Thứ Hai, 15 tháng 12, 2025

Với chín chắn

Với chín chắn

Nguyễn Chí Hoan là nhà thơ, nhà lý luận phê bình, dịch giả hiện là Chủ tịch Hội đồng Văn học dịch Hội Nhà văn Việt Nam khóa X. Quan tâm đến thơ 1-2-3, Nguyễn Chí Hoan đã có những bài nghiên cứu khoa học sâu sắc theo một phong cách riêng. Nhân dịp Tọa đàm “Thơ 1-2-3 trong không gian văn học đương đại” do Hội Nhà văn Cần Thơ phối hợp Khoa Khoa học xã hội và Nhân văn Trường Đại học Cần Thơ tổ chức, xin trân trọng giới thiệu bài viết của ông về tập thơ 1-2-3 “Ban mai thơm mắt nắng” của nhà thơ Vũ Trần Anh Thư ở Hà Nội.
Mở đầu tập thơ bằng chuỗi hình ảnh “xanh” – đều là truyền đạt những ấn tượng tươi mát đa dạng, trải khắp, cùng sức sống phì nhiêu; kết lại, ngay trước một hứa hẹn về trái tim “niềm yêu” luôn luôn, hay phải nói hằng xuyên, tỉnh thức và canh thức, là hình ảnh choán chân trời của một bãi biển lúc bình minh chưa thấy bóng người, với nổi bật “Lớp lớp vân cát tinh khôi” – cái nhìn ấy, với điểm nhấn rõ rệt vào hai chữ “tinh khôi”, hé lộ nguồn cảm hứng chủ yếu cho 123 bài thơ tựa hồ những khoảnh khắc trải ra của tâm hồn tác giả; như thế, cho thấy thơ 1-2-3 này của Vũ Trần Anh Thư da diết hướng tới miền của những khoảnh khắc ngây thơ vẫn hàm ẩn xuyên qua tuổi trưởng thành, mà có lẽ ai cũng đều từng nếm trải, đều muốn tái ngộ, khi này khi khác. Chẳng phải sự ngây thơ đã và vẫn luôn là một chân trời hay sao.
Trải nghiệm đặc thù đó có ở khắp nơi trong thơ này; mà có lẽ giống như cách nó sẽ có ở khắp nơi mà cái nhìn da diết này đặt đến. Chẳng hạn, chọn xem ngẫu nhiên một bài trong phần 5 của tập thơ:
Im lặng tháng Tư
Này những chồi non trên phiến đá
Nói gì mà run rẩy rêu phong
Nàng nghe mùa thì thầm dưới tàng cây cổ thụ
Vạt nắng chiều ôm gương mặt dịu dàng bừng lên vô thức
Ươm nõn nà một tháng Tư trong
Tháng Tư, là nơi mùa xuân đã đang chuyển giao vào hạ, và cái cảm thức – cái nhìn về giao chuyển này, theo một cách điệu đàng ý tứ rất đàn bà, trông thấy những “run rẩy” buồn buồn biểu lộ trên ánh của “những chồi non”. Nhưng những “thì thầm” vẫn chuyển tới cái “dịu dàng” đặc định của một bản năng – “vô thức” – và dường như nó xóa cái nỗi buồn buồn kia bằng cảm giác “nõn nà”.
Hẳn nên thấy nhà thơ đã lựa chọn một tương phản rõ chủ ý để mở đầu: “chồi non” với “rêu phong”. Tương phản tạo hình này khá đơn thuần, do nó không được đặt vào một đường phát triển tự thân nào; có vẻ chúng chỉ đối nhau vậy thôi. Tuy nhiên, khi đi tiếp vào ba câu thơ của khổ “.3”, nếu nhận rằng “Nói gì” sẽ có đối ứng với “mùa thì thầm”, cũng như “rêu phong” tìm được đối ứng kết nối ở “cổ thụ”, sẽ thấy rằng hình ảnh của “chồi non” có đối ứng của nó ở hai chữ “vô thức”; bởi “nõn nà” ở văn cảnh đây chỉ là một sự lặp-biến thể của “chồi non”, về mặt diễn tả hay biểu hiện; còn “gương mặt dịu dàng” thì hoàn toàn gợi một sự xác định về phía chủ thể trữ tình – cái người quan sát và cảm nhận ấy. Vậy nên cái bất ngờ, có lẽ không hề nhỏ, mà nhà thơ này dành cho người đọc, là ý so sánh-ví von gợi rõ rệt “những chồi non” ấy là của cái-dịu-dàng thuộc bản năng của “nàng” – nhân vật trữ tình mà nảy nở; từ đó sang cái ngây thơ quý giá kia chỉ cần một bước.
Đấy có thể gọi là cái ẩn ý, một trong các khía cạnh của cái ẩn ý lấp lánh, đằng sau những mô tả những vẻ “xanh” và “non” khá đa dạng xuyên suốt tất cả những bài thơ này; mà “xanh”-“non”-“tinh khôi” dệt nên riêng một xứ sở vừa rất trừu tượng vừa rất cụ thể của riêng “nàng”, với đầy những địa danh cụ thể hẳn hoi “Trên dải đất chữ S thân thương”; mà tác giả hay “nàng”, với đầy “hồn nhiên” chín chắn mạnh bạo gọi xứ ấy như một “vương quốc” của “thanh tân” – trong bài “Cho nỗi buồn anh vỗ cánh thiên di”:
Em đậu xuống khu vườn anh
Hồn nhiên nhành xuân không vết tuổi
Ngụ cư anh vương quốc thanh tân
Hai chữ “thanh tân” này cũng còn được gặp lại trong một số bài khác trong tập, ở vào các văn cảnh khác nhau. Đó là một diện mạo nữa của cái ngây thơ mà, dĩ nhiên, đã vào độ chín, vẫn đầy những “non tơ”, song hành và hiện ra cùng với “nàng” khắp những nơi nào “nàng” đặt chân, những mùa và tiết “nàng” trải nghiệm ( – “Thắp mùa đông bằng run rẩy xuân thì” – ), chẳng hạn, ở “Đường cong thơ mộng trên sông Reuss”; và vân vân.
Lối tuyên xưng “dịu dàng” về một “vương quốc thanh tân”, cũng được gọi tên là “miền trinh khiết”, hay tương tự, như thế, cho ta thấy được một phương diện khác, khá hiếm gặp hay ít dễ dàng nhìn nhận của tâm thế gọi được là ngây thơ ở đây: phương diện của một lòng tin phó thác hoàn toàn, tức là ánh lên vẻ đẹp có tính tôn giáo:
Tinh khôi dịu dàng đắm đuối
Tháng Tư tận cùng dâng hiến
Sao còn dụm dành những tháng tàn hoa
Và:
Những cánh sen quên mình đang thắm
Tự nguyện buông tận nhụy vàng
Lặng lẽ dâng đời phút cuối nồng nàn hương sắc
Dường như hầu hết hay phần lớn đều nghĩ rằng tình yêu thì nói chung đều đi với “dâng hiến” một cách “Tự nguyện” – chuyện tự nhiên ấy mà (!); đồng thời lại cũng chẳng ít nghĩ – hay chọn cách lý giải và hiểu – rằng tình yêu sẽ nặng tư cách một món quà-hôn nhân, một quà tặng có đi có lại, cân bằng linh động, dựa căn bản trên lý lẽ của sinh tồn kiếp người; hay là cả hai cách nghĩ đó song tồn như hai mặt của một tờ giấy. Vậy nhưng vẫn có và luôn luôn còn cách nghĩ về tình yêu như một lối tạo nghĩa cho đời sống; và trên hướng này, sự ngây thơ hay tâm thế ngây thơ mới trở nên chân trời hay lựa chọn, bởi tính thuần khiết đó sẽ, và chỉ có nó sẽ, tạo nghĩa trọn vẹn cho tình yêu. Phương diện này của nó tiếp cận với tình tự tôn giáo. Lòng tin tuyệt đối thì trông không khác sự ngây thơ, bởi nó phó thác hoàn toàn, đi theo với tin tưởng hoàn toàn, không lay chuyển.
Trong hai đoạn ( – đều là khổ thứ “.3” ở dạng thức thơ 1-2-3, mà theo quy ước là khổ thơ dành cho bước sang suy tư-nội hướng – ) thơ trích trên đây, ta thấy “dâng hiến” đi liền với “tận cùng”, “Tự nguyện” đi liền với “buông”, và trong một tổ hợp cùng với những “quên mình”, “đắm đuối”, “dâng đời”, đều là những hình ảnh ngôn từ đượm một tâm tình tín ngưỡng. Và, chẳng nên quên, tâm tình này, ở đây, thông qua các hình ảnh loài hoa, lại cũng đượm một sức sống, trật tự của sự sống hoàn toàn tự nhiên: trong khi nâng ý niệm tình yêu lên mức cận-tôn giáo như thế, chẳng hề xa rời cái nền đất mẹ của nó – cái dịu dàng, hay cái bản năng.
Bởi thế mới có thể nói tới một cái ngây thơ-chín chắn, đủ chín như từng hứa hẹn về “Một ban mai xanh suốt đời nhau” ( – tên một bài trong tập thơ này, đồng thời cũng là câu/đoạn thứ nhất của bài thơ đó – cái quy ước thật thú vị ở thơ 1-2-3 mà nhiều người làm thơ gần đây hứng thú khai thác một cách đa dạng – ). Và ở đây, lời hứa hẹn đó xuyên suốt tập thơ, trong những kỷ niệm “xanh” đằm thắm về đất cội rễ của “nàng” vùng quê ổi Bo nức tiếng mà “Tiếng mưa dội về tiềm thức xa xôi”, trong những tháng ngày đại dịch căng thẳng chưa từng có nhưng ôm chặt cảm nhận “xanh” bởi “Có thể nào cách ly cảm xúc”, và hiển nhiên trong “Lỡ một ngày vì yêu ngộp thở” nơi cảm thức “xanh” đó sóng bước với “suốt đời nhau” do bởi “Bước em đi hoa lá khởi mùa” và với mỗi chiều tà lại “Đợi hoàng hôn thắp lửa” và, bởi, hình ảnh của điều “dịu dàng” cốt lõi: “Thiếu phụ hong mùa đáy mắt nắng lên”.
Với cảm thức rộng trải và không đứt đoạn như thế về tình yêu, thơ tình này của Vũ Trần Anh Thư nhìn thấy hay cảm thấy cái trật tự đầy nhựa sống ấy của cảm nhận yêu ở khắp các mùa các tiết quanh năm, ở hầu như khắp những nơi mà cái nhìn thơ này có dịp viếng thăm hay lưu luyến ghi nhận. Hẳn phải có một sức chín chắn đặc biệt của sự ngây thơ mới đủ niềm tin nhìn lên trời đêm như thể “Để lặn vào trùng điệp mắt yêu” và đủ cái sức bật “tinh khôi” không ngần ngại của tinh thần yêu thương:
Dự định ủ trong tim bỗng dưng chợt thốt
Trái yêu thương chín đỏ đầu cành
Người đừng bận lòng chiếc giỏ đã kịp đan?
Với chín chắn đàn bà, ngây thơ là một nguồn sức mạnh.
10/8/2024
Nguyễn Chí Hoan
Nguồn: Văn Nghệ TPHCM 11.2024
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chính trị bình dân 5 000000bbbbbbbb

Chính trị bình dân 5 Chương III HÀNH PHÁP Đây là nhánh thứ hai trong ba nhánh quyền lực cấu trúc nên bộ  máy nhà nước. Thực thể này thường đ...