó, không ứng viên nào giành
được đa số phiếu đại cử tri, nên Hạ viện chọn John Quincy Adam
là người chiến thắng, trước Andrew Jackson và William H.
Crawford). Tuy nhiên, Quốc hội Mỹ vẫn giữ quyền bầu chọn nhân
sự, phòng có ngày lại cần dùng đến.
5. Giám sát
Thực hiện chức năng này có nghĩa là quốc hội phải buộc được
chính phủ minh bạch, báo cáo, giải trình và chịu trách nhiệm trước
quốc hội (cũng có nghĩa là trước nhân dân, vì quốc hội đại diện cho
dân) về mọi hoạt động của chính phủ. Quốc hội và chính phủ làm
điều đó thông qua các báo cáo thường xuyên, các cuộc chất vấn và
giải trình, mà ở Mỹ gọi là “điều trần”.
Quốc hội thường được gọi là “cơ quan lập pháp”, nên người ta
dễ nghĩ rằng làm luật là chức năng chính của quốc hội. Tuy nhiên,
các nhà khoa học chính trị nhận xét rằng, trong các nền dân chủ
hiện đại, vai trò làm luật của quốc hội ngày càng giảm đi, trong khi
vai trò giám sát chính phủ ngày càng tăng lên.
Ở các chế độ đại nghị như Anh quốc, khi mà đảng chiếm đa số
thành viên trong quốc hội cũng là đảng cầm quyền, thì vai trò giám
sát của quốc hội do đảng đối lập nắm.
Khả năng giám sát chính phủ của quốc hội cũng là chỉ dấu cho
thấy sức mạnh của quốc hội và nền dân chủ của đất nước. Rõ ràng
là, muốn giám sát được chính phủ thì quốc hội cần được tiếp cận
thông tin, nhất là thông tin từ chính phủ, và nói rộng ra, cần có
nguồn lực tốt để có thể tiếp cận các dịch vụ (như nghiên cứu, tư
vấn chuyên môn, các nguồn ý kiến chuyên gia...).
6. Tài chính
Trong mọi nền dân chủ hiện đại, lập pháp đều nắm “sức mạnh của
hầu bao” và là cơ quan quyết định mục đích cũng như phạm vi của
mỗi thứ thuế má và công quỹ. Về mặt luật pháp, chính phủ chỉ có
thể chi tiêu những khoản công quỹ do lập pháp cấp cho. Giống như
nhiều chức năng khác của lập pháp, các kế hoạch chính trong tài
chính công đều được chuyển từ cơ quan lập pháp sang cơ quan
hành pháp, trong hầu hết các thể chế dân chủ. Hiện nay, nhiều
quốc hội chỉ xem lại ngân sách do hành pháp đề xuất, thay vì tự
soạn thảo kế hoạch ngân sách từ đầu. Mỗi cơ quan lập pháp cụ thể
sẽ xem xét lại ngân sách này như thế nào, điều đó phụ thuộc vào
việc hành pháp có quyền hành tới mức độ nào.
Một cách ngắn gọn, lập pháp giữ quyền xem xét, phê duyệt hoặc
bác bỏ kế hoạch ngân sách do hành pháp soạn thảo và đề xuất.
Ở Mỹ, Chính phủ chỉ được phép chi tiêu những khoản công
quỹ do Quốc hội phê duyệt, nếu không được duyệt là... phải tạm
dừng hoạt động, gọi là tạm đóng cửa.
Dòng chữ trong ảnh: Do chính phủ liên bang đóng cửa,
tất cả các công viên quốc gia đều đóng cửa.
7. Các chức năng gần như hành pháp
Ngoài việc xem xét phê duyệt ngân sách hành pháp, nhiều cơ quan
lập pháp ở các thể chế dân chủ còn có chức năng xem xét, phê
duyệt cả một số đề xuất khác của cơ quan hành pháp. Chẳng hạn,
ở hầu hết các nước dân chủ, những điều ước quốc tế là do hành
pháp đàm phán, nhưng phải được lập pháp phê chuẩn thì mới có
hiệu lực. Ở Mỹ, tổng thống chỉ định nhiều chức vụ hành pháp, tư
pháp khác nhau (thẩm phán liên bang, thành viên nội các, người
đứng đầu mỗi cơ quan hành chính, và các vị đại sứ) “theo và với
sự cố vấn và đồng thuận của Thượng viện” (Điều II) (tức là, việc
chỉ định sẽ chỉ có tính chất “tạm thời” cho tới khi nào được đa số
thành viên Thượng viện phê chuẩn). Ai theo dõi các phiên điều
trần về việc chỉ định Robert H. Bork năm 1988 [có thể tác giả
nhầm, năm đúng là 1987] và Clarence Thomas năm 1991 làm
thành viên Tòa án Tối cao đều biết rằng việc cơ quan lập pháp thực
thi chức năng này của họ đôi khi trở thành tin tức nổi bật trên
trang nhất các báo, và Thượng viện thỉnh thoảng cũng bác bỏ một
số ứng viên tổng thống.
8. Các chức năng gần như tư pháp
Một số cơ quan lập pháp còn thực hiện cả chức năng gần như tư
pháp. Chẳng hạn, Hiến pháp Mỹ quy định Hạ viện có thể đặt vấn
đề luận tội bất kỳ công chức nào trong chính phủ liên bang (kể cả
tổng thống, phó tổng thống, thành viên nội các, và chánh án Tòa
Tối cao). Xin nhớ rằng luận tội không phải là kết tội. Thay vì thế,
luận tội là hành vi chính thức cáo buộc tổng thống phạm một tội
nào đó – hãy so nó với cáo trạng của bồi thẩm đoàn trong một vụ
án hình sự bình thường. Bất kỳ quan chức nào bị luận tội như vậy
cũng phải bị xét xử bởi Thượng viện, và cần phải có hai phần ba số
phiếu tán thành thì mới kết tội được. Hạ viện đã luận tội tổng cộng
16 quan chức kể từ năm 1789: 13 chánh án, hai tổng thống, và một
thành viên nội các. Chỉ có 7 người, tất cả đều là chánh án, bị kết tội
và cách chức. Tổng thống Andrew Jackson thoát bị kết tội một lần
vào năm 1868 chỉ nhờ chênh lệch đúng một phiếu. Năm 1974,
Tổng thống Richard Nixon từ chức khi tình hình cho thấy rõ ràng
là Hạ viện sắp luận tội ông ta. Năm 1998, Hạ viện bỏ phiếu về hai
bản luận tội Tổng thống Bill Clinton; ông bị Thượng viện xét xử
năm 1999 nhưng được tha bổng khi mà cả hai bản luận tội đều
chẳng bản nào nhận được hai phần ba số phiếu cần thiết.
Năm 1999, Bill Clinton bị Hạ viện luận tội và Thượng viện xét xử
(nhưng không đủ 2/3 số phiếu để bị cách chức).
Một vụ việc tương tự xảy ra ở Brazil năm 1992: Hạ viện bỏ
phiếu luận tội Tổng thống Fernando Collor de Mello nhận hối lộ,
nhưng Collor từ chức trước khi Thượng viện có thể xét xử ông ta,
và Phó Tổng thống Itamar Franco lên thay.
Tương tự, Quốc hội Pháp có thể cáo buộc tổng thống và các bộ
trường vì tội phản quốc và các tội khác, mặc dù những quan chức
bị buộc tội sẽ được xét xử bởi tòa án cấp cao chứ không phải quốc
hội. Thượng viện Anh đã mất phần lớn quyền lực nhưng vẫn tiếp
tục là tòa án cấp cao nhất nước. Hầu hết công việc tư pháp của
Thượng viện, và toàn bộ các hoạt động của nó với tư cách tòa phúc
thẩm, đều được tiến hành nhân danh toàn thể Thượng viện bởi
một nhóm nhỏ, gồm 10-15 chuyên gia pháp lý, kể cả Đại Chưởng
ấn [có người dịch là Nhiếp chính quan], 12 nguyên lão, và các
thành viên khác của Thượng viện – những người từng giữ chức vụ
tư pháp cao (ví dụ, nguyên đại chưởng quan).
9. Điều tra
Những cuộc điều tra của cơ quan lập pháp thường thu hút sự chú
ý đáng kể của dư luận, đặc biệt là ở Mỹ. Hai ví dụ nổi tiếng nhất gần
đây là vụ năm 1988 do ủy ban phối hợp chung Hạ viện-Thượng
viện tiến hành để làm rõ những kế hoạch bí mật của Cố vấn An
ninh Quốc gia John Poindexter và trợ lý Oliver North nhằm bán vũ
khí cho Iran và sử dụng quy trình này để tài trợ cho những nhóm
phiến quân nổi dậy ở Nicaragua; và vụ do Ủy ban phụ trách các
công việc của chính phủ, trực thuộc Thượng viện, tiến hành nhằm
điều tra các hoạt động nghi là bất hợp pháp của lực lượng ủng hộ
Clinton trong việc gây quỹ cho chiến dịch tái tranh cử của ông
Clinton (năm 1996).
Một cuộc điều trần tại Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos (Hạ viện Mỹ) về tình
hình tù nhân lương tâm trên thế giới, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam,
ngày 14/1/2014, Washington D.C.
Ảnh: Phạm Đoan Trang
Tuy nhiên, không phải chỉ mình cơ quan lập pháp Mỹ có hoạt
động điều tra. Hạ viện Anh cũng đã thành lập một số “ủy ban có
chọn lọc” nhằm mục đích làm rõ những thông tin họ cần biết về
các vấn đề mà các ủy ban thường trực của họ không bao quát được.
Các ủy ban có chọn lọc này tổ chức những phiên điều trần, triệu
tập nhân chứng và thu thập bút lục, và sau đó đệ trình báo cáo. Đôi
khi những báo cáo ấy có thể đưa đến việc thay đổi luật pháp hiện
hành, thay đổi các quy định hành chính hiện hành, hoặc cả hai.
Mặc dù Anh, khác với Mỹ, thực hiện rất nhiều cuộc điều tra của
chính phủ thông qua các hội đồng thuộc hoàng gia (bao gồm cả
những nhà lập pháp lẫn người ngoài), nhưng các ủy ban có chọn
lọc vẫn đóng một vai trò đáng kể trong việc định hình chính sách.
10. Chức năng thông tin
Một số cuộc điều tra của cơ quan lập pháp được tiến hành chủ yếu
nhằm thu thập thông tin cần thiết cho việc xây dựng luật mới. Tuy
nhiên, cũng có nhiều cuộc điều tra mà mục đích chính yếu là để
thông tin cho các cơ quan khác trong chính quyền hoặc cho công
luận nói chung về những gì đang xảy ra. Ví dụ, cuộc điều tra của
một ủy ban trong Thượng viện Mỹ về hoạt động gây quỹ cho chiến
dịch tranh cử tổng thống năm 1996 chỉ nhằm cung cấp phần nào
căn cứ cho những luật mới điều tiết việc tài trợ cho các chiến dịch
vận động và thể thức vận động. Cuộc điều tra cũng được tiến hành
để xác định xem có phải đạo luật hiện hành khi đó đã bị chính
Tổng thống Clinton, hoặc các thành viên trong chính quyền và tổ
chức vận động tranh cử của ông ta, vi phạm hay không. Một ví dụ
khác, vào cuối những năm 1970, cả hai viện của Quốc hội Mỹ đã
thành lập ủy ban điều tra vụ ám sát Tổng thống John F. Kenney
năm 1963, Martin Luther King năm 1968, để xác định xem đó là
hành động của các cá nhân, như công cuộc điều tra trước đó đã kết
luận, hay là kết quả của nhiều âm mưu nào đấy.
Các cuộc điều tra của cơ quan lập pháp là một cách để thông tin
cho công luận, và các cuộc tranh luận của họ cũng là một cách
thông tin khác. Ở nhiều quốc hội, đường lối và kỷ luật đảng mạnh
đến mức thảo luận trong cơ quan lập pháp khó có thể thay đổi
được lá phiếu của mỗi nghị sĩ. Nhưng cho dù có như thế thì thảo
luận vẫn tạo ra diễn đàn chính, nơi các quan điểm ủng hộ và phản
đối mỗi vấn đề đều được đưa ra. Do đó, thảo luận cũng đóng gần
như hoàn toàn cái vai trò cung cấp thông tin và thúc đẩy ý kiến
công luận, mà các chiến dịch vận động tranh cử vẫn thực hiện. (...)
Nếu người dân được thông tin và khai sáng là điều kiện thiết yếu,
hàng đầu cho một nền dân chủ bền vững, thì thông tin cho công
luận dứt khoát không phải là chức năng kém quan trọng nhất trong
các chức năng của lập pháp.
Nghị trường Mỹ có một chuyện rất thú vị, đó là trước khi một dự thảo
luật được biểu quyết thông qua, các thượng nghị sĩ có quyền phát biểu nói
liên tục bao lâu cũng được, miễn là không ngừng nói, không được ngồi.
Nói cho đến khi nào kiệt sức không nói được nữa mà thôi. Chính vì vậy
một nhóm thiểu số thượng nghị sĩ hoặc một đảng muốn chống lại dự
thảo luật có lợi cho phe đối lập, họ sẽ cử một hoặc nhiều thượng nghị sĩ
đứng lên phát biểu con cà con kê hết giờ này sang giờ khác, hết ngày này
sang ngày khác cho đến khi hết thời gian để mọi người có thể biểu quyết
mà thôi. Chiến thuật này có một tên hẳn hoi, đó là: chiến thuật filibuster.
Chiến thuật này thậm chí đã được lên thành phim “Mr. Smith Goes to
Washington” (1939). Lịch sử Mỹ đã ghi nhận Storm Thurmond là người
đã sử dụng chiến thuật filibuster dài nhất trong lịch sử. Ông đã phát biểu
trong 24 tiếng 18 phút trong cố gắng chống lại Đạo luật các Quyền Dân
sự năm 1957. Trong bài phát biểu của ông có những chủ đề thậm chí như
công thức món ăn của bà nội ông v.v...
Xem lại nghị trường của nước ta, dường các đại biểu Quốc hội từ các năm
trước đã nhen nhúm, nhưng năm nay đặc biệt rõ hơn sử dụng “chiến
thuật filibuster” kiểu Việt Nam. Nghĩa là sẽ có những ông/bà đại biểu đưa
ra những ý kiến trời ơi đất hỡi, dường như là muốn câu giờ để thời gian
họp Quốc hội trôi qua, còn những việc quan trọng của đất nước thì sẽ bị
lờ đi. Thậm chí đến bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cũng
chơi cái “chiến thuật filibuster” này khi yêu cầu luật sư tố thân chủ. Báo
chí thì có đề tài câu view, người dân ngây thơ thì bị xỏ mũi tranh cãi
những ý kiến điên rồ này.
Chỉ có đất nước là lụn bại.
(Nhà báo Nguyễn Dân (facebooker Ếch Ao)
viết trên facebook cá nhân ngày 03/6/2017).
LƯỠNG VIỆN VÀ MỘT VIỆN
Chương này xoay quanh vấn đề cấu trúc của cơ quan lập pháp: Quốc
hội một viện hay hai viện? Ưu, nhược điểm của mỗi mô hình?
Trong lịch sử, Nam Tư (Yugolasvia) từng có thời có tới 5 viện
trong quốc hội. Nam Phi giai đoạn 1984-1994 có quốc hội ba viện.
Tuy nhiên, nhìn chung trên thế giới, cơ quan lập pháp các nước chỉ
có một hoặc hai viện, với tỷ lệ cũng tương đương nhau (50:50).
Quốc hội lưỡng viện Quốc hội một viện
Mỹ, Anh, Áo, Ba Lan, Bỉ, Đức,
Ireland, Hà Lan, Pháp, Philippines,
Rumani, Séc, Slovenia, Tây Ban
Nha, Ý...
Bồ Đào Nha, Bulgaria, Croatia,
Đan Mạch, Estonia, Hungary, Hy
Lạp, Phần Lan, Slovakia, Thụy
Điển, Trung Quốc, Việt Nam...
Quốc hội lưỡng viện
Là quốc hội mà quyền lực được chia cho hai viện: thượng viện và
hạ viện.
Bạn chú ý rằng gọi là “thượng” và “hạ”, nhưng không có nghĩa là
thượng viện cao hơn hạ viện. Không những thế, thượng viện lại có
quy mô nhỏ hơn (ít ghế hơn) và có tính đại diện thấp hơn hạ viện.
Ở một số nước, thượng viện thường được xem như chỉ có chức
năng tư vấn hoặc xem xét lại, nên quyền lực của thượng viện thậm
chí còn hạn chế hơn hạ viện: chỉ được bỏ phiếu trong một số vấn
đề nhất định (ví dụ sửa hiến pháp), không được đề xuất dự luật,
không được bỏ phiếu bất tín nhiệm chính phủ, không được phủ
quyết dự thảo luật, không được sửa đổi dự thảo luật...
Ở Mỹ, quyền lực được chia đều cho hai viện hay nói cách khác,
quyền của thượng viện ngang bằng hạ viện, thậm chí còn có một
vài quyền mà hạ viện không có, chẳng hạn như quyền chỉ định
chánh án, đại sứ...
Thành viên của thượng viện được gọi là thượng nghị sĩ hoặc
nghị sĩ. Cương vị này có thể được bầu trực tiếp, bầu gián tiếp hoặc
được chỉ định, tùy nước. Nếu được bầu thì thượng viện được bầu
từng phần (gối nhau).
Thành viên của hạ viện được gọi là dân biểu. Dân biểu được bầu
trực tiếp và đồng loạt.
Do hạ viện có tính đại diện cao hơn cho nên dân biểu thường
quan tâm đến đơn vị bầu cử của mình, hơn là đến cả đơn vị bầu cử
lẫn đất nước. Dân biểu thường chú ý đến các đạo luật của địa
phương mình hơn. Thượng viện thì thường quan tâm tới các vấn
đề quốc gia hơn.
Ưu điểm của quốc hội lưỡng viện
- Hai viện kiểm soát quyền lực lẫn nhau và ngăn chặn sự khống chế
của nhóm lợi ích.
- Hai viện kiểm soát hành pháp hiệu quả hơn một viện.
- Tăng cường khả năng đại diện cho nhiều lợi ích hơn, nhiều
nhóm cử tri hơn.
- Bảo vệ hiến pháp tốt hơn, trì hoãn hoặc ngăn chặn việc thông
qua những đạo luật chưa hợp lý.
- Tạo thêm thời gian cho việc thảo luận và phản biện các dự
thảo luật.
- Rất phù hợp với những quốc gia rộng lớn, có dân số không
đồng nhất, hoặc nước theo thể chế liên bang.
Nhược điểm của quốc hội lưỡng viện
- Làm cho tiến trình lập pháp càng phức tạp, khó khăn, mất thì
giờ hơn; có thể gây ra “bế tắc về chính sách” khi mà các đạo luật mãi
không được thông qua. Chuyện này đặc biệt dễ xảy ra khi hành
pháp và lập pháp nằm trong tay hai đảng khác nhau hoặc hai viện
do hai đảng khác nhau khống chế.
- Tốn kém hơn, ít nhất là tốn tiền lương cho các nghị sĩ và dân
biểu.
- Khó xác định trách nhiệm trong trường hợp một đạo luật tồi
tệ được thông qua, bởi hai viện thường đổ lỗi cho nhau.
Dân biểu Mỹ Zoe Lofgren (đảng Dân chủ, bang California)
cầm tập báo cáo về blogger Ba Sàm, tại văn phòng của bà ở Washington
D.C., ngày 13/11/2014. Ảnh: Phạm Đoan Trang
Quốc hội một viện
Ưu điểm của quốc hội một viện
- Tiết kiệm chi phí, kinh tế hơn lưỡng viện.
- Dễ xác định trách nhiệm khi một luật tồi tệ được thông qua
(hoặc khi không thông qua được luật).
- Tiến trình lập pháp gọn nhẹ hơn, có thể nhanh chóng hơn.
- Quốc hội đại diện được cho cả lợi ích quốc gia lẫn địa phương.
Nhược điểm của quốc hội một viện
- Thiếu sự kiểm soát quyền lực lẫn nhau như ở cơ chế lưỡng viện,
và vì thế, quốc hội có thể bị chi phối bởi nhóm lợi ích.
- Khả năng kiểm soát hành pháp kém hơn. Ở những nước theo
chế độ đại nghị mà lãnh đạo phe đa số trong quốc hội cũng là quan
chức hành pháp thì có nguy cơ hành pháp lấn át lập pháp. (Ở nước
độc đảng như Việt Nam dưới thời cộng sản thì đó không còn là
nguy cơ mà đã là thực tế).
- Tính đại diện thấp, nhiều nhóm trong xã hội có thể không
được đại diện đúng mức ở quốc hội.
- Chất lượng làm luật kém hơn, có thể thông qua những đạo
luật tồi tệ, vi hiến, bất hợp lý.
- Không thích hợp với những nước có dân số lớn, không đồng
nhất, hoặc những nước theo thể chế liên bang.
TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG QUỐC HỘI
Dưới đây là một bảng danh sách các tiêu chí để đánh giá một quốc
hội có thực sự là đại diện của dân không, có thực sự là cơ quan dân
cử vận hành trong một nền dân chủ không. Bảng này do M. Steven
Fish và Matthew Kroenig lập cho một khảo sát quốc tế của họ từ
năm 2002 đến năm 2005, nhằm khẳng định một điều: Cơ quan lập
pháp càng mạnh thì đất nước càng dân chủ.
Bảng khảo sát Fish-Kroenig về quyền lực lập pháp*
1. Một mình quốc hội, không có sự tham gia của bất kỳ cơ quan nào khác, có đủ quyền luận tội tổng thống hoặc thay thế thủ tướng.
2. Các bộ trưởng có thể đồng thời là thành viên của quốc hội.
3. Quốc hội có quyền triệu tập quan chức hành pháp. Điều trần của các quan chức hành pháp trước quốc hội hoặc các ủy ban của quốc hội được tiến hành thường xuyên.
4. Quốc hội có quyền tiến hành điều tra độc lập về người đứng đầu cơ
quan hành pháp và các cơ quan thuộc hành pháp.
5. Quốc hội có thực quyền giám sát các cơ quan công quyền (quân đội, hành pháp, tình báo, mật vụ).
6. Quốc hội chỉ định thủ tướng.
7. Bắt buộc phải có sự chuẩn y của quốc hội thì mới có thể phê chuẩn việc chỉ định từng bộ trưởng. Hoặc tự quốc hội có quyền chỉ định bộ trưởng.
8. Quốc gia không có tổng thống, hoặc có tổng thống nhưng tổng thống bdo quốc hội bầu ra.
9. Quốc hội có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm chính phủ mà không đe dọa gì đến nhiệm kỳ của quốc hội (tức là không có nguy cơ bị giải tán).
10. Quốc hội được miễn trừ khỏi việc bị cơ quan hành pháp giải tán.
11. Mỗi sáng kiến làm luật của cơ quan hành pháp phải được sự phê chuẩn, chuẩn y của quốc hội thì mới có hiệu lực, nói cách khác, cơ quan hành pháp không có quyền lực lập pháp.
12. Luật do quốc hội thông qua không thể bị phủ quyết, hoặc phần lớn
không thể bị phủ quyết; nói cách khác, cơ quan hành pháp không có quyền phủ quyết, hoặc có quyền phủ quyết song phủ quyết vô hiệu nếu bị đa số thành viên quốc hội bác bỏ.
13. Luật do quốc hội làm ra và ban hành là tối cao.
14. Quốc hội có quyền đề xuất dự thảo luật ở mọi lĩnh vực chính sách;
hành pháp không có quyền kiểm soát việc đó.
15. Việc chi tiêu ngân quỹ của quốc hội phải được ủy nhiệm; cơ quan hành pháp không có quyền sử dụng những khoản ngân quỹ mà quốc hội đã lấy.
16. Quốc hội kiểm soát mọi nguồn tiền tài trợ cho hoạt động của quốc hội và cấp phát lương bổng cho thành viên quốc hội.
17. Thành viên quốc hội được miễn trừ khỏi việc bị bắt và/hoặc bị truy tố hình sự.
18. Tất cả thành viên quốc hội đều là dân cử (do bầu cử mà ra); cơ quan hành pháp không có quyền chỉ định bất kỳ thành viên nào của quốc hội.
19. Một mình quốc hội, không có sự tham gia của bất kỳ cơ quan nào khác, có quyền sửa đổi hiến pháp.
20. Việc tuyên bố chiến tranh bắt buộc phải được sự chuẩn y của quốc
hội.
21. Việc thông qua các điều ước quốc tế bắt buộc phải được sự chuẩn y của quốc hội.
22. Quốc hội có quyền ra lệnh ân xá.
23. Quốc hội có quyền tha tội.
24. Quốc hội xét duyệt và có quyền bác bỏ các nhân sự được chỉ định cho cơ quan tư pháp; hoặc tự quốc hội có quyền chỉ định thành viên cơ quan tư pháp.
25. Thống đốc ngân hàng trung ương do quốc hội chỉ định.
26. Quốc hội là một tiếng nói có trọng lượng trong hoạt động của cơ quan truyền thông quốc doanh.
27. Quốc hội họp thường xuyên.
28. Mỗi nhà lập pháp (đại biểu quốc hội, nghị sĩ, dân biểu) đều có thư ký riêng.
29. Mỗi nhà lập pháp đều có ít nhất một trợ lý không phải là thư ký và có chuyên môn về chính sách.
30. Các nhà lập pháp có thể được tái cử, không bị hạn chế gì.
31. Mỗi một ghế trong quốc hội đều là một cương vị đủ hấp dẫn để các
nhà lập pháp nói chung đều ưa thích và vì thế đều mong muốn được tái cử.
32. Việc tái cử các thành viên đương nhiệm của quốc hội là phổ biến, đủ để vào bất kỳ lúc nào, quốc hội cũng có một số lượng đáng kể thành viên nhiều kinh nghiệm.
* “Stronger legislatures, stronger democracies”, M. Steven Fish, tháng 1/2006. Bài nằm trong tuyển tập “Democracy: A Reader”, Larry Diamond & Marc F. Plattner, John Hopkins University Press, 2009.
CƠ QUAN LẬP PHÁP Ở VIỆT NAM
Cơ quan lập pháp ở Việt Nam gồm Quốc hội và các hội đồng nhân dân.
Cơ quan lập pháp cấp cao nhất – cấp trung ương – được gọi là
Quốc hội. Thành viên của nó được gọi là đại biểu Quốc hội.
Điều 69 Hiến pháp Việt Nam 2013 quy định “Quốc hội là cơ
quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc
hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động
của Nhà nước”.
Mặc dù Hiến pháp nghe có vẻ rất dân chủ như vậy, nhưng như
ở Chương “Hiến pháp và pháp luật” đã đề cập, trên thực tế thì bản
“khế ước xã hội” này chưa bao giờ được nhân dân phúc quyết, và
nó chỉ là sự thể chế hóa cương lĩnh của đảng Cộng sản.
Quốc hội là cơ quan một viện được bầu với nhiệm kỳ 5 năm.
Việc bầu cử đại biểu Quốc hội được tiến hành theo nguyên tắc phổ
thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Quốc hội tổ chức họp mỗi năm hai lần, mỗi lần một tháng.
Theo Luật Tổ chức Quốc hội, tổng số đại biểu Quốc hội không
vượt quá 500.
Quốc hội có một ủy ban thường vụ, một hội đồng dân tộc, và 9
ủy ban chuyên môn: (1) Ủy ban Pháp luật; (2) Ủy ban Tư pháp; (3)
Ủy ban Kinh tế; (4) Ủy ban Tài chính và Ngân sách; (5) Ủy ban
Quốc phòng và An ninh; (6) Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh
niên, Thiếu niên và Nhi đồng; (7) Ủy ban về các Vấn đề Xã hội; (8)
Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường; và (9) Ủy ban Đối
ngoại.
Vì Việt Nam là một nhà nước độc đảng, nên chỉ có một đảng
cầm quyền là đảng Cộng sản Việt Nam, không có đảng đối lập, và
trung bình ít nhất 95% đại biểu Quốc hội là đảng viên cộng sản. Số
đại biểu còn lại có thể không phải là đảng viên tại thời điểm được
bầu, nhưng sau đó họ có thể sẽ được kết nạp vào đảng Cộng sản;
hoặc họ phải là cảm tình viên của đảng Cộng sản, hay ít nhất cũng
không phải người có ý thức hệ khác với đảng Cộng sản.
Đó là ở cấp trung ương. Ở cấp địa phương, cơ quan lập pháp là
các hội đồng nhân dân. Thành viên của nó được gọi là đại biểu hội
đồng nhân dân (các cấp).
Theo Hiến pháp, “Hội đồng Nhân dân là cơ quan quyền lực
Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ của nhân dân, do nhân dân trong vùng bầu ra, chịu trách
nhiệm trước nhân dân trong vùng và cơ quan Nhà nước cấp trên”.
“Hội đồng Nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật
định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương
và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng Nhân dân” (Điều 113).
“Uỷ ban nhân dân do Hội đồng Nhân dân bầu là cơ quan chấp
hành của Hội đồng Nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng Nhân dân cùng cấp và
cơ quan nhà nước cấp trên” (Điều 114).
Việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo
nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Về ngôn ngữ lập pháp và hành chính, Việt Nam cộng sản rất
giống Trung Quốc cộng sản. Ví dụ, Trung Quốc gọi cơ quan lập
pháp là Đại hội Đại biểu Nhân dân, Việt Nam gọi là Quốc hội.
Trung Quốc có Luật Bầu cử đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc và
đại hội đại biểu nhân dân các cấp (2010). Việt Nam có Luật Bầu cử
Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng Nhân dân (2015). Ở cả hai
nước cũng đều tồn tại cơ chế hiệp thương trong bầu cử. (Xem thêm
chương Bầu cử, Phần V, “Tương tác chính trị”).
TIẾN TRÌNH LẬP PHÁP
Phần này là câu trả lời cho câu hỏi “làm thế nào một dự luật trở
thành luật”.
Dưới đây là quy trình làm luật ở một nước có quốc hội lưỡng
viện trong khu vực Đông Nam Á – Philippines. Quy trình này
được tóm tắt lại và in trong các tờ rơi phát miễn phí ở cơ quan lập
pháp Philippines cho mọi du khách trong và ngoài nước.
- Dự thảo có thể được trình ở Hạ viện hoặc Thượng viện. Dự
thảo chỉ được xoay quanh một vấn đề duy nhất, và vấn đề đó phải
được nêu ở ngay tiêu đề của dự thảo.
- Tại phiên đọc thứ nhất, tiêu đề và mã số dự luật sẽ được đọc,
và sau đó, dự thảo được chuyển cho ủy ban thích hợp.
- Một ủy ban nghiên cứu dự thảo và tổ chức điều trần về dự
thảo. Sau đó, ủy ban lập một báo cáo về dự thảo. Mỗi ủy ban chỉ lập
một báo cáo về một dự thảo mà ủy ban quyết định đề xuất để
Thượng viện hoặc Hạ viện phê chuẩn.
- Báo cáo của ủy ban được đọc tại một phiên họp mở. Sau đó,
báo cáo cùng dự thảo được đưa lên Ủy ban Quy tắc. Ủy ban Quy
tắc có thể lên lịch đưa dự thảo vào phiên đọc thứ hai hoặc vào
chương trình những công việc chưa được chỉ định.
- Tại phiên đọc thứ hai, dự thảo được đưa ra để thảo luận và sửa
đổi trước khi được đưa vào lịch cho phiên đọc thứ ba. Mỗi dự thảo
phải qua ba phiên đọc, vào ba ngày khác nhau, chỉ trừ khi Tổng
thống xác nhận một dự thảo nào đó là khẩn cấp, chẳng hạn để đối
phó với một tình huống báo động khẩn cấp nào đó trên toàn quốc.
- Sau khi được một viện phê chuẩn, dự luật được chuyển sang
viện còn lại và cũng phải qua những thủ tục như thế.
- Nếu một trong hai viện sửa đổi dự luật, thì viện còn lại cũng
phải nhất trí. Nếu một trong hai viện lại có một dự luật mâu thuẫn
với dự luật do viện kia thông qua, hai dự luật chứa những điều
khoản mâu thuẫn nhau, thì một ủy ban bao gồm đại diện của cả hai
viện sẽ được lập ra để điều hòa các điều khoản mâu thuẫn. Sau đó,
nếu có thể điều hòa được các điều khoản mâu thuẫn, thì một báo
cáo của ủy ban này sẽ được soạn thảo để phê chuẩn, và phải được
sự phê chuẩn của cả hai viện.
- Khi dự luật được cả hai viện thông qua, nó được ký bởi các
lãnh đạo của cả hai viện và rồi được gửi tới Tổng thống để Tổng
thống phê chuẩn.
- Tổng thống có thể ký để dự luật chính thức trở thành luật,
hoặc có thể phủ quyết toàn bộ hay một phần dự luật. Trong vòng
30 ngày kể từ khi Tổng thống nhận được dự luật, nếu Tổng thống
không ký phê chuẩn hay phủ quyết nó, thì dự luật trở thành luật.
Ngay cả khi Tổng thống phủ quyết, nếu cả hai viện bác bỏ được
phủ quyết đó với 2/3 số thành viên mỗi viện tán thành bác bỏ phủ
quyết, thì dự luật vẫn trở thành luật.
Tiến trình lập pháp của Philippines rất giống với tiến trình lập
pháp ở Mỹ. Tại Mỹ, quá trình để một dự thảo luật trở thành luật trải
qua các bước như sau: 1
1. “Government 101: How a Bill Becomes Law”, đăng trên trang Vote Smart tại địa chỉ:
https://votesmart.org/education/how-a-bill-becomes-law#.WTbVeGiGPIV.
- Bất cứ thành viên nào của Thượng viện hay Hạ viện đều có thể
đề xuất một dự luật.
- Sau đó, dự luật được Chủ tịch Thượng viện hoặc Chủ tịch Hạ
viện chuyển đến ủy ban thích hợp. Một dự luật có thể được chuyển
tới một, hai hoặc nhiều ủy ban, hoặc có thể được chia nhỏ thành
nhiều phần và mỗi phần được gửi tới một ủy ban riêng. Chủ tịch
Hạ viện có thể ấn định hạn thời gian cho các ủy ban.
- Các dự luật được đưa vào lịch của ủy ban mà chúng được gửi
tới. Việc các ủy ban chậm có phản hồi về dự luật đồng nghĩa với
việc nó bị loại bỏ.
- Thủ tục tại các ủy ban:
y Các cơ quan của chính phủ đề nghị có bình luận về dự luật.
y Chủ tịch ủy ban có thể chuyển dự luật về cho tiểu ban (cấp
dưới ủy ban).
y Các cuộc điều trần về dự luật được tổ chức.
y Các tiểu ban soạn thảo báo cáo của họ về dự luật, gửi cho ủy
ban.
y Ủy ban tổ chức những phiên họp “gia tăng giá trị”, trong đó họ
sẽ sửa đổi, bổ sung dự luật. Nếu phải sửa nhiều thì ủy ban có thể ra
lệnh làm lại một dự luật “sạch”, nghĩa là có sửa đổi, bổ sung lại. Khi
đó, dự luật mới này sẽ được đánh mã số mới và được gửi “lên sàn”,
còn dự luật cũ thì bị hủy. Thượng viện hoặc Hạ viện phải phê
chuẩn, điều chỉnh hay bác bỏ tất cả các sửa đổi, bổ sung của ủy ban
rồi mới có thể tiến hành bỏ phiếu thông qua.
- “Lên sàn”, tức là dự luật được đưa vào lịch làm việc của hai
viện, sau đó mỗi viện sẽ tổ chức tranh luận, tranh biện về dự luật.
• Tại Hạ viện, việc tranh luận chịu những giới hạn do Ủy ban
Quy tắc đặt ra. Ủy ban Bảo trợ sẽ dẫn dắt cuộc tranh luận và phân
bổ thời gian công bằng giữa bên tán thành và bên phản đối dự luật.
• Tại Thượng viện, việc tranh luận được kéo dài không giới hạn.
Thành viên Thượng viện, tức là thượng nghị sĩ, có thể nói bao lâu
tùy thích, kéo dài cuộc tranh luận để ngăn Thượng viện thông qua
dự luật – đây gọi là thủ tục filibuster. Thủ tục filibuster này chỉ có
thể bị vô hiệu hóa nếu có 3/5 số thành viên Thượng viện bỏ phiếu
thực hiện một thủ tục khác, gọi là cloture, “đóng cửa”. Khi Thượng
viện dùng đến cơ chế “đóng cửa” này thì thời gian tranh luận sẽ bị
giới hạn ở mức dưới 30 tiếng đồng hồ.
• Bỏ phiếu. Nếu dự luật được thông qua ở một trong hai viện,
nó sẽ được chuyển sang cho viện còn lại. Nếu có một trong hai
viện không thông qua dự luật thì coi như nó chết. Nếu hai viện
cùng thông qua một dự luật thì dự luật được chuyển tới Tổng
thống. Nếu hai viện thông qua một dự luật với những điều khoản
khác biệt thì dự luật sẽ được chuyển tới một ủy ban khác, do hai
viện thành lập. Thành viên của ủy ban được chỉ định bởi chủ tịch
của những ủy ban trước đó từng làm việc về dự luật. Giờ đây, ủy
ban này sẽ điều hợp những khác biệt của hai bản dự luật của
Thượng viện và Hạ viện.
- Cuối cùng, nếu Tổng thống ký thông qua dự luật, hoặc nếu cả
hai viện đều bác bỏ phủ quyết của Tổng thống (với 2/3 thành viên
có mặt ở mỗi viện bỏ phiếu bác bỏ phủ quyết), thì dự luật trở thành
luật và được gán một mã số chính thức.
Còn ở nước CHXHCN Việt Nam, quy trình xây dựng pháp luật
trải qua các bước như sau: 1
1. Lập chương trình xây dựng pháp luật
Căn cứ để lập chương trình là các nghị quyết của đảng Cộng sản
Việt Nam và các sáng kiến pháp luật. Chỉ có: Chủ tịch nước và các
1. Phần này dựa theo một bài giảng của Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Minh Thuyết, đại biểu
Quốc hội các khóa XI, XII. Nội dung do ông Thuyết tóm tắt.
cơ quan nhà nước (Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc
và các ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao,
Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Kiểm toán Nhà nước), Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức thành viên, đại biểu quốc hội mới có quyền
đề xuất sáng kiến pháp luật.
Thủ tục lập chương trình xây dựng pháp luật: Ủy ban Tư pháp
của Quốc hội tập hợp các sáng kiến pháp luật, gửi Ủy ban Thường
vụ Quốc hội xem xét và trình Quốc hội. Quốc hội thảo luận và biểu
quyết thông qua.
2. Soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật
- Lập Ban Soạn thảo.
- Tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá các văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan.
- Lập dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
- Đánh giá tác động và xây dựng báo cáo đánh giá tác động của
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
- Lấy ý kiến tổ chức, cá nhân có liên quan (trực tiếp, hoặc qua
cổng thông tin điện tử); tổng hợp, nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến.
- Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
- Thảo luận và biểu quyết thông qua dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật.
3. Thẩm tra văn bản quy phạm pháp luật
- Khảo sát thực tế.
- Lấy ý kiến chuyên gia và các đối tượng liên quan.
- Thẩm tra sơ bộ (Thường trực Hội đồng dân tộc và các ủy ban
của Quốc hội)
- Thẩm tra chính thức (hội nghị toàn thể)
4. Báo cáo thẩm tra văn bản quy phạm pháp luật
- Lần 1: Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét báo cáo thẩm tra sơ bộ.
- Lần 2: Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét báo cáo thẩm tra
chính thức.
5. Thảo luận ở Quốc hội
- Thảo luận ở tổ
- Thảo luận ở hội trường
6. Tiếp thu, sửa chữa
- Cơ quan thẩm tra và Ban Soạn thảo phối hợp sửa chữa dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật theo ý kiến đại biểu Quốc hội.
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội thảo luận, thông qua báo cáo tiếp
thu, giải trình.
7. Quốc hội thảo luận và biểu quyết thông qua
- Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình.
- Quốc hội thảo luận lần hai.
- Quốc hội biểu quyết về một số điều và toàn văn văn bản quy
phạm pháp luật.
Ta có thể nhìn thấy ở quy trình này một số vấn đề: Ngay từ đầu,
chương trình xây dựng pháp luật đã căn cứ vào... nghị quyết của
đảng Cộng sản Việt Nam, chứ không phải vào nhu cầu của người
dân, của cuộc sống. Tức là, việc làm luật chỉ có ý nghĩa minh họa
đường lối, minh họa và hiện thực hóa các nghị quyết của đảng
Cộng sản.
Bên cạnh đó, chương trình xây dựng pháp luật cũng dựa vào các
sáng kiến pháp luật, nhưng những sáng kiến pháp luật này thì
không phải ai cũng đưa ra được, và không tồn tại cơ chế để người
dân, nếu có ý tưởng lập pháp, có thể vận động đưa ý tưởng của
mình ra Quốc hội.
Quốc hội của nước CHXHCN Việt Nam chỉ bao gồm thành
viên của một đảng duy nhất – đảng Cộng sản Việt Nam – nên tính
đại diện của nó rất thấp, nếu không muốn nói rằng nó không hề đại
diện cho người dân. Khả năng giám sát, kiểm soát hành pháp của
nó cũng gần như bằng không, chủ yếu do cơ chế độc đảng và một
phần nhỏ là do nó chỉ có một viện. (Thông thường, có hai viện
cùng giám sát và kiểm soát hành pháp thì quốc hội sẽ ít có khả
năng bị chính phủ lấn át, chi phối hơn).
Bài đọc
10 ĐẦU VIỆC CỦA MỘT ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Trịnh Hữu Long 1
Đối với các đại biểu Quốc hội lần đầu góp mặt tại nghị trường, việc
tìm hiểu các hoạt động của một đại biểu Quốc hội là tối quan trọng.
Bất luận bạn là đại biểu do Đảng cử hay do tự ứng cử, kể từ tháng
7 này, cuộc đời bạn sẽ sang một trang hoàn toàn khác: bạn trở
thành 1 trong 500 người quyết định những vấn đề hệ trọng nhất
của quốc gia.
Xin nhắc lại: những vấn đề hệ trọng nhất của cả một quốc gia,
gồm có gần 100 triệu người.
Hãy tạm quên đi chuyện đảng Cộng sản Việt Nam chi phối
Quốc hội ra sao. Tất cả mọi người đã biết chuyện đó rồi. Tuy nhiên,
một khi dãy nút bấm còn ở trong tay bạn, chỉ có bạn mới là người
quyết định sẽ bấm nút nào.
Sau đây là danh sách những việc cần bạn làm với tư cách là một
đại diện của dân.
Trước hết, danh sách công việc này sẽ phải dựa trên ba chức
năng của Quốc hội. Là một thành viên của Quốc hội, công việc của
bạn là thực hiện ba chức năng đó, bao gồm:
1. Bài đã đăng trên Luật Khoa tạp chí ngày 14/2/2016, tại địa chỉ: http://luatkhoa.
org/2016/02/10-dau-viec-cua-mot-dai-bieu-quoc-hoi/
1. Làm và sửa đổi Hiến pháp, làm và sửa đổi luật.
2. Quyết định các vấn đề quan trọng.
3.Thực hiện quyền giám sát tối cao.
Nghe vậy có vẻ hơi chung chung. Vậy cụ thể thực hiện những
chức năng này là làm gì? Hiến pháp nói rõ chuyện đó.
1. QUYẾT ĐỊNH CHIẾC GHẾ CỦA NHỮNG NGƯỜI QUYỀN LỰC NHẤT (NGOẠI TRỪ NGƯỜI QUYỀN LỰC NHẤT)
Ok. Bạn đã từng bầu lớp trưởng, tổ trưởng dân phố, bí thư đoàn
thanh niên, bí thư các đảng bộ, cán bộ chính quyền địa phương và
rất nhiều các chức danh khác. Nhưng ở đây chúng ta đang nói đến
một chuyện to tát hơn nhiều: chiếc ghế của các ông bà Chủ tịch
nước, Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Quốc Hội. Đó là chưa kể
một loạt những chiếc ghế khác ít quyền lực hơn ở cấp trung ương
như Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm
sát Nhân dân Tối cao, các bộ trưởng, các chủ nhiệm ủy ban của
Quốc Hội,...
Không những thế, là đại biểu Quốc hội, bạn có quyền yêu cầu
bỏ phiếu tín nhiệm hay bỏ phiếu phế truất các ông bà này. Nghe có
vẻ lạ tai nhưng chuyện này đã từng xảy ra hồi tháng 11/2010. Khi
đó, đại biểu Nguyễn Minh Thuyết đã yêu cầu Quốc hội bỏ phiếu
tín nhiệm đối với Thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Tấn Dũng liên
quan đến vụ Vinashin nhưng không thành.
2. LÀM LUẬT
Quốc hội chắc chắn không phải là nơi viết nội quy cho một nhóm
vài chục hay vài trăm người. Luật bạn viết ra hay thông qua được
áp dụng cho toàn dân. Quốc hội khóa XIV sẽ là một nơi khắc
nghiệt với các nhà lập pháp, bởi khối lượng công việc và thách thức
khổng lồ.
Bạn cần phải sẵn sàng cho việc bỏ phiếu thông qua Hiệp định
Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Rồi nếu TPP chính thức có
hiệu lực, trong suốt nhiệm kỳ 5 năm của bạn, một trong những
nghị trình chính sẽ là nội địa hóa toàn bộ quy định của TPP. Hãy
chắc là bạn nắm rõ nội dung của hiệp định này.
Quốc hội khóa cũ cũng để lại cho bạn và 499 đồng nghiệp khác
một món nợ khổng lồ các đạo luật cần được thông qua, trong đó có
nhiều món khá là “khoai”. Ví dụ: Luật Biểu tình, Luật về Hội, Luật
Tín ngưỡng - Tôn giáo, Luật về Máu và Tế bào gốc, Luật Hỗ trợ
Doanh nghiệp Vừa và Nhỏ, Luật Quản lý Ngoại thương,...
Đó là chưa kể sẽ có nhiều đạo luật mới phát sinh, mà một trong
số đang ở trong tầm ngắm là luật về đảng.
Bạn cũng nên dự liệu sẵn khả năng Quốc hội khóa XIV sẽ phải
sửa đổi hoặc ban hành một bản hiến pháp mới. Vào thời kỳ nhiều
biến động này, không gì là không thể.
Vốn dĩ lâu nay đại biểu Quốc hội Việt Nam cực kỳ thụ động
trong việc làm luật, hầu như chỉ chờ chính phủ trình sang dự luật
gì thì xem xét cái đó. Đã đến lúc mọi chuyện cần phải thay đổi. Bạn
hãy trở thành người chủ động đưa ra các sáng kiến lập pháp và các
dự thảo luật mới. Rất nhiều vấn đề nhức nhối như lạm dụng đồ
uống có cồn, thực phẩm độc hại, bệnh viện quá tải hay khủng
hoảng chất lượng giáo dục đang chờ bạn giải quyết.
Có như vậy người ta mới gọi bạn là “nhà lập pháp” theo nghĩa
đầy đủ của từ này được.
Công cụ không thể thiếu trong công việc của bạn là Luật Ban
hành Văn bản Quy phạm Pháp luật 2015, sẽ có hiệu lực từ ngày
01/7/2016 và kế hoạch xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016.
3. QUYẾT ĐỊNH NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Bạn có biết dự toán ngân sách nhà nước năm 2016 là bao nhiêu
không? Hơn 1 triệu tỷ đồng, tức là khoảng 45 tỷ USD. Để so sánh,
bạn cần biết người giàu nhất Việt Nam, Phạm Nhật Vượng, cũng
chỉ có trên dưới 1 tỷ USD.
Vào phiên họp cuối mỗi năm, thường rơi vào tháng 11, mỗi đại
biểu Quốc hội sẽ phải bấm nút quyết định dự toán ngân sách nhà
nước năm sau. Bạn phải làm quen với các khái niệm chính sách tài
khóa, thu nội địa, thu từ dầu thô, thu từ viện trợ, thu cân đối hoạt
động xuất nhập khẩu, chi thường xuyên, chi đầu tư – phát triển, chi
phát triển sự nghiệp, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, bội chi, thâm
hụt ngân sách, và rất nhiều khái niệm tài chính công khác.
Dĩ nhiên, sau mỗi năm tài khóa, cũng chính bạn sẽ là người
bấm nút thông qua báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước của
năm đó. Việc này thường diễn ra sau hơn một năm kể từ khi kết
thúc năm tài khóa.
4. QUYẾT ĐỊNH TRẦN NỢ CÔNG
Vào đầu mỗi khóa Quốc hội, một trong những “bài tập” khó nhằn
cho mỗi đại biểu Quốc hội là quyết định chỉ tiêu phát triển kinh tế
– xã hội cho cả 5 năm sau đó bằng việc thông qua một nghị quyết.
Một trong những con số quan trọng nhất của bản nghị quyết đó
là tỉ lệ nợ công.
Năm 2011, Quốc hội khóa XIII đặt ra con số 65% GDP. Nhiều
thống kê cho thấy tổng nợ công của Việt Nam đã sắp chạm cái trần
này. Đặc biệt trong bối cảnh phải cắt giảm các dòng thuế nhập
khẩu do quy định của các hiệp định thương mại tự do (FTA), một
chính phủ đã quen chi tiêu quá tay cho một bộ máy quá cồng kềnh
sẽ muốn vay thêm tiền để trang trải cho các hoạt động của mình.
Do đó, chính phủ có thể sẽ gây sức ép buộc Quốc hội phải nới
trần nợ công, nghĩa là cho phép họ vay thêm tiền. Liệu bạn có thỏa
hiệp với một chính phủ chi tiêu quá dễ dãi như vậy hay không? Vào
thời điểm quyết định, phiếu biểu quyết của bạn sẽ hoặc là đẩy
chính phủ vào thế phải cắt giảm chi tiêu, hoặc là đẩy đất nước chìm
sâu vào nợ nần và có thể sau cùng sẽ vỡ nợ.
Tất nhiên rồi, bạn buộc phải nắm rõ Luật Quản lý Nợ công.
5. QUYẾT ĐỊNH VỀ THUẾ
Thuế là thứ tạo ra mối quan hệ giữa nhà nước và công dân. Không
có thuế thì không có nhà nước. Có thuế thì người dân và doanh
nghiệp sẽ thấy túi tiền của họ vơi đi một chút. Tìm được điểm cân
bằng hợp lý để định ra một loại thuế, một mức thuế là việc không
đơn giản. Làm sai có thể dẫn đến rối loạn xã hội. Và bạn là người
phải làm cái việc đó.
Như đã nói ở trên, việc Việt Nam tham gia các hiệp định
thương mại tự do, đặc biệt là TPP và Cộng đồng Kinh tế ASEAN,
sẽ tháo dỡ rất nhiều các dòng thuế nhập khẩu. Điều này đương
nhiên sẽ ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách. Trong khóa
XIV của bạn, Chính phủ và một số nhóm lợi ích nào đó sẽ tìm
cách nghĩ ra các loại thuế và phí mới để bù đắp nguồn thu và gây
sức ép để Quốc hội thông qua. Bạn sẽ đứng ở giữa Chính phủ và
người dân trong vấn đề nhạy cảm nhất này của quốc gia. Đây rõ là
chuyện không dễ dàng.
6. PHÊ CHUẨN CÁC HIỆP ƯỚC QUỐC TẾ
Bạn đã từng nghe nói với Công ước Quốc tế về Quyền Trẻ em,
Công ước Chống Tra tấn, Hiệp định Thương mại Tự do Việt - Mỹ,
các hiệp định WTO, và sắp tới là TPP.
Bạn cũng từng nghe nói đến việc bộ trưởng thương mại các
nước đã ký kết Hiệp định TPP ngày 04/02 vừa qua. Vậy tại sao TPP
vẫn chưa có hiệu lực?
Lý do là vì TPP, cũng như nhiều (chứ không phải tất cả) các hiệp
ước quốc tế khác, phải đi qua một cửa nữa, trước khi có hiệu lực:
được quốc hội các nước liên quan phê chuẩn. Hãy chắc chắn là bạn
nắm được Luật Ký kết, Gia nhập và Thực hiện Điều ước Quốc tế.
7. QUYẾT ĐỊNH PHÊ DUYỆT CÁC DỰ ÁN LỚN
Dự án lớn được gọi chính thức là “dự án quan trọng quốc gia”, bao
gồm các dự án sử dụng vốn đầu tư công từ 10.000 tỷ đồng trở lên,
dự án nhà máy điện hạt nhân, các dự án di dân tái định cư từ
20.000 người trở lên ở miền núi hoặc 50.000 người trở lên ở các
vùng khác...
Các dự án này phải qua được cửa Quốc hội mới được làm.
Quốc hội đã từng quyết các dự án đường dây 500 kV, dự án đường
Hồ Chí Minh hay dự án nhà máy thủy điện Sơn La.
Trên bàn làm việc của bạn trong khóa XIV có thể sẽ có dự án
đường sắt cao tốc Bắc - Nam. Việc thẩm tra những dự án như thế
này hoàn toàn không đơn giản và sẽ gây rất nhiều tranh cãi. Ít nhất
bạn phải nắm rõ Luật Đầu tư Công.
8. QUYẾT ĐỊNH THÀNH LẬP, CHIA TÁCH, SÁP NHẬP ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH CẤP TỈNH
Năm 2008, Quốc hội khóa XII đã gây sốc khi sáp nhập toàn bộ tỉnh
Hà Tây và một số vùng của tỉnh Hòa Bình và tỉnh Vĩnh Phúc vào
Hà Nội, biến Hà Nội thành một trong những thủ đô nhiều ruộng
đồng nhất thế giới.
Cho đến giờ, vẫn chưa có giải thích thấu đáo và rõ ràng nào về
lý do dẫn đến quyết định này, cũng như tác động của nó đến cuộc
sống của người dân các vùng liên quan.
Điều tương tự có thể lặp lại và bạn sẽ là người góp phần quyết
định chuyện đó.
9. QUYẾT ĐỊNH VẤN ĐỀ CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH; QUY ĐỊNH VỀ TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP, CÁC BIỆN PHÁP ĐẶC BIỆT KHÁC BẢO ĐẢM QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH QUỐC GIA
Khó mà đoán được Trung Quốc sẽ làm những gì trên Biển Đông
và đất liền. Và liệu biên giới với Cambodia có yên ổn trong 5 năm
tới hay không? Không ai biết. Nhưng khi có sự biến xảy ra, với tư
cách là đại biểu Quốc hội, bạn có trọng trách đặc biệt trong việc
quyết định cách giải quyết vấn đề.
10. GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ
quan nhà nước. Chắc bạn đã từng thấy các đại biểu Quốc hội chất
vấn các quan chức cấp cao như Thủ tướng, các bộ trưởng, Chánh
án Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân
tối cao và nhiều quan chức khác. Đó chính là một trong những
hoạt động giám sát.
Xem xét và thảo luận các báo cáo công tác của các quan chức
cấp cao cũng là giám sát. Bên cạnh đó, đại biểu Quốc hội có thể
tham gia các đoàn giám sát chuyên đề về một vấn đề cụ thể nào đó,
ví dụ vấn đề xét xử oan sai hay chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới.
Trên đây là một số đầu việc quan trọng mà một đại biểu Quốc
hội phải làm. Bạn có thể xem đầy đủ các đầu việc này tại Điều 70
của Hiến pháp hiện hành về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội.
Đọc kỹ Luật Tổ chức Quốc hội cũng không thừa.
Bài viết này đưa ra rất nhiều văn bản luật và cả Hiến pháp để
bạn áp dụng. Tuy nhiên, cũng đừng quên rằng, với tư cách là một
đại biểu Quốc hội, bạn có thể thay đổi tất cả những văn bản đó.
Chúc bạn thành công.
Bài đọc
CÁCH ĐO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA QUỐC HỘI1
Những năm gần đây, gần như trước kỳ họp Quốc hội nào, câu
chuyện nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội cũng được nêu
ra. Có lẽ đã tới lúc cần đặt vấn đề một cách “sát sườn” hơn: Làm thế
nào để cân, đong, đo, đếm được chất lượng ấy?
Hiệu quả hoạt động của cơ quan lập pháp phụ thuộc vào chất
lượng của đại biểu Quốc hội và mức độ thực quyền của Quốc hội
đối với cơ quan hành pháp. Nếu nói hiện nay năng lực lập pháp ở
ta còn yếu, thì cứ phải tiên trách đại biểu, hậu trách cái cơ chế quyết
định thực quyền của Quốc hội.
TIÊN TRÁCH ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Điểm chung dễ nhận thấy ở đa số đại biểu Quốc hội của ta là tính
hiền, hiểu theo nghĩa ít nói, ít phát biểu trong phiên họp toàn thể, và
ít tiếp xúc báo chí. Có lẽ vì thế mà mỗi khóa, có vài trăm đại biểu
Quốc hội nhưng chỉ vài gương mặt “nổi”: Nguyễn Ngọc Trân, Tôn
Nữ Thị Ninh (khóa XI), Nguyễn Minh Thuyết, Dương Trung Quốc,
Nguyễn Đình Xuân (khóa XII)... Các đại biểu này nổi bật giữa hàng
trăm đại biểu là bởi họ thường xuyên có ý kiến chất vấn trong mỗi
kỳ họp Quốc hội, luôn sẵn sàng trả lời phỏng vấn của giới truyền
thông, được công luận (báo chí và dân chúng) nhắc tới nhiều.
1. Bài của Phạm Đoan Trang, đăng trên chuyên trang Tuần Việt Nam của báo điện tử
VietNamNet ngày 20/10/2009.
Tình trạng này, quả thật, hơi bất bình thường, vì đúng ra việc
thay mặt cử tri chất vấn và giám sát hoạt động của Chính phủ, cũng
như duy trì tiếp xúc với các kênh báo chí để truyền tải thông tin tới
công luận, phải là một phần việc đương nhiên của các đại biểu. Đại
biểu Quốc hội chẳng nên nổi tiếng vì đã làm những nhiệm vụ
đương nhiên của mình.
Tương tự, đã chất vấn thì dễ phải quyết liệt, cho nên khi dư luận
trầm trồ thấy một số ít ĐB nêu trên hay đưa ra các câu hỏi gai góc,
ta chẳng biết nên buồn hay vui: Hỏi vậy mà đã là “mạnh bạo quá”,
“đụng chạm quá” hay sao?
Vì đa số các đại biểu “hiền” như thế, nên những người quan tâm
theo dõi các kỳ họp Quốc hội khó mà hài lòng. Cử tri Trần Trinh
Mạnh (phường Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội) nhận xét: “Người dân
đã bầu các đại biểu để đại diện cho quyền lợi và tiếng nói của họ,
trong khi dân có rất nhiều bức xúc mà đại diện của mình lại thường
im lặng trên diễn đàn Quốc hội. Đây là điều khó chấp nhận”.
Im lặng ngồi dự họp đã đành, còn có những đại biểu Quốc hội
im lặng không dự. Cử tri Nguyễn Phi Long (phường Điện Biên, Ba
Đình, Hà Nội) đã bày tỏ sự bức xúc trước hiện tượng nhiều phiên
làm việc của Quốc hội trống rất nhiều ghế: “Đại biểu nào vắng mặt
nhiều thì không nên tham gia Quốc hội”.
Hiện tượng này được phỏng đoán là do các đại biểu đó bận việc
khác, bởi lẽ tới 70% đại biểu Quốc hội của ta hiện nay là đại biểu
kiêm nhiệm. Nhiều đại biểu còn làm Bộ trưởng, Thứ trưởng trong
cơ quan hành pháp, nên quỹ thời gian tất nhiên phải san sẻ cho cả
hai việc “đá bóng” và “thổi còi”.
Còn sự “im lặng khó hiểu” của số đông đại biểu Quốc hội trước
hội trường thực ra cũng không quá khó hiểu. Một gương mặt kỳ
cựu trong số các đại biểu Quốc hội khóa XII, ông Nguyễn Minh
Thuyết, từng giải thích rằng có những đại biểu là người địa phương,
ít có điều kiện tham dự thường xuyên những sự kiện chính trị lớn
như họp Quốc hội.
“Đã vậy, mà lại phải tham gia ý kiến về các vấn đề kinh tế - xã
hội phức tạp thuộc những lĩnh vực không phải chuyên môn của
mình, thì họ dễ cảm thấy e ngại” - ông Thuyết cho biết.
Có những đại biểu Quốc hội còn rất trẻ. Có đại biểu là người
dân tộc thiểu số. Khóa XII, lại có người còn đang đi tìm việc khi
được bầu làm đại biểu Quốc hội. Đặc biệt hơn nữa, như Chủ tịch
Quốc hội Nguyễn Phú Trọng từng “tiết lộ”: “Không loại trừ cả
trường hợp nhiều người không thích làm đại biểu đâu nhưng vì
công việc nên phải làm”.
Những đại biểu như vậy, nếu im lặng ngồi dự phiên họp toàn
thể của Quốc hội, cũng là điều dễ hiểu.
HẬU TRÁCH CƠ CHẾ
Tuy nhiên, sẽ là không thỏa đáng nếu quy hoàn toàn chất lượng
hoạt động của cơ quan lập pháp cho năng lực của đại biểu Quốc
hội. Nhìn vào danh sách đại biểu Quốc hội các khóa từ khóa 9 tới
nay (khóa XII), có thể thấy mặt bằng trình độ của đại biểu Quốc
hội đã tăng lên đáng kể (tạm theo một tiêu chí là bằng cấp):
y Khóa IX (1992-1997): 395 đại biểu, trong đó 222 người tốt
nghiệp đại học hoặc sau đại học, chiếm tỷ lệ 56,2%;
y Khóa X (1997-2002): 450 đại biểu, trong đó 411 người tốt
nghiệp đại học hoặc sau đại học, chiếm tỷ lệ 91,33%;
y Khóa XI (2002-2007): 498 đại biểu, trong đó 465 người tốt
nghiệp đại học hoặc sau đại học, chiếm tỷ lệ 93,37%;
y Khóa XII (2007-2011): 493 đại biểu, trong đó 473 người tốt
nghiệp đại học hoặc sau đại học, chiếm tỷ lệ 95,94%
(nguồn: Văn phòng Quốc hội)
Bên cạnh đó, có một thực tế là vào những kỳ họp đầu tiên của
mỗi khóa Quốc hội, các đại biểu thường vào cuộc rất sôi nổi. Càng
các kỳ họp về sau, không khí càng bớt “nóng”, và rồi đến khi nhiều
vấn đề không được giải quyết triệt để như mong đợi của một bộ
phận cử tri, thì câu hỏi về chất lượng hoạt động của Quốc hội lại
tiếp tục được đặt ra.
Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XII vừa qua, báo cáo kinh tế - xã
hội được trình Quốc hội khá muộn, báo cáo về dự án khai thác
bô-xít Tây Nguyên phải được “nhắc” đôi lần, Chính phủ mới gửi
Quốc hội. Chương trình nghị sự cũng không có nội dung thảo
luận nào riêng về đại dự án này. Trong khi một trong các chức
năng hiến định của lập pháp là “quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước”.
Tương tự, mặc dù Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội
cũng thấy rõ, trong gói kích cầu của Chính phủ có những khoản
thuộc thẩm quyền Quốc hội và phải có ý kiến Quốc hội, nhưng chủ
trương kích cầu đã được Chính phủ quyết định nhanh gọn, và Ủy
ban thì đã nhất trí cao, tán thành nhanh.
Gói kích cầu chiếm gần 10% GDP mà được thông qua mau
chóng như vậy, chứng tỏ công tác quản lý vĩ mô ở ta nhiều khi cũng
khá... thuận lợi, nhất là nếu so sánh với một số quốc gia khác. Ở
khía cạnh ngược lại, điều này cho thấy vai trò của Quốc hội trong
các vấn đề quan trọng của đất nước hãy còn nặng tính hình thức.
Nhìn vào hoạt động của cơ quan lập pháp, Tiến sĩ Hoàng Ngọc
Giao (Viện Nghiên cứu Chính sách, Pháp luật và Phát triển) đặt
câu hỏi: “Liệu dự án bô-xít, một dự án nằm trên địa bàn hết sức
quan trọng không chỉ về văn hóa, môi trường mà còn với an ninh,
quốc phòng; việc mở bể than ở châu thổ sông Hồng, hay việc tung
ra các gói kích cầu của Chính phủ, có phải là những vấn đề trọng
đại của đất nước hay không? Nếu phải, quyền của Quốc hội, quyền
thật sự ấy, trong những vấn đề đó là gì, tới đâu?”.
Câu trả lời nằm ở cơ chế cho sự vận hành của Quốc hội, cơ chế
đảm bảo quyền lực thực sự của Quốc hội.
QUỐC HỘI CẦN TỰ "LÀM LUẬT"
Cứ như hiện nay thì ngay trong quy chế hoạt động của Quốc hội,
cũng đã có những điểm hạn chế năng lực chất vấn, kiểm tra và
giám sát của đại biểu.
Một ví dụ đã được báo chí nhắc tới nhiều là quy định về đề xuất
bỏ phiếu. Để một vấn đề được đưa ra biểu quyết tại Quốc hội, cần
một trong bốn điều kiện:
• Có đề nghị của Chính phủ;
• Có đề nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
• Có đề nghị của một ủy ban chuyên trách liên quan trong Quốc
hội;
• Có đề nghị của tối thiểu 20% số đại biểu Quốc hội.
Trong số này, điều kiện “tối thiểu 20% số đại biểu Quốc hội” rất
có thể mâu thuẫn với thực tế. Như đại biểu Dương Trung Quốc
nhận định: “Quốc hội có tới 92% là đảng viên, mà đã là đảng viên
thì khi quyết định các vấn đề, phải tuân thủ theo định hướng của
tổ chức”. Nghĩa là, trên thực tế, khó mà đạt được tỷ lệ 20% số đại
biểu Quốc hội nhất trí đưa một vấn đề ra biểu quyết.
Do vậy, để tăng tính hiệu quả, cơ quan lập pháp cần xây dựng cơ
chế cho sự vận hành của chính mình. Nói cách khác, trước hết, các
nhà làm luật cần tự... cởi trói.
ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO
Bên cạnh việc Quốc hội hoàn thiện cơ chế và bản thân mỗi đại biểu tự nâng cao năng lực bản thân, rất cần có sự đổi mới phương thức lãnh đạo để đảm bảo Quốc hội có thực quyền.
Sẽ khó có một quốc hội hiệu quả nếu như với mỗi quyết định “đã rồi” của Chính phủ, “Quốc hội cũng chỉ có thể nhắc nhở, lưu ý các cơ quan Chính phủ “rút kinh nghiệm” thôi”, như đại biểu Nguyễn Minh Thuyết từng thừa nhận. “Nhiều khi, trong suy nghĩ thì mình bất bình đấy, nhưng khi chất vấn mình không được thể hiện thái độ quá. Chất vấn xong, đưa ý kiến của mình xong, Chính phủ không làm theo thì mình cũng phải chấp nhận, vì thực ra ý kiến của đại biểu Quốc hội cũng chỉ là một ý kiến thôi” - ông Thuyết nhấn mạnh. Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho cử tri, cho nhân dân. Nếu ý kiến của đại biểu Quốc hội “cũng chỉ là một ý kiến”, thì nghĩa là tiếng nói của nhân dân cũng chỉ... như vậy mà thôi.
Cuối cùng, mặc dù Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng cho rằng thời gian qua Quốc hội đã phát huy khá tốt vai trò giám sát hành pháp, nhưng thực tế là những phản ứng của Quốc hội lại chỉ đến sau khi Chính phủ đã có quyết định (các dự án bô-xít, gói kích cầu, mở bể than sông Hồng), và về căn bản là đồng thuận.
Cách đo chuẩn xác về hiệu quả hoạt động của Quốc hội, đó là trả lời câu hỏi: Mỗi đại biểu Quốc hội, mỗi cử tri, đã cảm thấy tiếng nói của mình có khả năng thay đổi chính sách Nhà nước hay chưa? Một khi đại biểu chưa cảm thấy “sức mạnh” của mình, thì chứng tỏ Quốc hội vẫn chưa thực hiện tốt vai trò “cơ quan quyền lực cao nhất” được cử tri đặt niềm tin và có bổn phận thực hiện niềm tin ấy.
29/8/2018
Phạm Đoan Trang
Theo https://luatkhoa.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét