Đằm thắm tình quê và lắng sâu
suy cảm giữa dòng đời
Tôi nhớ trong một chương trình giới thiệu tác phẩm mới “Miền hoa phượng” của Nguyễn Văn Mạnh, do Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Hải Phòng tổ chức; nhà thơ Thi Hoàng, Ủy viên Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam có nhận xét: Thơ Nguyễn Văn Mạnh giàu hình tượng và có tính tư tưởng trong mỗi thi phẩm, anh đã không bị sa vào làm xiếc ngôn ngữ giữa thời điểm mà trên thi đàn ồn ào cách tân. Đó là điều trân quý. Nhận xét ấy đã đúng khi tôi đọc tập thơ thứ hai của nhà báo, Luật sư Nguyễn Văn Mạnh.
Có thể dễ dàng nhận ra cách mà tác giả lấy đề tài thơ, so với
tập “Miền hoa phượng” tập mới này số lượng đề tài ít hơn, nhưng thay vào đó các
đề tài mang chất riêng hơn, nó được lấy từ cảm nhận về quá khứ thời gian,
về hành trình bươn trải và cả những suy ngẫm từ cuộc sống hiện hữu mà anh trực
tiếp dấn thân… Vốn hiện thực chất chứa vui buồn, chất chứa những âu lo thắc thỏm
nơi cõi lòng anh đã bật dậy thành câu thành chữ để kết lại thành những bài thơ.
Đọc thơ của anh, ngay từ đầu tập đã nghe thấy tiếng hát “Về
quê” trĩu nặng nỗi niềm thương nhớ: “Bây giờ trút hết bụi đường/ Về quê
nhung nhớ yêu thương tìm về ”. Trong cái miền tâm trạng ấy, tiếng quê
hương vang vọng nhiều cung bậc, nhiều chiều không gian thời gian và đa diện sắc
màu. Quê hương trong anh được biểu hiện bằng những hình ảnh, những “câu chuyện
bằng thơ”, có khi là rất nhỏ mà ai đó không có rung cảm, không có chiều sâu tâm
hồn dễ có thể lãng quên cùng với thời gian. Tôi yêu cái điểm nhìn của anh trong
tâm sự về mái trường: “ Nơi mồ hôi thấm muối vào trang sách/ Những
mùa thi hầm hập nóng tháng năm” (Mái trường). Không chỉ có vậy, không khí lớp học
còn thấm đẫm những kỷ niệm bi thương thời chiến tranh chống Mĩ: “Các bạn
trai xung phong đi nhập ngũ/ Lớp cứ vơi dần/ Thư chiến trường chuyền tay đọc/ Bạn
gái nào bật khóc/ Cả lớp nhớ về những phía trời xa…” (Lớp học). Những kỷ
niệm mặn mòi ấy làm nên chất tâm hồn và tư tưởng của con người. Và, “câu
chuyện” trong giờ học cuối cùng chia tay với thày giáo dạy văn như một ký ức
day dứt mà long lanh chất người; tác giả thốt lên lời nguyền: “Chúng em
như những cánh chim/ Qua trời, qua biển trái tim gửi thày” ( Giờ học chia
tay). Cái nhớ, cái thương cái tri ân đó là cái “gốc văn hóa”, nhờ nó tác giả, một
cậu bé quê đã lớn lên băng vượt dặm dài xa xứ mà vẫn hướng về quê, anh nhớ từng
mảnh ao làng, mùa hội ở “Lục tổng”, một ánh trăng và hương sen đằm sâu trong ký
ức… không phải là người nặng tình quê thì không nhớ được điều ấy.
Tiếng quê cũng vang ngân sâu thẳm trong các hoài niệm về Bà
ngoại, về nỗi buồn của người cha. Tôi nghĩ rằng tác giả đã đạt được thế đắc địa
khi dụng công khi lựa chọn hai hình ảnh mà ít các nhà thơ đề cập để bày tỏ sự
khâm phục, thương cảm kính yêu của mình. Đây là hình ảnh người cha được khắc họa
như biểu tượng người đàn ông Việt một thời, một “dáng tre” bền bỉ cứng cỏi chấp
nhận bão dông: “Cha thẳng lưng dẫm đè ngang trái/ Để một đời vẫn trắng hai
tay ”. Còn Bà ngoại lại như một “Bến thơ”: “Buồn loang trong ánh chiều
tà/ Bà đi…như hạt phù sa đắp bồi”. Câu thơ viết lúc bà mất dù ngậm ngùi, nhưng
tác giả lại nhìn thấy sự mỡ màu của “phù sa” mà người bà kính yêu đã lặng thầm
bồi đắp cho tâm hồn mình. Thậm chí làng quê trong anh còn được “khai quật” lên
từ nghĩa địa làng… trong cái không gian, thời gian đã trôi mất vào dĩ vãng, tác
giả vẫn tìm đến để tưởng nhớ, chia sẻ cảm thương với con người một thuở đã đi
qua đời anh có thể là ân tình nặng nghĩa, có khi chỉ là thấp thoáng…
Tuy nhiên tiếng quê không chỉ vang lên trong anh nơi chôn rau
cắt rốn, nó mở rộng tới dòng sông Bạch Đằng với âm vang chiến công lịch sử, một
hòn đảo nơi biển Cát Bà đầy sóng gió của quá khứ và hôm nay… rồi trong
cái nhìn toàn diện về thành phố Cảng quê anh với đủ mọi đổi thay năm tháng vui
buồn, ở đó có cảnh quê, tình quê, bạn quê… hằn in trong trí nhớ, để rồi anh
đĩnh đạc tuyên bố: “Nơi ta buông neo một mảnh tâm hồn”.
Ở phần “Hành trình ký ức”, các bài thơ như những trang nhật ký anh ghi lại những cảm và nghĩ trên dặm dài cuộc đời. Nhìn thấy được bước đi của tác giả từ núi cao (Bên Thác Bạc) đến biển Đông xa xôi (Bên mộ gió Colin), từ những vùng đất mới (dân ca vùng đất mới) đến thẳm xa đất Quảng Tây Trung Quốc (Qua bến Tầm Dương)… Có sự khác biệt của Nguyễn Văn Mạnh trong loạt những bài thơ “đi đường” này là tác giả đã vượt thoát khỏi cái kể, cái miêu tả vỏ ngoài của ngoại giới như nhiều nhà thơ khác; ở đây anh đã gửi vào bức tranh nhìn thấy cái cảm và cái nghĩ của mình tạo nên một lớp nghĩa ẩn tàng. Có thể điểm đến cái ngẫm sâu xa về cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn nửa thiên niên kỷ xưa tạo vết thương buốt lòng dân tộc (Đêm lũy Hồi Văn); Đó cũng là nỗi lòng uất hận, nhức nhối khi anh nhìn hình ảnh đảo Gạc Ma bị chiếm đóng (Bên mộ gió Colin).
Hành trình mà tác giả đi phần nhiều điểm dừng để bật thành
thơ là các địa danh lịch sử, tuy nhiên có lúc lại là dừng nơi chính vết thương
của mình. Đây là tâm trạng vô vọng của tác giả khi không tìm thấy xương cốt của
người em đã hi sinh tại biên giới phía bắc. Ở đây, dù đã cố khéo để tự làm dịu
bớt nỗi đau của chính mình, nhưng nỗi xót xa tột cùng vẫn cứ hiển hiện: “Bây
giờ em hóa thân trong chập chùng đỉnh đá / Hay em kia vầng mây trắng Mường
Khương” (Chiều ải Bắc tìm em). Chính vì vậy, các cuộc hành trình ký ức
của tác giả cũng ngổn ngang bời bời tâm sự chung riêng… có điều dù vui, thăng
hoa trước cảnh và tình hay một thoáng se lòng buồn tủi thì tâm trạng ấy không
dìm anh xuống mà vẫn hướng anh bước tiếp trên các nẻo đường đời, còn tâm hồn
thì thầm lặng gom nhặt kỷ niệm ấy lưu giữ vào túi thơ. Và sự lưu giữ ấy đến khi
tràn đầy nó tự bật lên những suy ngẫm, những ý tưởng để rồi anh có những bài
thơ “Ngẫm với dòng đời”.
Ở vỉa thơ này Nguyễn Văn Mạnh dường như tự dừng lại trước một
điểm, một sự kiện đời sống để chậm rãi suy tư ngẫm ngợi. Trước anh là dòng chảy
cuộc đời đi mãi, nhưng những điểm nhìn anh dừng lại để nghĩ tạo nên những ấn tượng
bất ngờ. Đọc thơ Lý Bạch anh nghĩ về con đường đời của loài người vẫn không
siêu thoát được nỗi đớn đau và tác giả đã diễn tả được quy luật triết học thành
thơ: “Con người bên dòng quy luật/ Loay hoay với “Hành lộ nan”!” (Không
gian, thời gian). “ Người đàn bà sau cửa kính” lại là một tứ thơ lạ, dường như
qua cách nhìn và tâm trạng người đàn bà, tác giả muốn đưa ra một cảnh báo về tư
duy nhân thế: nếu mọi người cứ yếu mềm tự giam hãm mình và nhìn đời qua lăng
kính cố định có sẵn thì sẽ nhận thức sai lầm hoàn toàn về thế giới vốn biến động
không ngừng, ở đó có mưa bão, nhưng cũng đầy ánh nắng mặt trời. Bài thơ là quan
điểm về cách nhìn cuộc sống.
Không dừng lại ở cái ngẫm triết luận, tác giả nghĩ nhiều về
thế sự như “ Những điều vô nghĩa”, “Cỏ”, “Cảm tạ”, “Gã ăn mày”…. Ở bài thơ “ Đá
không đầu” ( hình tượng công chúa Mỵ Châu – Truyền thuyết An Dương Vương) anh tự
nhủ mình về bài học mất nước đầu tiên trong sử Việt khi mù quáng đem trái tim
dâng hiến, đem niềm tin ngây thơ trao cho kẻ thù xâm lược.
Tuy nhiên, tiếng thời cuộc vẫn vang lên sôi sục trong thơ
anh: “Người đàn ông hóa đá”, “ Lục bát bốn câu”, “Rừng cao su hát”…đó là bức
tranh hiện thực đời sống hiện hữu đầy đớn đau, lừa lọc, giả danh và cũng có những
nốt nhạc vui xen lẫn. Điều đáng quý là tập thơ đã có hai bài thơ đề cập đến cơn
đại dịch thế kỷ. Dịch Covid đã từng làm con người mất phương hướng, còn đây là
tâm trạng tác giả trước thềm mùa xuân đến khi ngoài kia bão covid vẫn hoành
hành: “Người lưa thưa dải phố buồn/ Ngồi mong xuân đến nẫu hồn cháy gan”… để
rồi anh tự rút ra kết luận: “Niềm vui đánh đổi từ ngàn nỗi đau”. Mặc
dầu vậy cái chất lính và cao hơn là chất người Việt trong con người tác giả vẫn
trỗi dậy không khuất phục trước hoàn cảnh; bài thơ “ Con nguyện làm người lính
vô danh” trở thành một tuyên ngôn của tác giả trước đại dịch. Anh “xốc” lại
quan điểm của mình “Còn dân tộc mới còn tất cả/ Có nhân dân Tổ quốc mới
sinh tồn”. Và dấn thân vào cuộc chiến với “kẻ thù vô hình” đầy nguy hiểm với
tư thế quyết chiến: “Dẫu cái chết rập rình ngay trong làn hơi thở/ Vì
chúng con là người lính của nhân dân”. Bài thơ này đã tái tạo hình ảnh người
lính với suy nghĩ sâu sắc về lẽ sinh tồn, ý chí quyết chiến thắng và tinh thần
xả thân cao vì cộng đồng dân tộc…trước cơn biến cố của đất nước, đã góp phần tỏa
sáng tính tư tưởng của cả trình tập.
Đọc 55 bài của tập thơ, tôi thấy không có dấu hiệu của câu
thơ nào “non, lép”, ngược lại có rất nhiều tứ thơ hay, nhiều câu thơ đẹp và
hình tượng ngôn ngữ được sáng tạo khá ấn tượng; nội dung các bài có cấu trúc
logic rõ ý, sâu sắc trong tư duy cảm nhận vấn đề và đằm thắm chất tình.
Tôi nhìn thấy được sức vóc của tác giả đang tự mình cố gắng vượt lên làm rõ dần
phong cách, trong hành trình trên đường thơ.
17/7/2024
Nguyễn Đình Minh
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét