Thế kỷ nào
Xa Vắng (1920) – Tranh: Salvador Dali (Nguồn: www.wikiart.org)
Chiếc xe khách Daklak- Đà Nẵng bất chợt chết máy trườn vào lề,
hơn bốn mươi hành khách uể oải bước xuống ngơ ngác làm quen với cảnh quan chung
quanh. Bác tài và phụ xe sau khi xem xét máy móc báo với mọi người, thôi bà con
tìm chỗ ngủ nghỉ qua đêm đi, khi nào chạy được thì chúng tôi gọi. Tôi bế con
đang ngủ bước sang bên kia đường hỏi một bác gái đang ngồi trước cửa nhà:
- Bác ạ, xe bị hỏng máy, cháu có con nhỏ bác làm ơn cho cháu
nghỉ nhờ đêm nay.
Bác đon đả chào và dẫn tôi vào nhà, chỉ một chiếc giường trống:
- Cô cho cháu nằm tạm đây đi. Người đầy bụi thế kia, tắm rửa
rồi coi ăn uống chút gì. Xe Ban Mê hở cô?
Tôi dạ, cảm thấy yên lòng trước sự nhiệt thành này. Tôi tắm rửa,
thay quần áo, Bác dọn cơm lên:
- Nhà ăn rồi, còn gì dùng nấy lót dạ, nhà quê khó khăn. Lát
nhớ dỗ con bé dậy cho nó ăn gì chút rồi ngủ.
- Dạ.
Một người thanh niên, dắt tay một bé gái từ ngoài bước vào,
chào tôi, Bác gái giới thiệu tôi với anh ta:
- Xe nằm đường, mấy người khách nghỉ nhờ. Sớm giờ con đi đâu?
Tôi chào anh ta:
- Em là Uyên.
- Tôi là Duy.
Và tỉnh bơ như chủ nhà, tôi mời anh ta ăn cơm. Bác cũng nói
thêm với anh “chưa ăn gì thì sẵn ăn luôn đi” và Bác lấy thêm thức ăn. Thấy
bé gái tròn mắt nhìn người lạ, anh bảo bé:
- Chào cô đi con.
Con bé bước đến bên tôi vòng tay, bẻn lẻn cúi đầu:
- Cô ạ.
Tôi ôm bé, kéo sát vào người vuốt tóc bé:
- Con tên gì?
- Dạ, cháu tên Duy Thục.
- Mấy tuổi?
- Dạ bốn tuổi.
Tôi nhìn anh:
- Cháu cùng tuổi với con gái em. Mẹo anh hả?
Anh ngồi vào bàn ăn. Duy Thục ngồi bên tôi và bắt đầu có vẻ
muốn nũng nịu. Chúng tôi vừa ăn vừa nói chuyện, biết cũng là “phe ta” với nhau,
anh là Sĩ Quan mới ra trại được mấy tháng, vợ anh chết bệnh từ ba năm trước để
lại cho Bà nội trông hai cháu thơ, anh trai của Duy Thục bảy tuổi đang học nhóm
bên nhà bạn. Tôi cũng “thật thà khai báo trích ngang” của mình, gia đình Bắc di
cư, mười tám tuổi lấy chồng quan, một Đại Úy Trưởng Đồn Quân Cảnh Tư Pháp ở Ban
Mê Thuột, đang còn nghỉ phép trăng mật ở phía chồng thì Đà Nẵng di tản, anh ấy
bị bắt và chết trong “trại cải tạo” năm 75, trước khi đứa con gái của anh ra đời.
Không về lại Ban Mê được, đắp đổi qua ngày với một gánh chè, nuôi con, nuôi Bố
Mẹ chồng già.
- Sao không trở về Ban Mê sống?
- Thứ nhất là gia đình ở Ban Mê đi kinh tế mới, cũng thở chẳng
ra hơi. Chỉ có thể thỉnh thoảng về thăm kiếm chút ít ngô đậu trái cây thôi. Thứ
hai là lúc đầu lấy hộ khẩu Quảng Nam Đà Nẵng để gần gũi thăm nuôi anh ấy, sau kẹt,
họ không cho chuyển khẩu. Thứ ba nếu bỏ ông bà già chồng già yếu thì tàn nhẫn
quá.
- Ông Bà không con cái gì sao?
- Dạ có nhưng cũng chỉ lo đủ thân mình. Con cái của họ 7, 8
tuổi đã đi moi móc nhôm nhựa kiếm sống rồi. Tất nhiên nếu bắt họ lo thì họ cũng
phải lo.
Bữa ăn không đủ dài cho những câu chuyện trên trời dưới đất.
Bác gái đã đi ngủ sau khi dặn lát nữa cu Tèo anh trai Duy Thục về nói nó lên
gác ngủ giường chú, hình như chú nó cũng đang đi chơi đâu đó, và dặn anh trải
chiếu ngủ trước cửa phòng, tức là dọn cái bàn ăn này đi. Tôi dọn bàn và rửa bát
đũa xong, tắm Duy Thục rồi đưa cháu vào nằm bên cạnh con gái tôi, nói chuyện
con cò con cuốc cho cháu ngủ. Đúng ra sau một ngày đường mỏi mệt tôi phải lăn kềnh
ra “bất tỉnh nhơn sự”, nhưng sao tôi lại không thấy buồn ngủ. Chiếc giường lạ,
một chút hơi hướm lạ, ánh mắt xa xôi buồn buồn của anh, những ngày tháng bơ vơ
lạc lõng của chúng ta. Tôi thấy buồn, chợt thấy căn phòng, chiếc giường như quyến
luyến, thân thuộc và cả với anh, ngay giờ phút này tôi thấy như đã có một sợi
dây vô hình buộc những mảnh vụn đời lại với nhau. Tôi mở cửa ra ngoài, bên ngọn
đèn dầu anh đang nằm đọc sách. Tôi bỗng trở nên dạn dĩ:
- Làm bộ đọc sách hả?
- Sao biết hay vậy?
- Em cũng muốn có cuốn sách. Tèo về chưa anh?
Tôi ngồi xuống chiếu và anh cũng trở dậy:
- Về rồi. Ngủ trên gác. Sao không ngủ đi?
- Em sợ anh đọc sách tới sáng. Em giành mất giường anh, phải
không?
- Ngàn năm một thủa mà, không dễ gì có cơ hội để nhường.
- Mồm miệng kinh quá. Không ấy anh vào ngủ với con đi, em nằm
đây.
- Đọc sách hả? Em còn phải 400 cây số đường nữa đấy.
- Thì lên xe ngủ. Ngủ trên xe chóng đến nơi hơn. Anh mới cần
ngủ, không lẽ mai nằm trên đám ruộng nước ngủ được. Vào ngủ đi.
- Có thật là em muốn anh vào ngủ?
Tôi lúng túng:
- Ơ, dạ, thì là… vậy thôi em ngồi đây.
- Nhường tới nhường lui rồi không ai nằm giường hết. Chiếc
chiếu này lãnh đủ.
- Sao gọi là lãnh đủ? Nó đau khổ hả? Em tưởng nó vui. Thôi em
đi ngủ đây.
Anh lính quýnh:
- Ồ anh nói vui mà, tưởng mình văn vẻ, hoa lá cành một chút
hóa ra trật đường rầy rồi. Có cho xin lỗi không?
- Dẹp.
- Cho anh xin địa chỉ viết thư đi.
- Không được đâu anh, nhà quê nhiều chuyện lắm, vả lại có khi
thư gia đình viết cho em chưa đến tay em thì người ta đã mở ra đọc toáng lên cả
rồi, em chịu không nổi tiếng đờn tiếng quyển của mấy tám nhà quê, với những ánh
mắt dè bỉu, những lời nói châm chọc của mấy cha nội mất nết đã không tiếc lời
trêu ghẹo em bao năm qua, chịu khó đi.
- Nghĩa là sao?
- Nghĩa là khi nào em đi Ban Mê nữa thì em lại ghé giành chiếc
giường của anh.
- Anh muốn khác. Nhường nhau thảm quá.
Và anh đùa:
- Nếu không cần phải nhường nhau nữa có tốt hơn không? Ừ, mà
cứ ngồi đây lát nữa mấy nhỏ khóc không biết con ai, hai mình ùa vào đụng nhau
tùm lum, nguy hiểm.
Mười tám tuổi đã bị làm bà lớn, mười chín tuổi trở thành góa
phụ ở một vùng quê mà đa số đàn ông nói năng vừa cộc cằn vừa tục tĩu, phần lớn
thời gian chìm nổi trong nồi chè, đôi vai chai lì như đôi bàn chân bôn ba đầu
làng cuối xóm, cái nhẹ nhàng, ân cần ở anh mà tôi chưa từng gặp, cái êm đềm quyến
rũ của bóng đêm, tôi bỗng nhẹ dạ quên mất mình là ai, chỉ nóng bỏng một khao
khát vô duyên được nằm trong tay anh mà khóc, khóc cho hết những nhục nhằn, những
cam chịu, những gồng gánh quá sớm trong cuộc đời. Nhưng không khóc được, nước mắt
chỉ chực lừng lững muốn trào ra, để môi vẫn gượng nhếch lên cười, nói lì:
- Nguy hiểm thì ở đâu không nguy hiểm được.
Anh rón rén cầm lấy bàn tay tôi, như không chờ anh kéo, tôi
đã muốn dựa hẳn vào người anh. Tôi muốn nằm xuống. Tôi muốn môi anh gắn lên môi
tôi, nuốt cho hết những ngọt mặn mà tôi đã dành đụm, nhưng chỉ là muốn, làm sao
anh biết tôi đang nghĩ gì, không biết có phải là cũng may hay không. Có tiếng
bác gái từ phòng nhà trên gọi tôi, như gọi tên con gái, có lẽ biết ý anh con
trai đa tình, và muốn nhắc nhở Má còn thức đây:
- Uyên sao không ngủ đi con? Thức rồi ngủ quên xe nó bỏ bây
giờ.
Tôi giật mình, “dạ” và riu ríu đứng dậy, bàn tay rất ngoan
trong bàn tay nóng bỏng của anh chừng như không muốn rời, và anh, cũng chừng
như muốn níu cả người tôi ngã xuống.
Khuya, tôi dậy, bế con ra phía sau cho nó đi vệ sinh thì gặp
bác gái đang cho bầy lợn ăn, Bác nói con cứ ngủ đi, lát nhà xe gọi bác đánh thức
cho. Tôi dạ mà biết là tôi sẽ trở vào nằm thôi, không thể ngủ được nữa, mà cũng
muốn xe nó quên mình đi. Anh đã tắt đèn ngủ say, đến gần sáng tiếng xe nổ máy
và tiếng người lao xao gọi nhau bên ngoài, tôi bật dậy bế con chào bác, vờ như
gọi anh vào giường ngủ, nói nhỏ:
- Em đi anh nhá, nếu mong thì em sẽ về.
Tôi thấy nghèn nghẹn. Rồi sẽ gặp lại phải không anh? Nụ hôn
trông mong vẫn còn lơ lửng trong giọt nước mắt không cần che đậy của tôi đang
lăn vội xuống tay anh.
************
Hai năm sau tôi lại về Ban Mê Thuột, ghé thăm anh. Bé Duy Thục
đã đi học, vẫn còn nhớ tôi, hai anh em bé lại sống dưới sự nuôi dưỡng chăm sóc
của nội, còn anh thì lại bị “tái tập trung” vì biến động ở biên giới phía Bắc.
Bố anh bị “ta diệt”, anh lại là Sĩ Quan, có ra trại thì cũng chỉ là con cá lờ đờ
trong chậu thay vì ngắc ngư trên thớt, có gì thì sẽ là ưu tiên một cho vào bếp.
Tôi ở lại nhà anh mấy ngày, muốn đi thăm anh nhưng bác nói giấy phép thăm nuôi
xin khó khăn lắm. Mấy đêm tôi nằm nơi chiếc giường của anh, không còn phải nhường
nhịn, không còn để cho cuốn sách trở trăn, không còn cớ gì để lý sự, bóng gió,
em lại tủi thân, em không tin chút hy vọng nhỏ nhoi của em cứ mãi như chiếc giường
chờ đợi, cứ mãi tìm một bên gối xa xôi, cứ mãi là những giòng nước mắt lạc điệu
trong đêm vắng. Duy Thục ngủ say, thỉnh thoảng tôi khẽ hôn bé như muốn tìm một
chút anh còn sót lại.
Anh thì không sao biết được ngày về, mà về thì cũng chỉ là
thay đổi cái hàng rào kẽm gai của cái trại tập trung bằng “lệnh quản chế” của
nhà tù mênh mông ngoài đời, như sợi thòng lọng tròng vào cổ người. Tôi muốn được
nghe anh nói chuyện, muốn nghe anh khen tôi đẹp, nghe một lời anh yêu em, một
câu trách yêu đầy lo lắng, em gầy quá, không chịu giữ gìn sức khỏe cho anh… Tôi
thì chỉ thấy còn là một người đàn bà trẻ trung, dõng dạc còn là con người với
anh, ngoài ra với chung quanh chỉ là một cái xác đớn đau, cỗi cằn, nghèo nàn biết
đi đứng. Còn đi đứng để phải gánh nặng cái gánh chè thêm những năm sau, con đi
học phải gánh thêm nhiều khoản ngoài kế hoạch, gánh thêm cái cơn tai biến mạch
máu não của Bố chồng đã gần 80 tuổi, nằm một chỗ mấy năm trời và Mẹ chồng thì bệnh
già cứ viếng tới viếng lui. Nhiều người nói ác, nợ nần gì mà phải khổ thế. Cuộc
sống mỗi ngày một bó siết tôi với giá cả leo thang thậm chí tôi không còn được
cái cơ hội nào về Ban Mê thăm Bố Mẹ. Tôi có còn cơ hội gặp lại anh không? Chỉ một
thoáng ước mơ thôi đã thấy mong manh. Yêu và lấy nhau như một bài toán 1
cộng 1 dễ ợt vậy mà… hạnh phúc không bắt phải mua bằng tiền cũng phải được đồng
tiền cho phép. Còn anh, trong đày đọa nhục nhằn kia, tình yêu nếu có, và nếu
anh biết được cũng chỉ là một xa xí phẩm, một giấc mơ tật nguyền tội nghiệp.
Chuyến xe nằm đường hôm ấy chỉ là một định mệnh oái oăm. Nếu anh quên em thì
cũng không phải là một điều để trách. Nhưng mà, cho em không quên anh. Có thể
người khác không tin ở tiếng sét nhưng mà không có một lý giải nào khác hơn cho
nỗi khắc khoải của em, họa chăng như con chim sớm ở trong lồng chợt được trở lại
rừng thấy thiên đường xanh ngát giữa những lá cành héo úa, thấy như mình đã gặp
được cái tổ ấm của mình.
****************
Tôi đang sống ở thế kỷ nào đây? Những bước chân xiêu vẹo như
những chuyến xe đi hoài không tới bến. Cái thế kỷ nào mà mấy trăm cây số thôi
còn khó hơn cả lên mặt trăng, mà một cái thư cũng không dám viết. Hai năm, năm
năm, mười mấy năm, mọi thứ chung quanh tôi vẫn vậy, vẫn gánh chè kẽo kẹt đi về,
vẫn đôi chân không dám mỏi, yên phận ngược xuôi.
Khác chút, kẻ có quyền giàu cứ giàu hơn và người nghèo cứ phải
nghèo hơn. Khác chút là khi bố mẹ chồng tôi mất, để lại tôi cái tuổi ba mươi đằm
thắm, ngọt ngào đầy thấm thía, xót xa trong cái thế giới không anh mà tôi nghĩ
lúc nào anh cũng đang đợi tôi đâu đấy.
Nhưng mà, một lần ghé thăm anh, trước khi mẹ con tôi chuẩn bị đi Mỹ theo tiêu chuẩn chồng chết trong trại, thì không ai biết gia đình anh ở đâu, –dĩ nhiên rồi, ngôi nhà anh lớn thế, đẹp thế, ở cái mặt tiền thuận lợi thế, thì tránh thế nào được chuyện phải xảy ra – hàng xóm nói, gia đình anh kinh tế mới đã lâu lắm rồi. Và giống như là không muốn nhìn lại cái ốc đảo thân yêu giữa mênh mông sa mạc máu lệ hận thù, nên không thấy ai trong gia đình anh quay về thăm chốn cũ. Khổ nỗi anh nào biết em ở đâu, phải không? Và chắc gì anh biết em vẫn nhớ mong anh, vẫn mong ước một ngày…
Anh cũng “học” hơn ba năm, anh có được đi không?.
5/11/1994
Đặng Kim Côn
Nguồn: https://t-van.net/
Theo https://www.tongphuochiep.com/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét