Thứ Ba, 16 tháng 12, 2025

Chính trị bình dân 1

Chính trị bình dân 1

Cuốn sách “Chính trị bình dân” được tác giả Phạm Đoan Trang quyết định cho xuất bản bản mới với nhiều chỉnh sửa, bổ sung trong một dịp khá đặc biệt: chín năm kể từ khi tác giả bị công an bắt và giam giữ lần đầu tiên.
Download:
Chính trị bình dân – Bản mới – 2018 (PDF)
Đó là vào ngày 28/8/2009, khi Đoan Trang còn là phóng viên của VietNamNet. Cô khi đó đang gây được tiếng vang lớn với các bài viết sắc sảo về vấn đề Biển Đông, Trung Quốc cũng như các bình luận chính trị trên chuyên trang Tuần Việt Nam. Vụ bắt bớ đó không chỉ có Đoan Trang, mà còn có hai blogger nổi tiếng là Bùi Thanh Hiếu (Người Buôn Gió) và Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Mẹ Nấm).
Đoan Trang bị giam giữ chín ngày tại Trại tạm giam B14 (Hà Nội). Không cáo trạng nào được đưa ra, cũng không có bản án nào được tuyên. Sự kiện đó là một bước ngoặt khiến nhà báo “lề phải” Đoan Trang dấn thân vào con đường đấu tranh dân chủ.
Viết trên Facebook về biến cố này, Đoan Trang cho biết, “trong những ngày ấy và những tháng rất đen tối sau đó, tôi sợ công an lắm, nhưng trong đầu tôi cũng hình thành một câu hỏi: Tôi là nhà báo, nghĩa là tạm được gọi là có nghề nghiệp, học vấn, địa vị trong xã hội, mà còn bị công an đè bẹp như một con gián, để từ chỗ vô tội trở thành có tội, nhận tội như bổ củi. Vậy thì những người dân thấp cổ bé họng, khi giáp mặt cơ quan công quyền, họ còn bị chà đạp tới mức nào? Ai bảo vệ họ? Ai xót thương họ? Ai cứu họ?”
Đó cũng là lý do mà “Chính trị bình dân” ra đời.
Kể từ khi xuất bản lần đầu ngày 22/9/2017 trên Amazon, “Chính trị bình dân” đã được nhiều bạn đọc đón nhận như một cẩm nang đơn giản, dễ hiểu về chính trị, đặc biệt là chính trị Việt Nam. Ít nhất 3.000 bản in đã đến tay bạn đọc cả trong và ngoài nước.
Ngày 09/2/2018, một số bản in cuốn sách này đã bị Hải quan Đà Nẵng thu giữ, hai tuần sau đến lượt tác giả bị công an bắt tại nhà riêng, đưa về đồn ở Hoàn Kiếm, Hà Nội để “làm việc” về cuốn sách. Trong bối cảnh đó, Luật Khoa tạp chí đã quyết định công bố miễn phí bản điện tử vào ngày 27/2.
Trong bản mới này, tác giả bổ sung thêm một số nội dung vào Phần III, “Dân chủ”, bao gồm các đề mục:
Sự khác nhau giữa dân chủ và tự do;
Khái niệm dân chủ tự do;
Bốn trụ cột của dân chủ hay là bốn bộ phận chính cấu thành nền dân chủ tự do.
Các khái niệm cánh tả, cánh hữu, chủ nghĩa dân tuý và thói mị dân cũng được tác giả Đoan Trang giải thích trong Phần IV, “Các chủ nghĩa”.
Vốn dĩ, cuốn sách này được xuất bản qua trang thương mại điện tử Amazon với mức giá 20 USD (tương đương khoảng 450.000 đồng). Bản điện tử cũng được xuất bản trên Smashword với giá 5 USD (tương đương khoảng 120.000 đ).
Như tác giả đã nhiều lần thông báo trên Facebook cá nhân, toàn bộ số tiền bán sách được chuyển cho Quỹ Lương Tâm, một quỹ từ thiện được lập ra để giúp đỡ gia đình các tù nhân lương tâm ở Việt Nam.
Nếu đọc bản PDF và muốn trả tiền mua sách, bạn đọc có thể gửi tiền tới Quỹ Lương Tâm theo tài khoản ngân hàng:
Nguyễn Quang A
Số tài khoản: 0541000287869, Vietcombank Chương Dương, Hà Nội
Hoặc tài khoản Paypal: quyluongtamvn@gmail.com.
Với tất cả tấm lòng yêu mến và kính phục, xin dành tặng cuốn sách này cho những người Việt Nam đã, đang và sẽ cống hiến, đấu tranh không mệt mỏi và sẵn sàng hy sinh vì một đất nước Việt Nam dân chủ, tự do và thịnh vượng.
Kính tặng Bố và Mẹ của con.
Thương tặng các anh chị của em.
LỜI NÓI ĐẦU CỦA TÁC GIẢ
CHO LẦN XUẤT BẢN ĐẦU TIÊN
Từ khi mới bắt đầu tham gia sâu vào phong trào đấu tranh vì dân chủ-nhân quyền cho Việt Nam (năm 2011), tôi đã nghĩ đến việc phải có những cuốn sách, những lớp học, hay khóa học mang tính nhập môn về chính trị, để truyền thụ những kiến thức căn bản nhất về chính trị cho người dân Việt Nam, mà cụ thể là những người lúc đó đang gần gũi với tôi nhất: các nhà hoạt động dân chủ-nhân quyền.
Sở dĩ tôi nghĩ như thế, bởi cũng như tuyệt đại đa số người Việt Nam, tôi thiếu hụt kiến thức sơ đẳng về chính trị để có thể hiểu những điều căn bản nhất và trả lời những câu hỏi đơn giản nhất, như “dân chủ là gì”, “bình đẳng là thế nào”, “tự do, nhân quyền có cần thiết không, nếu có thì tại sao”, và nhất là hai câu hỏi lớn: 1. Tại sao Việt Nam lại ở trong Thế giới thứ ba lâu đến thế? 2. Có cách nào để Việt Nam thoát khỏi tình trạng này không, phải làm sao?
Chắc rằng không chỉ có tôi, nhiều người Việt Nam, đặc biệt là các bạn trẻ, hẳn đã thử lên mạng, thử google để tìm câu trả lời. Chúng tôi vấp phải một vấn đề lớn: Internet là một kho tàng kiến thức thật, nhưng đồng thời nó cũng là một bãi rác khổng lồ mà nếu chỉ trông cậy vào nó, ta sẽ rất khó tìm được vàng, may mắn lắm thì chỉ thấy bụi vàng thôi. Nói cách khác, kiến thức mà Internet, Google và mạng xã hội đem lại rời rạc và không hệ thống; không thể nào chỉ dựa vào nó mà có được những kiến thức bài bản, chuẩn mực, không hoặc ít gây tranh cãi.
Nói đến tranh cãi, thì những cuộc luận bàn, chém gió và ném đá nhau về chính trị cũng diễn ra dường như bất tận trên Internet; bất tận bởi vì không ai chịu ai, mà lại không có gì làm chuẩn để các bên đối chiếu. Cuộc tranh cãi càng gây mệt mỏi hơn khi có sự tham gia của đội ngũ dư luận viên hùng hậu, thiếu kiến thức nhưng thừa ngụy biện.
Tôi đã chứng kiến rất nhiều cuộc cãi lộn như thế, cả trên mạng lẫn ngoài đời thực. Và chúng chỉ càng làm tôi thấy rằng, cần phải có những kiến thức tối thiểu, căn bản nhất và chính xác nhất, để làm chuẩn mực chung, làm “trọng tài” cho những tranh luận. Đó là những kiến thức căn bản về chính trị và pháp luật.
Trong quá trình tìm kiếm, thu thập những kiến thức ấy, tôi lại phát hiện ra một điều nữa: Hóa ra chúng là những gì căn bản đến nỗi người bình dân ở những nước phát triển, hay ở những nền dân chủ Tây phương, đều nắm được và hiểu cả. Chính vì tất cả họ đều hiểu, nên hệ thống truyền thông của họ mới ít nói đến chúng. Mà truyền thông phương Tây thì lại vốn gần như là nguồn tham khảo trực tiếp, gần gũi và nhanh chóng nhất với người dân Việt Nam.
Kết quả là, chúng vẫn cứ là những kiến thức xa lạ với người Việt. Tệ hơn nữa, người Việt lại có thói quen tin tưởng rằng chính trị là cái gì đó xấu xa, độc ác, bẩn thỉu, tốt nhất nên tránh xa nó ra. Với niềm tin sai lệch ấy, định kiến ấy, chúng ta tiếp tục xa lánh chính trị, không hiểu gì về chính trị và để mặc đất nước, xã hội cũng như cộng đồng cho một thiểu số lãnh đạo tùy ý vận hành, quyết định.
Nhưng thật ra, chính trị đâu có khó hiểu đến thế. Cũng như nhân quyền, tự do, dân chủ chưa bao giờ là các khái niệm phức tạp, nhạy cảm hay đáng sợ. Chúng là những điều đơn giản và căn bản đến mức mọi người dân thường ở các xã hội dân chủ đều nắm được, ít nhất là cảm nhận được chúng. Và chính nhờ thế, họ bảo vệ được nền dân chủ của nước mình.
Đối với người dân Việt Nam, nhiệm vụ còn nặng nề hơn: Chúng ta phải đấu tranh để mang đến dân chủ, và sau đó phải tiếp tục đấu tranh để bảo vệ và củng cố nền dân chủ non trẻ đó.
Với cả hai nhiệm vụ ấy, chúng ta đều cần phải có kiến thức về chính trị, và rất may, đó vẫn là các kiến thức căn bản mà mọi người dân ở các xứ sở tiến bộ về chính trị đều đã biết.
Suốt từ khi mới tham gia phong trào dân chủ, tôi đã có mong mỏi là phải làm sao để xóa bỏ được sự thiếu hụt kiến thức của mình, phải làm sao hiểu được chính trị học căn bản. Sau khi may mắn nắm được một số kiến thức sơ đẳng, tôi lại cảm thấy bị thôi thúc phải chia sẻ chúng với mọi người, nhất là những bạn trẻ tham gia hoạt động xã hội, đấu tranh vì dân chủ-nhân quyền cho Việt Nam. Họ mới chính là tài sản quý nhất của đất nước; tương lai Việt Nam nằm trong tay họ.
Với tất cả những niềm mong mỏi, tôi viết cuốn sách “Chính trị bình dân” này. Đây không phải là một công trình nghiên cứu mang tính chất hàn lâm, học thuật, cũng không phải một tác phẩm nghệ thuật với những sáng tạo và thử nghiệm. Tôi cố gắng để nó là một cuốn sách nhập môn, đem lại cho bạn đọc những kiến thức cực kỳ căn bản về chính trị (tất nhiên là cũng xen kẽ một vài kiến thức sâu hơn mức căn bản). Quan trọng hơn, tôi cố gắng để làm cho nó dễ hiểu và thú vị nhất, để góp phần đánh tan cái định kiến tai hại “chính trị là xấu xa, thủ đoạn” ở bạn đọc Việt Nam.
Vì chính tôi cũng thiếu hụt và hạn chế về hiểu biết, chưa từng được trải qua cuộc sống trong một thể chế dân chủ, nên những kiến thức trong sách này đương nhiên là chỉ do tôi gom góp, thu nhặt từ nhiều nơi về (xem phần Tài liệu tham khảo), nhưng một cách có hệ thống hơn là chỉ từ Internet. Nếu sách có sai sót về nội dung, đó là do lỗi của tôi, không phải của bất cứ ai khác. Tôi mong nhận được những nhận xét, bình luận của các bạn, dù khen hay chê, và xin cảm ơn tất cả.
Hà Nội, ngày đầu đông, 11/2016
Phạm Đoan Trang
LỜI CẢM ƠN CỦA TÁC GIẢ
“Chính trị bình dân” đã ra đời và tồn tại trong hoàn cảnh thật đặc biệt đối với tác giả. Cuốn sách này được xuất bản trên trang mạng Amazon, công bố vào ngày 22/9/2017. Ngày 9/2/2018, trước dịp tết nguyên đán Mậu Tuất, một số bản sách bị Hải quan Đà Nẵng thu giữ. Ngày 24/2/2018, tác giả bị Cơ quan An ninh Điều tra Bộ Công an đến tận nhà riêng, đưa về đồn (một trong các trụ sở của Cơ quan An ninh Điều tra, ở số 3 phố Nguyễn Gia Thiều, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) để “làm việc” về cuốn sách. Ngay sau đó, ngày 27/2/2018, trong bối cảnh tác giả bị sách nhiễu và đe dọa, Luật Khoa tạp chí – nơi tác giả là sáng lập viên và biên tập viên – đã quyết định công bố miễn phí trên mạng phiên bản “Chính trị bình dân” tái bản lần thứ nhất với nhiều chỉnh lý, bổ sung.
Do đó, trong ấn bản lần thứ hai, tôi muốn nhấn mạnh điều mà tôi từng đề cập nhiều lần trên mạng: “Tôi sung sướng, vui mừng vì sách được độc giả đón nhận”, “Sự ủng hộ và tấm lòng của các bạn là sự bảo vệ lớn nhất dành cho tôi lúc này, và không bao giờ tôi có thể quên được. Không bao giờ”.
Nếu không có độc giả, thì không tồn tại tôi với tư cách tác giả.
Và nếu không có sự ủng hộ nhiệt thành của độc giả suốt từ khi sách ra đời, thì chắc là tôi đã ở trong một nhà tù nhỏ nào đó trên đất nước Việt Nam thời cộng sản.
Tôi muốn dành thật nhiều lời để cảm ơn những người đã giúp tôi viết cuốn sách này, nhưng dung lượng của vài trang giấy có hạn, và thực sự cũng khó có đủ lời để diễn tả hết giá trị của sự giúp đỡ của họ đối với tôi. Họ ủng hộ tôi về tinh thần và vật chất trong suốt quá trình viết sách. Họ cung cấp kiến thức, tư liệu và hình ảnh, góp phần vào nội dung sách. Trên tất cả, những gì họ làm, cách họ sống, thái độ sống của họ đã là nguồn cảm hứng mãnh liệt cho tôi để viết nên cuốn sách hơn 500 trang này.
Cảm ơn các nhà hoạt động, các hội nhóm xã hội dân sự độc lập đầu tiên ở Việt Nam –những cá nhân và tổ chức đã đi đầu trong việc chọc thủng bức màn sắt của chế độ độc tài, can đảm cất lên tiếng nói, bước chân xuống đường biểu tình, chỉ để cho người dân trong một xã hội đang tê liệt vì sợ hãi, ì trệ vì chán ngán, thấy một sự thật: Chúng ta có quyền, và chúng ta có thể tạo nên sự thay đổi.
Cảm ơn những bà con cô bác, những người anh, người chị trong cộng đồng hải ngoại, nửa đời xa quê hương và gắn chặt với những lo toan nơi xứ người, vẫn chưa bao giờ thôi hướng về Việt Nam yêu thương.
Cảm ơn các bạn nước ngoài của tôi. Là những người không cùng quê hương, xứ sở với tôi, nhưng luôn giúp đỡ, ủng hộ, chia sẻ với tôi rất nhiều điều, các bạn đã làm cho tôi hiểu hơn bao giờ hết về giá trị của hai từ “nhân quyền” – nhân quyền là không kỳ thị, là phổ quát và không biên giới.
Cảm ơn hàng trăm tù nhân lương tâm đã hy sinh tự do của họ để đẩy lùi tấm màn sắt vây hãm nhân quyền ở Việt Nam.
Xin bày tỏ sự cảm phục và biết ơn tới những thế hệ đi trước trong công cuộc đấu tranh vì dân chủ-tự do cho đất nước. Không có họ, sẽ không có những “thế hệ F”, “thế hệ xanh” của các nhà hoạt động về sau, và tất nhiên, không có cả tôi với tư cách tác giả cuốn sách này.
Và cuối cùng, một lời cảm ơn với đầy sự trân trọng và cảm mến dành cho những bạn trẻ hoạt động ở Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Hà Nam, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu và nhiều địa phương khác trong cả nước – những người đã tạo ra một nguồn cảm hứng lớn mà một tác giả, một cuốn sách viết về họ, cho họ, chẳng bao giờ là đủ.
Không bao giờ tôi diễn tả hết được nguồn cảm hứng mà những người nêu trên đã tạo ra cho tôi, niềm biết ơn của tôi đối với họ, cũng như không bao giờ tôi có thể kể hết tên của họ trong vài hàng chữ. Vì vậy, đành chỉ xin có một lời cảm ơn chân thành nhất, dành cho tất cả.
HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG SÁCH
CHO LẦN TÁI BẢN THỨ HAI

Bây giờ bạn đang đọc “Chính trị bình dân” tái bản lần thứ hai. Có thể xem đây là một cuốn sách nhập môn về chính trị học. Tác giả đã sử dụng tài liệu tham khảo là những cuốn sách giáo khoa về chính trị của các nước Mỹ, Anh, Ấn Độ, Philippines, đồng thời cố gắng diễn đạt bằng ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu nhất.
Đối tượng độc giả của cuốn sách là những người chưa biết gì về chính trị, hoặc đã từng nghe, đọc sơ sơ về những khái niệm căn bản như “dân chủ”, “tự do”, “nhân quyền”, “công lý”, “bình đẳng”. Và như đã trình bày ở phần Lời nói đầu, cuốn sách này cung cấp những kiến thức căn bản mà tất cả người dân ở các nước dân chủ đều biết; do đó, xin mạo muội khuyên rằng: Tất cả độc giả là công dân Việt Nam cũng nên đọc nó.
Phần I, “Chính trị là gì?”, nêu một số trong những định nghĩa quan trọng nhất về chính trị. Các định nghĩa đó rất hữu ích cho bạn tìm hiểu về các hoạt động chính trị.
Phần II, “Chính quyền và nhà nước”, giới thiệu sơ qua cho độc giả Việt Nam hai khái niệm trung tâm của chính trị học: chính quyền và nhà nước.
Phần III, “Dân chủ”, xoay quanh một trong các khái niệm gây tranh cãi nhất ở người Việt Nam mỗi khi luận bàn chuyện chính trị: dân chủ.
Phần IV, “Các chủ nghĩa”, nói về một số chủ nghĩa, hay là ý thức hệ, phổ biến, mà người Việt Nam ít nhiều đều nghe nhắc đến: chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa bảo tồn (bảo thủ), chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa dân tộc... Khi nói về chủ nghĩa dân tộc, chương này cũng bổ sung thêm khái niệm lòng yêu nước.
Phần V, “Tương tác chính trị”, xoay quanh các hoạt động chính trị phổ biến trong mọi xã hội (kể cả Việt Nam): làm truyền thông, tuyên truyền, thành lập và hoạt động đảng phái, bỏ phiếu và bầu cử, hoạt động xã hội dân sự, phong trào xã hội...
Phần VI, “Bộ máy nhà nước”, giới thiệu với độc giả các mô hình tổ chức bộ máy nhà nước chung nhất của thế giới. Đặc biệt, nó cung cấp thêm cho bạn kiến thức về hệ thống hành chính và hai lực lượng có vai trò rất phức tạp dưới chính quyền của đảng Cộng sản Việt Nam: công an và quân đội.
Đầu mỗi phần đều có một vài dòng tóm tắt nội dung chính của cả phần đó.
Ngoài ra, sau mỗi chương, có thể có thêm các bài đọc với chủ đề liên quan đến nội dung của từng chương.
Trong sách, tên riêng của các đảng chính trị được viết hoa. Từ 
“đảng” nếu không phải ở đầu câu hoặc nằm trong các đoạn trích, thì chỉ được viết thường, không viết hoa thành “Đảng” (để bạn đọc không hiểu thành “đảng Cộng sản Việt Nam”).

Ấn bản lần thứ hai có gì mới?
Nhận thấy trong phiên bản đầu và ấn phẩm tái bản lần thứ nhất, phần “dân chủ” có nội dung còn sơ sài, không tương xứng với một khái niệm có tính chất trung tâm của triết học chính trị như vậy, cho nên trong lần tái bản thứ hai này, tác giả bổ sung đáng kể vào Phần III, “Dân chủ”: Sự khác nhau giữa dân chủ và tự do; Khái niệm dân chủ tự do; Bốn trụ cột của dân chủ hay là bốn bộ phận chính cấu thành nền dân chủ tự do.
Phần IV, “Các chủ nghĩa”, bổ sung thêm định nghĩa về một loạt khái niệm: cánh tả, cánh hữu, chủ nghĩa dân túy và thói mị dân.
Phần I
CHÍNH TRỊ LÀ GÌ?

Trong phần đầu tiên này, chúng ta sẽ tìm hiểu về một số khái niệm thường gặp nhất khi nói đến chính trị: chính trị và các hoạt động được coi là hoạt động chính trị.
Chương I
ĐỊNH NGHĨA CHÍNH TRỊ

Đã có nhiều định nghĩa của các học giả trên thế giới về chính trị.
Sau đây là bốn định nghĩa, được xếp theo thứ tự từ hẹp đến rộng, và các diễn giải, bình luận về từng định nghĩa:
1. Chính trị là quá trình ra các chính sách công (chính sách công, tức là các chính sách của chính quyền).
2. Chính trị là việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước, do các đảng phái, tổ chức chính trị, và các cá nhân là chính trị gia thực hiện.
Với hai định nghĩa trên, ta thấy rằng chính trị chỉ diễn ra trong chính trường. Nói cách khác, chính trị chỉ diễn ra trong hệ thống các tổ chức xã hội vận hành xoay quanh bộ máy nhà nước: phòng họp nội các, văn phòng chính phủ, các cơ quan chính phủ, văn phòng quốc hội, cùng lắm thì thêm trụ sở của các cơ quan dân cử và hành chính, mà ở Việt Nam gọi là ủy ban nhân dân và hội đồng nhân dân – tức là những cơ quan có chức năng và giữ quyền ban hành chính sách. (Không bao gồm tòa án, nếu như tòa án không phải nơi ban hành chính sách; tương tự, không bao gồm công an, quân đội).
Và công việc chính trị, hiểu theo hai định nghĩa trên, chỉ do một thiểu số thực hiện, thiểu số đó là các đảng phái, tổ chức chính trị và 1. “Politics”, Andrew Heywood, 3rd edition, Palgrave Foundations chính trị gia. Còn chính trị gia thì là các quan chức nhà nước (có thể có cả công chức, cán bộ). Nếu ở trong thể chế độc đảng thì chính trị chỉ do các thành viên cao cấp nhất, tinh hoa nhất của đảng ấy thực hiện.
Trong khi đó, mọi người dân, tổ chức xã hội dân sự, cùng các hoạt động xã hội, v.v... đều không thuộc về chính trị. Nói theo cách nói của các nhà tuyên giáo của đảng Cộng sản, chính trị là chuyện của “Đảng và Nhà nước”, “đã có Đảng và Nhà nước lo”.
Đó là cách hiểu về chính trị theo hai định nghĩa hẹp.
Trong tiếng Anh, chính trị là “politics”. Từ này bắt nguồn từ một từ tiếng Hy Lạp, “polis”, nghĩa là “thành bang”, phát triển thành “politics”-“chuyện của thành bang”, “những gì liên quan tới thành bang”.
3. Chính trị là những gì diễn ra trong “lĩnh vực công”, tức những gì thuộc không gian chung, của cộng đồng. (Từ “công” ở đây nghĩa là “chung, của chung”). Còn những gì diễn ra trong lĩnh vực tư, không phải của cộng đồng, thì là phi chính trị.
Vậy, chính phủ, quốc hội, tòa án, quân đội, công an, các tổ chức chính trị/ xã hội... là những thực thể chính trị vì chúng là “của chung”, thuộc về không gian công: Chúng chịu trách nhiệm về cộng đồng, hoạt động bằng tiền của cộng đồng, vì lợi ích cộng đồng. Còn gia đình, doanh nghiệp tư nhân, công đoàn, câu lạc bộ... là phi chính trị, vì chúng do tư nhân thành lập, hoạt động bằng tiền tư nhân, vì lợi ích tư, và tự quản.
(Các bạn lưu ý: Từ “công đoàn” không hàm ý rằng nó là tổ chức công, “của cộng đồng”. Từ “công” trong “công đoàn” có nghĩa là việc, ta thấy nó trong các từ ghép như “công điểm”, “công lao”, “công nghiệp”, v.v... Công đoàn là tổ chức tranh đấu, bảo vệ quyền lợi của người lao động).
Với định nghĩa này, chính trị nằm ngoài lĩnh vực tư, nằm ngoài không gian tư nhân. Chính trị không liên quan đến các vấn đề tư nhân, các lĩnh vực thuộc tư nhân như: gia đình, công ty, quan hệ giữa các cá nhân, xã hội dân sự.
Lưu ý là xã hội dân sự, theo định nghĩa này, cũng nằm ngoài chính trị. Quan niệm đó từng là lý do làm nảy sinh tranh cãi xoay quanh các tổ chức xã hội dân sự độc lập ở Việt Nam (Con Đường Việt Nam, Mạng Lưới Blogger Việt Nam, Vì Một Hà Nội Xanh...):
Nhiều người cho rằng đã gọi là “xã hội dân sự” thì phải phi chính trị, do đó, việc các tổ chức này tiến hành các hoạt động đấu tranh vì dân chủ, nhân quyền là không đúng; cần phải tách biệt giữa chính trị và dân sự. Riêng dư luận viên còn lập luận: Đó là các tổ chức “mượn vỏ bọc xã hội dân sự” để chống phá nhà nước.
Ở khía cạnh khác, nhiều người khác cũng nhận định, việc các đảng phái hoặc tổ chức chính trị (đảng Việt Tân, Tập hợp Dân chủ Đa nguyên...) tham gia những hoạt động của xã hội dân sự là không đúng; cần phải tách biệt giữa chính trị và dân sự.
Hai luồng quan điểm đối lập đó thực chất xuất phát từ cách hiểu về khái niệm chính trị theo định nghĩa thứ ba nêu trên: tách biệt công và tư. Chúng cũng xuất phát phần nào từ định nghĩa thứ hai:
Chính trị là việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước của các đảng phái và chính trị gia, không phải việc của xã hội dân sự.
4. Chính trị là việc gây ảnh hưởng lên những người khác, chẳng hạn và rõ rệt nhất là tác động lên chính sách.
Đây là định nghĩa rộng nhất về chính trị. Với định nghĩa này, chính trị có mặt trong tất cả các hoạt động xã hội, tương tác xã hội. Chính trị hiện diện ngay trong gia đình, trong mọi nhóm người, mọi cộng đồng, mọi quốc gia. Ta thường nghe những câu nhận xét kiểu như: “Thằng đó chính trị lắm!”, hàm ý một người nào đó cư xử khôn khéo, lấy lòng người khác lắm. Dùng từ như vậy không có gì sai, nếu ta hiểu chính trị
theo định nghĩa thứ tư: Chính trị là gây ảnh hưởng, mà muốn gây ảnh hưởng thì một trong những cách làm là phải khôn khéo, lấy lòng người khác. Làm chính trị chẳng qua là vận động, thuyết phục để gây ảnh hưởng. Vậy nên ngay cả sếp cũng có thể “làm chính trị” với nhân viên và ngược lại. Tương tự, vợ chồng cũng có thể “làm chính trị” với nhau, bố mẹ “làm chính trị” với con cái. Bạn có thể coi đấy là giả dối, nhưng nếu quan niệm “chính trị là nghệ thuật vận động” thì bạn cũng có thể nghĩ khác.
Trên đây là bốn định nghĩa về chính trị, xếp theo thứ tự từ cách hiểu hẹp đến cách hiểu rộng. Không định nghĩa nào là tuyệt đối đúng hoặc sai, chỉ có rộng hay hẹp mà thôi. Xin để bạn tùy ý chọn một định nghĩa mà bạn thích.
Với cách hiểu chính trị theo định nghĩa thứ tư nói trên (rộng nhất), thì các hoạt động chính trị chính là các hoạt động nhằm gây ảnh hưởng, tác động tới nhà nước và các chính sách. Đây sẽ là nội dung của chương tiếp theo.
Bài đọc
CHÍNH TRỊ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TẤT CẢ CHÚNG TA
Điều đầu tiên cần khẳng định là trong một xã hội tôn trọng đa nguyên, thì mọi người đều được tự do thích, theo đuổi, hoặc không thích, không theo đuổi cái gì đó. Nghĩa là người có thể đi làm kinh doanh, kẻ thì dấn thân cho sự nghiệp khoa học, một số khác lại đam mê nghệ thuật. Không nhất thiết ai cũng phải lao vào các hoạt động “vì cộng đồng” hoặc phải hăng hái đọc báo, xem tivi, nghe đài, hăng hái bàn luận về những vấn đề vĩ mô... Không phải nhất định chỉ có xả thân và cống hiến, “là con của vạn nhà, là em của vạn kiếp phôi pha” thì mới được xem là có “thời thanh niên sôi nổi” và tươi đẹp. (Nhưng tất nhiên, cũng phải thừa nhận là giữa các ngành nghề, các nhóm công việc khác nhau, có những nghề mang lại sự thú vị cao hơn cho người thực hành chúng – mà chính trị là một trong số đó).
Song, có một khoảng cách giữa thái độ không thích, không quan tâm, không dây dưa (đó là quyền của bạn, và là điều được chấp nhận, trên tinh thần đa nguyên), và sự kém hiểu biết về chính trị (có thể dẫn đến sự vô cảm).
Chính trị là quá trình ra quyết định và thực thi quyết định đó trong một nhóm, một cộng đồng bất kỳ, có thể ở quy mô một xã hội, đất nước. Bạn sẽ thấy ngay rằng, mâu thuẫn, xung đột là một phần tất yếu của quá trình ấy; hay nói cách khác, một trong các đặc điểm của chính trị là sự mâu thuẫn, xung đột. Chẳng quyết định nào, chẳng chính sách nào có thể đạt được đồng thuận. Vấn đề của tất cả mọi người là làm thế nào để giảm bớt tác hại của mâu thuẫn, xung đột ấy, dù không phải là triệt tiêu nó; nhưng đấy là chủ đề của những bài viết khác. Ở đây, chúng ta biết rằng chính trị thì phải mâu thuẫn.
Một nhà khoa học chính trị nổi tiếng người Mỹ, ông Austin Ranney (1920-2006), từng viết: “Chắc chắn, trong bất kỳ xã hội nào, cũng có rất nhiều mâu thuẫn trong những lĩnh vực ngoài chính trị, như kinh tế, học thuật, thể thao, và hôn nhân. Cái chính là không một xã hội nào – truyền thống hay hiện đại, tiến bộ nhiều hay ít, dân chủ hay độc tài – lại hoàn toàn không có mâu thuẫn chính trị cả. Và trong xã hội hiện đại, mọi mâu thuẫn xoay quanh vấn đề giá trị (cái gì tốt hay xấu, tốt nhiều hay tốt ít, xấu nhiều hay xấu ít, lợi hay hại, nên hay không nên... – ND) sớm muộn đều trở 
thành mâu thuẫn chính trị”.
Mà cuộc sống của bạn thì lại luôn đầy những xung đột, mâu thuẫn phải giải quyết. Nói cách khác, bạn luôn phải đối diện và xử lý mâu thuẫn.
Thế nghĩa là dù làm gì, bạn cũng không thoát khỏi tầm ảnh hưởng của chính trị được đâu. Ngay trong lớp bạn, trường bạn, Ban Giám hiệu thay toàn bộ giảng viên từng du học ở Liên Xô bằng giảng viên học ở Mỹ về, đã là một quyết định chính trị ảnh hưởng đến bạn rồi. Bạn vận động thầy cô, bạn bè, để nam và nữ sinh viên đều có thể bơi chung bể trong môn thể dục hoặc ngược lại, nhất định phải tách riêng họ ra, đã là làm chính trị rồi.
Trong cơ quan, bạn khen ngợi anh A, ném đá chị B, dìm cô C, nâng chú D, để cho sếp chú ý đến bạn hơn một chút, hoặc để các đồng nghiệp yêu quý bạn hơn, đều là làm chính trị cả. Kể cả bạn quyết định không tham gia bè phái, chỉ tập trung chuyên môn thôi, đó cũng là một quyết định có tính chất chính trị và ngay cả khi ấy thì bạn cũng vẫn sẽ chịu ảnh hưởng từ sếp, từ đồng nghiệp, từ các chính sách của cơ quan.
Chính trị bao trùm như thế. Vấn đề là điều ấy không xấu như bạn nghĩ. Nếu bạn vận động thành công để trường lớp, cơ quan, tổ dân phố, ra những chính sách có lợi cho bạn và những người bạn ưu ái, thì bạn sẽ thấy chính trị tốt quá, phải không? Và có một nghịch lý thú vị mà Austin Ranney chỉ ra, là trong khi người ta khinh ghét chính trị gia, coi chính trị là bẩn thỉu, thì người ta cũng lại ngưỡng mộ các vị lãnh đạo nhà nước, các nguyên thủ quốc gia, lãnh tụ, và luôn thấy họ đẹp, họ đúng, họ sáng suốt...
Vậy vì sao bạn không quan tâm đến chính trị? Nó ảnh hưởng đến bạn kia mà. Vâng, bạn hãy quan tâm đến nó, nhưng... đừng lên án người vô cảm.
ĐỪNG LÊN ÁN NGƯỜI VÔ CẢM
Trong hệ thống đánh giá và biểu dương, khen thưởng thành tích của đảng Cộng sản và Nhà nước CHXHCN Việt Nam, các bạn thường thấy có một tiêu chí là “ý thức chính trị cao”, “bản lĩnh chính trị vững vàng”, theo nghĩa là “hiểu rõ và hướng tới bảo vệ lợi ích của Đảng, trung thành với Đảng – lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Trên thực tế, khái niệm “ý thức/ bản lĩnh chính trị” có lẽ đơn
giản hơn. Người có ý thức chính trị là người hiểu rằng “chính trị là quá trình ra quyết định và thực thi quyết định đó trong một nhóm, một cộng đồng, một xã hội, một quốc gia”, nó có ảnh hưởng tới tất cả mọi người và đấy là lý do để tất cả nên có sự quan tâm, tìm hiểu ở mức cần thiết đến chính trị, đến các vấn đề chung của nhóm, cộng đồng, xã hội hay quốc gia đó.
Bất cứ khi nào bạn đặt ra và/hoặc tìm cách trả lời chỉ một trong các câu hỏi sau đây, là khi đó bạn đã có ý thức chính trị:
- Tại sao một số người bạn yêu quý, bạn nể phục, lại không ở vị trí lãnh đạo “cho thiên hạ nhờ”? (trong công ty, trong tổ chức của bạn, cũng như trong một ngành nghề nào đấy – ví dụ bạn có ông chú là một vị bác sĩ rất có tâm, có tài, chẳng nhẽ không thể để chú làm Bộ trưởng Y tế thay Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến?)
- Nếu bạn muốn đưa những người đó lên vị trí lãnh đạo thì bạn cần làm gì?
- Bạn không muốn học môn kinh tế chính trị Mác-Lenin, hoặc ngược lại, muốn học kỹ hơn, đầy đủ hơn, thì phải làm thế nào?
- Các ý kiến, đề xuất của bạn ở lớp, ở trường, cơ quan, công ty, NGO của bạn... có kết quả gì không?
- v.v.
Chỉ cần đặt ra một trong số câu hỏi như thế, là bạn đã có ý thức chính trị rồi. Ý thức chính trị sẽ là cao nhất khi bạn tự hỏi: Mình muốn sống trong một tập thể/ cộng đồng/ xã hội/ đất nước như thế nào, và mình sẽ làm gì để đạt được điều đó?
SỰ VÔ CẢM ĐẾN TỪ ĐÂU?
Paulo Freire (1921-1997) – nhà giáo dục nổi tiếng người Brazil, tác giả của cuốn sách sư phạm rất có ảnh hưởng ở Thế giới thứ ba “Pedagogy of the Oppressed” (tạm dịch: Giáo dục dành cho người bị áp bức, xuất bản lần đầu năm 1970) – cho rằng con người có những nhu cầu căn bản về vật chất và tâm lý-xã hội: Phàm là người
thì ai cũng có nhu cầu ăn ngủ, có chỗ ở, được chăm sóc sức khoẻ 
chữa bệnh, được an toàn, được bảo vệ bởi pháp luật và lực lượng công quyền đáng tin cậy, được sống với người mình yêu, được thuộc về một cộng đồng, được mang bản sắc của một dân tộc, được làm việc và chăm lo cho gia đình, được tôn trọng, được giáo dục và được có các cơ hội để phát triển năng lực của mình. Paulo Freire tin rằng, nếu các nhu cầu căn bản đó không được đáp ứng, thì kết cục tất yếu là những căn bệnh tập thể, bệnh của cộng đồng sẽ xuất hiện, phổ biến nhất là bạo lực, sự vô cảm, ma túy và rượu. Ông viết: “Không ai có thể đáp ứng tất cả nhu cầu của mình. Chỉ khi nào ở trong một cộng đồng, được sự hỗ trợ của những người khác, chúng ta mới có thể thỏa mãn các nhu cầu của chúng ta. Những tôn giáo tốt đẹp, những chính quyền tốt đẹp, thì đều chú tâm đến việc xây dựng một xã hội như thế”. Ông khẳng định: “Vô cảm không phải là trạng thái tự nhiên của con người. Trạng thái tự nhiên luôn là hướng tới đáp ứng các nhu cầu của mọi người khác. Chỉ khi các nỗ lực đó liên tục bị ngăn trở, người ta mới rơi vào trạng thái vô cảm”. Sự vô cảm được hình thành như vậy. Và Paulo Freire bảo rằng, nếu chính quyền thất bại trong việc tạo điều kiện cho người dân – ở bất kỳ bộ phận nào trong xã hội – thỏa mãn được nhu cầu căn bản, thì điều đó sẽ tác động ngược trở lại cả xã hội, và gây thiệt hại về dài hạn. “Một xu chi ngày hôm nay vào nhu cầu của người dân, sẽ tiết kiệm được 10 USD phải chi ngày mai vào công an, cảnh sát, nhà tù, các chương trình phục hồi nhân phẩm”. Vô cảm là hệ quả tất yếu của một nền chính trị xấu, một nền chính trị đã bị mất đi vẻ đẹp của nó.

VÀ CÙNG VỚI SỰ VÔ CẢM LÀ...
Khi người dân của một quốc gia phải sống nhiều năm trong tình trạng bị một thiểu số kiểm soát, chi phối lâu dài về chính trị, kinhtế, xã hội, văn hoá, v.v..., suy nghĩ của họ dần dần bị định hình, khiến họ tin tưởng vào sự ưu việt của thiểu số đó. Họ có xu hướng nghĩ rằng thiểu số ấy luôn đúng đắn, sáng suốt, ngoài ra thì không còn gương mặt nào sáng giá để lãnh đạo xã hội cả; các lực lượng khác đều dở tệ, không có khả năng thay thế đội ngũ lãnh đạo hiện nay.
Nói chung, họ không được khuyến khích tư duy, trong khi lại luôn được khuyến khích (và bản thân họ cũng khuyên lẫn nhau) là nên sống đơn giản, vui vẻ, còn những vấn đề “vĩ mô” thì đã có một thiểu số lo – nhóm thiểu số này thay mặt toàn dân điều hành đất nước, ra các chính sách có ảnh hưởng đến cả nước, trong đó có cả phần lợi ích của chính những người tự cho là mình đang sống đơn
giản, vui vẻ.
Cùng trong quá trình ấy, bản thân nhóm thiểu số lãnh đạo cũng được định hình tư duy để tin rằng họ là giới tinh hoa, họ cao hơn các nhóm khác, họ cao hơn dân một bậc, và tóm lại, họ là lãnh đạo.
Những việc mỗi cá nhân gọi là “dân” ấy làm chỉ ảnh hưởng tới cá nhân đó, nhiều hơn thì đến nồi cơm gia đình của ông/bà ta, cùng lắm là đến cơ quan, công sở của ông/bà thôi. Chứ còn những việc lớn, trọng đại, có ảnh hưởng tới toàn xã hội, đòi hỏi tầm vóc chiến lược, trí tuệ sáng suốt, phải là việc lãnh đạo đang làm đây này. Mà vì làm việc lớn, quan trọng, cho nên họ nghiễm nhiên cho rằng họ phải được “tạo điều kiện” hơn dân: Cái này trong tiếng Việt gọi là “có tiêu chuẩn”, ví dụ có tiêu chuẩn nhà riêng, xe riêng, thậm chí chuyên cơ.
Và như vậy, cùng với trạng thái vô cảm của dân, là sự tự kiêu ngày càng lớn của chính quyền.
Bạn hãy nhìn vào bức ảnh trên, được chụp tại Hội trường Bộ Quốc phòng. Đây cũng là nơi tổ chức một số kỳ họp Quốc hội và nhiều cuộc họp quan trọng khác của đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Tấm biển “Đề nghị các đồng chí không để rơi đồ vật xuống tầng 1” này được đặt ở tầng 2 trong phòng hội trường; nó chứng tỏ đã từng có nhiều đồng chí đánh rơi cốc chén, điện thoại di động... xuống đầu các đồng chí khác ngồi phía dưới.
Hãy xem ảnh và tự hỏi, vì lý do gì mà bạn nghĩ lãnh đạo là phải ở một tầm khác, cao hơn hẳn bạn và những người dân thường?
CHỮA BỆNH VÔ CẢM
Như Paulo Freire đã nói, thực chất vô cảm là một dạng bệnh của cộng đồng (cùng với bạo lực, ma túy và rượu chè). Nhưng ông cũng nhấn mạnh với chúng ta rằng bệnh ấy có ở nhiều xã hội, và chúng ta không nên tiếp tục công kích những cá nhân vô cảm – vốn cũng chỉ là “nạn nhân của áp chế và bóc lột” – vì những biểu hiện đó của họ.
Ông khuyên những người có tinh thần cộng đồng, muốn đấu tranh với bệnh vô cảm thì phải tạo đủ sức mạnh và niềm tin để đi xuyên qua sự vô cảm và khuyến khích các động lực trong cộng đồng. “Hãy giúp mọi người tìm ra những niềm hy vọng mới, hãy tạo ra nguồn năng lượng mới, để cùng nhau vượt qua bệnh vô cảm”.
Còn bạn, nếu bạn vẫn quyết tâm “không quan tâm đến chính trị”, thì chỉ xin bạn nhớ: Bạn có quyền như thế, nhưng điều đó không tốt cho cả bạn lẫn cộng đồng.
Chương II
HOẠT ĐỘNG CHÍNH TRỊ

Có rất nhiều hoạt động mà bạn – người dân – có thể tiến hành để tác động tới nhà nước và các chính sách, hay nói cách khác, có rất nhiều hình thức hoạt động chính trị. Dưới đây là một số hoạt động phổ biến nhất trên thế giới 1
VẬN ĐỘNG HÀNH LANG
Vận động hành lang, gọi tắt là vận động, là việc tác động lên quá trình hoạch định chính sách bằng cách gặp gỡ, tiếp xúc, cung cấp thông tin, thuyết phục. Đối tượng của công việc này (trả lời câu hỏi “vận động ai?) là các quan chức hành pháp (như thủ tướng, bộ trưởng), các nghị sĩ, dân biểu – tức người của cơ quan lập pháp.
Chủ thể của công việc này (trả lời câu hỏi “ai vận động?”) là các cá nhân, các tổ chức, đảng phái, tức các nhóm lợi ích.
Có thể vận động qua các kênh nào? Câu trả lời là: Thông qua tất cả các kênh tiếp xúc họ với chính quyền:
Các cơ quan hành chính
Quốc hội
Tòa án
Các đảng
1. “Governing: An Introduction to Political Science”, Austin Ranney, 8th edition, Prentice Hall.
Các kênh truyền thông
Các cơ quan, tổ chức quốc tế v.v...
Vài năm gần đây, trong ngôn ngữ chính trị của Việt Nam xuất hiện một số từ mới như “vận động hành lang”, “vận động chính sách”, dịch từ tiếng Anh “lobby” và “policy advocacy”, gọi chung là “vận động”. Đó là việc một cá nhân, hoặc một nhóm lợi ích có tổ chức, tác động lên quá trình hoạch định chính sách để chính sách được ban hành theo ý họ, bằng cách gặp gỡ trao đổi, thuyết phục, hối lộ người làm chính sách. Ví dụ bạn mời sếp đi nhậu, hoặc đến nhà sếp biếu vợ sếp mảnh khăn kết hợp với cái phong bì, để nhờ sếp hạ thấp tiêu chuẩn cho chức vụ trưởng/phó phòng... đều là vận động cả.
Trên bình diện quốc gia, người làm chính sách có thể là quan chức chính phủ, nghị sĩ, dân biểu (ở ta gọi là “đại biểu Quốc hội”), và cả tòa án. Riêng ở Việt Nam, đối tượng làm chính sách bao gồm một lực lượng tối quan trọng là lãnh đạo các cơ quan Đảng – tức các cơ quan của đảng Cộng sản Việt Nam – từ Trung ương đến địa phương. Tại sao lại gọi là “vận động hành lang”? Từ “lobby” tiếng Anh có nghĩa là “hành lang”. Theo một giả thuyết phổ biến, khái niệm vận động hành lang bắt nguồn từ cái hành lang khách sạn Willard ở Washington D.C., nơi mà Tổng thống Mỹ Ulysees S. Grant (1822- 1885, tại vị từ 1869 đến 1877) thường đứng hút xì gà và uống brandy. Biết được thói quen đó của ông nên nhiều người thường tìm đến nơi này để tiếp cận, mời ông “trà thuốc” và tranh thủ thuyết phục, vận động Tổng thống. Nhưng cũng có những ý kiến phản bác giả thuyết này, cho rằng từ “vận động hành lang” đã xuất hiện rất lâu trước khi Grant làm Tổng thống Mỹ.
Vận động là một hoạt động chính đáng, hợp pháp và cần thiết. Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết để nó chính đáng, hợp pháp, là vận động phải đảm bảo công khai, minh bạch. Và công khai, minh bạch những nội dung gì, hình thức vận động cụ thể phải như thế nào, đến ngưỡng nào thì vận động trở thành hối lộ, tham nhũng và bị coi là bất hợp pháp, v.v... là do luật pháp của quốc gia quy định.
Vận động hành lang, nếu không có luật, không có sự công khai minh bạch, thì sẽ trở thành “đi đêm”, “hối lộ”, “móc ngoặc”, “tham nhũng chính sách” như ở Việt Nam.
Về phần mình, nếu bạn (hoặc nhóm lợi ích của bạn, nếu có) muốn vận động thành công thì điều kiện tiên quyết là bạn phải có khả năng “tiếp cận đối tượng hoạch định chính sách” hoặc phải biết sử dụng người có khả năng làm việc đó. Tóm lại là biết “đi đúng cửa, dùng đúng người” – chuyện này thì ở nước nào cũng vậy.
VẬN ĐỘNG QUỐC TẾ
Từ tháng 7/2013, với sự ra đời của một tổ chức nhân quyền có tên Mạng Lưới Blogger Việt Nam 1, trong các hoạt động chính trị của người dân Việt Nam xuất hiện một hình thức mới, về bản chất cũng là vận động hành lang nhưng là vận động quốc tế. Đó là khi các blogger Việt Nam đến đại sứ quán của một số nước để đưa bản Tuyên bố 258, với nội dung yêu cầu Nhà nước Việt Nam xóa bỏ hoặc sửa đổi Điều 258 Bộ luật Hình sự, quy định về tội “lạm dụng các quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.
Những năm trước đó, kể từ sau năm 1975 khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam thống nhất, cũng đã có nhiều cá nhân và tổ chức tiến hành vận động quốc tế cho nhân quyền ở Việt Nam, như nhà thơ, nhà báo Võ Văn Ái, bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Khối 8406... Tuy nhiên, hoạt động của họ chủ yếu diễn ra ở nước ngoài, về sau này là trên mạng Internet, nếu ở Việt Nam thì cũng nhỏ lẻ, không có tổ chức. Có thể coi Mạng Lưới Blogger Việt Nam và phong trào “Tuyên bố 258” chống Điều 258 Bộ luật Hình sự là nỗ lực có tổ chức đầu tiên của các nhà hoạt động ở trong nước nhằm vận động 1. Mạng Lưới Blogger Việt Nam được tuyên bố thành lập chính thức vào Ngày Nhân quyền Quốc tế (10/12) năm 2013. Tuyên bố 258 được công bố trên Internet vào 8h tối giờ Hà Nội, ngày 18/7/2013, và đã được Mạng Lưới Blogger Việt Nam đưa đến các đại sứ quán Mỹ, Thụy Điển, Đức, Phái đoàn EU, Úc tại Hà Nội, văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc tại Bangkok (Thái Lan). cho dân chủ-nhân quyền ở Việt Nam, mà đối tượng họ hướng tới là cộng đồng quốc tế, cho nên đây là vận động quốc tế.
Tiếp nối phong trào chống Điều 258 mà Mạng Lưới Blogger Việt Nam lập nên, các tổ chức xã hội dân sự độc lập khác trong lĩnh vực nhân quyền, như Hội Phụ nữ Nhân quyền, Hội Anh Em Dân chủ, cũng bắt đầu tìm đến đại sứ quán của các nước phương Tây ở Việt Nam để vận động quốc tế.
Vận động cụ thể nội dung gì? Các cá nhân và tổ chức nhân 
quyền ở Việt Nam, khi đi vận động quốc tế, đều có những mục đích và nội dung riêng. Tuy nhiên, tinh thần chung của họ là thông qua các đại sứ quán, đề nghị chính phủ các nước phương Tây gây sức ép qua con đường ngoại giao để buộc Chính phủ CHXHCN Việt Nam phải tôn trọng nhân quyền của người dân. Cũng có trường hợp mục đích và nội dung hết sức cụ thể và mang tính cá nhân cao: cứu người. Đó là trường hợp thân nhân các tử tù Nguyễn Văn Chưởng, Hồ Duy Hải, Lê Văn Mạnh tìm đến các đại sứ quán để kêu oan cho người bị kết án tử hình oan, thậm chí có lần phải vận động xin sứ quán liên hệ gấp với phía Việt Nam để kịp ngăn chặn việc hành quyết. Thân nhân tử tù Lê Văn Mạnh, luật sư Trần Vũ Hải, và các nhà hoạt động Mai Phương Thảo, Phạm Lê Vương Các, Trịnh Anh Tuấn tại cuộc họp với Phái đoàn Liên minh châu Âu và một loạt đại sứ quán phương Tây ở Hà Nội về vụ án Lê Văn Mạnh, ngày 10/11/2015. Ảnh: Hoàng Thành. Tháng 1/2014, lần đầu tiên, một phái đoàn gồm đại diện của sáu tổ chức xã hội dân sự độc lập ở Việt Nam bắt đầu chiến dịch vận động cho nhân quyền Việt Nam tại Mỹ và châu Âu. Phái đoàn gồm đại diện các tổ chức No-U Việt Nam, Mạng Lưới Blogger Việt Nam, Dân Làm Báo, Phật giáo Hòa Hảo Truyền thống, Con Đường Việt Nam, và VOICE. Đây chính là đợt vận động quốc tế đầu tiên, ở bên ngoài Việt Nam, có tổ chức và quy mô lớn, của các nhà hoạt động dân chủ-nhân quyền Việt Nam kể từ sau năm 1975. Xin nhấn mạnh để bạn không nhầm lẫn, rằng phần trên đây đang kể về những nỗ lực vận động quốc tế cho dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, của các cá nhân và tổ chức hoạt động xã hội dân sự độc lập. Còn nếu nói về vận động quốc tế nói chung thì đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đã thực hiện từ rất lâu rồi. Việc Thụy Điển là nước phương Tây đầu tiên thiết lập quan hệ với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1969), hay Liên Hợp Quốc công nhận tư cách thành viên của Việt Nam (1977) chẳng hạn, đều phải là kết quả của những nỗ lực vận động quốc tế ráo riết, mà tài liệu của tuyên giáo hay gọi là “tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế và dư luận tiến bộ trên thế giới”.

HOẠT ĐỘNG ĐẢNG PHÁI
Vận động là hình thức hoạt động chính trị mà một cá nhân – như bạn – cũng có thể làm. Nhưng tất nhiên, nó sẽ hiệu quả hơn nếu bạn có tổ chức. Một tiếng nói đơn lẻ khó mà có sức mạnh như nhiều tiếng nói cùng kết hợp một cách có tổ chức.
Cho nên hoạt động chính trị gắn với tổ chức, đảng phái là vì thế.
Hoạt động đảng phái là ít nhất một trong các hoạt động sau:
- Thành lập đảng/ tổ chức chính trị mới;
- Gia nhập đảng/ tổ chức chính trị hiện hành;
- Các hoạt động nhằm mở rộng và phát triển đảng/ tổ chức chính trị, ví dụ tìm kiếm và thu hút thêm thành viên mới, đào tạo để nâng cao chất lượng nhân sự;
- Tranh cử với tư cách người của đảng/ tổ chức chính trị;
- Đưa người của đảng/ tổ chức chính trị vào các chức vụ trong chính quyền;
- Có các hoạt động để đảng của mình giành và giữ được chức vụ trong chính quyền, đồng thời thực thi quyền lực có được từ chức vụ đó.
Chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn về đảng phái và tổ chức chính trị ở Phần V, “Tương tác chính trị”. Còn ở đây, bạn chỉ cần nhớ rằng đảng phái là các tổ chức làm chính trị một cách chuyên nghiệp, và sẽ tốt hơn, hiệu quả hơn rất nhiều nếu bạn làm chính trị thông qua hoạt động đảng phái, thay vì độc lập hay là lẻ loi, một mình.
LÀM TRUYỀN THÔNG
Truyền thông được hiểu đơn giản là “truyền tải thông tin”, nghĩa là việc một cá nhân/tổ chức truyền tải thông tin (dưới các hình thức ngôn ngữ, hình ảnh, âm thanh, tín hiệu) cho một/các cá nhân/tổ chức khác biết. Nó cũng có thể được phân loại thành truyền thông cá nhân – thông qua tiếp xúc trực tiếp giữa người với người như trò chuyện hoặc sử dụng thư tín, điện thoại; và truyền thông đại chúng – truyền tải thông tin đến một lượng lớn khán/thính/độc giả nhưng không tiếp xúc trực tiếp với họ. Báo chí, xuất bản, truyền hình-phát thanh, điện ảnh, Internet đều là các phương tiện truyền thông đại chúng.
Với cách hiểu theo nghĩa rộng – hoạt động chính trị là tất cả những gì bạn làm để tạo áp lực lên một cá nhân, một cơ quan, một tổ chức, nhằm gây ảnh hưởng, thuyết phục, khiến họ hành động như ý bạn muốn – bạn có thể thấy là làm truyền thông đương nhiên cũng là một hình thức hoạt động chính trị.
Các tổ chức, nhóm, hội, đảng phái đều có thể hoặc lập đội ngũ truyền thông riêng của mình (ví dụ báo Nhân Dân là cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Việt Nam); có thể gây tác động lên giới truyền thông, thông qua truyền thông để thuyết phục dư luận theo ý mình muốn. Dư luận ở đây bao gồm toàn bộ phần còn lại của xã hội: người dân, quan chức, nhà hoạch định chính sách, v.v...
Năm 2012, khi các blogger, facebooker đến những điểm nóng về đất đai như Tiên Lãng, Văn Giang, để viết bài, phỏng vấn, chụp ảnh tung lên mạng, họ gọi hành động đó đơn giản là “làm truyền thông”. Nhưng khi đó, chính là họ đang tác động để dư luận hiểu các khía cạnh khác của sự việc – nhất là những phần mà hệ thống báo chí quốc doanh không, chưa hoặc ngại đề cập. Công việc ấy của họ thực chất là một hình thức “hoạt động chính trị”. Có rất nhiều hoạt động để làm truyền thông, mà viết blog chỉ là một trong số đó. Ví dụ:
- Ra báo, mở đài
- Viết báo, viết sách
- Tổ chức hội nghị, hội thảo
- Diễn thuyết
- Quảng cáo
- v.v...
KHIẾU KIỆN
Khiếu kiện là sử dụng con đường pháp lý để buộc một cá nhân/ tổ 
chức nào đó phải làm hoặc chấm dứt làm một việc gì đó. Cụ thể, khiếu kiện (khiếu nại và kiện) là việc một cá nhân/ tổ chức yêu cầu cơ quan hành chính (trong trường hợp khiếu nại) hoặc tòa án (trong trường hợp khởi kiện) buộc một cá nhân/ tổ chức khác phải làm, hoặc ngừng làm, điều gì đó. Đối chiếu với cách hiểu về chính trị theo nghĩa rộng, ta sẽ thấy khiếu kiện cũng là hành động chính trị. Quốc gia vô địch về việc người dân tham gia chính trị bằng cách kiện có lẽ là Mỹ. Tại đây, chuyện một công dân đâm đơn kiện quan chức chính quyền hoặc công dân khác xâm hại quyền lợi của mình là “chuyện thường ngày ở huyện”. Hàng xóm không chăm sóc vườn, để cây leo mọc tràn lan sang vườn nhà mình: kiện. Đi xin việc, công ty tuyển dụng ưu tiên người ngoại hình đẹp và mình trượt: kiện. Uống cốc café nóng bị bỏng: kiện. Để tăng khả năng thắng kiện thì phải thuê luật sư, kết quả là nước Mỹ có mật độ luật sư trên đầu người cao nhất thế giới. Điều này đã khơi nguồn cho nhiều chuyện cười ở Mỹ và về Mỹ, như là quốc gia đầy một bọn ăn không ngồi rồi, rảnh rỗi sinh ra đâm bị thóc chọc bị gạo v.v... Nhưng nhìn từ góc độ chính trị, quản lý xã hội, thì sẽ thấy đó là biểu hiện của việc người Mỹ tin vào luật pháp, luôn có ý thức sử dụng luật pháp làm công cụ giải quyết mâu thuẫn và bảo vệ quyền lợi của mình. Trong văn hóa chính trị Mỹ, không có khái niệm “vô phúc đáo tụng đình” – nghĩa là vô phúc thì mới phải đến chỗ xử kiện, ra tòa, tóm lại là “đến cửa quan” – như ở nước ta.

BIỂU TÌNH
Biểu tình hiểu nôm na là “biểu hiện tình cảm” (tiếng Anh, biểu tình là “demonstrate”, cũng có nghĩa là thể hiện, bày tỏ, hoặc chứng minh). Cụ thể hơn, biểu tình là một hành động chính trị trong đó nhiều người tham gia cùng nhau thể hiện một chính kiến, ví dụ bày tỏ sự ủng hộ hoặc phản đối một cá nhân/ tổ chức/ sự việc nào đó. Hành động tập thể của họ có thể được thực hiện bằng việc tuần hành (đi bộ), đạp xe hoặc sử dụng phương tiện giao thông khác. Có thể kết hợp với gây tiếng động: gọi loa, gõ trống, khua chiêng, thổi kèn, kéo đàn, hô khẩu hiệu, hát, diễn kịch hay là hoạt cảnh.
Trong nhiều cuộc biểu tình ở nước ngoài, người ta còn đốt cả ảnh, hình nộm của quan chức. Biểu tình thường bắt đầu và/ hoặc kết thúc bằng một cuộc tụ tập tại một địa điểm nhất định, tại đây người
ta cùng đọc và nghe diễn văn, tuyên cáo, tuyên bố, v.v...
Biểu tình không nhất thiết phải tuần hành và chỉ tuần hành, nói cách khác, người biểu tình không nhất thiết phải di chuyển mà có thể ở yên một chỗ – đứng, ngồi hoặc thậm chí nằm. Phong tỏa đường đi lối lại, chiếm trụ sở, và ngồi bệt (tọa kháng) cũng được coi là biểu tình; trường hợp sau được gọi là “biểu tình ngồi”.
Ví dụ: Để phản đối chính quyền Trung Quốc tham lam, ưa gây hấn và bắt nạt các quốc gia nhỏ yếu, hoặc để phản đối chính sách đối ngoại thiếu minh bạch và thiếu nhất quán của Nhà nước CHXHCN Việt Nam trong vấn đề Biển Đông, một nhóm công dân ở Hà Nội có thể tuần hành đến Đại sứ quán Trung Quốc hoặc Bộ Ngoại giao, tụ tập trước cổng các cơ quan này, tổ chức mít-tinh, ra thông cáo, đọc diễn văn, v.v...
Biểu tình có thể là phi bạo lực hoặc bạo lực, hoặc lúc đầu thì ôn hòa nhưng về sau lại nảy sinh bạo lực – giữa công an, cảnh sát với những người tuần hành, hoặc giữa chính những người tham gia với nhau, ví dụ nhóm ủng hộ mâu thuẫn, đánh nhau với nhóm phản đối. Cho nên, luật pháp ở các quốc gia đa phần đều loại bỏ bạo lực, chỉ chấp nhận biểu tình ôn hòa; và sự hiện diện của lực lượng công an, cảnh sát chỉ là để ngăn chặn bạo lực xảy ra.
Một cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội, sáng chủ nhật 9/12/2012.
Với những hành động được chấp nhận (tuần hành, hô khẩu hiệu, hát, v.v...), các bạn có thể thấy ngay là không cuộc biểu tình nào lại không mang tính chất “gây rối trật tự công cộng” ở một mức độ nào đó. Nói cách khác, đã là biểu tình thì phải tạo chú ý, mà đã tạo chú ý thì những người biểu tình không thể không làm ồn; chưa nói đã là một cuộc tụ tập nơi công cộng thì đương nhiên phải có tổ chức. Lấy lý do “gây rối trật tự công cộng” để giải tán biểu tình chỉ là một chiêu bài để đàn áp quyền tự do tụ tập ôn hòa và tự do thể hiện chính kiến ôn hòa (còn được gọi là “tự do biểu đạt”) của người dân.
ĐÌNH CÔNG
Đình công là việc người lao động trong một doanh nghiệp hay một ngành nghề nào đấy đồng loạt ngừng làm việc để gây sức ép lên giới chủ hoặc lên chính quyền.
Theo nghĩa nguyên thủy của nó, đình công chỉ giới hạn trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, khi những người làm công tổ chức ngừng làm việc trên quy mô tập thể để phản đối hoặc ra yêu sách nào đó với giới chủ: tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện điều kiện vệ sinh, an toàn lao động, v.v. Tuy nhiên, trên thực tế, đã có khi đình công vươn ra ngoài quan hệ giữa người lao động và giới chủvà dẫn đến thay đổi trong chính sách của nhà nước, thậm chí thay đổi chính thể. Ví dụ đáng nhớ nhất là những cuộc đình công của phong trào Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan những năm 1980.
TẨY CHAY
Tẩy chay là việc một số người/ nhóm (tức là cá nhân hoặc tổ chức) từ chối giao thiệp, giao dịch với một đối tượng nào đó, hoặc từ chối mua bán, sử dụng hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp mà họ cho là xấu, phi đạo đức, có sai phạm... như bán hàng giả hàng rởm, gây ô nhiễm môi trường, bóc lột lao động, đối xử thô lỗ và từng lăng mạ khách hàng, v.v... Mục đích của tẩy chay là để trừng phạt hoặc để gây sức ép lên cá nhân, tổ chức nào đó, buộc họ phải thay đổi.
Năm 1955, người Mỹ gốc Phi tẩy chay toàn bộ xe buýt ở Montegomery (bang Alabama). Cuộc tẩy chay bắt đầu vào ngày 5/12/1955, đúng vào ngày mà Rosa Parks, một phụ nữ da đen, phải ra tòa vì đã từ chối nhường chỗ ngồi trên xe buýt cho hành khách da trắng theo sự sắp xếp của tài xế. Trong phiên tòa đó, Rosa Parks bị xử thua và bị phạt 20 đôla, cùng với án phí 4 đôla. Tuy nhiên, bà kháng án, trong khi đó, người Mỹ gốc Phi tổ chức tẩy chay xe buýt để phản đối chính sách phân biệt chủng tộc trên phương tiện giao thông công cộng.
Cuộc tẩy chay kéo dài 381 ngày. Nó chỉ chính thức chấm dứt vào ngày 20/12/1956, hơn một tháng sau khi Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ ra phán quyết rằng phân biệt đối xử trên xe buýt và các phương tiện giao thông công cộng khác là vi hiến. Đây là một thắng lợi rực rỡ của phong trào đấu tranh vì quyền dân sự của người Mỹ gốc Phi.
Chuyện tẩy chay giờ đây không còn là mới mẻ trong nền kinh tế toàn cầu hóa. Ví dụ, ở Hàn Quốc từng có phong trào tẩy chay thịt bò Mỹ (năm 2008), còn tại Trung Quốc, khi tranh chấp biển đảo với Nhật Bản leo thang, nhiều hiệu sách Bắc Kinh đã ngừng bán các ấn phẩm của Nhật. Tương tự, doanh nghiệp xuất khẩu chuối Philippines khốn đốn khi đối tác Trung Quốc đồng loạt từ chối nhập khẩu để trả đũa Philippines trong tranh chấp chủ quyền.
Ngay sau sự cố này, cơ quan xúc tiến thương mại của Philippines đã phải tính đến khả năng tìm kiếm, mở rộng thị trường hoa quả ở các nước khác, như châu Âu.
Tại Việt Nam, vào năm 1919, từng có phong trào “tẩy chay các chú”, tức là tẩy chay các chú khách (doanh nhân Hoa kiều). Tinh thần chung là “người Việt Nam buôn bán với nhau, không mua hàng của Hoa kiều”. Có tài liệu nói rằng phong trào được sự hưởng ứng của cả giới doanh thương lẫn sinh viên, viên chức tại Hà Nội,
Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định... 89 năm sau, vào năm 2008, với sự cố Vedan xả nước “giết” sông Thị Vải, một chiến dịch tẩy chay đã nổi lên, khởi đầu từ những lời kêu gọi trên mạng Internet. Nhiều siêu thị lớn tại Hà Nội và TP.HCM đồng loạt ngừng phân phối sản phẩm bột ngọt Vedan. Cuối cùng, doanh nghiệp này đã chấp nhận thương lượng bồi thường cho nông dân địa phương.

Vào ngày 27/1/2015, ông Võ Văn Minh, 35 tuổi, một chủ quán bún tại Tiền Giang, bị công an bắt trong vụ “con ruồi Tân Hiệp Phát”. Theo cáo trạng, trước đó ông Minh đã phát hiện một chai nước Number One của Tân Hiệp Phát có con ruồi bên trong, ông gọi cho Tân Hiệp Phát yêu cầu họ trả tiền (1 tỉ đồng) để đổi lấy sự im lặng. Tân Hiệp Phát đồng ý giao tiền, đồng thời bí mật báo công an. Khi ông Võ Văn Minh đến lấy tiền thì bị bắt tại chỗ, ông bị giam từ đó và đối diện mức án 20 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.
Ngày 1/2/2015, ra đời trang facebook Tẩy chay Tân Hiệp Phát, thu hút 26.000 thành viên chỉ trong một tuần, kịch liệt lên án cách xử lý khủng hoảng yếu kém và đạo đức kinh doanh tồi tệ của Tân Hiệp Phát: Gài bẫy, đẩy người tiêu dùng - khách hàng của mình - vào tù ngục. Trước khi bị đánh sập hoàn toàn vào ngày 8/8/2015 (nhiều khả năng do phản công từ Tân Hiệp Phát), trong vòng sáu tháng tồn tại, nó đã có hàng chục nghìn độc giả; nhiều bài đăng đạt tới 20.000 like. “Tẩy chay Tân Hiệp Phát” trở thành một mẫu mực của việc người tiêu dùng trong thời đại Internet, với sự hỗ trợ của mạng xã hội, sử dụng quyền lực vốn bị lãng quên của mình đối với doanh nghiệp và thể hiện sức mạnh khủng khiếp.
Ngày 18/12/2015, Tòa án Nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm vụ “con ruồi trong chai Dr. Thanh của Tân Hiệp Phát”, tuyên phạt ông Võ Văn Minh 7 năm tù vì tội “cưỡng đoạt tài sản”. Ngày 08/9/2016, Tòa án Nhân dân cấp cao xử phúc thẩm, tuyên y án.
Tuy nhiên, nói chung, tẩy chay rất hiếm xảy ra ở Việt Nam dưới thời cộng sản. Có lẽ do những người tiêu dùng xuất thân từ thời bao cấp đói khổ, hàng hóa khan hiếm, có xu hướng dễ dàng chịu đựng và chấp nhận doanh nghiệp, sản phẩm, dịch vụ chất lượng tồi, với tâm lý “có mà dùng là tốt rồi”. Các hàng “phở quát, cháo chửi” khét tiếng ở thủ đô Hà Nội chẳng hạn, chưa bao giờ họ nghĩ đến khả năng bị tẩy chay.
BẤT TUÂN DÂN SỰ
Là việc cố ý không chấp hành một đạo luật hay quy định nào đó của chính quyền, chấp nhận bị xử lý, đàn áp, nhằm gây tác động lên chính quyền.
Vào những năm đấu tranh giành độc lập cho Ấn Độ, nhà hoạt động nổi tiếng, người mà toàn dân Ấn Độ tôn xưng là “Thánh” – Mahatma Gandhi (1869-1948) – đã phát triển một phương pháp đấu tranh mà ông gọi là “bất tuân dân sự phi bạo lực” (tiếng Anh: nonviolent civil disobedience, tiếng Ấn: satyagraha). Đây là một hình thức hoạt động chính trị theo đó, người dân từ chối tuân thủ luật pháp của nhà cầm quyền để tỏ thái độ phản kháng và buộc chính quyền phải thay đổi chính sách hay một đạo luật cụ thể nào đó; sự bất tuân này hoàn toàn ôn hòa, không sử dụng vũ lực.
Các biểu hiện của bất tuân dân sự khá đa dạng, tùy sự sáng tạo của người tiến hành. Như các bạn có thể đã thấy, nó bao gồm cả đình công, tẩy chay, biểu tình. Còn có việc bất hợp tác với cơ quan chính quyền, chẳng hạn, bằng cách nhất định không tuân theo đạo luật hoặc chính sách mà mình phản đối. Ở phần trên bạn đã nghe nói đến Rosa Parks (1913-2005), người phụ nữ nổi tiếng của phong trào đòi quyền cho người da đen ở Mỹ. Bà đã thể hiện sự bất tuân của mình đối với chính sách phân biệt chủng tộc bằng cách từ chối đứng dậy nhường ghế cho một người da trắng trên xe buýt. Theo luật pháp Mỹ lúc đó thì xe buýt quy định chỗ ngồi riêng cho dân da đen và dân da trắng.
Bản chất của bất tuân dân sự là chống lại những đạo luật, chính sách mà ta cho là bất hợp lý, bất công. Nói cách khác, đã thực hiện bất tuân dân sự, nghĩa là phải có hành vi vi phạm pháp luật. Như ở Việt Nam, gần như chắc chắn nó sẽ đi ngược với đường lối, chủ trương của đảng Cộng sản, và người bất tuân sẽ bị coi là phản động.
Tại Ấn Độ trong những năm tháng giành độc lập, phong trào đấu tranh bất bạo động do Gandhi khởi xướng được hưởng ứng nhiệt liệt: Hàng nghìn người tuần hành, biểu tình ngồi, từ chối đóng thuế (để phản đối luật muối của chính quyền thực dân)... Khi bị cảnh sát đàn áp, họ vẫn nhất quyết giữ tinh thần phi bạo lực:
Không chống cự, chấp nhận vào tù càng đông càng tốt. Mục đích của họ là thu hút chú ý và giành sự ủng hộ của cộng đồng. Cảnh sát càng hành xử tàn bạo thì sự ủng hộ dành cho phong trào bất bạo động càng có khả năng cao hơn.
Tương tự, sự đàn áp của cảnh sát đối với những người phụ nữ đòi quyền bỏ phiếu đầu thế kỷ 20, với những người da đen chống phân biệt chủng tộc thập niên 1960, đã khiến cho ngày càng có thêm dư luận cảm thông và ủng hộ sự nghiệp của những nhà đấu tranh nhân quyền. Làn sóng phản đối chiến tranh Việt Nam hẳn là đã dâng cao ở Mỹ, khi các kênh truyền hình phát đi hình ảnh cảnh sát Mỹ cầm roi vụt tóe máu một người biểu tình.
Thế nhưng, nếu so với Việt Nam, thì ở đây có hai vấn đề: Thứ nhất là vai trò của hệ thống truyền thông (báo chí - truyền hình có được tùy ý lựa chọn thông tin, hình ảnh mà họ muốn sử dụng không?); thứ hai là văn hóa chính trị (tâm lý xã hội có ủng hộ hoặc ít nhất là tôn trọng những người quan tâm đến chính trị không?).
Bạn hãy thử nghĩ về một ví dụ giả tưởng: Nếu Mahatma Gandhi sống ở Việt Nam thời cộng sản và tham gia biểu tình ngồi trước cổng Quốc hội hay Tòa án Nhân dân Tối cao, liệu hình ảnh ông có được phản ánh một cách đẹp đẽ trên truyền hình? Và liệu ông có được đông đảo người dân ủng hộ? Câu trả lời nhiều khả năng sẽ là Không.
Ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản, có nhiều chính sách và đạo luật bất hợp lý hoặc gây tranh cãi, mà nếu ở trong một không gian văn hóa chính trị khác, rất có thể bất tuân dân sự đã xảy ra. Ví dụ như chính sách “toàn dân đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông bằng xe máy”, được cụ thể hóa bằng Nghị quyết 32/2007/NQ-CP ngày 19/6/2007 của Chính phủ. Đây là một chính sách gây tranh cãi. Ở trong một nền văn hóa chính trị khác, bất tuân dân sự hoàn toàn có thể xảy ra khi một nhóm người (ví dụ: những người kinh doanh mũ lưỡi trai, nón lá...) nhất định không đội mũ bảo hiểm khi ra đường, nếu bị công an bắt thì nhất định không nộp phạt, và viết bài, xuất hiện trên báo chí-truyền hình để tỏ thái độ phản đối. Ở Việt Nam thì không. Kể từ ngày 15/12/2007, toàn dân đều chấp nhận đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông bằng xe gắn máy, không một ai dám bất tuân.

Như vậy, có thể thấy bất tuân dân sự chỉ đạt kết quả nếu những người tham gia thu hút được sự chú ý và ủng hộ từ dư luận, mà muốn như thế thì lại cần hai điều kiện: 1. Hệ thống truyền thông (tương đối) độc lập; 2. Văn hóa chính trị chấp nhận sự phản biện, phản kháng đối với chính quyền.
Tất nhiên, cá nhân tác giả tin rằng văn hóa chính trị là cái có thể thay đổi, và cân nhắc đến yếu tố văn hóa chính trị không hề đồng nghĩa với chấp nhận thỏa hiệp và phụ thuộc vào nó. Suy cho cùng, làm chính trị là thực hành khả năng thuyết phục và vận động người khác, khả năng thu phục số đông để thách thức trật tự cũ mà văn hóa chính trị hiện hành là một phần trong đó.
Khi tiến hành đấu tranh bất bạo động, Gandhi có bao giờ bị “một bộ phận dư luận” phản ứng miệt thị không? Chắc là có chứ, nhưng bạn hãy nhớ câu này của ông: “Đầu tiên họ phớt lờ bạn, sau đó họ cười nhạo bạn, sau nữa họ đánh bạn, và rồi bạn chiến thắng”.
SỬ DỤNG BẠO LỰC
Đây cũng là một nhóm hình thức hoạt động chính trị. Nó bao gồm các hành động như: khủng bố; bắt cóc làm con tin; ám sát; nổi loạn, nổi dậy cướp chính quyền; đảo chính; phá hoại cơ sở vật chất (ví dụ: đốt phá nhà xưởng và các công trình công cộng, cướp máy bay); gây chiến tranh, kể cả nội chiến... Những hoạt động này, cho dù có thể bất hợp pháp, vô nhân đạo, nhưng chúng vẫn được tính là hoạt động chính trị, bởi chúng vẫn nhằm mục đích gây ảnh hưởng. Rõ ràng, kể cả gây sợ hãi trên diện rộng, tức là khủng bố, thì cũng là gây ảnh hưởng.
Thế giới ngày nay không ưa bạo lực; dư luận tiến bộ luôn phản đối bạo lực và chỉ khuyến khích những nỗ lực thay đổi một cách ôn hòa thông qua đối thoại, thuyết phục, xem đó như chỉ dấu của một xã hội văn minh. Bạo lực bị lên án gay gắt. Điều đó tất nhiên là đúng trong xã hội hiện đại. Tuy nhiên, trong việc đấu tranh chống độc tài, khi lên án bạo lực, chúng ta cũng chớ nên quên rằng ngay cả Nelson Mandela – người anh hùng đấu tranh cho nhân quyền và bình đẳng – cũng từng có lúc phải theo đuổi con đường bạo lực.
Nelson Mandela không phải tù nhân lương tâm*
Năm 1961, Nelson Mandela đồng sáng lập và trở thành lãnh đạo đầu tiên của Umkhonto we Sizwe (“Ngọn giáo của dân tộc”), còn được gọi là MK, nhánh vũ trang của đảng Đại hội Dân tộc Phi (ANC).
Dưới sự lãnh đạo của Mandela, MK tổ chức một chiến dịch phá hoại nhằm vào chính quyền – khi ấy chính quyền đã vừa tuyên bố Nam Phi là một nước cộng hòa, và rút khỏi Khối Thịnh vượng Chung thuộc Anh.
Tháng 1/1962, Mandela trốn ra nước ngoài để dự một hội nghị của các
nhà lãnh đạo dân tộc Phi ở Ethiopia và theo học một khóa huấn luyện về chiến tranh du kích ở Algeria. Ngày 5/8, gần như ngay sau khi trở về, ông bị bắt giam và sau đó bị kết án 5 năm tù vì tội trốn khỏi đất nước bất hợp pháp và tội kích động một cuộc đình công của công nhân vào năm 1961.
Tháng 7 năm sau đó, cảnh sát bố ráp một nơi trú ẩn của ANC ở Rivonia, ngoại ô Johannesburg, bắt giữ một nhóm lãnh đạo MK gồm cả người da đen và da trắng, đang họp đánh giá kế hoạch tổ chức một cuộc chiến tranh du kích. Bằng chứng tìm được đã chống lại Mandela và các nhà hoạt động khác – tất cả đều bị đưa ra tòa vì tội phá hoại, tội phản quốc và âm mưu kích động bạo lực.
Trước tòa, Nelson Mandela trình bày lý do phải có một sự ly khai dứt khoát khỏi giáo lý ban đầu của đảng ANC: “Sẽ là sai lầm và hão huyền nếu các nhà lãnh đạo châu Phi tiếp tục rao giảng về hòa bình và phi bạo lực vào thời điểm mà chính quyền chỉ đáp trả những yêu cầu ôn hòa của chúng tôi bằng vũ lực. Chỉ khi nào tất cả các cố gắng khác đều đã thất bại hết, khi tất cả các kênh phản đối ôn hòa đều đã bị cấm đoán, thì mới phải quyết định bắt đầu các hình thức bạo lực của đấu tranh chính trị”.
... Điều ít người biết là: Cho đến tận tháng 7/2008, Mandela và các đảng viên ANC vẫn bị hạn chế xuất cảnh đến Hoa Kỳ – ngoại trừ đến trụ sở Liên Hiệp Quốc (ở New York) và nếu được Ngoại trưởng Mỹ cấp giấy phép đặc biệt – vì họ bị quy là khủng bố trong thời kỳ đấu tranh chống chính quyền apartheid (a-pác-thai). Bản thân Nelson Mandela, mặc dù chịu án chung thân và cuối cùng phải ngồi tù tới 27 năm, cũng không được coi là tù nhân lương tâm. (Theo định nghĩa của tổ chức Ân xá Quốc tế, tù nhân lương tâm là những người bị tù chỉ vì đã thực thi một cách ôn hòa quyền tự do biểu đạt của họ, và là người không sử dụng bạo lực hay cổ súy bạo lực, hận thù).
* Trích từ bài “Nelson Mandela – vị luật sư thắp lửa tự do” – Hoàng Kim Phượng, đăng trên Luật Khoa tạp chí ngày 5/11/2014.
Trên đây là một số hoạt động chính trị thường gặp ở các nước trên thế giới. Xin lưu ý bạn đọc, chúng chỉ là “một số”, bởi hoạt động chính trị, theo nghĩa là “gây ảnh hưởng”, là rất rộng và có vô số cách thực hiện.
Bài đọc
VÌ CÁC VỊ ĐỘC TÀI, CHÚNG TÔI MỚI PHẢI ĐI VẬN ĐỘNG QUỐC TẾ CHO NHÂN QUYỀN 1
Ngày 7/8/2013, 5 blogger Nghiêm Việt Anh, Nguyễn Đình Hà, Lê Hồng Phong (nick Lê Thiện Nhân), Nguyễn Thu Trang, Nguyễn Văn Viên (nick Cụ Già Vào Mạng), đã thành công trong việc vượt qua nhiều vòng công quyền thù địch (đúng ra từ “thù địch” phải dành cho cơ quan công quyền mới phải, vì lâu nay công an, dân phòng, dư luận viên chính là lực lượng công khai thể hiện sự thù địch và căm ghét với những người ủng hộ dân chủ), vào được bên trong Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam để trao bản Tuyên bố 258.
Trước đó, chiến dịch 258 đã bắt đầu từ trong nước với việc một nhóm blogger đến gặp Đại sứ quán Mỹ (chiều 24/7 tại Hà Nội), nhưng cuộc gặp này không được thông báo rộng rãi từ trước. Có lẽ vì thế nên các blogger tiếp xúc với tùy viên báo chí của phía Mỹ không mấy khó khăn. Họ không bị an ninh cản trở nhiều như nhóm viếng thăm Đại sứ quán Thụy Điển.
Hàng tốp công an đã đứng vây lấy cổng Sứ quán Thụy Điển từ 7h30 sáng – điều này làm cho chính người chủ nhà và là người tổ chức cuộc gặp, bà Elenore Kanter, cũng phải “choáng”. Khi các blogger chuẩn bị tới nơi, công an ra sức đuổi tất cả các taxi chạy ngang qua khu vực, không cho họ dừng lại. Thậm chí một phụ nữ nước ngoài muốn vẫy taxi cũng không được, đành phải đi bộ ra phía ngoài đường Kim Mã.
1. Bài đã đăng trên blog cá nhân của tác giả vào ngày 07/8/2015. Khi cuộc gặp kết thúc, các blogger định ra về, thì lại thấy an ninh đã chờ sẵn ở cổng với ánh mắt gườm gườm, đầy thù địch. Bên trong Sứ quán lúc đó, chủ nhà (toàn là phụ nữ) lo lắng đến mức cuối cùng họ phải bố trí cho nhóm blogger tạm lánh vào tư gia của bà Elenore Kanter trong khuôn viên khu nhà, chờ cho “các anh” ở ngoài bớt nóng rồi họ sẽ đi tay chân không ra, gửi đồ đạc lại.
Phó Đại sứ Thụy Điển Elenore Kanter (người mặc váy xanh) phải đưa các blogger ra tận cổng để đảm bảo họ được an toàn khi trở về.
Tuyên bố 258 là tiếng nói độc lập từ các blogger yêu cầu chính quyền Việt Nam chấm dứt việc lợi dụng Điều 258 Bộ luật Hình sự để bắt giữ, đàn áp những người có “góc nhìn khác”.
Chiến dịch 258 có thể được coi như nỗ lực chung đầu tiên của các blogger chính trị ở Việt Nam nhằm vận động cho nhân quyền và dân chủ. Đó cũng là lần đầu tiên những người hoạt động dân chủ-nhân quyền Việt Nam công khai tiếp xúc với các cơ quan đại diện ngoại giao (Mỹ, Thụy Điển, Úc, Đức, Phái đoàn EU) và tổ chức nhân quyền quốc tế và khu vực (HRW 1 Freedom House, SEAPA2...) để kêu gọi họ quan tâm đến tình hình nhân quyền và cuộc đấu tranh của các blogger vì dân chủ-nhân quyền cho Việt Nam.
Cũng kể từ đó, “cuộc chiến diệt rận” của đám dư luận viên, 
mà thực chất là chống lại các giá trị dân chủ-nhân quyền, bắt đầu leo thang.

Ngay cả những người không phải là dư luận viên thì sau này, cũng có không ít ý kiến hỏi (hoặc chỉ trích) rằng việc đưa Tuyên bố 258 ra cộng đồng quốc tế có phải là hành động gián điệp, vọng ngoại, “cõng rắn cắn gà nhà”, đem chuyện trong nhà ra nước ngoài tố cáo, trong khi lẽ ra việc của Việt Nam phải do người Việt Nam giải quyết.
Là người tham gia Chiến dịch 258 từ đầu và trực tiếp đưa Tuyên bố 258 tới Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc, tôi xin trả lời những ý kiến trên như sau:
1. Tôi không biết có ai cảm thấy tự hào khi phải phản ánh tình hình vi phạm nhân quyền ở Việt Nam ra thế giới; tôi thì không.
Việc này cũng tương tự như chuyện có thể có một số rất ít nhà báo mong có tai nạn giao thông thảm khốc, cháy, nổ, thiên tai, vụ án giết người... để đưa tin, viết bài, câu view, bán báo... nhưng đại đa số nhà báo không mong muốn phải tác nghiệp về những chuyện như thế.
Là một nhà báo và là một blogger, tôi cũng chỉ ước mình có thể viết, có thể nói những điều tốt đẹp về Việt Nam mà thôi, rằng Việt Nam đẹp lắm, con người Việt Nam dễ thương lắm, chính quyền
1. HRW: Human Rights Watch, tổ chức Giám sát Nhân quyền.
2. SEAPA: Southeast Asian Press Alliance, Liên minh Báo chí Đông Nam Á.
Việt Nam dân chủ và tiến bộ lắm. (Riêng ý thứ ba này thì hơi khó, vì trên cả thế giới, nói chung các bạn dư luận viên sẽ không tìm ra người dân nước nào ca ngợi chính quyền của mình cả - trừ phi các bạn đến Bắc Triều Tiên hay một vài xứ độc tài tương tự).
Khi đã phải nói những sự thật chẳng hay ho gì về nước mình, là khi người ta đau lòng và khổ sở, và cũng đã cảm thấy tuyệt vọng vì không có khả năng thay đổi tình hình.
2. Không ai không hiểu rằng việc của người Việt Nam phải do người Việt Nam giải quyết. Nhưng nếu vậy thì là công dân Việt Nam, chúng ta phải làm gì để thay đổi chính sách?
Hãy chỉ cho tôi cách làm thế nào để vận động chính sách ở Việt Nam mà không phải hối lộ, đút lót, không cần phải là đảng viên cộng sản, không cần có chức quyền, không cần nhờ “Anh Hai, Anh Ba, Anh Tư” nào đó tác động, không phải gửi hàng chục cân kiến nghị/ đề đạt và mòn mỏi chờ đợi phản hồi, để rồi nhận những phản hồi (nếu có) kiểu “chúng tôi đã nhận được thư của ông/bà và đã chuyển tới cơ quan chức năng xem xét giải quyết”, v.v...?
Hãy chỉ ra xem nào.
3. Việc tiếp xúc và phản ánh thông tin đến cộng đồng quốc tế cũng chỉ là một hành động chính trị như vô số hành động chính trị khác (làm truyền thông, tuần hành, biểu tình, khiếu kiện, v.v.).
Và, có vẻ như nó là hành động chính trị đặc thù của người dân ở những xứ sở độc tài. Nếu Việt Nam là một thể chế dân chủ, nơi các quyền dân sự và chính trị (như quyền biểu đạt ý kiến, quyền tham gia chính trị) của người dân được đảm bảo, thì các blogger cần gì phải đi vận động quốc tế cho những việc trong nước?
Nói vậy, nhưng tôi không tin đầu óc của dư luận viên hay quan chức Việt Nam có thể hiểu. Những cái đầu ấy không bao giờ đủ trí tuệ và sự tinh tế để hiểu nỗi đau khổ của những người đi vận động nhân quyền cho Việt Nam.
Bài đọc
MẶT TRÁI CỦA BIỂU TÌNH
Một trong những mặt trái của biểu tình – và nó càng trở nên nghiêm trọng trong văn hoá chính trị “phản biểu tình” của nước CHXHCN Việt Nam – là sự cản trở tự do đi lại. Vì “phố phường chật chội, người đông đúc”, biểu tình có nguy cơ gây ảnh hưởng đến giao thông, mà đấy là người biểu tình ở nước ta còn chưa sử dụng biện pháp phong toả đường đi lối lại, cắm trại, dựng rào v.v... đấy nhé.
Ở một quốc gia dân chủ, với văn hoá chính trị thừa nhận và ủng hộ biểu tình, thì để vừa đảm bảo quyền tự do biểu đạt của nhóm người biểu tình, vừa đảm bảo quyền tự do đi lại của những người khác, chính quyền sẽ phải có các biện pháp như bố trí lực lượng hỗ trợ người biểu tình (dẹp đường, hướng dẫn giao thông...), đảm bảo những không gian công cộng thích hợp cho việc biểu tình. Ở Việt Nam thì khác: Chính quyền của đảng Cộng sản Việt Nam gộp tất cả những người đi biểu tình vào một rọ, gồm các “đối tượng” hoặc là phản động nhân danh yêu nước, hoặc là bị bọn phản động lợi dụng, lôi kéo. Từ quan niệm đó đến hành động cụ thể như thế nào thì chúng ta đều đã biết, nên người viết sẽ không đề cập thêm, mà sẽ bàn về các trường hợp có mâu thuẫn, xung đột thật sự liên quan đến biểu tình, ở phần tiếp sau.
"ÔNG NGUYỄN SINH HÙNG VÀ THẾ LƯỠNG NAN"
Biểu tình hoàn toàn có thể cản trở nghiêm trọng quyền tự do đi lại 
của một cá nhân cụ thể. Ví dụ, đó là khi những người biểu tình chặn cổng Văn phòng Quốc hội, không cho ông Nguyễn Sinh Hùng 1 ra đường khi đã hết giờ làm. (Xin các bạn lưu ý, đây chỉ là một ví dụ giả tưởng, trên thực tế bản thân người viết cũng không biết chính xác ông Nguyễn Sinh Hùng làm việc ở đâu). Trong trường hợp này, chúng ta đối diện với một thứ mà các nhà khoa học ưa gọi là “thế lưỡng nan”: - Vì ông Nguyễn Sinh Hùng là Chủ tịch Quốc hội, là quan chức, cho nên ông có nghĩa vụ phải lắng nghe ý kiến của người dân, tôn trọng quyền tự do biểu đạt và biểu tình của công dân; - Vì ông Nguyễn Sinh Hùng là một công dân Việt Nam, nên ông có quyền riêng tư, quyền tự do đi lại, tự do về thân thể, và ông phải được đi đâu tùy ý sau khi đã hết giờ làm việc. Do đó, khi bị cản trở tự do đi lại, ông có quyền khởi kiện.

Trên giác độ luật pháp thuần túy, công dân Nguyễn Sinh Hùng quả thật có thể kiện những kẻ đã xâm phạm quyền của ông. Tuy nhiên, trong văn hóa chính trị ở nhiều nước, người ta thường quan niệm lãnh đạo, quan chức là luôn phải ở một thế chịu thiệt thòi trước công luận hơn người dân, và sẽ rất nực cười nếu lãnh đạo, quan chức muốn “ăn thua đủ” với dân – cái này trong tiếng Việt gọi là “tiểu nhân”. Đương nhiên là ông Hùng có quyền kiện và có thể kiện, nhưng nếu ông làm thế thì sẽ rất buồn cười trong mắt các chính trị gia đồng nhiệm, đồng nghiệp của ông ở nước ngoài.
Tương tự, chúng ta sẽ không thể thấy Tổng thống Mỹ Bill Clinton hay đảng Dân chủ tìm cách can thiệp, đóng cửa tờ báo nào dám bôi nhọ ông và chuyện tình ái, bồ bịch của ông. Tổng thống George W. Bush của đảng Cộng hòa cũng không thể truy tìm và khởi kiện kẻ nào dám vẽ bẩn vào ảnh ông rồi vác đi biểu tình, rồi đốt... Bởi vì văn hóa chính trị của người Mỹ ủng hộ quyền tự do biểu đạt, ngôn luận của công dân và buộc lãnh đạo phải chấp nhận “chịu thiệt”, “tỏ ra quân tử” trong mắt dư luận.
1. Nguyễn Sinh Hùng (1946- ): chính khách Việt Nam dưới thời cộng sản, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam khóa XIII, từ ngày 23/7/2011 đến ngày 30/3/2016.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng đừng quên rằng, trong các chế độ dân chủ, ghế của quan chức phụ thuộc vào lá phiếu của người dân, nên quan chức có xu hướng nhượng bộ trước những phản ứng của người dân và tìm cách thuyết phục họ, chứ không dám đối đầu.
NẾU CHÚNG TÔI THÍCH "BIỂU TÌNH CHỐNG BIỂU TÌNH", THÌ SAO?
Trường hợp nói trên là khi biểu tình cản trở quyền tự do đi lại của một cá nhân cụ thể – một quan chức. Còn trường hợp sau đây hơi khác.
Giả sử sau khi Trung Quốc ra lệnh cấm đánh bắt cá trên vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam chỉ nói vài câu phản đối như thường lệ. Giả sử khoảng 300 người ở quận Nhất, TP.HCM nổi giận – trong đó một nửa phẫn nộ với Trung Quốc, một nửa bất mãn về chính sách ngoại giao của Chính phủ Việt Nam – và họ xuống đường biểu tình. Giả sử cùng lúc, có khoảng 300 người dân ở quận Hai, TP.HCM lại suy nghĩ ngược lại hoàn toàn – một nửa trong số họ cho rằng Trung Quốc cấm đánh bắt cá là đúng (cần phải bảo vệ và khai thác tiết kiệm tài nguyên thủy hải sản chứ, bất luận tài nguyên ấy của quốc gia nào), một nửa ủng hộ chính sách ngoại giao của Việt Nam (phản ứng ở mức độ như người phát ngôn đã phản ứng thôi chứ còn làm gì hơn được nữa).
Câu hỏi đặt ra là: 300 người ở quận Hai có thể đi biểu tình phản đối 300 người ở quận Nhất không?
Câu trả lời: Có, nếu như đúng là tất cả công dân Việt Nam đều được hưởng quyền tự do ngôn luận và tự do tụ tập.
Vậy sẽ ra sao nếu trên đường phố, các nhóm cư dân bất đồng quan điểm cứ biểu tình qua lại như thế?
Chẳng sao cả, chuyện đó là... bình thường trong một xã hội dân chủ, có nền văn hóa chính trị thiên về các giá trị dân chủ, tự do, nhân quyền. Có điều, trong mọi trường hợp, bạo lực phải bị lên án và loại bỏ; xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác là một tội có thể bị kiện và bị xử lý theo pháp luật. Khi ấy, vai trò của luật pháp và của nhà nước càng trở nên quan trọng hơn trong việc bảo vệ quyền tự do ngôn luận và tụ tập của các bên, quyền tự do đi lại của những người khác, giữ gìn trật tự trị an và điều hòa các lợi ích mâu thuẫn. Việc này, tất nhiên, chưa bao giờ dễ dàng.
Việc của lượng công an là bảo vệ người biểu tình chứ không phải là đánh người biểu tình. Ảnh: Một dân phòng (hoặc công an mặc thường phục) đánh biểu tình viên Phan Nguyên, Sài Gòn, ngày 12/6/2011.
Tuy nhiên, bạn cần lưu ý một điểm quan trọng: Sẽ là một nhà nước lưu manh, phản động, nếu chính nhà nước bí mật tổ chức cho một nhóm trong xã hội chuyên đi “biểu tình chống biểu tình”.
Nói cách khác, nếu chính quyền dùng tiền ngân sách, dùng quyền lực của lãnh đạo, để huy động lực lượng “phản biểu tình”, “đấu tranh với các luận điểm sai trái, thù địch” của một số công dân, mà thực chất là tấn công vào quyền tự do ngôn luận của những công dân ấy, thì đó là biểu hiện của một nhà nước độc tài đáng ghê tởm.
KHI VĂN HÓA CHÍNH TRỊ KHÓ CHẤP NHẬN BIỂU TÌNH
Ở đâu cũng vậy, biểu tình có những hành động đặc thù như gây tiếng ồn, phong tỏa đường đi lối lại, thậm chí có khi còn kéo theo bạo lực – giữa công an, cảnh sát với những người tuần hành, hoặc giữa chính những người dân với nhau, nhóm phản đối gây lộn với nhóm ủng hộ như trong ví dụ giả tưởng nêu trên. Đó chính là các mặt trái của biểu tình, và trong văn hóa chính trị của Việt Nam thì những hạn chế đó càng bị khuếch đại: Bạn hãy hình dung một nơi đường phố chật hẹp, bụi bặm, vỉa hè là không gian kinh doanh (mà đoàn người đi biểu tình có thể gây ảnh hưởng đến việc kinh doanh đó), và đa số dân chúng thì tới 70 năm không có ý niệm nào về việc “tự nhiên ra ngoài đường hò hét”.
Liệu văn hóa chính trị như thế có tạo ra một môi trường tâm lý-xã hội ủng hộ biểu tình và các hoạt động chính trị khác không?
Chúng ta thấy ngay là không.
Vậy khi văn hóa chính trị về cơ bản là chống lại việc biểu tình, thì một số ít người muốn thể hiện chính kiến thông qua hành động biểu tình có thể và nên làm gì? Có nên hò hét, chửi bới kể tội “phe kia”, đốt cờ, đốt ảnh, phong tỏa đường sá v.v...? Một trong các giải pháp cho vấn đề gây tranh cãi này là một hình thức hoạt động chính trị khác, xuất phát từ một phương pháp đấu tranh của vị anh hùng dân tộc Ấn Độ Mahatma Gandhi: bất tuân dân sự.
Chương III
VỀ MÔN HỌC "KHOA HỌC CHÍNH TRỊ"
Khoa học chính trị, hay Chính trị học, là một bộ môn khoa học xã hội nghiên cứu về nhà nước, quan hệ giữa nhà nước với phần còn lại của xã hội, và tiến trình quản trị, điều hành một quốc gia.
Với cách hiểu chính trị là “việc gây ảnh hưởng lên người khác”, “là đỉnh cao của nghệ thuật thuyết phục, vận động”, các bạn có thể thấy chính trị bao trùm lên toàn bộ đời sống xã hội. Tuy thế, khoa học chính trị, với định nghĩa như trên, “chỉ” bao gồm một số lĩnh vực, mà sau này được phát triển thành các ngành học sau:
- Triết học chính trị;
- Luật công;
- Quan hệ quốc tế, luật quốc tế, các tổ chức quốc tế;
- Chính quyền trung ương, chính quyền địa phương;
- Chính thể so sánh;
- Quản trị công;
- Xung lực chính trị (đảng phái, công luận và tuyên truyền, các
nhóm áp lực và nhóm lợi ích);
- Chính quyền và kinh doanh;
- Cơ quan lập pháp và tiến trình lập pháp;
- Cơ quan hành pháp và tiến trình hành pháp.
Bạn muốn đi sâu vào khoa học chính trị, có thể chọn ít nhất một trong các lĩnh vực trên để nghiên cứu.
Rất có thể sau này, các đối tượng, lĩnh vực nghiên cứu của khoa học chính trị còn mở rộng thêm nhiều nữa.
Phần II
CHÍNH QUYỀN VÀ NHÀ NƯỚC
Trong Phần II này, chúng ta bàn đến đối tượng nghiên cứu trung tâm của chính trị học, đó là nhà nước, và nhà nước trong quan hệ với công dân, tức là chính quyền.
Ngoài ra, nói đến chính quyền, chúng ta cũng sẽ tìm hiểu một khái niệm có lẽ khá mới mẻ với độc giả Việt Nam, là tính chính danh. Điều thú vị là, tuy nó mới với người dân Việt Nam, nhưng với mọi chính quyền trên thế giới này, nhất là các chính thể độc tài, tính chính danh lại là điều cực kỳ quan trọng và luôn được chú ý gây dựng.
Chương I
ĐỊNH NGHĨA CHÍNH QUYỀN
Có nhiều định nghĩa về chính quyền, nhưng định nghĩa của Austin Ranney có lẽ chuẩn xác và xúc tích nhất: “Chính quyền là một tập hợp các cá nhân và thiết chế với chức năng làm ra và thực thi luật pháp trong và cho một xã hội”. 1
Tập hợp ấy đương nhiên có tổ chức, hay nói cách khác, chính quyền là một tổ chức. Tuy thế, câu hỏi đặt ra là nếu như vậy thì nó khác gì với một tổ chức bình thường? Bạn hãy xem bảng sau:
So sánh chính quyền và tổ chức
Chính quyền Tổ chức
1. Quyền lực bao trùm lên toàn xã hội
Quyền lực chỉ áp đặt đối với thành viên của tổ chức
2. Tư cách thành viên là không tự nguyện Tư cách thành viên là tự nguyện
3. Quyền lực độc đoán. Lệ làng phải thua phép vua. Quyền lực không độc đoán. 
4. Là tổ chức duy nhất trong một quốc gia có quyền làm ra luật, cưỡng chế thi hành luật, và xử lý người vi phạm luật.
Trong một quốc gia, ngoài chính quyền ra thì không tổ chức nào có quyền làm ra luật, cưỡng chế thi hành luật và xử lý thành viên vi phạm.
1. “Governing: An Introduction to Political Science”, 8th edition, Austin Ranney, Prentice Hall xuất bản, trang 26.
Bạn hãy chú ý đặc điểm thứ 4: Chính quyền là “tổ chức duy nhất trong một quốc gia có quyền làm ra luật, cưỡng chế thi hành luật, và xử lý người vi phạm luật”. Thế giả sử đảng 3K 1 ở Mỹ tự cho chúng có quyền làm ra luật, cưỡng chế thi hành luật, và xử lý người vi phạm luật của chúng (và trên thực tế, chúng đã làm như thế thật), thì sao? Khi đó, chúng có trở thành chính quyền không?
Hẳn bạn sẽ trả lời là Không. Vậy, tại sao lại không? Tại sao đảng 3K, dù mạnh đến thế, lại không phải là chính quyền ở Mỹ?
Câu trả lời là: Bởi vì đảng 3K không có tính chính danh. Để được gọi là chính quyền, một tổ chức, hay một tập hợp con người và thiết chế, nhất định phải có tính chính danh. Đây cũng là khái 
niệm mà bạn có thể thường nghe nói đến, nhất là câu “nhà cầm quyền đã mất tính chính danh”. Nó là cái gì vậy?

Đảng 3K ở Mỹ thực chất là ba phong trào phân biệt chủng tộ cực đoan và khủng bố. Nguồn ảnh: Huffington Post.
1. 3K là viết tắt của Ku Klux Klan. 3K là một tổ chức cực đoan cánh hữu ở Mỹ, cổ súy cho sự phân biệt chủng tộc và “thanh lọc” xã hội Mỹ thông qua khủng bố. Họ chống người nhập cư, chống người Do Thái, chống Công giáo. Họ nổi lên thành ba phong trào, ở ba giai đoạn: 1865-thập niên 1870, 1915-1944, và 1946 đến nay.
Chương II
TÍNH CHÍNH DANH
Tính chính danh là niềm tin phổ biến của các thành viên trong một xã hội rằng quyền lực của chính quyền hay đảng cầm quyền là đúng, chính đáng, hợp lý, hợp pháp, và vì thế dân chúng phải phục tùng.
Tóm lại, chính quyền có chính danh tức là việc cầm quyền của họ là phù hợp, thích đáng trong suy nghĩ của người dân, và vì thế người dân chấp nhận phục tùng chính quyền ấy.
Do đó, có trường hợp chính quyền được thành lập hợp pháp, nhưng không được người dân cho là hợp lý, nên vẫn thiếu tính chính danh và cuối cùng sụp đổ. Nhiều chính quyền ở khối cộng sản Đông Âu cũ, như Đông Đức, Ba Lan, Hungary, mặc dù trên danh nghĩa được thành lập hợp pháp thông qua các cuộc bầu cử, song một khi đã hết tính chính danh – tức là không còn được số đông dân chúng ủng hộ, đã lần lượt sụp đổ vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước.
Làm thế nào để một tổ chức có được tính chính danh để trở thành chính quyền? Theo nhà xã hội học người Đức Max Weber (1864-1920), có ba cách 1:
1. Nhờ truyền thống (cha truyền con nối);
1. “Die drei reinen Typen der legitimen Herrschaft” (Ba kiểu chính quyền có tính chính danh, tiếng Anh: The Three Types of Legitimate Rule”), một tiểu luận của Max Weber viết bằng tiếng Đức, xuất bản năm 1922.
2. Nhờ có sức hấp dẫn của lãnh tụ, lãnh đạo;
3. Nhờ được thành lập hợp pháp và hợp lý.
1. CHÍNH DANH NHỜ TRUYỀN THỐNG
Đây là trường hợp các chính thể, các vương triều cha truyền con nối. (Anh, Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha, Morocco [Ma-rốc], Saudi Arabia [Ả-rập Xê-út], Kuwait [Cô-oét], Thái Lan...). Những chính quyền này được coi là có tính chính danh bởi vì chúng được công nhận từ lâu trong lịch sử, hay nói cách khác, tính chính danh của chúng được truyền lại từ các triều đại trước. Người dân ở những xã hội này chấp nhận chính thể đương thời bởi vì chính thể ấy đã cầm quyền từ lâu, thành truyền thống, và không ai còn đặt vấn đề phải xem xét lại hay phá bỏ truyền thống ấy.
2. CHÍNH DANH NHỜ CÓ LÃNH TỤ KIỆT XUẤT
Đó là những chính thể được công nhận là chính danh nhờ sự hấp dẫn của một cá nhân nào đó được công chúng sùng bái, và cá nhân đó đóng vai trò lãnh tụ, lãnh đạo. Ví dụ như các chính quyền Napoleon (Pháp), Mussolini (phát xít Ý), Hitler (Đức quốc xã), Fidel Castro (Cuba cộng sản), Khomeini (Hồi giáo Iran), Lenin, Staline (Liên Xô), Mao Trạch Đông (Trung Quốc cộng sản), dòng họ Kim Nhật Thành (Bắc Triều Tiên), và Hồ Chí Minh (Việt Nam cộng sản), v.v...
Nói cách khác, những chính quyền đó có được tính chính danh
nhờ việc họ có một gương mặt cá nhân nào đó có sức hấp dẫn to lớn đối với dân chúng, được ngợi ca bởi công đức trời biển, được tôn vinh như “tiên đế”, “cha già dân tộc”, “khai quốc công thần”.
Chừng nào nhân vật ấy còn được sùng bái, chừng đó chính thể còn có tính chính danh, và ngược lại, khi sự sùng bái của người dân đối với lãnh tụ kiệt xuất bị suy giảm thì khi ấy, tính chính danh của chính thể bắt đầu lung lay. Đến khi lòng kính trọng, tin yêu của dân chúng đối với lãnh tụ hoàn toàn chấm hết, thì chế độ không còn lý do để tồn tại.
Đó là lý do vì sao các chính quyền cộng sản như Liên Xô, Bắc Triều Tiên, Cuba, Trung Quốc, Việt Nam... phải sống chết bảo vệ hình ảnh vị “cha già dân tộc” của mình, kể cả hàng chục năm sau khi ông ta mất. Ở những xã hội này, sự kính trọng, tin yêu đối với lãnh tụ được xem như đạo đức, như một phẩm chất tốt đẹp. Nói xấu, phỉ báng lãnh tụ bị coi là trọng tội và bị pháp luật trừng phạt.
Trên thực tế, sùng bái cá nhân đã chỉ đưa đến và củng cố chế độ độc tài và nô lệ. Không xã hội nào tiến bộ về đạo đức và văn hóa chính trị nhờ việc dân chúng sùng bái lãnh tụ.
Vào ngày 12/10/2015, Đỗ Đăng Dư, 17 tuổi, chết lúc 7h tối tại bệnh viện Bạch Mai sau hai tháng bị công an huyện Chương Mỹ tạm giam ở Trại tạm giam số 3 (Công an TP. Hà Nội) để điều tra về hành vi trộm cắp tài sản.
Trước đó, ngày 11/10, Cơ quan Cảnh sát Điều tra cho biết, Đỗ Đăng Dư bị bạn tù là Vũ Văn Bình đánh vì “rửa bát bẩn”. 
Đêm 12/10 sau khi Dư chết và thi thể được đưa vào nhà xác, hàng chục nhà hoạt động nhân quyền ở Hà Nội đã đến bệnh viện Bạch Mai an ủi, giúp đỡ gia đình và lên án công an bạo hành dân.
Ngày hôm sau, 13/10, facebooker Nguyễn Lân Thắng, 40 tuổi, đăng tải
trên trang cá nhân một bức hình chụp ông cầm chiếc đĩa sứ có in chân
dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, kèm bình luận: “Ngày xưa ông ấy rửa bát bẩn trên tàu thì Việt Nam đâu đến nỗi”. Bức hình được gần 5000 người “like” và hơn 300 người chia sẻ, nhưng nó cũng gây phẫn nộ lớn trong cộng đồng những người “yêu Đảng yêu Bác”. Vào ngày 17/10, ông Trần Nhật Quang, 58 tuổi, một nhân vật trong đội ngũ dư luận viên Hà Nội, tuyên bố thành lập nhóm phản ứng nhanh để “săn lùng” và “hỏi tội” “những tên phản động” mà trước mắt là Nguyễn Lân Thắng vì tội “xúc phạm Bác Hồ”.
Nói là làm, tối 21/10, Trần Nhật Quang và Đỗ Anh Minh kéo thêm một số nhân vật cực đoan trong lực lượng ủng hộ chế độ cộng sản ở Hà Nội đến nhà facebooker Nguyễn Lân Thắng quấy nhiễu: bấm chuông, gọi loa, phát truyền đơn thóa mạ ông Thắng. Họ rút đi khi các bạn của ông Thắng đến, tuy nhiên, họ vẫn tiếp tục đe dọa gia đình ông Thắng trong nhiều ngày sau.
Nhiều độc giả của ông Nguyễn Lân Thắng, tuy ủng hộ ông hoạt động xã hội, đấu tranh dân chủ, nhưng cũng không tán thành việc ông “đem Bác Hồ ra làm trò cười”.
Tuy vậy, cũng không ai giải thích được tại sao kính trọng lãnh tụ lại là một thứ đạo đức.
Đó chính là bởi vì tâm lý sùng bái lãnh tụ trong dân chúng Việt Nam còn rất nặng, mà tâm lý ấy là kết quả của sự tuyên truyền không ngừng nghỉ của chính quyền cộng sản về ông Hồ Chí Minh như vị cha già dân tộc.
3. CHÍNH DANH NHỜ HỢP PHÁP VÀ HỢP LÝ
Đó là những chính quyền có được tính chính danh nhờ:
- Được thành lập một cách hợp pháp, hợp lý;
- Có hiến pháp, luật pháp giới hạn quyền lực của nhà nước để không xâm phạm vào tự do của người dân;
- Có nhà nước pháp trị, tam quyền phân lập, các chức vụ nhà nước đều có nhiệm kỳ và được bầu cử công bằng, tự do.
Tất nhiên là, như các bạn có thể thấy, các chính thể đều sẽ tự nhận mình là “chính danh nhờ hợp pháp và hợp lý”. Chẳng một chính thể nào lại nhận mình “cướp chính quyền” và không có tính chính danh.
Tương tự, tất cả các chính quyền trên thế giới này đều đã, đang và sẽ nhận họ là chính thể dân chủ. Không một chính thể nào lại tự nhận mình là độc tài, phi dân chủ. Có nghĩa là, dù có thể còn gây tranh cãi, nhưng dân chủ vẫn được toàn thế giới xem là một giá trị đáng có. Phần III, “Dân chủ”, sẽ bàn về giá trị này.
Max Weber đưa ra lý thuyết của ông về ba kiểu chính quyền có tính chính danh trong một tiểu luận xuất bản vào năm 1922. Tiểu luận rất nổi tiếng và lý thuyết của ông có ảnh hưởng từ đó đến nay.
Về sau này, các học giả mới bổ sung thêm một kiểu chính danh nữa, đó là chính danh có được nhờ đạt thành tựu về kinh tế và/ hoặc đạo đức cũng như năng lực bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Bạn có thấy “nghe quen quen” không? Rất quen là đằng khác, bởi vì một nhà nước điển hình cho sự xây dựng tính chính danh kiểu này là láng giềng của Việt Nam, chung ý thức hệ cộng sản với Việt Nam: Trung Quốc.
Khi nhà nước cộng sản ở Bắc Kinh mới thiết lập được chính quyền (năm 1949), tính chính danh của nó có được nhờ những hứa hẹn với người dân về một đất nước hùng mạnh, xã hội cộng sản bình đẳng, quan chức trong sạch không tham nhũng, dân chúng ai nấy đều có việc làm ổn định và được bảo đảm về lương thực thực phẩm, y tế, giáo dục... Dần dần về sau, những thành tựu kinh tế nổi bật, một nền quốc phòng mạnh đủ làm khu vực và thế giới khiếp sợ, trở thành cơ sở chủ yếu để nhà cầm quyền Bắc Kinh tạo và giữ được tính chính danh với nhân dân. Người dân Trung Quốc cần những cái cớ để tự hào về đất nước, để lòng tự hào dân tộc của họ được ve vuốt, và có vẻ như đảng Cộng sản Trung Quốc cầm quyền đã giúp họ có được và duy trì những cớ đó. Đổi lại, dân chúng sẽ trung thành với chế độ và chấp nhận hy sinh một số quyền dân sự và chính trị.
Tuy thế, thành tựu kinh tế và sức mạnh quốc phòng có thể làm nên tính chính danh của một nhà nước thì cũng có thể làm cho tính chính danh ấy bị bào mòn, thậm chí bị xóa sạch, đến mức nhà nước phải sụp đổ. Khi nào kinh tế Trung Quốc sa sút, bất bình đẳng xã hội gia tăng, quân đội Trung Quốc thất bại trước một đối thủ nào đó... thì Bắc Kinh mất chính danh. Cần nhớ rằng, kinh tế suy thoái, phúc lợi xã hội không đảm bảo, chất lượng sống thấp kém, cũng là những yếu tố dẫn đến sự mất tính chính danh của các đảng cộng sản cầm quyền ở Đông Âu ngày trước. (Trong khi đó, họ lại không có vị lãnh tụ kiệt xuất nào như Lenin hay Stalin của Liên Xô).
Nhiều người Đức cho rằng truyền hình (ngoài luồng) đóng một vai trò quan trọng khiến chế độ cộng sản ở Đông Đức cũ thất bại trước Tây Đức dân chủ tự do, và nước Đức thống nhất.
Ấy là do trước thời điểm thay đổi, những người dân Đông Đức đã được tiếp xúc với thông tin từ Tây Đức qua truyền hình. Đặc ủy nhân quyền Đức Christoph Strässer kể với người viết trong một cuộc trò chuyện vào sáng 5/6/2015 tại Hà Nội: “Ở CHDC Đức hồi đó, có quy định ăng-ten (antenna) chỉ được quay sang một hướng nhất định thôi, hướng đài truyền hình quốc gia. Nhưng nhiều người, ví dụ ở vùng Đông Berlin, vẫn sáng tạo lắm, họ làm cách nào đấy để nhận được thông tin, hình ảnh từ Tây Đức”.
Và thế là dân chúng Đông Đức hiểu rằng trong khi họ đang phải “xếp hàng cả ngày”, phải tiêu dùng những hàng hóa chất lượng tồi, phải sống đời sống văn hóa-tinh thần nghèo nàn, xám xịt và bị kiểm soát, thì ngay sát bên họ, có một nước Đức khác. Một Tây Đức phồn vinh, mức sống cao trong một xã hội tiêu thụ đầy màu sắc rực rỡ, và có những ban nhạc như Modern Talking, Scorpions...
Họ bắt đầu khao khát, ước mơ, hoặc là ghen tị, thèm muốn... Gọi là gì cũng được, tùy chúng ta nghĩ. Nhưng rõ ràng là đã có một thời truyền hình góp phần mở cửa ra thế giới, thúc đẩy ước mơ và dẫn đến thay đổi xã hội theo hướng dân chủ hóa.
Bài hát Geronimo’s Cadillac của Modern Talking (1986) có câu “chiếc xe Cadillac của Geronimo làm tất cả các cô gái đều phát khùng”. Có lẽ cuộc sống đầy màu sắc ở Tây Đức ngày đó cũng đã làm rất nhiều người Đông Đức “phát khùng”.
So với đồng nhiệm Trung Quốc, đảng Cộng sản Việt Nam khó có khả năng xây dựng tính chính danh nhờ thành tựu kinh tế và quốc phòng. Nhà nước CHXHCN Việt Nam thường bị dân chúng chỉ trích, hoặc ít nhất cũng nghi ngờ, về chính sách phát triển kinh tế và năng lực bảo vệ chủ quyền quốc gia, nhất là chủ quyền biển đảo.
Trong khi đó, hầu như chưa người dân Trung Quốc nào phải trải qua cảm giác đất nước họ thất bại về kinh tế, chính quyền của họ duy trì chính sách đối ngoại nhu nhược, luồn cúi trước ngoại bang.
Từ đó, các bạn có thể thấy rằng vấn đề kinh tế và đặc biệt là bảo vệ chủ quyền đã trở thành tử huyệt tiềm tàng của đảng Cộng sản Việt Nam.
XÂY DỰNG TÍNH CHÍNH DANH
Dựa vào lý thuyết của Max Weber, chúng ta thấy rằng, để một tổ chức có được tính chính danh và trở thành chính quyền, áp đặt quyền lực nhà nước lên toàn xã hội, thì tổ chức ấy:
Một là may mắn được thừa hưởng quyền lực từ triều đại trước 
(cha truyền con nối), ở những xã hội mà chính quyền có được tính chính danh nhờ truyền thống. Hoặc:

Hai là phải có được một nhân vật lãnh đạo có sức hấp dẫn đặc biệt đối với công chúng, một cá nhân kiệt xuất. Hoặc:
Ba là có được quyền lực một cách hợp lý và hợp pháp, và duy trì nó cũng với một cách hợp lý và hợp pháp: xây dựng và bảo vệ một bản hiến pháp dân chủ, đảm bảo nhà nước pháp quyền, tam quyền phân lập, bầu cử tự do và công bằng...
Tuy nhiên, hẳn các bạn cũng đã thấy từ định nghĩa: Tính chính danh là niềm tin phổ biến của các thành viên trong một xã hội rằng quyền lực của chính quyền hay đảng cầm quyền là đúng, chính đáng, hợp lý, hợp pháp, và vì thế dân chúng phải phục tùng.
Xin nhấn mạnh từ “niềm tin” trong định nghĩa này. Như vậy có nghĩa là, về bản chất, chính quyền có tính chính danh là bởi vì dân chúng tin rằng chính quyền ấy cầm quyền là đúng. Điều này cũng hàm ý: Quan trọng là niềm tin; một chính quyền muốn tạo ra và duy trì tính chính danh thì phải làm cho dân chúng có niềm tin ấy.
Bằng cách nào? Có thể bằng bạo lực, đe dọa và khủng bố, để ép người dân phải tin “chính quyền này mạnh lắm và họ cầm quyền là đúng”. Cũng có thể bằng tuyên truyền và lừa dối. Hay tốt nhất là kết
hợp cả hai: bạo lực và tuyên truyền.
Chính quyền có thể sử dụng tuyên truyền, quảng cáo, PR để tạo ra và/
hoặc làm tăng tính chính danh cho mình.
Một chính quyền có chính danh hay không là do chính quyền đó tuyên
truyền giỏi đến đâu mà thôi. (Beetham, 1991)
Người viết tin rằng, tà quyền thì sẽ dùng bạo lực và tuyên truyền để có được niềm tin của dân chúng, từ đó xây dựng và củng cố tính chính danh. Còn chính quyền thì sẽ xây dựng chính danh qua cách thứ ba – chính danh nhờ hợp pháp và hợp lý – hoặc cách thứ tư – đạt những thành tựu kinh tế vượt trội so với khu vực và thế giới. Song ngay cả cách thứ ba, thứ tư này cũng phải được kết hợp chặt chẽ, khéo léo với truyền thông chính trị. (Xem Chương II về tuyên truyền và truyền thông chính trị, trong
Phần V, "Tương tác chính trị").
PHÁ HỦY TÍNH CHÍNH DANH CỦA LỰC LƯỢNG ĐỐI LẬP
Với những nhà nước độc tài, muốn duy trì ách cai trị vĩnh viễn, thì song song với việc củng cố tính chính danh của mình là việc phá hủy tính chính danh của lực lượng đối lập. Bằng cách nào?
Bằng cách tuyên truyền sâu rộng cho dân chúng thấy những người đối lập không xứng đáng để tham gia chính trị, không đủ tư cách, năng lực, tài đức v.v. để cầm quyền. Tóm lại, cách mà chắc chắn mọi thể chế độc tài sẽ thực hiện là phá hoại hình ảnh của lực lượng đối lập, ra sức cô lập, cách ly họ khỏi nhân dân.
Tại một hội nghị tổng kết công tác tuyên giáo toàn quốc 2012, diễn ra sáng 9/1/2013 tại Hà Nội, ông Hồ Quang Lợi – nhà báo, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội – phát biểu đại ý: Hà Nội đã tổ chức được đội ngũ 900 dư luận viên trên toàn thành phố nhằm phát huy sức mạnh của đội ngũ tuyên truyền miệng. Trong khi đó, báo chí thủ đô thực hiện ý kiến chỉ đạo về những vụ việc nhạy cảm; thành lập các tổ phóng viên bấm nút, phản ứng nhanh.
Tổ chức “nhóm chuyên gia” đấu tranh trực diện trên mạng Internet, tham gia bút chiến trên Internet. Đến nay, đã xây dựng được 19 trang tin điện tử, hơn 400 tài khoản trên mạng. 1
Đó là lần đầu tiên khái niệm “dư luận viên” được nhắc tới công khai, trên báo chí chính thống. Nhưng những người làm công việc đó thì hẳn đã có mặt ở Việt Nam từ lâu, dưới những cái tên như “tuyên truyền viên”, “cộng tác viên dư luận xã hội”. Trước khi Internet vào Việt Nam (cuối năm 1997), họ chủ yếu làm tuyên truyền miệng. Kể từ khi Internet xuất hiện, họ bắt đầu hoạt động mạnh trên mạng, có mặt ở khắp các diễn đàn, tung ý kiến “định hướng” diễn đàn và “đấu tranh” với các ý kiến phê phán, chỉ trích đảng và nhà nước cộng sản. Có thời họ được gọi là “hồng vệ binh”, vì phong cách đặc biệt hung hãn, dữ tợn, chẳng khác các hồng vệ binh ở Trung Quốc hồi Cách mạng Văn hóa.
Nhưng chỉ đến khi Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội Hồ Quang Lợi nhắc đến cụm từ “dư luận viên” và được báo chí chính thống trích dẫn, hoạt động thuê người định hướng dư luận
1. “Tổ chức nhóm chuyên gia bút chiến trên Internet”, Đào Tuấn/ Lao Động số ra ngày 9/1/2013. Đây là bài báo đầu tiên nhắc tới khái niệm “dư luận viên”. Địa chỉ trên mạng: http://laodong.com.vn/chinh-tri/to-chuc-nhom-chuyen-gia-but-chien-tren- internet-98582.bld.
và phá hoại hình ảnh của đối lập mới được công khai thừa nhận ở Việt Nam.
Dư luận viên đã hoạt động mạnh trong thời gian sau đó. Hàng chục blog, website và facebook được mở ra, chuyên đăng bài vở bôi nhọ, lăng mạ các cá nhân và tổ chức hoạt động dân chủ-nhân quyền ở Việt Nam, như: Mõ Làng, Tre Làng, Google Tiên Lãng, Người Con Đất Mẹ, facebook Việt Nam Thời Báo 1, facebook Đơn vị Tác chiến Điện tử, facebook Em yêu chú công an nhân dân, v.v...
Bên cạnh đó, lực lượng an ninh cũng ráo riết hoạt động, với những nghiệp vụ như rình mò, theo dõi những người bất đồng chính kiến, bới móc các chuyện cá nhân của họ, nhất là chuyện tình ái, công việc làm ăn, để tung lên mạng bêu riếu, sỉ nhục họ “vô đạo đức”, “đồi trụy”, “đồi bại”, “tham tiền”, “ăn tiền hải ngoại”, v.v...
Mục đích, không gì khác, chính là để phá hoại hình ảnh của các lực lượng chính trị khác ngoài đảng Cộng sản cầm quyền, tiêu diệt niềm tin của người dân vào phong trào dân chủ, cũng tức là tiêu diệt tính chính danh của đối lập.
Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, dư luận viên còn có thêm một chức năng là đe dọa, khủng bố tinh thần những người phản biện chính quyền, đặc biệt nếu đó là trí thức. Có lẽ bởi dư luận viên nắm bắt được tâm lý chung của trí thức là sợ bị xúc phạm, sợ thứ ngôn ngữ chợ búa và ngại “cãi cọ như hàng tôm hàng cá”, nhất là ở các môi trường công cộng như mạng xã hội facebook.
Ví dụ về một comment kiểu đe dọa, xuất hiện trên facebook nhà báo Đào Tuấn khi ông và báo Đại Đoàn Kết đăng loạt bài tưởng niệm cuộc chiến tranh biên giới 1979 với Trung Cộng: “... thích “cấp tiến” thì kiếm nồi cơm khác mà diễn. Xuyên tạc lịch sử để câu vìu đừng trách bị ăn chửi. Có nhiều cách để mày kiếm cơm động vào những thứ linh thiêng thì mồm ngậm tiền nhưng răng không còn đâu...”.
1. Đạo tên của Việt Nam Thời Báo – trang báo của Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam. Trang báo thật sự của Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam có tên miền là ijavn.org, còn trang giả danh là vntb.org.
Cũng cần nói thêm rằng sử dụng dư luận viên không phải sáng kiến của tuyên giáo và an ninh đảng Cộng sản Việt Nam. Khái niệm về một đội quân mạng được huy động để định hướng dư luận và tấn công những ý kiến phản biện đảng và nhà nước cộng sản ít nhất cũng đã xuất phát từ Trung Quốc. Vào tháng 10/2004, Sở Thông tin Tuyên truyền Changsha bắt đầu thuê các “bình luận viên chuyên nghiệp trên mạng Internet” – đây có lẽ là một trong những lần sớm nhất nghề này được nhắc tới ở Trung Quốc.
Chương III
NHÀ NƯỚC
Rộng hơn khái niệm chính quyền là khái niệm nhà nước. Nó có hai nghĩa, tức là có hai cách hiểu về khái niệm này.
CÁCH HIỂU 1: NHÀ NƯỚC LÀ QUỐC GIA
Nhà nước là gì, ví dụ khi ta nói “Nhà nước CHXHCN Việt Nam”, “Nhà nước Palestine”, “Nhà nước Do Thái”?
Theo James Garner, nhà nước là một cộng đồng người chiếm hữu một lãnh thổ xác định, hoàn toàn không chịu sự kiểm soát từ bên ngoài, và sở hữu một chính quyền có tổ chức mà tất cả cư dân sinh sống trong lãnh thổ đó đều phải phục tùng. 1 Định nghĩa của Garner đã bao gồm đủ bốn yếu tố căn bản của một nhà nước: con người (dân), lãnh thổ (đất), chính quyền, và chủ quyền hay quyền tối cao.
1. Dân
Người ta hay nói phải có nhà nước, mới có công dân (người mang quốc tịch của nước đó). Nhưng cũng phải có dân mới có nhà nước. Các nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại cho rằng dân số của một nước
không nên quá đông mà cũng không nên quá thưa. Cần phải đủ đông để sản xuất của cải vật chất nuôi nhau, và đủ ít để dễ cai quản.
Plato cho rằng số dân lý tưởng của một thành bang như Athens hay 1. “Political Science”, Government of Tamilnadu, 2003 Sparta là ở mức 5.040 người. Triết gia Pháp Rousseau lại ấn định 10.000 người là số dân lý tưởng của một nhà nước.
2. Lãnh thổ
“Không có đất thì không có nước”. Không có một lãnh thổ xác định thì không thể có nhà nước, nói cách khác, không tồn tại một nhà nước không có lãnh thổ. Lãnh thổ bao gồm không chỉ đất đai mà cả nước – hồ, sông, biển... – và vùng không trung bên trên đó.
3. Chính quyền trong quan hệ với nhà nước
Chính quyền, như chúng ta đã thấy trong phần định nghĩa ở trên, “là một tập hợp các cá nhân và thiết chế với chức năng làm ra và thực thi luật pháp trong và cho một xã hội” (Austin Ranney). Ở đây, trong quan hệ với nhà nước, chính quyền là công cụ, là bộ máy để thông qua đó nhà nước tồn tại và thực thi các chức năng của nó, và mọi người dân có thể cùng chung sống với nhau. Nói cách khác, chính quyền là cỗ máy vận hành của nhà nước.
Các chức năng mà nhà nước thực hiện thông qua bộ máy chính quyền gồm những gì? Là bảo đảm trật tự và an ninh trong xã hội, quốc phòng (bảo vệ đất nước khỏi các thế lực ngoại xâm), thực thi
công lý, thúc đẩy thịnh vượng về kinh tế và sự phát triển... Bạn đọc chú ý là trong các chức năng ấy, không có chức năng “trấn áp các thế lực phản động trong nước”. Chính vì thế mà Nhà nước Việt Nam cộng sản thường phải mượn danh nghĩa “bảo đảm trật tự và
an ninh” để đàn áp các lực lượng chính trị đối lập mà họ dán nhãn chung là “phản động”, “thế lực thù địch”.
Bạn cũng chú ý: Nhà nước và chính quyền là hai khái niệm khác nhau. Nhà nước rộng hơn chính quyền, bao gồm cả chính quyền và người dân. Trong khi đó, chính quyền không bao gồm dân. Một điều quan trọng nữa là, chính quyền có thể thay đổi, có thể được thành lập mới hoặc bị lật đổ, xóa bỏ đi để một chính quyền mới thay thế. Nhưng nhà nước là vĩnh cửu, không thay đổi, chừng nào còn duy trì được cả bốn yếu tố căn bản của nó: dân, đất, chính quyền, chủ quyền.
4. Chủ quyền
Chủ quyền, hay quyền tối cao, là quyền ra quyết định cuối cùng và là quyền cao nhất, không còn quyền lực nào ở trên nó nữa. Chủ quyền có hai loại: chủ quyền đối nội và chủ quyền đối ngoại.
- Chủ quyền đối nội: Nhà nước có quyền lực tối cao đối với tất cả các công dân của nó, tất cả người dân sinh sống trong lãnh thổ của nhà nước đó.
- Chủ quyền đối ngoại: Nhà nước độc lập khỏi bất kỳ sự kiểm soát nào từ bên ngoài lãnh thổ của nó.
Với định nghĩa trên của James Garner, hẳn các bạn cũng thấy, nhà nước (tiếng Anh: state) và quốc gia (tiếng Anh: nation) là hai khái niệm đồng nghĩa, và chúng đều bao gồm bốn yếu tố nêu trên:
dân, đất, chính quyền, chủ quyền.
CÁCH HIỂU 2: NHÀ NƯỚC LÀ CHÍNH QUYỀN
Cách hiểu thứ hai gần gũi hơn với đa số người Việt. Dân Việt Nam, khi nghe thấy từ “nhà nước”, thường nghĩ ngay đến chính quyền, ví dụ như trong cụm từ đã quá quen thuộc: “Đảng và Nhà nước” (chữ đảng viết hoa để chỉ đảng Cộng sản Việt Nam).
Ở Việt Nam, cách hiểu này phổ biến hơn cách hiểu thứ nhất. Còn chính quyền là gì thì mời bạn xem lại Chương I, “Định nghĩa chính quyền”, của Phần II này.
MỘT VÀI KHÁI NIỆM KHÁC
Nếu hiểu nhà nước là quốc gia (theo cách hiểu thứ nhất), thì trong 
tiếng Anh có khái niệm nation-state. Nhiều người dịch nó sang tiếng Việt là “quốc gia dân tộc” – một từ rất khó hiểu, tối nghĩa. Đúng ra thì phải chuyển ngữ nó như thế nào? Nation-state là một loại hình nhà nước nối kết thực thể chính trị của nó với thực thể văn hóa của dân tộc. Từ điển Oxford định nghĩa nation-state “là một nhà nước có chủ quyền, trong đó đa số công dân của nó được thống nhất với nhau bởi các yếu tố định hình một dân tộc, như ngôn ngữ và nguồn gốc chung”. Nation- state là một sự đồng nhất hóa giữa nhà nước và dân tộc. 

Vậy, nation-state là một nhà nước mang tính chất một quốc gia, khác với city-state là một nhà nước ở quy mô thành phố. City-state dịch là thành bang, còn nation-state có thể được dịch là “nhà nước độc lập”, “quốc gia độc lập”. Nhà nước có gì khác với đất nước (tiếng Anh: country)? Nhà nước là một thực thể chính trị-pháp lý, trong khi đất nước là một thực thể mang tính văn hóa-sắc tộc. Nhà nước phải có chủ quyền (chủ quyền là một trong bốn yếu tố căn bản xác lập nên một nhà nước), trong khi một đất nước có thể không có chủ quyền – chẳng hạn bị mất chủ quyền vào tay ngoại xâm. Điều quan trọng là người dân của đất nước ấy, về mặt tâm lý, vẫn coi họ là dân một nước, cùng chia sẻ một đất nước chung, cùng chia sẻ một ý chí chung là được chung sống với nhau trong một đất nước, ngay cả khi nhà nước của họ mất chủ quyền.
Thế còn dân tộc là gì? Từ “dân tộc” trong tiếng Việt có hai nghĩa.
Nghĩa thứ nhất là nhân dân. Chẳng hạn khi ta nói: “Dân tộc Việt Nam là một”, câu này hàm ý toàn thể nhân dân Việt Nam đều thống nhất.
Nghĩa thứ hai là sắc dân, sắc tộc, ví dụ khi ta nói “người dân tộc thiểu số”, “dân tộc Kinh”, “dân tộc H’mong”, “dân tộc Tày”, hay “người Thượng”, “người Ba-na”... Ở đây, một dân tộc được hiểu là một cộng đồng người có chung một nền văn hóa, lịch sử, và đặc biệt, chung một cách giải thích về nguồn gốc của họ. Chẳng hạn, người Kinh (chiếm 90% dân số Việt Nam) cho rằng họ là con cháu vua Hùng; tổ tiên của họ là mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân, hai vị tiên và rồng này kết hợp với nhau sinh ra trăm người con, trong đó có các vua Hùng. Còn người Mường lại có cách lý giải khác về sự xuất hiện của dân tộc Mường, đó là tích “Chim Ây, Cái Ứa”.
Việt Nam có 54 sắc dân, hay thường được gọi là “54 dân tộc anh em”.
Một người H’mong thi leo cột mỡ lấy bim bim trong lễ hội xuống đồng ở Sapa (sau Tết âm lịch)
Phần III
DÂN CHỦ
Phần này bàn về một vấn đề có lẽ thường gặp nhất khi nói đến chính trị: dân chủ và những mặt trái của nó.
Đây cũng là khái niệm khiến người Việt Nam, đặc biệt các blogger, facebooker tranh cãi thường xuyên trên mạng; và nếu không có đủ kiến thức, không nắm chắc “cơ sở lý luận”, bạn trẻ rất dễ đi từ vị thế người ủng hộ dân chủ sang vị thế một người đầy nghi ngờ, yếm thế và rồi chống lại dân chủ.
Chương I
ĐỊNH NGHĨA DÂN CHỦ
Có nhiều định nghĩa về dân chủ. (Trong khoa học chính trị, dường như khái niệm nào cũng có nhiều hơn một định nghĩa, và định nghĩa nào cũng đúng). Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu hai định nghĩa, một của Austin Ranney, một của Schmitter và Karl. Sở dĩ tác giả chọn hai định nghĩa này để giới thiệu với bạn đọc Việt Nam là bởi vì từ chúng, ta có thể mở rộng phân tích được nhiều điều khác cũng rất bổ ích.
ĐỊNH NGHĨA DÂN CHỦ CỦA AUSTIN RANNEY 1
Dân chủ là một hình thức tổ chức chính quyền theo các nguyên
tắc sau:
- Quyền quyết định tối cao thuộc về người dân;
- Tất cả mọi người đều bình đẳng về chính trị;
- Tất cả mọi người đều được có tiếng nói;
- Đa số thống trị; thiểu số phải theo đa số.
Sau đây, chúng ta sẽ đi sâu vào từng nguyên tắc.
1. Quyền quyết định tối cao thuộc về người dân
Nguyên tắc này có nghĩa là: Quyền quyết định tối cao thuộc về tất cả mọi người chứ không phải một cá nhân (như trong chế độ độc tài cá nhân) hay một nhóm người (độc tài tập thể). Mọi người đều tham gia quyết định một cách trực tiếp (dân chủ trực tiếp) hoặc ủy quyền cho đại diện thay mặt mình quyết định (dân chủ đại diện).
Một nguyên tắc xem ra không có gì khó hiểu. Chỉ có ba điểm mà bạn cần lưu ý: 1. Từ “mọi người” ở đây được hiểu là mọi công dân có đầy đủ năng lực hành vi. 2. Chúng ta đang nói về “quyền quyết định tối cao” – nghĩa là quyền ra quyết định cuối cùng trong các vấn đề quan trọng của cả cộng đồng, chứ không phải quyền ra quyết định về đủ mọi vấn đề; 3. Trong chế độ dân chủ đại diện, việc người dân ủy quyền cho đại diện không có nghĩa là người dân mất quyền tham gia và quyết định.
2. Mọi người đều bình đẳng về chính trị
Những chính trị gia mị dân có thể ưa thích câu nói: Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Nhưng thật ra, như chúng ta đều thấy, con người sinh ra vốn dĩ không bình đẳng, mà khác nhau (và chênh lệch) về đủ thứ – chủng tộc, ngoại hình, thể trạng, trí tuệ, hoàn cảnh gia đình v.v. Sinh ra đã không bình đẳng thì quá trình lớn lên, trưởng thành và cuộc sống sau này càng không thể bình đẳng với nhau.
Vì thế cho nên bản Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên Hợp Quốc đã phải điều chỉnh nhận định trên thành: Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng về nhân phẩm và quyền.
Còn nguyên tắc thứ hai về tổ chức chính quyền một cách dân chủ theo Austin Ranney, chỉ là “mọi người đều bình đẳng về chính trị” mà thôi, và bình đẳng về chính trị có nghĩa là bình đẳng về cơ hội gây ảnh hưởng tới chính sách: Tất cả mọi người đều có cơ hội như nhau để gây ảnh hưởng tới chính sách công, tới tiến trình ra quyết định tối cao.
“Cơ hội như nhau để gây ảnh hưởng” đó được cụ thể hóa hơn nữa, thành: Tất cả mọi người đều có các quyền về chính trị như nhau.
Quyền chính trị là những quyền của công dân được tham gia một cách
có ý nghĩa vào tiến trình chính trị của nhà nước. Chúng bao gồm: quyền bầu cử (bỏ phiếu); quyền ứng cử và tranh cử; quyền thành lập và tham gia các tổ chức, hội nhóm, kể cả đảng phái chính trị... mà không bị phân biệt đối xử.
Có một sự khác biệt thú vị giữa quan niệm về “bình đẳng về chính trị” của các nước phương Tây tự do và các nước cộng sản.
Triết lý dân chủ tự do của phương Tây cho rằng, bình đẳng về chính trị, tức bình đẳng về khả năng gây ảnh hưởng, nghĩa là bình đẳng về các quyền chính trị. Còn các nước cộng sản lại tư duy khác:
Bình đẳng về khả năng gây ảnh hưởng tức là bình đẳng về khả năng kiểm soát các nguồn lực kinh tế, phương tiện truyền thông đại chúng, v.v... Với tư duy này, họ can thiệp vào thị trường để hỗ trợ, nâng đỡ những đối tượng họ cho là cần “tạo điều kiện”, kìm kẹp, gây thiệt hại những đối tượng họ cho là cần kiềm chế, và luôn cố gắng đảm bảo mỗi ngành nghề, mỗi địa phương đều có phương 
tiện truyền thông đại chúng (báo chí, đài phát thanh-truyền hình...) riêng – nhưng tất cả lại không độc lập mà phải do họ “quản lý”.

3. Tất cả mọi người đều được có tiếng nói
Với nguyên tắc này, mọi nền dân chủ đều phải đảm bảo những cơ chế mà thông qua đó, tất cả mọi người đều được tham vấn, được có ý kiến trong tiến trình hoạch định chính sách.
Những cơ chế đó là gì? Có thể bạn đã nhìn ra một số rồi: một nền truyền thông tự do, một hệ thống giáo dục tự do, tư pháp độc lập, mọi công dân đều có quyền tự do tư tưởng, tự do biểu đạt, tự do học thuật, và còn nhiều nữa.
4. Đa số thống trị (đa số thắng thiểu số)
Đây có lẽ là nguyên tắc đáng chán nhất trong các nguyên tắc của dân chủ. Theo đó, khi có mâu thuẫn, bất đồng, chính quyền phải hành động theo ý nguyện của đa số.
Trong nhiều trường hợp, điều đó không tránh khỏi khiến thiểu số bất mãn. Sự bất mãn nếu quá lớn, hoặc nếu cứ kéo dài, thường xuyên và liên tục, không được giải quyết, có thể sẽ đẩy mâu thuẫn tới chỗ bùng nổ thành xung đột trong xã hội, và đây là một hệ quả tồi của dân chủ.
Làm thế nào để giải quyết vấn đề đa số thống trị thiểu số, gây bất mãn? Câu trả lời là: Phải làm sao để tất cả mọi người trong xã hội đều đồng ý với nhau về luật chơi, chứ họ không nhất thiết phải đồng ý về kết quả cuộc chơi. Tương tự như trong bóng đá: Bạn có thể phẫn nộ trước việc đội tuyển U-20 Việt Nam thua Thái Lan, vì cho là kết quả thi đấu đó quá vô lý, nhưng bạn vẫn phải chấp nhận các luật chơi của trận bóng, ví dụ như trọng tài là vua trên sân trong thời gian thi đấu.
Vậy, điều quan trọng thứ nhất là phải thiết kế một xã hội sao cho trong xã hội đó, một thiểu số có thể bất mãn lúc này lúc khác về một sự kiện, nhưng không phải là bất mãn về cách thức xã hội vận hành để dẫn đến sự kiện ấy. Ngoài ra, điều quan trọng thứ hai là phải làm sao để mỗi một nhóm thiểu số nào đó đều chỉ bất mãn lúc này lúc khác thôi, chứ không phải bất mãn thường xuyên, liên tục.
ĐỊNH NGHĨA DÂN CHỦ CỦA PHILIPPE C. SCHMITTER VÀ TERRY LYNN KARL 1
Dân chủ là một hệ thống quản trị đất nước, trong đó, nhà cầm quyền phải chịu trách nhiệm – về tất cả các hoạt động của họ thuộc địa hạt công cộng – trước công dân, và công dân thực thi điều đó một cách gián tiếp thông qua, hay là nhờ có sự cạnh tranh và hợp tác giữa những người đại diện cho họ, do họ bầu ra.
1. “Democracy: A Reader”, Larry Diamond & Marc F. Plattner, John Hopkins University Press, 2009.
Sau đây, chúng ta phân tích từng khái niệm được đề cập đến trong định nghĩa này:
1. Hệ thống quản trị
Trả lời cho câu hỏi người ta có thể nắm giữ các cơ quan nhà nước chính như thế nào, những ai là người được chấp nhận hoặc bị loại khỏi tiến trình đó, đặc điểm của những người đó là gì, người ta có thể làm gì để vào được cơ quan nhà nước, trong việc ra các quyết
định ràng buộc cả cộng đồng thì có những luật lệ, quy tắc gì...
Ta hiểu rằng, “hệ thống quản trị” ở đây cũng giống như “hình thái tổ chức chính quyền” trong định nghĩa của Austin Ranney, và nó cũng chính là “chế độ”. Và dân chủ cũng chỉ là một trong các hệ thống quản trị xã hội, một trong các hình thái tổ chức chính quyền.
Ngoài chế độ dân chủ, xã hội loài người còn kinh qua nhiều kiểu chế độ khác, ví dụ như: quý tộc, độc tài, độc tài toàn trị, quân chủ chuyên chế, v.v...
2. Nhà cầm quyền
Hay còn gọi là nhà cai trị. Đó là (những) người nắm quyền lực và có thể ra lệnh cho người khác một cách chính danh – nghĩa là được xã hội chấp nhận.
Bạn có thể nghĩ, nếu vậy thì bằng bạo lực và dối trá, kẻ độc tài cũng có thể buộc cả xã hội phải chấp nhận hắn là nhà cai trị hay sao? Đúng vậy, kẻ độc tài có thừa khả năng để được công nhận là nhà cai trị. Điểm khác biệt với chế độ dân chủ là: 1. Hắn đã có được quyền lực bằng cách nào? (Bằng cách cướp chính quyền, lừa đảodân chúng, đe dọa và khủng bố dân chúng, hay thông qua một cuộc bầu cử tự do và công bằng?); Hắn có chịu trách nhiệm trước công dân về những hành động của hắn trong địa hạt công cộng hay không, và như thế nào?
3. Địa hạt công cộng
Từ “công” (tiếng Anh: public) có nghĩa là “của chung”, ngược với “tư” là “của riêng” (private). Địa hạt công cộng, theo nghĩa hẹp, là không gian công cộng, tức là tất cả những khu vực mà cộng đồng có thể đến – như đường sá, công viên, quảng trường, các không gian mở... Theo nghĩa rộng, nó là lĩnh vực công cộng, gồm toàn bộ những quy tắc, thông lệ mang tính tập thể, ràng buộc xã hội và có sự cưỡng chế thi hành của nhà nước.
Nhà cai trị trong chế độ dân chủ phải chịu trách nhiệm trước công dân về các hành động, hành vi, lời ăn tiếng nói của mình trong địa hạt công cộng, đó là điều chắc chắn. Ở trong không gian tư, của riêng họ, thì vấn đề trách nhiệm mới còn phải xem xét tùy trường hợp.
4. Cạnh tranh và hợp tác
Một trong các lý do dẫn đến tâm lý thù ghét dân chủ, là vì người ta ghét cạnh tranh, ghét các khái niệm “phe phái”, “lợi ích nhóm, hay “nhóm lợi ích”, “tư tưởng cục bộ”... Thế nhưng, cạnh tranh – giữa các chính trị gia, các đảng phái, tổ chức, nhóm lợi ích, phe phái – lại là một nhược điểm cần thiết của dân chủ.
Song song với cạnh tranh là hợp tác. Các chính trị gia hay các phe nhóm cũng thường xuyên phải thỏa hiệp, duy trì hợp tác để có thể cạnh tranh. Và ngay cả người dân cũng phải hợp tác với nhau (thông qua xã hội dân sự) để bảo vệ mình trước chính quyền, không để xảy ra lạm quyền và độc tài. (Xem Chương VI, “Xã hội dân sự”, trong Phần V, “Tương tác chính trị”).
5. Đại diện
Một chế độ dân chủ, nếu không thực thi dân chủ trực tiếp, thì sẽ phải có đại diện cho mỗi cộng đồng, mỗi nhóm lợi ích trong xã hội, để các đại diện đó tham gia vào tiến trình ra quyết định.
Những đại diện ấy là các chính trị gia, tức người làm chính trị chuyên nghiệp, xem làm chính trị là nghề của họ. Xã hội nào, nhà nước nào cũng phải có chính trị gia chuyên nghiệp. Vấn đề chỉ là: Những đại diện đó được chọn ra như thế nào, và sau đó họ phải chịu trách nhiệm trước người dân về các hành động của họ ra sao.
Bây giờ chúng ta sẽ bàn về vấn đề đại diện.
Chương II
CÁC HÌNH THỨC ĐẠI DIỆN
ĐẠI DIỆN THEO KHU VỰC ĐỊA LÝ
Đây là hình thức đại diện đơn giản nhất: Cả nước được chia thành nhiều khu vực địa lý, gọi là các đơn vị bầu cử. Việc chia này phải đảm bảo làm sao để các đơn vị bầu cử có số dân tương đương nhau. Mỗi đơn vị bầu cử rồi sẽ chọn ra một đại diện, được bầu ra theo đa số phiếu. Để hệ thống này vận hành hiệu quả thì ranh giới của các đơn vị bầu cử đều phải được định kỳ xác định lại và sửa đổi cho phù hợp với tỷ lệ tăng trưởng dân số.
Ưu điểm của hình thức đại diện này là đơn giản, tiện lợi, cử tri chỉ việc bỏ phiếu để chọn ra một đại diện trong đơn vị bầu cử của mình. Cử tri là dân ở đơn vị bầu cử, cho nên họ hiểu địa phương mình, hiểu các vấn đề của địa phương mình hơn người ngoài, và vì thế họ dễ dàng chọn ra đúng người có khả năng đại diện cho họ hơn. Về phía ứng cử viên, hình thức đại diện này ít tốn kém, bởi ứng cử viên chỉ phải vận động tranh cử trong một đơn vị bầu cử, thay vì phải đi khắp cả nước.
Do đơn giản, tiện lợi, dễ thực hiện, nên đây cũng là hình thức đại diện sơ khai nhất, lâu đời nhất.
Nhược điểm của hình thức đại diện theo khu vực địa lý thì khá nhiều:
Thứ nhất là tính cục bộ, địa phương. Cả cử tri lẫn ứng cử viên, trong quá trình tranh cử, đều có xu hướng chỉ quan tâm đến các vấn đề của địa phương mình mà không lưu tâm về các vấn đề của quốc gia. Sau khi trúng cử, vị đại diện được bầu ra cũng sẽ cục bộ như vậy để mong giữ được tín nhiệm của cử tri trong khu vực bầu cử của mình. Và cũng vì cục bộ, cử tri nói chung sẽ thích bầu cho ứng cử viên là người có gốc gác, sinh sống ở địa phương của mình, không bầu cho “người ngoài”, bất kể người ngoài tài đức đến đâu.
Thứ hai là dân số của các đơn vị bầu cử có thể thay đổi (tăng, giảm) theo thời gian, và điều đó ảnh hưởng tới khả năng đại diện của vị đại diện. Do đó, khi đã theo chế độ đại diện theo khu vực địa lý, ranh giới giữa các địa phương thường phải được điều chỉnh – sáp nhập, chia tách, thay đổi – cho phù hợp với dân số. Vấn đề là đảng cầm quyền có thể tranh thủ việc này để thay đổi dân số, thay đổi số phiếu theo hướng có lợi cho mình. Đó là một xảo thuật trong chính trị, gọi là gerrymander. Gerrymander có nghĩa là hành vi thay đổi đường ranh giới, diện tích, kích thước của một đơn vị bầu cử, nhằm giành lợi thế không chính đáng, không công bằng cho một cá nhân, tổ chức hay đảng phái. Khái niệm này chưa có cách gọi tiếng Việt.
Trong tiếng Anh, gerrymander là từ ghép giữa “gerry” và “mander”. Gerry là họ của Elbridge Gerry (1744-1818), chính trị gia người Mỹ, Thống đốc bang Massachusetts. Còn “mander” xuất phát từ “salamander”, có nghĩa là con rồng lửa.
Vào năm 1812, Thống đốc Gerry đã ký một luật vẽ lại bang Massachusetts nhằm giành lợi thế cho đảng mình trong một cuộc bầu cử thượng viện, và kết quả là đảng Dân chủ-Cộng hòa của ông ta đã chiến thắng. South Essex, một trong các district ở khu vực Boston, sau khi bị vẽ lại, có hình dáng trông rất giống một con rồng lửa. Về sau, báo chí phe đối lập chế ra từ “gerrymander” để chỉ trích ông Thống đốc. Kinh nghiệm của các nước (như Canada, Úc, Anh và nhiều nước châu Âu) là: Để giảm nguy cơ đảng cầm quyền lợi dụng địa vị lãnh đạo của mình để thay đổi ranh giới hành chính các địa phương trong thời gian tại vị nhằm làm lợi cho mình trong bầu cử, việc xác định ranh giới và phân chia đơn vị bầu cử nên được giao cho một cơ quan độc lập chịu trách nhiệm. Ví dụ như ở Úc, công việc đó là của Hội đồng Bầu cử Australia, một cơ quan hiến định, độc lập về chính trị, không trực thuộc quốc hội, cũng không của chính phủ.
Hạt South Essex sau khi vẽ lại.
Biếm họa được đăng trên một tờ báo ở Boston,
Massachusetts, vào tháng 5/1812.
Ở Việt Nam dưới thời cộng sản, trong suốt hàng chục năm, việc sửa lại địa giới hành chính, sáp nhập hay chia tách tỉnh cũng xảy ra không ít lần. Ví dụ Hà Đông và Sơn Tây sáp nhập thành tỉnh Hà Tây (năm 1965), 10 năm sau lại ghép thêm với Hòa Bình thành Hà Sơn Bình. Năm 1991, Hà Sơn Bình tách thành Hà Tây và Hòa Bình như giai đoạn từ 1965 đến 1975. Việc sáp nhập, chia tách này dĩ nhiên không nhằm điều chỉnh dân số và người đại diện cho phù hợp, mà xuất phát từ những mục đích chỉ chính quyền biết. Và trên thực tế, luôn luôn có một nhóm người hưởng lợi lớn từ việc đó, trong đó có những người may mắn, nhưng đa số hưởng lợi là do nắm lợi thế về thông tin quy hoạch, một cách bất công.
Riêng nhân dân các địa phương bị “ghép, nhập” thì luôn khổ sở, vì mỗi lần địa phương thay đổi ranh giới hành chính là lại một lần cư dân phải làm lại hết giấy tờ. Tệ hơn nữa, dân còn phải chịu thiệt thòi trong quá trình dịch chuyển, mua bán nhà và đất, bởi họ không có thông tin, họ ở địa vị bất lợi. Hẳn là bạn đọc nào cũng đã từng nghe những chuyện, những giai thoại kiểu như “nhà nọ bán đất, vừa bán hôm trước thì hôm sau giá mảnh đất họ bán tăng gấp cả trăm lần”. Đó là bởi vì họ không có may mắn để biết trước thông tinquy hoạch... nhưng tất nhiên đó là một chuyện khác rồi.
Nhược điểm thứ ba của đại diện theo khu vực địa lý, là ngay cả trong một đơn vị cử tri, vẫn có thể có những nhóm thiểu số không được đại diện bởi cộng đồng của họ quá nhỏ yếu, không đủ để có tiếng nói trong quá trình bầu cử. Ta lấy ví dụ, tỉnh Hà Giang có thể có cả một đoàn đại biểu Quốc hội, nhưng trong đó, không ai đại 
diện cho sắc dân Pu Péo vì cộng đồng người Pu Péo quá ít dân (khoảng 600-700 trên cả nước), không đủ để bầu được ai trong đoàn đại biểu Quốc hội của tỉnh.

Hỏi: “Cái status này có nói về Hà Nam Ninh. Trước đây, tôi còn có nghe nói về Cao Bắc Lạng, Hà Tuyên Thái? Nhờ chú chỉ giáo về những địa danh đó và cùng chia sẻ hiểu biết kiến thức lịch sử này (dĩ nhiên là “sự thật”). Xin cảm ơn chú.
Đáp: Đây là trò của Lê Duẩn, theo kế của Lê Đức Thọ. Khi cặp bài trùng này mới ra Bắc, mọi nhân sự cấp tỉnh đều do Trường Chinh bố trí từ trước. Muốn xóa bỏ ảnh hưởng của Trường Chinh, Duẩn gộp nhiều tỉnh lại làm một. Ba bí thư của ba tỉnh nay chỉ còn một (3 chủ tịch, 3 trưởng ty... cũng vậy). Sẽ xảy ra sự tranh giành, Duẩn-Thọ có thể ung dung chọn người trung thành với mình trong ba người. Ở cấp huyện cũng diễn ra theo cùng một bài bản. Vì thế mới xuất hiện những tỉnh mới: Hà-Nam-Ninh, Hà-Sơn-Bình, Lao-Hà-Tuyên, v.v. Việc quản lý một địa bàn rộng vượt quá khả năng của các quan tỉnh, họ càng phụ thuộc sự chỉ đạo của trung ương (tức Duẩn-Thọ). Hy vọng cách giải thích này đáp ứng được câu hỏi của bạn.
(Bạn đọc Duc Dao hỏi nhà văn Vũ Thư Hiên trên facebook cá nhân của ông Vũ Thư Hiên, ngày 26/1/2017).
ĐẠI DIỆN THEO TỶ LỆ
Đại diện theo tỷ lệ tức là mỗi thành phần, mỗi nhóm trong xã hội đều có đại diện (trong Quốc hội hoặc cơ quan nhà nước nào khác có bầu cử) với số lượng tỷ lệ thuận với dân số của thành phần hay nhóm xã hội đó.
Ưu điểm: Hình thức đại diện này nhằm đảm bảo các cộng đồng khác nhau trong xã hội đều được có tiếng nói. Xã hội như vậy sẽ có khá đa dạng tiếng nói, và những cơ quan dân cử như quốc hội cũng vậy. Sẽ không nhóm nào không được có đại diện, dù họ là thiểu số đến đâu.
Tuy nhiên, vấn đề ở đây là chúng ta chia xã hội thành các thành phần, nhóm hay cộng đồng khác nhau căn cứ vào tiêu chí hay đặc điểm gì. Chẳng hạn:
- Nếu theo sắc tộc, cả nước Việt Nam có 54 nhóm (trong đó Kinh là nhóm đông dân nhất, do đó, sẽ phải có số lượng người đại diện cao nhất).
- Nếu theo tôn giáo, cả nước sẽ phải có hàng chục nhóm, trong đó có cả nhóm những người “không theo tôn giáo nào” – họ cũng cần được đại diện. 1
- Nếu theo ngôn ngữ...
- Nếu theo nghề nghiệp...
- Nếu theo thành phần kinh tế...
- Nếu theo học vấn, giáo dục, thu nhập...
Bạn thấy đấy, việc xác định một cơ sở để phân nhóm rất phức tạp, gây tranh cãi, và đó là nhược điểm thứ nhất của đại diện theo tỷ lệ. Hình thức đại diện này còn một số nhược điểm khác như sau:
Thứ hai, nó giữ nguyên sự phân loại và phân nhóm trong xã hội, cũng như ấn định luôn một nhóm, ngay từ đầu, là đa số hay thiểu số (để từ đó ấn định số lượng người đại diện cho nhóm). Rất khó bcó sự thay đổi một nhóm từ thiểu số thành đa số hay ngược lại.
Thứ ba, nó duy trì và có thể thúc đẩy mâu thuẫn trong xã hội.
1. Rất khó thống kê được chính xác số lượng tôn giáo và các nhóm tôn giáo ở Việt Nam, nhất là khi dưới thời cộng sản, có nhiều nhóm hoạt động ngầm, không đăng ký và không chấp nhận sự kiểm soát của chính quyền. Họ không được chính quyền thừa nhận, thậm chí còn bị đàn áp nặng nề.
Nếu chỉ xét những nhóm có đăng ký, tính đến đầu năm 2016, ở Việt Nam có 40 tổ chức tôn giáo thuộc 14 tôn giáo được công nhận. (Số liệu do Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Nguyễn Thiện Nhân cung cấp cho Đức Hồng y Reinhard Marx – Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức – trong chuyến thăm Việt Nam của Đức Hồng y vào tháng 1/2016).
Cũng có những ý kiến cho rằng đại diện theo tỷ lệ làm xã hội mất ổn định về chính trị.
Ở các nước dân chủ, các nhóm thiểu số có xu hướng tự tổ chứcmình lại thành đảng phái. Người ta cho rằng các đảng, với tư cách là những tổ chức làm chính trị chuyên nghiệp, sẽ là đại diện tốt nhất và sẽ bảo vệ lợi ích của thành viên đảng mình cũng như của những người mà nó đại diện. Tuy nhiên, phân loại theo lợi ích, đường lối chính trị, ý thức hệ thì không thể phân chia cả xã hội được vì có những người, những nhóm người chẳng theo đường lối chính trị, ý thức hệ nào; trong khi đó, nguyên tắc của việc phân loại là không để sót thành phần nào không thể xếp loại.
Hệ thống tuyên giáo (tuyên truyền - giáo dục) cộng sản Việt Nam thường cố làm cho dân chúng nghĩ rằng “đảng nào thì cũng chỉ lo cho quyền lợi của đảng ấy thôi”, nhiều đảng thì sẽ có sự tranh giành quần chúng, và chia rẽ, gây mất ổn định chính trị. Kết luận của cộng sản: Đa đảng là loạn.
Thật ra, vốn dĩ hình thức đại diện theo tỷ lệ có thể tạo ra cạnh tranh và mâu thuẫn giữa các lợi ích khác nhau, cũng như thuộc tính cố hữu của chính trị là mâu thuẫn, cạnh tranh và hợp tác. Điều quan trọng là làm sao để tất cả các nhóm thiểu số đều có đại diện do họ bầu ra, đều có tiếng nói, và được bảo vệ thích hợp, trong khi người thắng cử vẫn là người được đa số phiếu bầu.
ĐẠI DIỆN THEO TỶ LỆ VÀ CÓ ƯU TIÊN CHO THIỂU SỐ
Một trong các nguyên tắc của dân chủ, như đã nêu ở đầu Phần III này, là tất cả mọi người đều phải được có tiếng nói. Như vậy, trong trường hợp có những nhóm nhỏ quá, không đủ để có đại diện trong quốc hội, thì để đảm bảo quyền lợi cho họ, phải dành sẵn cho họ một số lượng ghế nhất định. Ví dụ, cộng đồng người Pu Péo phải luôn có sẵn một ghế trong quốc hội, ở bất kỳ khóa nào. Đó là sự ưu tiên cho thiểu số.
29/8/2018
Phạm Đoan Trang
Theo https://luatkhoa.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chính trị bình dân 5 000000bbbbbbbb

Chính trị bình dân 5 Chương III HÀNH PHÁP Đây là nhánh thứ hai trong ba nhánh quyền lực cấu trúc nên bộ  máy nhà nước. Thực thể này thường đ...