Thứ Sáu, 26 tháng 12, 2025

Bản thể cô đơn mang tính nữ trong "Trăng" của Ánh Nguyệt

Bản thể cô đơn mang tính
nữ trong "Trăng" của Ánh Nguyệt

Thơ ca Việt Nam đương đại đã ghi dấu hành trình trưởng thành của nhiều nhà thơ nữ. Trong số đó, tôi ấn tượng với tác giả Ánh Nguyệt qua tập thơ “Trăng” (NXB Hải Phòng, năm 2023). Bởi “Trăng” là lời tự sự của một người đàn bà có đời sống nội tâm đầy phức tạp, vừa cam chịu, hi sinh vừa khát khao, day dứt với tình yêu và hạnh phúc đời thường. Đó cũng là hành trình tự ý thức về bản thể của mình trong kiếp nhân sinh mà theo quan niệm của chị luôn có “định nghiệp nhất thành bất biến”.
“Trăng” là tập thơ đầu tay của Ánh Nguyệt. Nó được xem như là một minh chứng cho cho việc “thơ chọn người”. Trong lời giới thiệu, nhà thơ Phạm Ngà nhận định: “Tập thơ bộc lộ nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau được biểu đạt qua các hình thức thể loại”, với nhiều đề tài nhưng cảm xúc chủ đạo vẫn là “nỗi nhớ nhung, tiếc nuối tình riêng và hạnh phúc của con người” về tình yêu, cuộc đời và số phận qua 50 bài thơ khác nhau được viết chủ yếu theo thể tự do.
Trong thơ ca, việc xây dựng hình tượng thơ là một quy trình phức tạp, đòi hỏi sự nhạy cảm và khả năng sáng tạo của nhà thơ. Hình tượng là cách nhà thơ biểu  đạt tình cảm, cảm xúc, tư tưởng và thế giới quan của mình. Cho nên, khi đọc “Trăng”, người đọc dễ dàng nhận ra hình tượng Trăng được Ánh Nguyệt khéo léo lựa chọn để ẩn dụ cho vẻ đẹp, tâm hồn và số phận của người đàn bà luôn trăn trở, day dứt về tình yêu; luôn khát khao đến mãnh liệt một mái ấm gia đình, một hạnh phúc đời thường, giản đơn như bao người phụ nữ khác trên cuộc đời.
Nhà thơ Mai Văn Phấn trong “Điều gì thật nhất trong thơ?” (Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ số tháng 1/2024) cho rằng: “Sáng tạo là hành trình đi tìm những giá trị mới cùng những cách thể hiện mới lạ, độc đáo… Mỗi bài thơ là một cuộc lên đường, mở ra hành trình mới”. Điều này đúng với thơ của Ánh Nguyệt. Dưới ngòi bút của chị, không chỉ có hình tượng Trăng mà luôn có hình ảnh người đàn bà hiện lên như một bản thể cô đơn giữa cuộc đời rộng lớn.
Hình ảnh người đàn bà cũng chính là chủ thể trữ tình được tác giả lựa chọn xuất hiện trong những bối cảnh đặc biệt. Đó là khoảng thời gian “chiều cuối năm”, “Trước thềm xuân” hay không gian “chật chội” ở nhà, gia đình nhỏ, cơ quan, hoặc là một không gian nghệ thuật gắn với những địa danh cụ thể như Mộc Châu, Tam Đảo… Không phải ngẫu nhiên chị lựa chọn để người đàn bà xuất hiện ở những địa điểm vừa quen thuộc vừa xa với nơi họ từng sống? Đó là cách chị thể hiện khát khao của người đàn bà trong chị. Trong nhịp sống hiện đại, họ vừa muốn chu toàn với cuộc sống gia đình, công việc cơ quan lại vừa muốn khám phá những điều mời lạ ở thế giới bên ngoài; họ muốn khẳng định vị trí quan trọng của mình ở cả trong gia đình và ngoài xã hội. Tính nữ trỗi dậy với nhận thúc đầy đủ về thiên chức của người phụ nữ. Đó chẳng phải là điều đáng trân trọng hay sao?
Hình ảnh người đàn bà trong “Trăng” còn hiện lên rất đời thường, giản dị, khiêm nhường nhưng cũng rất thực tế và nhiều trải nghiệm::
Em giống quỳnh thôi, lặng lẽ, khiêm nhường
Lặng lẽ giữ cả những gì đã mất
(Quỳnh)
Có lẽ, giữa nhịp đời vội vã, ồn ào, người đàn bà lại chọn cách làm đẹp bản thân từ những gì sâu thẳm nhất. Nó không phải là cái đẹp hào nhoáng bề ngoài mà là cái đẹp toát lên từ sự chân chất, đời thường, tiềm ẩn bên trong. Sự đời thường đến chân thật còn được Ánh Nguyệt thể hiện qua cảm xúc về những người thân thương trong gia đình. Đó là: chồng, con trai, con gái, cha tôi, mẹ chồng, chị tôi, “vợ anh”… Thơ là tiếng nói của cảm xúc, cho nên, việc Ánh Nguyệt “bê nguyên” cả đại gia đình vào thơ mới thấy chị trân trọng gia đình, trân trọng hạnh phúc giản đơn mà mình đang có biết nhường nào.
Con gái chồng mình vừa mới sinh con
Chồng mình nghiễm nhiên trở thành ông ngoại
Mình cũng được người đời gọi vui là “bà ngoại”
Bởi mình chẳng ruột rà gì với đứa trẻ mới sinh
(Mẹ kế)
Đôi dòng tự sự nhẹ nhàng của người đàn bà được cuộc đời phân vai “Mẹ kế” mới thấy trong cái xót xa của chị khi “chẳng kịp có chung với chồng đứa con nào” đã “lên chức bà ngoại” lại có cả niềm hạnh phúc nhỏ nhoi mà chị chắt chiu từ cuộc sống hàng ngày. Đó là tấm lòng hi sinh cao cả đối với những đứa trẻ mất mẹ khi còn quá sớm, là tình yêu sâu sắc mà chị dành cho người đàn ông “không gánh nổi việc nhà”. Ấy thế mà, miệng lưỡi thế gian lại gán cho người đàn bà có tấm lòng bao dung, vị tha ấy “tiếng lăng loàn, tranh chồng cướp vợ”. Nặng lòng với người, với đời, chị thương người mà hình như quên cả thương mình?
Khi xưa, người đàn bà xuất hiện trong văn chương có cái gì đó khắc khoải, u buồn thì nay cảm xúc về những người đàn bà trong cuộc đời vẫn nguyên vẹn, chỉ là cách cảm nhận về họ cụ thể hơn vào từng cảnh đời, từng số phận để giải phóng khát vọng cá nhân khỏi những giới hạn thường tình, để giữ lại thứ hạnh phúc nhỏ nhoi đáng ra thuộc về họ. Người đàn bà trong “Trăng” không chỉ đẹp một cách dung dị, đời thường mà cũng rất cao cả trong tình yêu. Tình yêu là cảm xúc vô cùng kỳ lạ, nó có thể khiến con người ta vui vẻ, hạnh phúc, nhưng cũng có lúc khiến người ta đau đến tuột cùng. Nhưng dù như thế, không chỉ riêng Ánh Nguyệt mà tôi tin ai cũng sẽ muốn giữ riêng tình yêu ấy cho mình. Đặc biệt là tình yêu với người đầu gối tay ấp:
Chỉ muốn được yêu anh, lấy anh và làm mẹ
Sống cuộc đời trăm năm…
(Vũ nữ Chàm)
Ấy thế mà có lúc chị cũng chua xót:
Có cô gái đẹp vừa đi qua…
Trái tim em tan thành trăm mảnh vỡ
Một mảnh trôi theo ánh mắt của chồng…
(Đổ vỡ)
Rồi chị tự nhận ra “có những lí do đỗ vỡ chỉ nhỏ như hạt sạn trong chiếc giày”. Tuy không quá muộn nhưng:
Giờ…
đỉnh dốc cuộc đời
ngọt bùi, cay đắng đủ cả
tự nhiên sợ những lời dối trá
sợ ánh mắt hình mũi tên
và đề phòng trước những lời khen.
(Sợ)
Có lẽ vì thế, chị luôn bất an, “chẳng rõ trên sân khấu cuộc đời, ai là người diễn kịch” (Hoài nghi), thậm chí là đau đớn khi nhận ra hiện thực phũ phàng của cuộc hôn nhân tưởng chừng như hạnh phúc:
Ôi những mảnh vỡ trên nền nhà kia
Những mảnh vỡ dửng dưng, vô cảm
Những mảnh vỡ không cứa vào tay
Mà cứa vào tim em
Đau đớn mỗi ngày.
(Vô cảm)
Hay:
Rồi anh quên có một lối về
Quên em chờ anh bên bậu cửa
Rồi đến lúc không còn đau đớn nữa
Dẫu trăm ngàn vết xước cứa vào tim
(Gửi anh)
Nhưng dù cuộc sống có thế nào, người đàn bà vẫn luôn trọn vẹn, hết tình, hết nghĩa với con riêng, với mẹ chồng, bạn bè, đồng nghiệp… Chị coi đó như là báu vật mà nâng niu, trân trọng đến mức ân hận vì đã bao bọc con quá nhiều để bây giờ:
… con chưa từng nhặt một mớ rau,
chưa nấu nổi bữa cơm
chưa phân biệt được thịt bò, thịt lợn
Mẹ biết mẹ sai rồi
(Gửi con trai của mẹ)
Kể cả khi con trưởng thành, người đàn bà vẫn không thôi lo lắng, “với mẹ con luôn nhỏ dại”. Nỗi lo lắng chạm đến trái tim người đọc khi chị đồng cảm với con dâu mà “Dặn con trước ngày cưới vợ”:
Thì hãy nắm chặt tay cô ấy nghe con!
Để cô ấy vì con mà cố gắng
Vợ chồng thuận hòa trời yên biển lặng
Chẳng khó khăn nào chẳng thể vượt qua.
Người đàn bà ấy, cứ sống, cứ yêu hết mình chỉ để mong mỏi một mái ấm hạnh phúc nhưng đôi khi cuộc đời khắt khe với chị quá thì phải:
Đã chót để con mất bố
Thì sao mẹ lại chẳng chiều
Mỗi lần cùng con xuống phố
Một mình… cay đắng bao nhiêu…
(Chiều)
Đó là nỗi đau không gì có thể chia sẻ được của một người mẹ, người đàn bà:
Hai lần đứng trước tòa
Hai lần đổ vỡ hôn nhân
Dẫu mất cả niềm tin…
Và đau nữa…
Mình chưa hề ân hận đã từng yêu!
(Ly hôn)
Đọc cả tập thơ, tôi nhẩm đếm trên đầu ngón tay những lần người đàn bà nghĩ cho mình mới thấy có lúc họ đơn độc, lẻ loi trên chính hành trình cuộc đời họ đã chọn. Sự cô đơn ấy khởi nguồn từ việc người đàn bà luôn sẵn lòng cam chịu và nhận thiệt thòi về mình, hi sinh cho tổ ấm bé nhỏ và khát khao được sống là chính mình của họ. Sự cô đơn ấy có lúc bật lên thành tiếng thơ đến cháy lòng:
Đã làm Thị Kính bao năm trong đời
muốn làm Thị Màu một đêm nổi loạn
bỏ mặc ngoài kia thị phi, danh phận
em… đàn bà trước anh
(Thị Màu)
Khi trong mắt người đời, Sơn Tinh dời non ngăn Thủy Tinh cướp Mị Nương là điều đáng được ca ngợi thì Ánh Nguyệt lại thương cảm với Thủy Tinh và trăn trở về tiếng lòng của Mị Nương trong cuộc tình “xuyên thế kỷ”. Chắc phải trải qua khổ đau, hạnh phúc và khao khát tình yêu đến cháy tâm can thì Ánh Nguyệt mới thấu tỏ được nỗi lòng của những người trong cuộc dù “Lịch sử đã sang trang không có cách gì quay ngược” (Nghĩ về Sơn Tinh)?
Sau những thăng trầm trong cuộc đời, Ánh Nguyệt  viết “Buông” như lời kết cho hành trình tìm kiếm hạnh phúc của người đàn bà:
Thôi, buồn làm gì
bỏ được thì bỏ
buông được thì buông
những uất hận tưởng khắc cốt ghi tâm với thời gian
cuối cùng cũng theo mây trời trôi hết…
Dù con người có sức mạnh đến đâu cũng không chống lại quy luật của cuộc đời. Và quan niệm “định nghiệp nhất thành bất biến” sẽ vận vào hết thảy tất cả chúng ta. Ánh Nguyệt tin như vậy, cho nên, thơ ca và cuộc đời chị dường như không có khoảng cách. Tôi luôn có cảm giác, chị vừa chấp nhận số phận có phần nghiệt ngã của mình, coi đó là “nghiệp”, vừa không cam chịu để cuộc đời đưa đẩy nên dù trong hoàn cảnh nào chị vẫn luôn chủ động đi tìm tình yêu, hạnh phúc.
Giọng điệu trong thơ của Ánh Nguyệt rất đa dạng: Có khi là sự xót xa cho một mối quan hệ; có khi là lời trách móc nhẹ nhàng với chính mình hoặc người bạn đời; có khi lại là giọng điệu bùi ngùi, hạnh phúc khi được đón nhận tình cảm của người khác…Những câu thơ buông lửng, hình ảnh thơ gần gũi với đời sống được thể hiện qua hệ thống từ ngữ giản dị, mộc mạc và rất đời khiến cho bất cứ người đọc nào chạm đến “Trăng” cũng thấy một phần cuộc đời mình, gia đình mình ở đó.
Qua hình ảnh người đàn bà trong “Trăng”, Ánh Nguyệt muốn gửi đến người đọc thông điệp hãy cứ sống là chính mình, yêu những điều mình trận trọng, hãy buông bỏ bớt những hiềm nghi để được sống một lần trọn vẹn trong cuộc đời.
Tập thơ khép lại nhưng nỗi ám ảnh về hạnh phúc, về tình yêu thì vẫn còn mãi. Tiếng lòng của người đàn bà trong thơ Ánh Nguyệt không hẳn đại diện của đa số phụ nữ nhưng phần nào nhắc nhở mỗi chúng ta cách để thể hiện bản lĩnh sống, khẳng định niềm tin vào tình yêu, biết trân trọng và giữ gìn hạnh phúc của gia đình trong cuộc sống hiện đại hôm nay.
17/9/2025
Châm Võ
Nguồn: Văn Nghệ Lai Châu
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Công chúng với tiếp nhận văn học trong thời đại công nghệ số

Công chúng với tiếp nhận văn học trong thời đại công nghệ số Sự phát triển công nghệ số mang tính đột phá trong cuộc Cách mạng công nghiệp...