Thứ Ba, 16 tháng 12, 2025

Chính trị bình dân 3 00000 aaaaaaa

Chính trị bình dân 3

Bài đọc
CÔNG LUẬN VÀ VIỆC LÀM CHÍNH SÁCH 1
Người dân Mỹ có vô vàn cách và vô vàn cơ hội để lên tiếng, do đó, các nhà làm chính sách ở mọi cấp chính quyền cần ý thức được về sự thay đổi trong các quan niệm của dân chúng. Ngoài việc trả lời khảo sát, thăm dò ý kiến các loại, người dân còn có thể biểu đạt chính kiến thông qua sự tham gia, bao gồm không chỉ việc đi bỏ phiếu bầu cử, mà còn là tham dự các cuộc họp/ hội thảo/ hội nghị, viết hoặc nói chuyện với các quan chức chính quyền, tham gia các nhóm lợi ích, và tham gia các cuộc trưng cầu dân ý hay các sáng kiến lập pháp đặt ở các điểm bỏ phiếu cấp bang hoặc địa phương.
Có những hình thức công dân tham gia trực tiếp vào việc làm chính sách, và nhiều bang cho phép sử dụng các hình thức đó. Ví dụ như vào năm 2004, cử tri ở bang Colorado phê chuẩn với tỷ lệ 54-46 một cuộc trưng cầu dân ý toàn bang về việc sử dụng năng lượng tái tạo mà trước đó, cơ quan lập pháp của bang đã bác bỏ tới ba lần (...). Năm 2008, cử tri bang Cali thông qua một cuộc trưng cầu dân ý cấm hôn nhân đồng giới, ngay cả sau khi một tòa án ở Cali đã ra phán quyết rằng việc cấm hôn nhân đồng giới trước đó, mà cơ quan lập pháp bang thông qua, là vi hiến.
Bằng trực giác, có thể thấy công luận rất quan trọng trong một nền dân chủ, ngay cả theo một cách ít trực tiếp hơn so với bỏ phiếu.
1. “Public Policy: Politics, Analysis, and Alternatives”, Kraft & Furlong, 3rd edition, CQ Press, 2009.
Tuy nhiên, sự thực là phần lớn công dân ít quan tâm đến chính quyền, chính trị, chính sách công. Họ bị những mối quan tâm khác che lấp đầu óc, về gia đình, công việc, nhà ở, và các vấn đề khác quan trọng với họ từng ngày. Kết quả là, họ có thể không có thông tin về các vấn đề chính sách, và họ có thể có những quan điểm sai lầm về chính sách. Các ý kiến như vậy thường được coi là thấp cả về tính gây chú ý lẫn cường độ.
Tính gây chú ý phản ánh mức độ quan trọng của một vấn đề đối với một cá nhân, còn cường độ nói lên sức mạnh của quan điểm, hay là quan điểm đó vững tới độ nào. Cả hai tính chất này đều quan trọng trong việc dự đoán xem liệu mọi người có hành động theo quan điểm của họ không và khả năng cao hay thấp. Ví dụ, hầu hết mọi người đều thể hiện lập trường ủng hộ việc bảo vệ môi trường; nhưng không ai đóng vai trò như nhà hoạt động môi trường khi họ dùng năng lượng, họ tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, v.v... Bởi vì chính sách môi trường là một vấn đề có tính gây chú ý thấp, nên ít có khả năng nó sẽ hình thành chủ trương của cử tri khi bỏ phiếu.
Tính ổn định là một chiều kích khác của quan điểm. Nó nói đến sự tiếp tục một quan điểm theo thời gian. Công luận vốn ngắn hạn và thay đổi rất nhanh, có thể bị tác động bởi các sự kiện nhất thời và cách trình bày vấn đề trên truyền thông cũng như từ giới quan chức. Một ví dụ rất hay là cái mà các nhà phân tích công luận gọi là hiệu ứng “tập trung xung quanh một ngọn cờ”, xuất hiện ở người dân khi mà một khủng hoảng mang tính quốc tế bỗng khuấy động lòng yêu nước và sự ủng hộ khác thường đối với tổng thống và các nhà lãnh đạo quốc gia khác. Tổng thống Mỹ George W. Bush rõ ràng đã đắc lợi từ hiệu ứng này sau sự cố 11/9; có thể thấy điều đó trong việc tỷ lệ ủng hộ ông bỗng tăng vọt. Nói như vậy là để chỉ ra rằng, thường rất khó mà biết được công dân muốn gì ở chính quyền và họ sẽ tán đồng với đề xuất chính sách nào. Tuy nhiên,b công luận càng ổn định về một vấn đề cụ thể nào đó, thì các nhà làm chính sách càng chắc chắn phải chú ý cân nhắc quan điểm của công chúng khi ra quyết định.
Một phần bởi vì rất ít người dân Mỹ tiếp cận chính quyền và chính sách công với một ý thức hệ (quan điểm, đường lối) rõ ràng và mạnh mẽ, nên họ thường dễ có những quan điểm không nhất quán về vai trò của chính quyền. Xét về khía cạnh ý thức hệ, đa số người Mỹ có xu hướng bảo thủ, tức là họ thích chính quyền nhỏ gọn, có giới hạn, và ít hành chính, ít luật lệ, quy định hơn, nói chung thế. Tuy nhiên, cũng chính đa số này chắc chắn lại muốn đòi hỏi chính phủ phải cung cấp nhiều dịch vụ, từ việc quy định về tiêu chuẩn an toàn thực phẩm - dược phẩm, đến quy định về chất lượng môi trường, từ việc đảm bảo giáo dục phổ cập đến việc bảo vệ trật tự, an toàn đời sống người dân. Cách mà dân chúng phản ứng với một chính sách bất kỳ phụ thuộc rất nhiều vào việc chính sách đó được trình bày đến người dân như thế nào. Khi những người khảo sát đặt câu hỏi cho người dân về các chương trình chính sách cụ thể, nói chung họ sẽ thấy công chúng tương đối ủng hộ. Cùng lúcđó, có thể các chính trị gia lại đang phải xin công chúng thông cảm, nếu công chúng công kích chính quyền, chỉ trích hệ thống hành chính quan liêu, các loại luật lệ quy định, thuế má... theo một cách rất chung chung.
Bất chấp việc công chúng nói chung thường rất hiểu rất ít về các vấn đề chính sách, có những lý do để tin rằng, nếu được trao cơ hội, các công dân đều sẽ rất thích các vấn đề công cộng và chính sách công, họ sẽ thích tìm hiểu về vấn đề và được có thông tin, họ sẽ sẵn sàng lên tiếng và gây ảnh hưởng tới chính sách công. Đặc biệt ở cấp độ địa phương, các công dân có thể và thực sự đã tham gia, và họ có tiếng nói rất lớn trong chính sách công. Thậm chí, ngay cả trong các lĩnh vực mang tính chuyên môn cao như điện hạt nhân và chính sách về chất thải hạt nhân, những nghiên cứu cũng chỉ ra rằng công dân có tiềm năng đáng kể để tham gia và gây ảnh hưởng.
Hơn nữa, chính quyền có rất nhiều cách để khuyến khích công dân tham gia nhiều hơn nếu họ muốn. Lấy ví dụ các cộng đồng dân cư
địa phương đang nỗ lực để được phát triển bền vững hơn chẳng hạn, họ có vô vàn cơ hội để công dân đóng vai trò trung tâm trong tiến trình chính sách.
Bài đọc
TỰ DO BÁO CHÍ KIỂU VIỆT NAM 1
Làm báo ở Việt Nam là một công việc nguy hiểm, chắc chắn vậy.
Cứ mỗi tuần, ở Hà Nội, Ban Tuyên giáo Trung ương của Đảng
Cộng sản Việt Nam, và ở TP.HCM thì bộ phận phía nam của ban
này, lại tổ chức các cuộc họp “định hướng” với lãnh đạo của những
tờ báo lớn trong nước.
Không phải là ngẫu nhiên khi tất cả các lãnh đạo báo đều là
đảng viên. Quan chức Bộ Thông tin Truyền thông và Bộ Công an
cũng có mặt. Những cuộc họp tương tự diễn ra ở tất cả các tỉnh, và
là những cuộc họp điển hình cho thấy hoạt động quản lý báo chí ở
Việt Nam hoàn hảo tới mức nào. Tại các cuộc họp này, ai đó ở Ban
Tuyên giáo sẽ đánh giá hoạt động của các báo trong tuần vừa qua,
biểu dương tờ nào biết phục tùng, khiển trách và đôi khi phạt
những tờ nào đi chệch hướng.
Theo kiểu “đứa đập đứa xoa”, hoạt động giám sát của đảng là sự
pha trộn giữa khuyên nhủ và thuyết phục với đe dọa và một chút
trấn áp. Mặc dù chẳng có cơ sở pháp lý nào, nhưng đảng vẫn xem
báo chí như là “lực lượng tuyên truyền”, phải chịu sự hướng dẫn và
chỉ đạo của đảng. Có lẽ bản thân đảng cũng hiểu cái sự vô lý của
1. Bài của Phạm Đoan Trang, bản gốc tiếng Anh đăng trên trang Asia Sentinel vào ngày
 
16/7/2013 tại địa chỉ: http://www.asiasentinel.com/politics/freedom-of-the-press-
vietnamese-style/
hành động nô dịch hóa này, vốn giẫm đạp lên các nguyên tắc pháp
luật và báo chí.
Một mặt, Ban Tuyên giáo chỉ đạo “các đồng chí biên tập, lãnh
đạo báo chí” phải đảm bảo rằng các phóng viên ở tòa soạn “được
định hướng đầy đủ”, trong khi một mặt khác, đảng lại muốn tất cả
mọi người giữ bí mật tuyệt đối về các chỉ đạo của đảng.
Thông tin về sự tồn tại của những cuộc họp hàng tuần như thế,
và nội dung của chúng, đôi khi cũng bị rò rỉ ra giới blog – diễn đàn
trên mạng nằm ngoài tầm kiểm soát của Ban Tuyên giáo. Vào
ngày 29/3/2011, hình như các nhà báo đã được chỉ thị là không
được đưa tin về chuyện diễn viên Hồng Ánh độc lập tranh cử đại
biểu Quốc hội; không được gọi nhà hoạt động bất đồng chính
kiến Cù Huy Hà Vũ là “Tiến sĩ Vũ” – ông Vũ khi đó đang sắp bị xét
xử vì tội tuyên truyền chống nhà nước; hạn chế đưa tin về sự cố 9
khách du lịch nước ngoài chết trong một vụ chìm tàu ở Hạ Long,
và tránh có các bài điều tra về quyết định xây nhà máy điện hạt
nhân của chính phủ.
Phiên xử ông Vũ đã là đối tượng của sự định hướng đặc biệt
chặt chẽ. Các nhà báo viết về đề tài này ở các báo lớn đều nhận
được một văn bản không con dấu, không chữ ký, ra lệnh cho họ
phải ca ngợi tính công minh của tòa án và sự đúng đắn của bản án,
và không được mở rộng bình luận, phân tích sâu.
Còn có những cú điện thoại và chỉ thị miệng định hướng cụ thể
đến các tổng biên tập về các chủ đề nhạy cảm. Đừng đưa tin về vụ
này – họ được dặn như thế; không làm đậm vụ kia, hạn chế viết về
các đề tài đó. Do không có bằng chứng vật chất nào về những định
hướng như thế, cho nên khi bị chỉ trích là bịt miệng báo chí về
chuyện này chuyện nọ, các quan chức của Bộ Thông tin Truyền
thông có thể trả lời một cách rất nghiêm túc rằng Việt Nam bị “các
thế lực thù địch” vu khống, bôi nhọ.
Trong một đoạn băng ghi âm bí mật, được lan truyền ngay sau
một cuộc họp định hướng vào tháng 12/2012, Phó Ban Tuyên giáo
Nguyễn Thế Kỷ bị ghi âm là đang chỉ trích báo chí vì đã đưa tin về
vụ tàu Trung Quốc cắt cáp địa chấn của một tàu thăm dò dầu khí
Việt Nam. Các báo có trích nguồn từ tập đoàn dầu khí quốc doanh
lẫn Bộ Ngoại giao thì cũng vậy thôi. “Các đồng chí phải làm rõ là
tàu Trung Quốc chỉ vô tình gây đứt cáp” – ông Kỷ nói – “chứ không
phải là cắt cáp, không chủ ý phá hoại chúng ta”.
Bản ghi âm ngay lập tức bị tung lên các blog bất đồng chính kiến
và sau đó lên trang tiếng Việt của BBC. Được đề nghị bình luận,
ông Kỷ nói với BBC rằng ông chỉ “trao đổi nghiệp vụ” với các báo
thôi.
Rõ ràng Ban Tuyên giáo rất bối rối vì vụ rò rỉ này. Nghe nói vào
cuộc họp định hướng tuần sau đó, các nhà báo gần như bị khám
người để tìm thiết bị ghi âm lén.
Hệ thống thẻ nhà báo là một biện pháp tinh vi để kiểm soát các
phóng viên. Không có thẻ thì không được tiếp cận thông tin.
Không có thẻ, phóng viên có thể phỏng vấn thường dân, nhưng
đừng hy vọng được gặp quan chức cấp cao, tiếp xúc với đầu mối
thông tin ở các cơ quan nhà nước hay đưa tin về các hội nghị, hội
thảo chính thống.
Hệ thống này đã vận hành từ lâu. Vào năm 2007 nó được luật
hóa bằng một thông tư của chính phủ. Thông tư này chỉ thị cho các
quan chức cấp thẻ báo chí phải chứng nhận – như là một trong các
điều kiện – rằng người được cấp thẻ nhà báo đã được tờ báo, tạp
chí hay cơ quan phát thanh, truyền hình nơi người đó công tác, Sở
Văn hóa-Thông tin địa phương và Hội nhà báo chi nhánh địa
phương cùng đề nghị cấp thẻ, và “không bị xử lý kỷ luật trong thời
hạn 12 tháng tính đến thời điểm cấp thẻ”.
Hệ thống thẻ nhà báo minh họa cái ranh giới rất mờ nhạt giữa
khu vực nhà nước, đảng cầm quyền và xã hội dân sự của Việt Nam.
Bề ngoài báo chí là một định chế xã hội dân sự, và báo, tạp chí, đài
phát thanh, truyền hình không phải cơ quan công vụ.
Nói theo ngôn ngữ pháp lý, căn cứ Điều 69 Hiến pháp Việt
Nam, công dân có quyền “tự do ngôn luận, tự do báo chí; [và] có
quyền được thông tin”, nhà nước không có cơ sở nào để quy định
việc ai là nhà báo, ai không phải nhà báo, tất nhiên chỉ trừ phi lời
hứa đó bị đè bẹp bởi nghĩa vụ của nhà nước ở Điều 33, rằng nhà
nước “nghiêm cấm những hoạt động văn hoá, thông tin làm tổn
hại lợi ích quốc gia...”.
Trong mọi trường hợp, Ban Tuyên giáo đều vơ lấy cho mình cái
quyền đó, và họ mặc định báo chí Việt Nam là “cơ quan ngôn luận
của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội”. Luật
Báo chí Việt Nam còn buộc các nhà báo phải “tuyên truyền, phổ
biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, thành tựu văn hoá, khoa học, kỹ thuật trong nước và thế
giới theo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí”.
Kết quả là rất nhiều nhà báo phải chịu sự định hướng của một
lực lượng công chức mà năng lực truyền thông dứt khoát là thua xa
họ.
 
Đồng nghiệp cố gắng ghi hình nhà báo Hoàng Khương sau phiên xử.
 
Nguồn ảnh: Tuổi Trẻ
 
Không có thẻ nhà báo, người ta không được coi là nhà báo và có
thể bị cấm tiệt khỏi việc tham dự các sự kiện, mà không cần lời giải
thích nào và chỉ theo yêu cầu bất chợt của ban tổ chức, cơ quan
công an, cơ quan nhà nước.
Chính quyền Việt Nam cố ý tận dụng điều đó. Họ tìm cách gây
đối đầu giữa “lề phải” (nhà báo có thẻ) và “lề trái” (phóng viên tự
do, bao gồm cả blogger). Không phải lúc nào họ cũng thành công.
Bộ máy tuyên truyền và an ninh của đảng biết rõ hơn ai hết về sức
mạnh của sự bí mật. Công khai và minh bạch là kẻ thù. Tuy nhiên
giờ đây những kẻ kiểm soát thông tin đang phải đối đầu với một
mối nguy mới: các nhà báo có thẻ rò rỉ thông tin – những đề tài bị
cấm đoán – ra cho các đồng nghiệp của họ ở môi trường blog.
Vào ngày 30/10 năm ngoái (tức là năm 2012 – NV), Huyền
Trang bị bắt và thẩm vấn trong một đồn công an ở TP.HCM. Khi
cô nói rằng cô là phóng viên của Dòng Chúa Cứu Thế, một trang
tin của nhà thờ Công giáo, nhân viên công an quát vào mặt cô: “Ai
công nhận chúng mày là nhà báo hả? Thẻ tác nghiệp của chúng
mày đâu? Một lũ ăn không ngồi rồi, rồi rủ nhau phản động hả?”.
Trang không phải trường hợp duy nhất. Các nhà báo tự do
thường bị hạch sách quấy nhiễu, thậm chí hành hung bởi công an
hoặc côn đồ. Đơn thư tố cáo, khiếu nại của họ bị phớt lờ bởi vì họ
không phải là “nhà báo đang thi hành công vụ” trong mắt chính
quyền. Điếu Cày và Tạ Phong Tần hiện đang phải chịu án tù dài dài,
chủ yếu bởi vì họ đã thành lập ra “Câu lạc bộ Nhà báo Tự do”. 1
Trương Duy Nhất bỏ nghề báo chính thống để làm blogger, chủ
blog “Một góc nhìn khác”. Ông bị bắt vào ngày 26/5/2013 vì tội “lợi
dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” theo Điều 258 Bộ
luật Hình sự. 2
1. Blogger Điếu Cày (tên thật là Nguyễn Văn Hải, sinh năm 1952) bị kết án 12 năm tù vì tội
“tuyên truyền chống Nhà nước” theo Điều 88 Bộ luật Hình sự. Ông được trả tự do vào
ngày 21/10/2014 và bị trục xuất sang Mỹ ngay lập tức, sau tổng cộng 6 năm, 6 tháng, 2
ngày ngồi tù. Blogger Tạ Phong Tần (án 10 năm tù, cùng vụ) được trả tự do và trục xuất
sang Mỹ theo cách tương tự vào ngày 19/9/2015.
2. Nhà báo Trương Duy Nhất, nguyên phóng viên báo Đại Đoàn Kết, tuyên bố rời bỏ báo
Nghe tin Nhất bị bắt tạm giam, nhà báo chính thống Đức
Hiển bình luận trên trang facebook cá nhân rằng “vấn đề của một
nhà báo là phải có thông tin. Khi thiếu khả năng hoặc cơ hội tiếp
cận thông tin thì góc nhìn nếu khác là chửi đổng mà nếu giống là
a dua...”.
Bình luận kiêu ngạo của ông Hiển là không chấp nhận được đối
với các blogger bất đồng chính kiến, nhưng phải thừa nhận rằng
nhìn từ giác độ chính quyền thì ông đúng. Khả năng tiếp cận thông
tin làm nên sự khác biệt lớn giữa nhà báo và blogger, giữa nhà báo
có thẻ và nhà báo tự do.
Việt Nam không nằm trong số các nước nguy hiểm đối với nhà
báo. Nhà nước không cần phải giết nhà báo để có thể kiểm soát
truyền thông, bởi vì nói chung, các nhà báo có thẻ của Việt Nam
không được phép làm việc gì để đến mức phải bị giết. Các phóng
viên hầu như không độc lập, không điều tra; không có cái gì tương
tự như báo chí chống tham nhũng, và do đó, báo chí chẳng gây
được mối nguy hiểm nào đối với các nhóm lợi ích.
Một bình luận gần đây (năm 2013 – NV) trên Anh Ba Sàm –
một trang blog đối kháng – cho rằng “Trên đất nước xã hội chủ
nghĩa tươi đẹp này, có hai nơi được giữ bí mật như cung cấm. Đó
là phòng họp Ban Chấp hành Trung ương/ Bộ Chính trị Đảng
Cộng sản Việt Nam, và... nhà tù”. Bình luận hoàn toàn chính xác.
Mọi vấn đề có khả năng làm suy mòn tính chính danh của
chính quyền, hoặc đe dọa sự tồn tại của đảng, đều được coi là bí
mật quốc gia hoặc được xem như “trường hợp đặc biệt”. Mấy năm
gần đây, nổi bật trong các chủ đề này là chuyện quan hệ Việt Nam
– Trung Quốc.
Báo chí sẽ không bao giờ tìm thấy một văn bản nào cho biết lập
trường của đảng đối với các đồng chí Trung Quốc của họ, hoặc
chính thống vào năm 2010. Năm 2013 ông bị bắt, lĩnh án tù hai năm theo Điều 258 Bộ
luật Hình sự. Ông ra tù ngày 26/5/2015.
một tài liệu nào hướng dẫn việc quản lý báo chí trong vấn đề này.
Giỏi nhất thì dư luận cũng chỉ có thể đoán rằng đây là một vấn đề
hết sức nhạy cảm, thể hiện qua những vụ xử lý các cơ quan báo chí
đi chệch một sợi chỉ đỏ vô hình nào đó, hoặc thể hiện qua công sức
các nhà tổ chức bỏ ra để ngăn chặn phóng viên tiếp cận các hội
thảo khoa học quốc tế về tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông,
hoặc qua những quy định rằng tin bài liên quan đến biểu tình
chống Trung Quốc phải “vạch trần âm mưu của các thế lực phản
động lợi dụng lòng yêu nước”.
Báo chí chính thống có thể nhìn thấy rõ hơn sự bất an của chính
quyền. Tâm lý bất an đó bộc lộ trong vô số những cú điện thoại gọi
tới các tổng biên tập, chủ bút, thậm chí cả tới các phóng viên
thường, để nhắc nhở họ mỗi khi có diễn biến mới. Báo chí bị cấm
truyền tải sự bất an này tới công chúng, cho dù các độc giả có thèm
khát được biết nhiều hơn – về cuộc khủng hoảng đang ngày càng
sâu sắc với Trung Quốc – đến mức nào chăng nữa.
Khi cung về thông tin không đáp ứng được cầu, các hậu quả sau
đây là tất yếu:
Tin vỉa hè, tin đồn thống trị các diễn đàn. Thuyết âm mưu tràn
ngập, chẳng hạn chuyện thường được người ta rỉ tai nhau rằng
“đảng đã bán nước cho Tàu”. Phóng viên nào cố gắng duy lý và cởi
mở đều muốn có thông tin để họ sử dụng nhằm bác bỏ các tin đồn
đó. Quả thật, khi mà báo chí bị cấm đưa tin, viết bài về tất cả những
gì họ biết, cùng với việc báo chí bị dội bom “định hướng” bằng
hàng loạt tin nhắn, điện thoại gọi đến và các chỉ thị mơ hồ, thì một
nhà báo thật sự duy lý sẽ khó mà không tự hỏi mình: “Thật sự thì
chính quyền đang làm gì?”.
Việc đưa tin, viết bài về tranh chấp Biển Đông trở thành một
thứ trái cấm hấp dẫn đến mức một số báo và nhà báo bị cám dỗ
phải vượt qua ranh giới để viết, mặc dù họ có thể chưa chuẩn bị kỹ
càng. Tranh chấp chủ quyền vốn dĩ là một chủ đề khó, mà báo chí
lại chỉ có rất ít chuyên gia và tài liệu đáng tin cậy để tham khảo.
Do đó, cũng đúng thôi khi người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt
Nam, bà Nguyễn Phương Nga (nhiệm kỳ 2009-2011), phàn nàn
rằng “một số tờ báo có vẻ như xem chủ quyền quốc gia là chủ đề
nóng để câu kéo độc giả và tăng doanh số quảng cáo”.
Tít giật gân, những giai thoại không thể kiểm chứng, cùng các
“dữ kiện” sai lệch át đi các bài viết có chất lượng. Phóng viên đi tìm
các nguồn nhân vật có định kiến nặng chống Trung Quốc. Chất
lượng tồi tệ của báo chí chính thống khiến cho chính quyền càng
có thêm lý do để bao biện cho việc họ duy trì kiểm soát chặt chẽ
báo chí, đặc biệt trong vấn đề khủng hoảng Biển Đông.
Những người bảo vệ chế độ thường lập luận rằng người nào
thật sự muốn có thông tin thì đều sẽ có được những câu trả lời rõ
ràng, tức là, nếu ai thật lòng lo lắng về khuynh hướng quan hệ của
Việt Nam với Trung Quốc thì phải chăm chỉ học tập hơn. Nói như
thế thì chế độ không còn nghĩa vụ nào là phải minh bạch, công
khai thông tin trong quan hệ của họ với công luận hay với báo chí
quốc gia nữa.
Chương III
ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG ĐẢNG

Chúng ta bắt đầu quá trình tìm hiểu bằng bước căn bản nhất: định
nghĩa.
ĐẢNG LÀ GÌ? THẾ NÀO LÀ MỘT ĐẢNG CHÍNH TRỊ?
Đảng là một nhóm có tổ chức, gồm các cá nhân nhất trí với nhau
về một hoặc một số nguyên tắc chính trị chung (có thể là một ý
thức hệ hay một chính sách v.v.) và cùng nhau hoạt động để giành
và giữ quyền lãnh đạo – nhằm phục vụ lợi ích quốc gia và hưởng
lợi từ việc có được quyền lãnh đạo đó.
Tất nhiên, cũng tồn tại những đảng nhỏ yếu đến mức họ không
có cơ hội nào tham gia cạnh tranh với các đảng khác, mưu giành
quyền lãnh đạo. Với những đảng nhỏ yếu như vậy, mục đích của họ
là giành một chỗ đứng trong chính trường.
Từ đó, ta thấy rằng đảng chính trị có ba đặc điểm: 1. Có tổ chức;
2. Chung đường lối; 3. Mục đích tối thượng là giành và giữ quyền
lực nhà nước. Trong đó, đặc điểm số ba là đặc thù của đảng phái,
đã là đảng phái thì phải hoạt động nhằm giành và giữ quyền lực
nhà nước.
Hẳn từ lâu, bạn đã quen nghe những lập luận kiểu như “đảng
nào thì cũng vì lợi ích của đảng ấy thôi, chẳng có đảng nào vì dân”.
Không biết những người nói như vậy có tính cả đảng cộng sản
trong đó hay không?
Tuy nhiên, cũng đúng là đảng nào cũng vì lợi ích của đảng ấy và
thành viên đảng ấy mà thôi. Có điều, vì mục đích của các đảng đều
là giành, giữ quyền lực nhà nước và hưởng lợi từ việc giữ quyền ấy,
cho nên các đảng sẽ phải cố gắng làm sao để lấy lòng dân, để thu
hút được nhiều phiếu bầu của người dân nhất. Do đó, khi các đảng
đang vận hành vì lợi ích của mình, đang tranh giành quần chúng,
một cách tự nhiên, họ làm lợi cho cử tri của họ, tức là cho dân.
Chính là trong cơ chế độc đảng, không có cạnh tranh chính trị,
thì mới có chuyện đảng duy nhất đó chỉ quan tâm đến quyền lợi
của nó và bỏ mặc quần chúng, tức những người ở ngoài nó.
A: Đảng nào thì cũng chỉ vì quyền lợi của đảng ấy thôi chứ lo gì cho dân,
cho nên đa đảng thì chỉ tổ các đảng đấu đá, tranh giành quyền lực, làm
loạn xã hội. Thà một đảng mà chăm lo cho dân còn hơn.
B: Đa đảng, có cơ chế cạnh tranh, mà đảng nào cũng chỉ lo quyền lợi của
mình. Thế thì làm thế nào mà một đảng, lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối,
không phải cạnh tranh với ai, lại chăm lo cho dân được? Làm cách nào?
Xin nhấn mạnh mục đích của đảng phái là “hoạt động chính trị
để tiến tới nắm chính quyền và cai quản xã hội theo đường lối của
họ”. Đây là điều làm cho đảng phái khác với một tổ chức xã hội dân
sự nói chung và tổ chức chính trị nói riêng. Tổ chức xã hội dân sự
có thể tham gia chính trị, tiến hành các phong trào xã hội (như
Occupy Central chẳng hạn), các chiến dịch vận động (như vận
động cho nhân quyền Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc), nhưng chừng
nào họ không có mục đích nắm chính quyền, chừng đó họ vẫn
không phải là đảng phái.
Chỉ khi nào một tổ chức, ví dụ như Hội Anh Em Dân Chủ,
Phong trào Liên đới Dân Oan... theo đuổi việc giành chỗ đứng
trong chính quyền, kiểm soát chính quyền, họ mới trở thành đảng
phái chính trị.
Bởi vậy cho nên, nếu một đảng, ví dụ Việt Tân, nói với bạn rằng
họ không có mục đích giành ngôi vị lãnh đạo đất nước, thì bạn
đừng tin, vì nếu như thế họ không còn là đảng nữa. Đã là đảng,
phải tham gia chính trị nhằm kiểm soát cương vị lãnh đạo, điều
hành nhà nước. Họ có thể chấp nhận chia sẻ hoặc không chia sẻ
quyền lãnh đạo đó với đảng khác, nhưng việc giành quyền lực
chính trị càng nhiều càng tốt luôn phải là mục đích tối hậu của mọi
đảng phái.
Cũng bởi vậy, nên khi Điều 4 Hiến pháp Việt Nam quy định
“Đảng Cộng sản Việt Nam (...) là lực lượng lãnh đạo nhà nước và
xã hội”, thì mặc dù không nói trắng ra là cấm đa đảng, nhưng Điều
4 này đã nhẹ nhàng và nghiêm khắc loại bỏ sự tồn tại của tất cả các
đảng khác. Bởi vì chẳng có đảng nào lại không hoạt động để giành
quyền lãnh đạo.
Đó là mục đích của đảng, là cái mà nó hướng tới. Vậy các chức
năng của nó là gì, hay nói cách, đảng làm được gì, đảng phái có lợi
gì cho một xã hội? Phần dưới đây là câu trả lời.
CHỨC NĂNG CỦA ĐẢNG PHÁI
1. Nâng cao nhận thức dân chúng
Sự tồn tại của các đảng phái có một ý nghĩa quan trọng là nâng cao
nhận thức chính trị của người dân, cung cấp thông tin cho người
dân về các vấn đề công cộng, các vấn đề chính sách thông qua các
hoạt động vận động tranh cử, truyền thông chính trị của họ.
Sự thờ ơ, vô cảm của phần đông dân chúng Việt Nam dưới thời
cộng sản có nguyên nhân rất lớn là chế độ độc đảng: Vì chỉ có một
đảng, người dân hầu như không còn cơ hội tham gia chính trị, và
đảng duy nhất đó không có động lực thực hiện các hoạt động vận
động tranh cử, truyền thông chính trị, nên dẫn đến nhận thức
chính trị của dân chúng bị hạn chế đáng kể.
2. Cung cấp nhân sự lãnh đạo cho nền quản trị quốc gia
Chức năng thứ hai của đảng phái là cung cấp nhân sự lãnh đạo cho
bộ máy chính quyền, thông qua việc đề cử các ứng viên để dân
chúng lựa chọn hoặc qua việc chỉ định. Nói cách khác, đảng là tổ
chức sản sinh ra các chính trị gia. Một trong các chức năng của một
đảng chính trị là tuyển lựa, chiêu mộ và đề cử người cho vị trí lãnh
đạo các cơ quan cấp cao của nhà nước.
Vậy các cá nhân có thể tự ứng cử vào vị trí lãnh đạo mà không
cần thông qua đảng phái nào, ví dụ một bác sĩ giỏi có thể tự ứng cử
vào ghế bộ trưởng y tế không? Câu trả lời: Tất nhiên là có, nhưng
thường thì nên có tổ chức. Vì lý do đơn giản là chúng ta không thể
tự mình làm hết mọi việc được; chuyện này lại liên quan đến một
khái niệm của ngành kinh tế học, là “chi phí cơ hội”.
Nếu bạn vừa phải làm chuyên môn (y tế), vừa lo vận động tài
chính, gây quỹ để làm truyền thông, quảng bá mình, vừa tiếp xúc
cử tri để lấy lòng họ, lại vừa phải lo cả khoản hình ảnh (trang điểm,
phục sức khi xuất hiện trước công chúng v.v.), thì cứ cho là bạn giỏi
tất cả mọi việc, bạn cũng sẽ mất rất nhiều chi phí, trong đó luôn
luôn có chi phí cơ hội. Chính vì vậy, bạn cần có tổ chức, với các
nhân sự chuyên vào các công việc khác nhau, cụ thể là vào công
việc mà chi phí cơ hội của họ là thấp nhất: Bạn sẽ có người của
đảng lo hộ bạn khâu gây quỹ, người khác lo việc xây dựng hình ảnh
cho bạn, người khác nữa làm cố vấn về chuyên môn và chính sách,
v.v. Nói cách khác, đảng là một tổ chức làm chính trị chuyên nghiệp.
Nếu bạn muốn làm chính khách, bạn nên là thành viên của một
đảng nào đó.
Ở Việt Nam, công dân không có quyền ứng cử vào cơ quan hành
pháp. Dù bạn có là một bác sĩ vừa giỏi chuyên môn, vừa có năng lực
tổ chức và quản lý, bạn cũng không thể tự ứng cử vào chức bộ
trưởng y tế. Bạn phải được thủ tướng (là đảng viên cộng sản) đề cử
và được quốc hội (với 95% thành viên là đảng viên cộng sản, 5% là
đội ngũ dự bị của đảng cộng sản) phê chuẩn – và đấy mới là vấn đề.
Poster của Chó Hai Đuôi (MKKP) - một tổ chức chính trị ở Hungary chưa
được đăng ký chính thức làm đảng, vì lý do tên gọi không nghiêm túc.
 
3. Lập chính sách công
Chức năng thứ ba của đảng phái nói chung là đưa ra các chính sách
công hay là cung cấp các giải pháp chính sách, thể hiện thông qua
cương lĩnh, chương trình hành động của đảng với cam kết sẽ thực
thi chúng nếu họ thắng cử và nắm được chính quyền.
Các đảng đều có đường lối, cương lĩnh chính trị riêng, và đó là
nền tảng để họ ban hành chính sách công. Về điểm này, có thể ví
chính trị như một thị trường, mà mỗi đảng phái là một công ty
cung ứng sản phẩm, sản phẩm đó là các giải pháp để đáp ứng nhu
cầu của người tiêu dùng vậy.
4. Phê bình, phản biện chính sách công
Bên cạnh việc đưa các giải pháp chính sách ra “chào mời”, các đảng
phái cũng có chức năng phản biện chính sách, nhất là đảng đối lập.
Và, bạn thấy đấy, đó cũng là lý do tại sao phải đa đảng: Thị trường
mà chỉ có một nhà cung cấp thì chắc chắn chất lượng sản phẩm và
dịch vụ của nhà cung cấp ấy chẳng ra gì, không sớm thì muộn.
Xin nhấn mạnh chức năng phản biện chính sách của các đảng
phái: Đặt trong bối cảnh Việt Nam, đây là điều bắt buộc phải có.
Đảng Cộng sản Việt Nam, với tư cách đảng cầm quyền duy nhất,
đã sở hữu quá thừa đội ngũ cố vấn chuyên về minh họa chính sách,
giải thích đường lối, chủ trương của đảng và nhà nước cho người
dân, mà không có được lực lượng phản biện chính sách chuyên
nghiệp – các đảng đối lập. Thiếu phản biện, không có cạnh tranh
chính trị, không phải chịu sức ép gì, tất cả những điều đó đã đẩy
đảng Cộng sản đi từ sai lầm này tới sai lầm khác trong việc điều
hành đất nước.
Mỹ là nơi những đảng phái đầu tiên ra đời, và cũng là nơi mà
quyền tự do ngôn luận được bảo vệ rất mạnh mẽ. Ta thường chỉ
nghe nói tới hai đảng chính ở Mỹ là Dân chủ và Cộng hòa, nhưng
bên cạnh đó, nền chính trị nước này còn có hàng chục đảng lớn
nhỏ khác, không có cơ hội giành quyền thì cũng tranh nhau phản
biện đảng cầm quyền. Có câu nói vui: Nhìn chung, các đảng phái ở
Mỹ giỏi phê phán hơn là điều hành đất nước. (Các tuyên truyền
viên của đảng Cộng sản Việt Nam hẳn là rất thích nghe điều này).
Càng tự do, dân chủ, các đảng càng phản biện, tranh luận và cạnh
tranh nhiều. Nhưng làm sao ta có thể không thừa nhận tính ưu việt
của thực trạng đó được.
5. Làm cầu nối với dân
Chức năng thứ năm của đảng phái là làm sợi dây nối kết chính
quyền và người dân. Điều này đặc biệt đúng ở các đảng đối lập. Ta
lấy ví dụ, dưới thời cộng sản, nông dân Việt Nam muốn tư hữu hóa
đất đai. Nếu như có đảng đối lập thì khi ấy, nông dân có thể vận
động đảng đối lập lên tiếng, gây sức ép với đảng Cộng sản cầm
quyền để sửa đổi hiến pháp và luật đất đai. Trên thực tế, điều này
đã không xảy ra, do Việt Nam chỉ có một đảng.
Đảng phái chính là một cơ chế để thông qua đó, người dân lên
tiếng hay nói đúng hơn, những nhóm dân khác nhau lên tiếng.
Trong chế độ đa đảng, tồn tại nhiều đảng đối lập, công chúng dễ
dàng có tiếng nói hơn nhiều. Ít nhất, ta cũng có thể thể hiện nhu
cầu và nguyện vọng bằng cách bầu cho một đảng có đường lối,
chính sách đúng ý mình, và không bầu cho đảng có đường lối,
chính sách trái ý mình.
6. Đoàn kết những người chung tư tưởng
Người ta cho rằng hai đảng Cộng hòa và Dân chủ ở Mỹ đã thực
hiện tốt chức năng thứ sáu của đảng phái, đó là đoàn kết, thống
nhất người dân thuộc các tôn giáo, sắc dân, ngôn ngữ, chủng tộc
khác nhau.
Từ định nghĩa và một số chức năng nói trên của một đảng phái,
chúng ta có thể chắc chắn một điều, rằng: Đa đảng không đảm bảo
dân chủ. Nhưng một đảng thì chắc chắn là độc tài.
HỆ THỐNG ĐẢNG
Hệ thống đảng là mạng lưới quan hệ giữa các đảng với nhau.
Khi tìm hiểu về một hệ thống chính trị, chúng ta không thể
không tìm hiểu về quan hệ giữa các đảng với nhau, bởi nó là yếu tố
quyết định cách vận hành của hệ thống chính trị, là chỉ dấu quan
trọng cho thấy một đất nước dân chủ đến đâu.
Phân loại hệ thống đảng: Trên thế giới xưa nay, có hai hệ thống
đảng chính là: 1. Đa đảng; 2. Độc đảng.
Đa đảng là hệ thống có từ hai đảng trở lên, cùng hoạt động,
cạnh tranh bình đẳng với nhau, làm giảm khả năng một đảng nắm
trọn chính quyền và tăng khả năng các đảng phải liên minh Tuy
nhiên, ngay cả chế độ đa đảng cũng có một số “biến thể” khác,
không đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng, như sau:
- Lưỡng đảng: Là hệ thống trong đó có thể có nhiều đảng nhưng
chỉ hai đảng đủ mạnh để luân phiên giành quyền lãnh đạo: Một
đảng nắm đa số ghế trong quốc hội, đảng kia là đảng đối lập. Ví dụ:
Mỹ, Anh.
- Bá quyền: Là hệ thống trong đó có nhiều đảng được phép tồn
tại, nhưng chỉ khi được sự cho phép của một đảng cấp cao nhất; và
họ tồn tại nhưng không được phép tranh cử, không được phép
cạnh tranh với đảng đó. Về bản chất, loại hình này không khác độc
đảng là bao. Ví dụ: Trung Quốc, Việt Nam (1954-1975 ở miền Bắc
và 1975-1987 trên cả nước).
- Một đảng chi phối: Là hệ thống trong đó có nhiều đảng được
phép tồn tại và tranh cử, nhưng một đảng luôn chiến thắng, luôn
giành gần như tất cả phiếu bầu. Ví dụ điển hình là Singapore.
Đa đảng không đi đôi với dân chủ. Những nhà nghiên cứu
khoa học chính trị trên thế giới đã chỉ ra rằng, tồn tại những thể
chế đa đảng mà phi dân chủ hoặc kém dân chủ, như trường hợp
Trung Quốc: Đa đảng, song tất cả các đảng đều phải chịu sự lãnh
đạo, quản lý của đảng cầm quyền trong một mặt trận thống nhất.
Còn có trường hợp, tuy đa đảng, song đảng cầm quyền liên tục
thắng cử, giành hết mọi lợi thế để tiếp tục tạo đà... thắng cử tiếp,
đẩy các đảng khác vào thế đã yếu ngày càng yếu hơn. Những tiếng
nói đối lập bị o ép nhiều bề, bị trấn áp thông qua nhiều hình thức
tinh vi. Đó là trường hợp của Singapore với Đảng Nhân dân Hành
động (PAP).
Lại có một loại thể chế, loại chế độ mà bà Phó Chủ tịch nước
Nguyễn Thị Doan (nhiệm kỳ 2007 - 2016) bảo là “dân chủ gấp vạn
lần tư bản”, nhưng vì nó chỉ có một đảng mà suốt hàng chục năm
qua không phải chịu sự cạnh tranh hay chí ít là phản biện nào, nên
người viết không biết làm cách nào mà nó dân chủ được. Nếu
không tin, đố bạn – không phải là đảng viên cộng sản – tham gia
vào chính trường trong cái thể chế đó đấy! Chưa kể, trong hệ thống
chính trị ấy, nếu bạn thành lập và/hoặc tham gia một đảng nào
khác ngoài đảng Cộng sản, bạn đối mặt với nguy cơ tù tội rất cao
(vi phạm Điều 79 Bộ luật Hình sự, “hoạt động nhằm lật đổ chính
quyền nhân dân”, hoặc tội khủng bố, thậm chí phản quốc, v.v.).
Độc đảng, tức là chỉ một đảng được phép tồn tại. Chúng ta có
ngay một ví dụ rất điển hình là hệ thống chính trị của nước
CHXHCN Việt Nam.
Ở Việt Nam, hoạt động đảng phái dẫn đến tù tội. Đó là một
thực tế. Dù vậy, trên lý thuyết, vẫn phải khẳng định sự cần thiết của
các đảng phái chính trị trong mọi xã hội.
CHÍNH TRỊ TRONG ĐẢNG
Về cấu trúc, mỗi đảng thường có một ban chấp hành (hay còn gọi
là ban điều hành). Đó là cơ quan hoạch định các chính sách của
đảng trên toàn quốc. Bên cạnh đó là một cấu trúc cấp ủy trung
ương - địa phương, thường dựa trên cấp bầu cử. Chẳng hạn vì Việt
Nam có bốn cấp bầu cử là Quốc hội - Hội đồng Nhân dân tỉnh -
Hội đồng Nhân dân huyện - Hội đồng Nhân dân xã, nên đảng
Cộng sản cũng chia làm bốn cấp chính là Ban Chấp hành Trung
ương - Tỉnh ủy - Huyện ủy - Đảng ủy xã.
Thành viên của đảng được gọi là đảng viên, gắn bó trực tiếp,
mật thiết với đảng và được công nhận một cách chính thức, ví dụ
thông qua lễ kết nạp và được cấp thẻ đảng, sinh hoạt trong một chi
bộ đảng nhất định. Quyền và nghĩa vụ của đảng viên với đảng như
thế nào thì tùy theo điều lệ, quy định của mỗi đảng, nhưng nói
chung mức độ gắn bó và trung thành của đảng viên với đảng phải
cao hơn của cảm tình viên. Chẳng hạn như đảng viên thì phải đóng
đảng phí và phải chấp hành chủ trương của đảng.
Cảm tình viên của một đảng là người ủng hộ đảng đó (ví dụ: bỏ
phiếu bầu cho đảng viên của đảng), nhưng có thể: không hỗ trợ tài
chính; không dự họp, mít-tinh hay các sự kiện khác của đảng; không
phát tờ rơi, truyền đơn cho đảng; không có đóng góp gì cho đảng.
Mỗi đảng còn có thể thành lập và vận hành các tổ chức ngoại vi
dành cho một nhóm đảng viên hoặc cảm tình viên, ví dụ lập ra
đoàn thanh niên, tổ phụ nữ, dân tộc thiểu số, v.v. của đảng. Trước
năm 1945, đảng Cộng sản Việt Nam từng lập ra Hội Nhi đồng Cứu
vong, Đoàn Thanh niên Cứu quốc, Nông hội Đỏ, Phụ nữ Đỏ...
Thời có mạng xã hội, đảng Việt Tân cũng lập ra Cộng đồng Việt
Tân, dành riêng cho các đảng viên và cảm tình viên là thanh niên.
Như đã nói ở phần “Chức năng của đảng phái”, đảng chính trị
có một chức năng quan trọng là cung cấp nhân sự lãnh đạo cho bộ
máy chính quyền. Do đó, một trong những hoạt động chính của
đảng là tranh cử vào các vị trí lãnh đạo trong chính quyền trung
ương hay địa phương. Việc lập ra tổ chức ngoại vi có lợi cho đảng,
nhất là trong đào tạo, phát triển nhân sự. Các tổ chức ngoại vi này
thường là bước đệm để người tham gia tiến vào các vị trí trong
những cơ quan dân cử.
Ở Việt Nam dưới thời cộng sản, tham gia vào các tổ chức ngoại vi
của đảng Cộng sản, như Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
cũng là một bước đệm tốt để “leo” vào các vị trí lãnh đạo (nhưng tất
nhiên, không phải trong cơ quan dân cử). Người ta mô tả việc tham
gia chính trường như thế là “đi lên từ con đường Đoàn, Đội”.
VẤN ĐỀ DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG
Tồn tại hai quan điểm đối lập nhau về chuyện dân chủ trong đảng.
Quan điểm thứ nhất cho rằng dân chủ trong nội bộ một đảng là
điều có thể làm được và nội bộ đảng phải dân chủ. Quyền lực trong
đảng phải được phân tán rộng rãi và công bằng. Đảng viên phải có
quyền tham gia vào các quyết định lớn của đảng. Lãnh đạo cần
phải được lựa chọn công bằng thông qua bầu cử trong đảng.
Quan điểm thứ hai cho rằng dân chủ trong nội bộ một đảng là
điều bất khả thi hoặc khó có thể làm được; nếu có dân chủ trong
đảng thì đó cũng chỉ là hình thức, chứ quyền lực thật sự trong đảng
luôn nằm trong tay một thiểu số đảng viên cao cấp lãnh đạo toàn
đảng. Lý do là bởi trong mọi tổ chức đều có sự chuyên môn hóa, đi
kèm với sự bất bình đẳng về vai trò: Thành viên nào có năng lực
hơn các thành viên khác sẽ nổi bật lên, và một nhóm nhỏ các thành
viên có năng lực đó sẽ dần dần hội tụ với nhau để hình thành
nhóm “tinh hoa”. Bản thân nhóm tinh hoa này cũng có xu hướng
cấu kết bởi chỉ có thế nó mới mạnh và có khả năng duy trì quyền
lực. Trong khi đó thì đa số thành viên khác – phần còn lại trong tổ
chức – lại vừa kém năng lực, vừa thờ ơ với công việc chung, và do
đó, phải chấp nhận phụ thuộc vào lãnh đạo. 1
Vì lẽ đó, quan điểm thứ hai cho rằng dân chủ trong đảng là
không nên có và cũng không thể có. Quyền ra quyết định phải tập
trung vào tay số ít đảng viên được bầu làm lãnh đạo. Việc này có
thể dẫn đến nền độc tài của thiểu số được bầu hoặc thậm chí của
đa số không được bầu. Cho nên kết quả và thực tế là không có dân
chủ trong nội bộ đảng.
NGUYÊN TẮC "TẬP TRUNG DÂN CHỦ"
Nguyên tắc tập trung dân chủ là một phát kiến (năm 1917) của
Lenin về tổ chức đảng, chịu ảnh hưởng nhiều của văn hóa tổ chức
quân ngũ. Theo đó, trong đảng phải bảo đảm hai điều: 1. Tự do
trao đổi, thảo luận; nhưng 2. Hành động phải tuyệt đối thống nhất,
đoàn kết. 2
Sở dĩ gọi là “dân chủ” bởi vì các đảng viên đều có quyền thảo
luận về đường lối, chính sách của đảng. Còn “tập trung” thực chất
nghĩa là tập quyền, trung ương tập quyền, dồn quyền lực về trung
ương. Gọi là “tập trung” bởi theo nguyên tắc này, một khi đa số đã
bỏ phiếu quyết định, toàn đảng phải chấp hành.
Có vẻ như nguyên tắc này rất đáng sợ đối với các đảng viên
cộng sản, và nó làm nên sức mạnh – cũng đáng sợ như thế – của
đảng cộng sản, bởi nó bảo đảm sự thống nhất ý chí cao độ, tuyệt đối
trong đảng. Cho dù có thể có bất đồng, mâu thuẫn này nọ giữa các
cá nhân, thậm chí có đấu đá, tranh giành ảnh hưởng và quyền lực
dữ dội (như chúng ta thường hay thấy trong những tháng trước
mỗi kỳ đại hội đảng), nhưng đảng cộng sản vẫn luôn thống nhất, ít
nhất là bề ngoài mà đảng thể hiện trước dân chúng cũng là một
khối thống nhất.
1. Robert Michels, 1911.
2. Tiếng Anh: freedom of discussion, unity of action.
Điều 9, Điều lệ đảng Cộng sản Việt Nam quy định:
“Ðảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung
dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Ðảng do bầu cử lập ra, thực
hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Ðảng là Ðại hội đại biểu toàn
quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội
đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Ðảng là Ban
Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi
bộ (gọi tắt là cấp ủy).
3. Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của
mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới;
định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức
đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của
Ðảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá
nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Ðảng phục tùng
Ðại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Ðảng chỉ có giá trị
thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán
thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến
của mình. Ðảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo
lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Ðại hội đại biểu toàn
quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được
truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Ðảng. Cấp ủy có thẩm
quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với
đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn
của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính
sách của Ðảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên”.
Bạn có thể thấy nguyên tắc tập trung dân chủ ràng buộc đảng
viên cộng sản tới mức nào. Hãy để ý, ví dụ quy định “đảng viên có
ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy
cấp trên cho đến Ðại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành
nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với
nghị quyết của Ðảng”. Điều đó thực chất có nghĩa là nếu anh/chị
chẳng may thuộc về thiểu số có ý kiến khác với đa số, thì chỉ được
phép nghĩ một mình thôi, đừng đem đi bàn tán lung tung! Đó có
thể là lý do khiến nhiều đảng viên cộng sản là cán bộ, quan chức
im lìm suốt thời gian tại vị, về hưu rồi mới dám có “đôi điều suy
ngẫm lại” với những nội dung khác, thậm chí trái ngược, đường
lối của đảng.
Tóm gọn lại thì phát kiến “tập trung dân chủ” của Lenin, mà các
đảng cộng sản trên thế giới đều áp dụng, có những điểm chính sau:
- Tất cả các cơ quan đảng đều phải giải trình, báo cáo định kỳ
hoạt động với tổ chức;
- Kỷ luật đảng rất nghiêm khắc, thiểu số phải phục tùng đa số;
- Tất cả các quyết định của các cơ quan cấp trên đều có giá trị
ràng buộc tuyệt đối đối với các cơ quan cấp dưới và với tất cả đảng
viên.
TÀI CHÍNH CHO ĐẢNG
Thông thường, tài chính cho một đảng chính trị đến từ ít nhất một
trong bốn nguồn sau:
y Từ đảng phí do các đảng viên đóng;
y Từ các cá nhân, tổ chức ủng hộ (vì được hưởng lợi từ hoạt
động của đảng), như doanh nghiệp, công đoàn, nhóm lợi ích;
y Từ tài trợ của chính phủ (tính vào chi tiêu công);
y Từ tài trợ nước ngoài.
Đảng không phải là công ty, do đó, không được đầu tư hay sản
xuất, kinh doanh để kiếm lời; chỉ có thể đầu tư vào các tổ chức phi
lợi nhuận, các hoạt động phi lợi nhuận. Bù lại, các đảng được miễn
thuế doanh nghiệp, thuế thu nhập.
Tài chính cho đảng là một vấn đề đau đầu với bất kỳ cá nhân
hay nhóm người nào nghĩ tới chuyện thành lập đảng. Ở các nước
dân chủ đa đảng, các đảng thường xuyên phải tổ chức những chiến
dịch vận động gây quỹ, kêu gọi quyên góp tài chính. Thời còn là
thượng nghị sĩ, Barack Obama từng quyên góp được 55 triệu USD
trong tháng 2/2008, lập kỷ lục về khả năng gây quỹ tranh cử của
một ứng viên tổng thống trong một tháng.
Một buổi gây quỹ của Công đảng Úc.
Ảnh: Nguyễn Anh Tuấn
Năm 2014, nhà hoạt động xã hội Nguyễn Anh Tuấn từng có thời gian làm
trợ lý cho dân biểu Chris Hayes (Úc), và dự những buổi gây quỹ của Công
đảng. Anh kể lại trên facebook cá nhân:
“Không như đảng Cộng sản Việt Nam thường trực ăn bám ngân sách
quốc gia (mà thực chất là tiền thuế mồ hôi xương máu của người dân)
cho mọi hoạt động ban bệ của nó, các đảng chính trị ở đây đều phải tự
thân vận động, thuyết phục những người ủng hộ bằng chính sách và uy
tín để có tiền tranh cử.
Trong hình, sếp mình, Dân biểu Chris Hayes, đang phát biểu cảm ơn cử
tọa và trình bày chính sách của đảng Lao động, trong khi bên dưới mình
cùng các bạn trong văn phòng đi bán vé số cho quan khách để kiếm từng
đồng cho quỹ Đảng. Mỗi tờ 10 đô Úc, mại dzô các bác!!!”.
NHƯỢC ĐIỂM CỦA ĐẢNG PHÁI
Ở phần trên, chúng ta đã nói về các chức năng của đảng phái chính
trị. Và đó cũng chính là những ưu điểm của đảng phái, hay là lý do
cho sự cần thiết phải tồn tại đảng phái.
Tuy nhiên, đảng phái cũng có những nhược điểm của chúng,
như:
- Kỷ luật và thứ bậc (trên-dưới) làm cá nhân mất tự do, làm
giảm sức hấp dẫn của đảng;
- Hành chính và quan liêu, nên dễ chậm đổi mới và xơ cứng;
- Đảng viên cấp dưới ít quyền lợi, thụ động;
- Nhiều khi đảng chỉ là công cụ phục vụ những cá nhân hoặc
một nhóm cá nhân độc tài;
- Do mục đích tự thân của đảng phái là tranh giành quyền lực
nhà nước, nên đảng viên có thể nhiễm những tính xấu như hay
ngờ vực, nịnh trên nạt dưới, ưa giành giật, đấu đá, đố kỵ với người
ngoài đảng mình, thậm chí là ngay trong cùng đảng.
Có những ý kiến nhận xét rằng, nhiều đảng viên (của nhiều
đảng chứ không chỉ riêng đảng Cộng sản) trong quan hệ xã hội,
trên tư cách cá nhân, thì họ cũng lương thiện và dễ mến, nhưng hễ
cứ cư xử với tư cách đảng viên là họ trở nên độc đoán, hay ganh
ghét, nặng đầu óc bè phái, ham danh lợi, tham quyền lực, thích
hình thức và thành tích... tóm lại là đáng ghét và đáng sợ. Điều đó
có thể do văn hóa tổ chức, nhưng cũng có thể là hậu quả của việc
tham gia chính trị thông qua con đường đảng phái.
Đặc biệt, trong thời đại của tốc độ, của Internet và mạng xã hội,
đảng phái với tính xơ cứng của chúng có thể kém hấp dẫn so với
các tổ chức không phải đảng phái, và phong trào xã hội. Thanh
niên chẳng hạn, hẳn sẽ thích tham gia các phong trào xã hội vui
nhộn, trẻ trung hơn những tổ chức nặng nề về kỷ luật và trật tự thứ
bậc như đảng. Ở các nền dân chủ phương Tây, cùng với việc dân

chúng ít đi bỏ phiếu bầu cử hơn, là việc họ ít gắn mình vào trong
các đảng phái hơn.
Chương IV
BẦU CỬ
Bạn có còn nhớ định nghĩa dân chủ của Philippe C. Schmitter và
Terry Lynn Karl, mà chúng ta đã đề cập ở Phần III, Chương I?
“Dân chủ là một hệ thống quản trị (đất nước), trong đó, nhà cầm
quyền phải chịu trách nhiệm – về tất cả các hoạt động của họ thuộc
địa hạt công cộng – trước công dân, và công dân thực thi điều đó
một cách gián tiếp thông qua, hay là nhờ có sự cạnh tranh và hợp
tác giữa những người đại diện cho họ, do họ bầu ra”.
Bạn có để ý đến từ “cạnh tranh”? Cạnh tranh, như ta đã biết, là
một nhược điểm cần thiết của dân chủ, mặc dù có lẽ chúng ta đều
ngán ngại nó.
Trong chính trị, một trong các hình thức và biểu hiện rõ rệt
nhất, sống động nhất của cạnh tranh là bầu cử.
ĐỊNH NGHĨA BẦU CỬ
Bầu cử trong chính trị là một tiến trình ra quyết định tập thể, nhờ
đó và thông qua đó, người dân chọn ra được một cá nhân để nắm
giữ một cương vị quản lý nhà nước (ở cơ quan lập pháp, hành
pháp, tư pháp, chính quyền trung ương, chính quyền địa phương).
Suy rộng ra trong đời sống nói chung, bầu cử cũng có thể được
tiến hành trong khuôn khổ một tổ chức, công ty, ví dụ khi các
thành viên bầu giám đốc, CEO.
Bầu cử là một trong những cách để công dân tác động lên tiến
trình chính sách và tham gia vào việc ra quyết định. Mỗi kỳ bầu cử
là một lần công dân thực hiện quyền làm chủ. (Xin lưu ý bạn:
Chúng ta đang nói về bầu cử thực chất, bầu cử đúng nghĩa của nó).
Giữa các kỳ bầu cử, công dân có thể tác động tới chính sách bằng
một loạt các cơ chế trung gian:, như: thông qua các nhóm lợi ích để
gây áp lực, thông qua phong trào xã hội, vận động hành lang, biểu
tình, đình công, tẩy chay – những hoạt động chính trị mà chúng ta
đã tìm hiểu ở Chương II của Phần I.
Nếu không có bầu cử cạnh tranh tự do, công bằng và định kỳ thường
xuyên, thì các chính quyền sẽ không thể thật sự có trách nhiệm giải trình
trước người dân. Nhưng bầu cử cũng chưa đủ. Dân chủ, mà đặc biệt là
dân chủ tự do, đòi hỏi phải có vô vàn con đường để cho “người dân” có
thể bộc lộ mối quan tâm và nguyện vọng của họ, tác động tới chính sách,
liên tục kiểm soát và giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước, giữa các
kỳ bầu cử cũng như trong các cuộc bầu cử.
(“Xã hội dân sự và sự phát triển của dân chủ”, Larry Diamond, 1997)*
* “Civil Society and the Development of Democracy”, 1997.
BẦU CỬ - CHỈ DẤU CỦA DÂN CHỦ
Bầu cử là một cách tuyệt vời để kiểm soát quyền lực nhà nước,
kiểm soát việc một cá nhân, tổ chức, đảng phái nào đó nắm quyền
lực nhà nước.
Chừng nào còn bầu cử tự do, chừng đó, quyền quyết định tối
cao còn nằm trong tay người dân chứ không phải nhà cầm quyền,
và đất nước còn dân chủ. Chừng nào mà bất kỳ quan chức nhà
nước nào cũng có thể bị bãi nhiệm thông qua bầu cử tự do, chừng
đó, không tồn tại độc tài và đất nước còn dân chủ.
Ngược lại, chừng nào, và ở nơi đâu, mà người dân vẫn chưa thể
dùng lá phiếu của mình để bãi nhiệm một quan chức mà họ không
muốn, chừng đó và nơi đó còn chưa có dân chủ, cho dù nhà cầm
quyền ở đó có lý luận gì đi chăng nữa.
Nhiều đối thủ chính trị của Abraham Lincoln gọi ông là nhà
độc tài, bởi vì ông đã từng bất chấp Hiến pháp mà làm những việc
như: tống một số đối thủ vào tù, tiêu tốn hàng triệu đô-la vào quân
đội và ra lệnh cho quân đội hành động quân sự mà không hề hỏi ý
kiến Quốc hội.
Những người ủng hộ Abraham Lincoln đáp lại rằng mặc dù
đúng là ông đã triệt để tận dụng quyền lực của tổng thống trong
trường hợp khẩn cấp, nhưng ông vẫn không phải nhà độc tài. Bởi
lẽ, trong các kỳ bầu cử năm 1862 và 1864, cử tri hoàn toàn có thể
loại bỏ những người ủng hộ Lincoln ra khỏi Quốc hội và loại bỏ
luôn Lincoln khỏi ghế tổng thống. Bất kỳ quan chức nhà nước nào
mà còn có thể bị mất chức vì một cuộc bầu cử tự do thì đều không
phải là độc tài. 1
Ở Việt Nam dưới thời cộng sản, có tới hàng trăm, hàng nghìn kẻ năng lực
và đạo đức đều tầm thường nhưng vẫn giữ những chức vụ lãnh đạo trong
bộ máy nhà nước. Khi cầm quyền, họ bất tài, vô trách nhiệm, nói và làm
nhiều điều không được lòng dân. Tuy thế, họ vẫn tiếp tục giữ chức như
không có chuyện gì xảy ra. Dân chẳng bao giờ được nhận xét công khai
trên báo chí về họ, chẳng bao giờ được bỏ phiếu bất tín nhiệm hay cách
chức họ, thậm chí không được phép biểu tình phản đối họ. Tóm lại, dân
chẳng làm gì được lãnh đạo.
Năm 2013, trước tình trạng hơn 20 trẻ nhỏ chết vì tiêm chủng và không
quan chức nào phải chịu trách nhiệm, dân chúng hết sức phẫn nộ. Một
nhóm nhỏ người dân lập page “Bộ trưởng Y tế hãy từ chức” và kêu gọi
biểu tình trước cổng Bộ Y tế. Cuộc biểu tình bị công an dập tắt ngay từ
đầu, và Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến vẫn tại vị.
Năm 2016, thảm họa cá chết hàng loạt xảy ra ở ít nhất bốn tỉnh ven biển
miền Trung: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế. Nguyên
nhân là do nước biển bị nhiễm độc mà thủ phạm chính là Công ty TNHH
Gang Thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (FHS), thuộc tập đoàn Đài
Loan Formosa.
1. “Governing: An Introduction to Political Science”, Austin Ranney, 8th edition, Prentice
Hall, 2001.
Nhìn trở lại, năm 2008, FHS được cấp phép làm chủ đầu tư dự án nhà
máy liên hợp luyện gang thép và cảng nước sâu Sơn Dương (dự án
Formosa) với thời hạn lên tới 70 năm. Cơ quan cấp phép là ban Quản lý
khu kinh tế Vũng Áng (sau đổi tên là ban Quản lý khu kinh tế tỉnh Hà
Tĩnh). Trưởng ban là ông Võ Kim Cự, khi ấy cũng đồng thời là Phó Chủ
tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh. Sau khi cấp phép “đưa giặc vào nhà” như vậy,
ông còn tiếp tục đi lên trên con đường hoạn lộ, trở thành Chủ tịch Ủy ban
Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, đại biểu Quốc hội khóa XIII, XIV, rồi Bí thư Tỉnh
ủy (tháng 2-11/2015).
Ngày 25/7/2016, nhóm bảo vệ môi trường Green Trees (Cây Xanh) làm
kiến nghị gửi Quốc hội, yêu cầu bãi miễn tư cách đại biểu Quốc hội của ông Võ Kim Cự. Bản kiến nghị không được bất cứ một quan chức nào trả
lời. Mãi cho đến ngày 21/4/2017, Ban Bí thư Trung ương đảng Cộng sản
Việt Nam mới ra thông cáo cách chức “nguyên Bí thư Tỉnh ủy” của ông
Cự. Đây là một quyết định với ngôn ngữ rất khó hiểu, bởi nếu cách chức
“nguyên Bí thư” của ông Võ Kim Cự thì trên nguyên tắc, phải bầu hoặc
chỉ định một “nguyên Bí thư” khác, mà như thế thì đảng Cộng sản phải
quay trở lại quá khứ, về năm 2015!
Điều đáng nói là trong vụ ông Võ Kim Cự, người dân vẫn chưa bao giờ
được có tiếng nói. Mọi quyết định về đường lối, nhân sự luôn là của đảng
Cộng sản Việt Nam. Ông Võ Kim Cự hay bà Nguyễn Thị Kim Tiến cũng
chỉ là hai trong số hàng trăm, hàng nghìn ví dụ về việc lá phiếu của người
dân Việt Nam chẳng có ý nghĩa gì trong việc bầu và bãi miễn quan chức.
CHỨC NĂNG CỦA BẦU CỬ 1
1. Tuyển chọn nhân sự
Trong chế độ dân chủ, bầu cử là nguồn chủ yếu để tuyển chọn các
chính trị gia. Xin nhấn mạnh là tuyển chọn “chính trị gia”. Bầu cử
hiếm khi được dùng để tuyển người vào các vị trí đòi hỏi kiến thức
chuyên môn hoặc kinh nghiệm đặc biệt, cho nên trong lĩnh vực
hành chính và tư pháp, có thể không có bầu cử mà chỉ có chỉ định.
2. Lập chính phủ
Bầu cử thành lập nên chính phủ hay còn gọi là nội các (ở những
1. “Politics”, Andrew Heywood, 3rd edition, Palgrave Foundations, 2007.
nước mà hành pháp được bầu trực tiếp như Mỹ, Pháp, Venezuela...).
Bầu cử cũng ảnh hưởng lớn đến việc hình thành chính phủ, nhất
là ở những nước mà cơ chế bầu cử cho phép một đảng có thể nắm
đa số ghế trong quốc hội.
3. Đại diện
Lá phiếu bầu cử nói lên ý chí, ý muốn của người dân. Bầu cử là
kênh chính để truyền tải nhu cầu, mong muốn của người dân đến
chính quyền.
4. Vận động chính sách
Bầu cử có thể tác động đến chính sách: Bầu cử sẽ ngăn cản, không
để chính quyền đưa ra hoặc duy trì những chính sách kém cỏi,
hoặc thúc đẩy việc thực hiện một chính sách nào đó mà đa số cử tri
tin là cần thiết. (Tất nhiên, phải là khi nào chính sách đó trở thành
một vấn đề đủ lớn để phải có bầu cử).
5. Khai dân trí
Cũng giống như sự tồn tại của đảng phái, bầu cử có chức năng
nâng cao nhận thức chính trị của người dân.
Tiến trình vận động tranh cử thường mang lại lượng thông tin
cực lớn cho cử tri, giúp họ hiểu biết về các đảng phái, chính trị gia,
ứng cử viên, chính sách, chính quyền hiện thời, hệ thống chính trị
hiện nay.
Tuy nhiên, ở đây phải nói thêm rằng: Tác dụng khai dân trí chỉ
có được khi thông tin được cung cấp đó đem lại lợi ích cho công
chúng và/hoặc kích thích đối thoại, thảo luận, phản biện chứ không
phải là dẫn đến sự chia rẽ, thù hận trong xã hội. Trên thực tế, do các
đảng phái mải theo đuổi lợi ích của mình, họ chỉ thuyết phục, vận
động, dụ dỗ dân chúng là chính thay vì khai dân trí, cho nên họ có
xu hướng cung cấp thông tin không đầy đủ và/hoặc sai sự thật.
6. Tạo tính chính danh
Bạn có biết tại sao các chính quyền độc tài vẫn phải cố tổ chức bầu
cử (không tự do và không công bằng), dù rất tốn kém? Bởi vì bầu
cử bao biện cho sự cai trị của chính quyền, tạo cơ hội cho chính
quyền tuyên truyền rằng “ta cũng dân chủ đấy chứ”, và tạo cho
người dân ảo tưởng rằng người dân đang thực thi quyền “làm chủ”
của họ đối với chính quyền.
Đến đây, một lần nữa, xin lưu ý bạn: Khi nói bầu cử là chỉ dấu
của nền dân chủ, khi nói về các chức năng của bầu cử, chúng ta
đang nói về bầu cử thực chất, bầu cử đúng nghĩa của nó. Trên thực
tế, chính vì bầu cử là chỉ dấu của nền dân chủ, cho nên nó rất dễ và
gần như luôn luôn bị các chính quyền độc tài hoặc phi dân chủ lợi
dụng để “làm màu”, trang điểm cho mình, để nhận rằng ta đây
cũng dân chủ.
Vì lý do đó, để bầu cử không bị lợi dụng và thực sự là một trong các
điều kiện bảo đảm dân chủ, thì bầu cử phải tự do và công bằng. Bây
giờ chúng ta sẽ tìm hiểu xem thế nào là bầu cử tự do và công bằng.
BẦU CỬ TỰ DO LÀ GÌ?
Tự do, như đã nói ở, nghĩa là không bị bắt buộc, không bị cưỡng
ép. (Bạn xem lại cách hiểu của Friedrich von Hayek và Ludwig von
Mises về tự do, trong Chương II, Phần IV, “Các chủ nghĩa”).
Bầu cử tự do nghĩa là người đi bầu có quyền và có cơ hội được
chọn lựa.
Bầu cử không tự do nghĩa là cử tri bị cưỡng ép, không có sự lựa
chọn. Nó sẽ thể hiện dưới một trong hai hình thức:
- Cử tri chỉ có một phương án duy nhất; hoặc
- Có nhiều hơn một phương án, nhưng cử tri chỉ được chọn
một; nếu lựa chọn những phương án còn lại thì bị hoặc sẽ bị ảnh
hưởng tiêu cực.
BẦU CỬ CÔNG BẰNG LÀ GÌ?
Công bằng nghĩa là không thiên vị, không đứng về bên nào, không
ủng hộ hoặc chống lại bên nào.
Bầu cử công bằng nghĩa là: Các quy tắc, luật lệ được áp dụng
bình đẳng cho tất cả các bên, và nguồn lực cần thiết được phân bổ
hợp lý – bình đẳng, hoặc không quá bất bình đẳng – giữa tất cả các
đối thủ trong bầu cử.
NGUYÊN TẮC CHUNG CỦA BẦU CỬ TỰ DO VÀ CÔNG BẰNG
Các hệ thống bầu cử trên thế giới đều khác nhau tùy hệ thống
chính trị và luật pháp ở mỗi nơi. Tuy nhiên, để đảm bảo bầu cử tự
do và công bằng như định nghĩa ở trên, có một số nguyên tắc
chung như sau.
1. Bầu cử phải thường xuyên
Các cuộc bầu cử phải được tổ chức định kỳ, thường xuyên. Thế nào
là định kỳ và thường xuyên? Nghĩa là bầu cử phải diễn ra với tần
suất (số lần) hợp lý trong khoảng thời gian định trước, ví dụ bốn
năm một lần, và không bị trì hoãn hay hoãn vô thời hạn theo ý
muốn của các quan chức chính quyền. Đôi khi, có thể có cả bầu cử
đột xuất, bất thường nếu tình hình bắt buộc (chứ không phải do
chính quyền thích thế).
Khoảng thời gian định trước dĩ nhiên không được kéo dài,
chẳng hạn, nhất định là không thể tới “10 năm, 20 năm, hoặc lâu
hơn nữa” và càng không thể là vô thời hạn như ở Bắc Triều Tiên.
Người phương Tây có câu đùa rằng chính trị gia cũng giống như tã
lót, ở chỗ ta phải thay chúng thường xuyên.
2. Cử tri phải có sự lựa chọn
Nói đúng hơn, lựa chọn phải có ý nghĩa: Với mỗi cương vị cần
nhân sự, cử tri phải có ít nhất hai lựa chọn khác biệt. Bạn hãy chú ý
cụm từ “ít nhất hai”, “khác biệt”. Bởi vì sẽ là vô nghĩa nếu cử tri chỉ
có một lựa chọn duy nhất, hoặc hai lựa chọn na ná nhau.
Nhà khoa học chính trị Austin Ranney đưa ra một ví dụ về sự vi
phạm tiêu chí thứ hai này: Suốt 72 năm (1917-1989), Liên Xô thường
xuyên tổ chức bầu cử nhân sự vào rất nhiều cơ quan chính quyền, và
thường là có tới hơn 90% dân số trưởng thành đi bỏ phiếu. Tuy
nhiên, cử tri không có sự lựa chọn. Trong mỗi cuộc bầu cử vào mỗi
cơ quan chính quyền, danh sách đều chỉ có một ứng viên, và cử tri
chỉ có thể hoặc là chọn ứng viên đó hoặc là không bỏ phiếu.
Sau khi Liên Xô sụp đổ (năm 1991) thì nước Nga đã tổ chức
được bầu cử “hai ứng viên trở lên”. Ông Ranney cũng viết thêm
rằng, hiện “chỉ còn một vài nước vẫn còn bám lấy chủ nghĩa cộng
sản kiểu Xô Viết, đáng chú ý nhất là Cuba, Bắc Triều Tiên, và Việt
Nam, là vẫn còn tổ chức bầu cử một-ứng-viên-một-ghế”.
Mở rộng ra, bạn sẽ thấy cái nguyên tắc “hai ứng viên khác nhau
trở lên” này hiển nhiên áp dụng cho tất cả các quyết định liên quan
tới việc lựa chọn chứ không chỉ trong chuyện bầu cử. Đã gọi là tự
do lựa chọn, đương nhiên phải có từ hai phương án trở lên, nếu
không thì còn gì là tự do. Thi hoa hậu gia đình giữa bố, mẹ và hai
con trai thì còn ai đoạt vương miện vào đây nữa.
Một ví dụ về sự vi phạm nguyên tắc “hai ứng viên khác nhau trở
lên”, là bản “Phiếu lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến
pháp” mà Ban chỉ đạo tổ chức lấy ý kiến nhân dân đưa ra. Nó chỉ
có một dự thảo duy nhất, trong khi lẽ ra người dân phải có quyền
lựa chọn từ ít nhất hai dự thảo hiến pháp trở lên, do ít nhất hai lực
lượng khác nhau trong xã hội đưa ra.
Mặt khác, cứ chấp nhận rằng đây là phiếu lấy ý kiến nhân dân
về chỉ một bản dự thảo mà thôi, do Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến
pháp 1992 (với các thành viên toàn là đảng viên đảng Cộng sản
Việt Nam) lập ra, thì phiếu này cũng vẫn vi phạm nguyên tắc “hai
ứng viên khác nhau trở lên”. Bởi vì nó chỉ đưa ra hai phương án na
ná nhau: 1. Đồng ý (hoàn toàn) với nội dung Dự thảo. 2. Đồng ý
với những nội dung khác trong Dự thảo (đề nghị ghi rõ...) và có ý
kiến góp ý (đề nghị ghi rõ).
Cuối cùng, áp dụng nguyên tắc này vào nền chính trị của chúng
ta, bạn có thể thấy ngay: Đa đảng không bảo đảm dân chủ. Nhưng
một đảng thì chắc chắn là độc tài, là không có tự do.
Ngay cả ở các nước phương Tây theo chế độ dân chủ tự do ngày nay, cũng
có những người lo ngại về xu hướng bầu cử mà các ứng viên không thật
sự khác nhau lắm, hoặc... đều tệ như nhau. Người ta gọi đây là hiện
tượng bầu cử kiểu “Tweedledum versus Tweededee” (Tweedledum chọi
với Tweededee).
Lựa chọn phải có ý nghĩa!
Cụm từ “có ý nghĩa” này quan trọng lắm bởi trên thực tế, các chế độ độc
tài rất hay dùng những chiêu bài màu mè hình thức, những màn kịch, để
giả vờ dân chủ. Trong các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền, người ta
cũng phải dùng đến cụm từ ấy khi quy định công dân có quyền “tham gia
một cách có ý nghĩa vào hoạt động chính trị”. Nếu chỉ tham gia theo sự
sắp đặt của các đoàn thể diễn trò dân chủ – những cánh tay nối dài của
nhà độc tài – thì sự tham gia đó cũng chẳng khác gì của con rối.
3. Người dân phải được tự do tiến cử ứng viên
Đây là một tiêu chí quan trọng của bầu cử tự do, và nó đòi hỏi một
điều kiện bắt buộc đi trước: Mọi công dân đều phải có quyền thành
lập và/ hoặc tham gia đảng phái, để từ đó, có quyền được người
khác tiến cử, quyền tiến cử người khác, hoặc quyền tự mình ứng cử
mà không cần thông qua tổ chức nào.
Nhìn vào nước Việt Nam dưới thời cộng sản, bạn thấy điều này
là bất khả thi. Cho dù bạn có quý và tin tưởng ông hàng xóm của
bạn đến mấy đi chăng nữa, cho dù ông ấy có tài đức và ham hoạt
động xã hội đến mấy, bạn cũng chẳng biết làm cách nào để đưa ông
ấy vào chính trường, làm lãnh đạo, hoặc thấp nhất là vào Quốc hội,
“cho thiên hạ nhờ”.
Và cả bạn nữa, giả sử bạn muốn tham gia chính trường Việt
Nam thời cộng sản, bạn có thể làm gì? Tranh cử đại biểu Quốc hội
chăng? Xin bạn lưu ý: Cho đến kỳ bầu cử Quốc hội khóa XIV (năm
2016), không một luật nào nói về ứng viên độc lập, chứ chưa nói tới
việc công nhận và khuyến khích họ. Theo Điều 27 Hiến pháp và
Điều 2 Luật Bầu cử, mọi công dân Việt Nam trên 21 tuổi đều có
quyền ứng cử đại biểu Quốc hội và/hoặc Hội đồng Nhân dân. Tuy
nhiên, các luật liên quan đến bầu cử ở Việt Nam chỉ tập trung vào
những cá nhân được đề cử bởi các tổ chức chính trị của đảng Cộng
sản, tổ chức chính trị-xã hội, các lực lượng vũ trang nhân dân
(quân đội và công an), và các cơ quan nhà nước ở trung ương và
địa phương.
Ngoài ra, bạn cũng cần lưu ý thêm: Ngay cả khi luật pháp cho
phép bạn tự ứng cử đại biểu Quốc hội đi nữa, cũng có vô vàn rào
cản vô hình khiến bạn không thể đứng ra “chường mặt” với thiên
hạ. Bạn có nguy cơ bị gắn nhãn “hoang tưởng”, “háo danh”, “tham
vọng hão huyền”... Quyền riêng tư, danh dự, nhân phẩm của bạn
bị xúc phạm nghiêm trọng. Đó là những gì đã xảy ra trong thực tế
với các ứng viên độc lập ở Việt Nam thời cộng sản.
4. Các bên phải được tự do cạnh tranh
Có nghĩa là: Các ứng viên phải được tự do vận động tranh cử, còn
các cử tri phải được tự do tìm hiểu về ứng viên và tự do thể hiện
quan điểm. Tiêu chí này đòi hỏi một điều kiện bắt buộc đi trước: tự
do báo chí, tự do ngôn luận.
Ở các kỳ bầu cử cơ quan lập pháp ở nước CHXHCN Việt Nam,
hàng chục năm, chỉ có đảng Cộng sản độc diễn – tự tổ chức, tự
phân vai, tự quyết định kết quả bầu cử. Thỉnh thoảng, có lác đác
1-2 ứng viên tự do, tức là những người ngoài đảng Cộng sản tự ứng
cử mà không qua sự giới thiệu của cơ quan, tổ chức của nhà nước.
100% trường hợp đều trượt thê thảm.
Tại các cuộc họp lấy ý kiến cử tri – cũng dưới sự chỉ đạo và đạo
diễn của đảng Cộng sản Việt Nam, có tình trạng: Với ứng viên
Đảng cử (tức là được chi bộ đảng Cộng sản Việt Nam chỉ định) thì
bao giờ cũng là “100% nhất trí, tín nhiệm ông A/bà B” làm đại biểu
Quốc hội”. Với ứng viên tự do thì bao giờ cũng là “ông X/ bà Y
không đủ tư cách, không đủ năng lực làm đại diện cho dân”.
Trên nguyên tắc, cử tri phải được cung cấp thông tin minh bạch,
đầy đủ, về các ứng viên, chẳng hạn họ có quyền biết ông Nguyễn
Phú Trọng – ứng viên của đảng Cộng sản Việt Nam – có những
năng lực gì, chương trình hành động thế nào, gia cảnh ra sao, thu
nhập bao nhiêu. Trên thực tế, báo chí, đặc biệt các cơ quan truyền
thông quan trọng như VTV, VOV, hay các báo mà trong tên có từ
“nhân dân”, đều chỉ đăng bài ca ngợi ứng viên “Đảng cử” và cương
lĩnh của họ (nếu có).
Báo chí không nhắc gì tới ứng viên tự do, trừ phi để bôi nhọ như
trường hợp các báo của công an và tờ Tin Nhanh Năng Lượng Mới
(Petro Times, cũng do một công an làm tổng biên tập) đả kích các
ứng viên tự do trong kỳ bầu cử Quốc hội năm 2016.
Bên cạnh tất cả những cái đó, lực lượng công an còn rất sốt sắng
nhằm người nào có xu hướng ủng hộ những ứng viên là người bất
đồng chính kiến mà đến “thăm hỏi”, “trao đổi”, “vận động” để “quán
triệt” không bỏ phiếu cho họ.
5. Phổ thông đầu phiếu
Mọi công dân đều có quyền bỏ phiếu, bất kể giới tính, khuynh
hướng tình dục (đồng/dị tính luyến ái), sắc tộc, tôn giáo/ tín
ngưỡng, thành phần xã hội, v.v. Và, bạn hãy lưu ý là công dân cũng
có quyền không bỏ phiếu, không đi bầu. Nghĩa là, bầu cử là quyền,
không phải nghĩa vụ. Tuy nhiên, điều này dẫn đến tình trạng người
dân lười đi bỏ phiếu đến mức ở một số nước, ví dụ như Úc, chính
phủ đã phải áp luật phạt tiền người không chịu tham gia bầu cử.
Việc bỏ phiếu cũng phải xuất phát từ sự lựa chọn và tự nguyện
của cử tri, không phải là kết quả của việc họ bị đe dọa, ép buộc hay
lừa dối. Ở Việt Nam dưới thời cộng sản có câu đùa, nhưng cũng
đúng sự thật, là: “Việt Nam bảo đảm quyền tự do ngôn luận nhưng
không bảo đảm quyền tự do sau ngôn luận”.
Người già chiếm đa số trong các hội nghị “lấy ý kiến cử tri”.
Từ đó suy ra bầu cử tự do nghĩa là công dân phải có quyền tự do
bỏ phiếu và cả quyền tự do sau khi bỏ phiếu. Giả sử Quốc dân đảng
được bình đẳng với đảng Cộng sản Việt Nam trong việc đi vận
động, nhưng cử tri nào ủng hộ Quốc dân đảng cũng nơm nớp lo bị
“xử lý” sau bầu cử và do đó họ không dám bầu cho người của Quốc
dân đảng, thì bầu cử mất ý nghĩa.
6. Mọi lá phiếu đều quan trọng như nhau
Điều đó tức là lá phiếu của công dân Đặng Văn Tèo cũng quan
trọng và có ý nghĩa hệt như lá phiếu của công dân Nguyễn Phú
Trọng hay công dân Lê Hiếu Đằng. Lá phiếu của ông Trọng không
thể được tính ngang giá với hai, ba hoặc nhiều hơn lá phiếu khác,
dù ông ấy là Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam.
7. Chính xác, trung thực, độc lập, minh bạch
Một điều kiện quan trọng nữa để đảm bảo bầu cử tự do là toàn bộ
quá trình chốt danh sách ứng viên, kiểm phiếu, công bố kết quả,
phải diễn ra chính xác, trung thực. Muốn vậy, hội đồng bầu cử phải
độc lập, các thủ tục phân bổ ứng viên, tổ chức bầu cử, kiểm phiếu
phải công khai, minh bạch.
Như ở Việt Nam thời cộng sản, Mặt trận Tổ quốc – cánh tay nối
dài của đảng Cộng sản Việt Nam, do các cán bộ cao cấp của đảng
Cộng sản lãnh đạo – đứng ra đảm nhận công tác tiền bầu cử (hiệp
thương – khái niệm nhập khẩu từ đảng Cộng sản Trung Quốc). Và
kết quả là một nhà sử học sinh sống ở Hà Nội lại trở thành đại biểu
của tỉnh Đồng Nai (Dương Trung Quốc), hay ông giáo trường
Tổng hợp lại làm đại diện của Lạng Sơn (Nguyễn Minh Thuyết).
Còn rất nhiều trường hợp nữa. Cử tri không thể hiểu nổi sự sắp
xếp này.
Năm 2017, ông Đinh La Thăng đang ở TP.HCM đột nhiên trở
thành đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa sau khi mất chức Bí thư
Thành ủy TP.HCM, nghĩa là không còn thuộc đoàn đại biểu Quốc
hội địa phương này nữa. Cử tri Thanh Hóa cũng chưa bao giờ có
dịp bỏ phiếu chọn ông Thăng làm đại diện cho mình.
TỔNG HỢP TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ BẦU CỬ
Phần trên đây là các nguyên tắc chung nhất một cuộc bầu cử có
phải là tự do và công bằng hay không. Bảng phía dưới cụ thể hóa
các nguyên tắc đó: 1
 
Khía cạnh
Thời điểm Tự do Công bằng
 
Trước
ngày bầu
cử
 
Tự do đi lại
Tự do ngôn
luận (đối với
ứng viên, truyền
thông, cử tri, và
những người
khác)
Tự do tụ tập
Tự do lập hội
 
Tiến trình bầu cử diễn ra minh bạch
Luật bầu cử và cơ chế bầu cử không
tạo đặc quyền, đặc lợi cho một đảng
phái hay nhóm xã hội nào.
Không có bất kỳ hình thức ngăn trở
nào trong quá trình đăng ký.
 
1. “What makes elections free and fair?”, Jorgen Elklit & Palle Svensson, tháng 7/1997. Bài

nằm trong tuyển tập “Democracy: A Reader”, Larry Diamond & Marc F. Plattner, John
Hopkins University Press, 2009.
Không bị đe dọa
bởi bất kỳ vấn đề
gì liên quan đến
bầu cử và chiến
dịch tranh cử.
Không bị cản trở
việc ứng cử (đối
với đảng phái
cũng như với
ứng viên độc lập)
Phổ thông đầu
phiếu, các lá
phiếu có giá
trị ngang nhau
(bình đẳng)
 
Có ủy ban bầu cử độc lập và không
thiên vị.
Công an, quân đội, tòa án đối xử với
các ứng cử viên một cách bình đẳng,
không thiên vị ai.
Tất cả các đảng phái và các ứng cử
viên độc lập đều được có cơ hội như
nhau trong việc ứng cử.
Chiến dịch tranh cử diễn ra có trật tự
(tuân thủ quy tắc đạo đức).
Các bên đều có thể tiếp cận như nhau
với báo chí; báo chí bị kiểm soát công
khai bởi công chúng.
Các quỹ công cộng (nếu có) đều được
phân bổ đều cho các đảng phái.
Không ai được phép sử dụng các cơ
sở vật chất của chính quyền cho mục
đích tranh cử.
 
Vào ngày
bầu cử
 
Cơ hội tham gia
vào bầu cử
 
Đại diện của tất cả các đảng phái,
các nhà quan sát bầu cử trong nước
và quốc tế (nếu được tín nhiệm, ủy
quyền), và báo chí đều được tiếp cận
tất cả các điểm bỏ phiếu.
Các lá phiếu được giữ kín.
Cử tri tuyệt đối không bị đe dọa.
Lá phiếu được thiết kế thuận tiện,
hiệu quả.
Thùng phiếu được thiết kế thuận tiện,
thích hợp.
Các cử tri được hỗ trợ như nhau (nếu
cần).
Thủ tục kiểm phiếu chuẩn xác, thích
hợp.
Các phiếu không hợp lệ được đối xử
tốt.
Có các biện pháp phòng ngừa thích
hợp khi di chuyển thùng phiếu và các
tài liệu liên quan đến bầu cử.
Các điểm bỏ phiếu được bảo vệ như
nhau, không thiên vị.
 
Sau ngày
bầu cử
 
Có cơ chế pháp
lý cho việc khiếu
nại.
Công bố chính thức và nhanh chóng
về kết quả bầu cử.
Đối xử công bằng, không thiên vị với
bất kỳ khiếu nại nào liên quan.
Báo chí-truyền thông phản ánh công
bằng, trung thực, không thiên vị, về
kết quả bầu cử.
Tất cả mọi người tham gia đều phải
chấp nhận kết quả bầu cử.
QUY TRÌNH BẦU CỬ
Với người tranh cử, quy trình bầu cử là tất cả những bước một
người cần thực hiện kể từ lúc có ý định tranh cử, tới lúc được đưa
tên vào danh sách ứng viên (chính thức được gọi là “ứng viên” hay
“ứng cử viên”) để cạnh tranh vào cương vị cần nhân sự, tới lúc có
kết quả và thông báo kết quả. Với cử tri, quy trình bầu cử là tất cả
những bước họ cần thực hiện để bỏ phiếu cho cá nhân hay đảng
phái mà họ ủng hộ, loại bỏ cá nhân hay đảng phái mà họ không
ủng hộ.
Quy trình bầu cử được quy định khác nhau ở mỗi nước, không
nước nào giống nước nào (có lẽ chỉ trừ CHXHCN Việt Nam giống
CHND Trung Hoa, ít nhất ở cơ chế hiệp thương). Chúng khác
nhau ở những điểm chính như:
- Quy định về cử tri: độ tuổi tối thiểu, quốc tịch. Ví dụ như ở
Việt Nam, 18 tuổi là độ tuổi công dân, từ 18 tuổi trở lên mới được
đi bầu. Người nước ngoài không được bỏ phiếu.
- Quy định về ứng viên: độ tuổi tối thiểu, quốc tịch, trình độ.
- Thủ tục đề cử (kể cả đề cử bản thân, tức là tự ứng cử).
- Cử tri phải chọn giữa các ứng viên cá nhân hay các ứng viên
đại diện cho đảng phái?
- Cử tri chỉ được chọn ra một ứng viên cho cương vị cần nhân
sự đó, hay có thể chọn ra một số ứng viên và xếp theo thứ tự mức
độ ủng hộ, yêu thích?
- Cử tri có được chia thành các đơn vị bầu cử không?
- Cơ chế kiểm phiếu, đếm phiếu.
- Người chiến thắng là người nhận được sự ủng hộ của đa số
tương đối (chỉ cần nhiều phiếu ủng hộ nhất) hay đa số tuyệt đối
(nhiều phiếu nhất, và số lượng phiếu phải vượt một con số quy
định nào đó, ví dụ quá bán)?
- Quy định về những điều bị cấm trong bầu cử.
Ở phần tiếp theo, chúng ta sẽ bàn sâu hơn về câu chuyện “đảng
cử”.
THỦ TỤC ĐỀ CỬ
Đề cử, hay tiến cử, (tiếng Anh: nomination) là thủ tục pháp lý để
một người nào đó được xác nhận là đủ điều kiện làm ứng viên, và
được có tên trong danh sách ứng viên chính thức. Nói đơn giản thì
đó là thủ tục để một công dân bình thường trở thành ứng cử viên
vào một cương vị chính trị nào đó.
Có hai cách chính để đề cử: 1. Tự ứng cử; 2. Được người khác
đề cử.
1. Tự ứng cử
Ở nhiều nước, công dân được quyền tự ứng cử mà không cần
thông qua đảng phái, tổ chức nào đề cử. Luật pháp có thể quy định
một vài điều kiện, như phải tập hợp đủ một số lượng người ủng hộ
nhất định và phải nộp một khoản tiền ký quỹ nhất định. Những
điều kiện như vậy nói chung là nhẹ nhàng, chỉ để chứng minh
người đó có ý định nghiêm túc, không phải hoang tưởng hay đang
muốn đùa nghịch.
Ở Vương quốc Anh, bất kỳ người Anh nào hơn 21 tuổi đều có
quyền tự ứng cử vào Hạ viện, chỉ trừ thành viên của giai cấp quý
tộc, thẩm phán Tòa án Tối cao, công chức thuộc biên chế vĩnh viễn,
tội phạm đang thi hành án, và thành viên Giáo hội Anh quốc, Giáo
hội Scotland, Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã.
Thủ tục tự ứng cử ở Anh là: Ứng viên tương lai đi đến các văn
phòng bầu cử, nhận một giấy đề cử chính thức, trên đó họ ghi tên,
địa chỉ, nghề nghiệp, và đơn vị bầu cử mà họ muốn “về”. Giấy này
cũng phải có chữ ký của 2 cử tri thuộc đơn vị bầu cử đó, với tư cách
người đề cử và người tán thành, và 8 cử tri khác nữa với tư cách
người ủng hộ. Tờ đăng ký hoàn chỉnh sẽ được nộp cho cơ quan bầu
cử, cùng khoản ký quỹ 500 bảng. Khoản này sẽ được xung vào Kho
Bạc nếu ứng viên không thu hút được hơn 5% số phiếu bầu ở đơn
vị ứng cử trong cuộc bầu cử tiếp sau đó.
2. Được người khác đề cử
Ở đây sẽ có hai trường hợp:
Một là ứng viên được một nhóm người tiến cử, ví dụ một nhóm
cử tri thân thiết – bạn bè, hàng xóm, v.v. (Ví dụ như Đan Mạch, từ
100 cử tri độc lập trở lên là có thể đề cử một ứng viên hoặc một
danh sách ứng viên).
Hai là trường hợp mà chúng ta sẽ bàn kỹ sau đây: đảng cử.
Tại nhiều quốc gia, việc đảng cử là bắt buộc để một ai đó có thể
trở thành ứng viên. Ví dụ như ở Israel, nhất định phải được một
đảng nào đó đề cử mới được có tên trong danh sách ứng viên chính
thức. Cả nước Israel là một đơn vị bầu cử duy nhất, bầu toàn bộ 120
thành viên Quốc hội.
* Đảng cử
Trong chế độ đa đảng, các đảng phái là những đơn vị căn bản
đại diện cho người dân. Đảng cử tức là các đảng trình danh sách
ứng viên của mình ra trước cử tri để cử tri lựa chọn. Cử tri bỏ phiếu
thực chất là cho các đảng chứ không phải cho các cá nhân ứng viên.
Với nguyên tắc “đại diện theo tỷ lệ” thì mỗi đảng đều có đại diện ở
quốc hội, với số ghế tỷ lệ thuận với ảnh hưởng của họ, tức là tỷ lệ
thuận với số phiếu họ giành được trong bầu cử.
Cũng có nước quy định, đảng nào được quá ít cử tri ủng hộ, ví
dụ không tới 4% cử tri cả nước, thì không được có đại diện trong
quốc hội.
Trong chế độ độc đảng như Việt Nam thời cộng sản, “Đảng cử”
cũng có nghĩa là đảng Cộng sản Việt Nam trình danh sách ứng
viên ra để cử tri lựa chọn, gọi là “Đảng cử dân bầu”. Song vì cả nước
chỉ có một đảng, và các ứng viên đều do đảng duy nhất đó lựa chọn
theo ý đảng, nên sự lựa chọn của cử tri không còn ý nghĩa. Bầu cử
đã mất tự do và công bằng ngay từ đầu.
BẦU CỬ SƠ BỘ, TRỰC TIẾP Ở MỸ
Mỹ là một nước có quy trình bầu cử đặc biệt, với cơ chế “sơ bộ, trực
tiếp”.
Đầu tiên là khâu đề cử (nomination): Bất cứ cá nhân nào muốn
được một đảng cụ thể nào đó đề cử cho một chức vụ công nào đó
đều có thể nộp cho hội đồng bầu cử một đơn đề nghị, có tên, địa
chỉ, chức vụ mong muốn được đề cử, và các chữ ký của một số
lượng cử tri đã đăng ký là thành viên của đảng mà họ muốn được
đảng đó đề cử.
Ví dụ: Tên tôi là Tracey Tram. Tôi sinh sống ở... Tôi muốn được
bầu vào chức vụ... Tôi muốn ứng cử với tư cách người của đảng Dân
chủ. (Tôi muốn được đảng Dân chủ đề cử). Dưới đây là chữ ký của...
đảng viên đảng Dân chủ ủng hộ tôi.
Hết thời hạn nộp hồ sơ, các hội đồng bầu cử in các phiếu bầu
của mỗi đảng, kèm theo tên của tất cả những người đệ đơn cho
mỗi vị trí.
Vào ngày bầu cử sơ bộ, các cử tri tới các điểm bầu cử và đánh
dấu (tick) chọn người cho từng chức vụ. Người được đánh dấu
nhiều nhất cho mỗi vị trí trong tổng số phiếu của mỗi đảng được
xác nhận là ứng viên chính thức của đảng đó. Tên của ứng viên
và đảng đề cử sẽ được in trên phiếu bầu của cuộc tổng tuyển cử
tiếp sau.
- Có một số bang thực hiện cơ chế “bầu cử sơ bộ, khép kín”: Tức
là, chỉ có cử tri nào mà trước đó đã đăng ký là thành viên của một
đảng cụ thể nào đó là có thể bỏ phiếu trong cuộc bầu cử sơ bộ của
đảng đó. Cử tri nào đăng ký độc lập thì không có đảng và do đó
không được bỏ phiếu trong cuộc bầu cử sơ bộ của đảng nào cả.
Tóm lại, chỉ đảng viên có đăng ký là được bỏ phiếu.
- Một số bang áp dụng cơ chế “bầu cử sơ bộ, chéo”: Tức là, vào
ngày bầu cử, tất cả các cử tri, kể cả cử tri độc lập, đều có thể bỏ
phiếu tại cuộc bầu cử sơ bộ của bất kỳ đảng nào, nhưng trước đó,
phải tuyên bố công khai họ chọn đảng nào. Tóm lại, không cần
phải là đảng viên có đăng ký thì mới được bỏ phiếu, nhưng phải
nói rõ mình bầu cho người của đảng nào.
- Một số bang áp dụng cơ chế “bầu cử sơ bộ, mở”: Tức là, cử tri
không cần đăng ký hay tuyên bố chọn đảng nào, và vào ngày bầu
cử, cử tri được phép bỏ phiếu ở cuộc bầu cử sơ bộ của bất kỳ đảng
nào (nhưng không đồng thời nhiều đảng) mà không cần tuyên bố
công khai là họ chọn đảng gì. Tóm lại, cử tri nào cũng có quyền bỏ
phiếu.
Tóm lại, bầu cử sơ bộ, trực tiếp ở Mỹ nghĩa là: Chính quyền tổ
chức các cuộc bầu cử, để từ đó, mỗi đảng lọc ra được một số người
để họ đề cử. Các cử tri muốn tham gia bỏ phiếu trong các cuộc bầu
cử này thì phải đăng ký, và ở tùy bang mà có thể phải nêu rõ là họ
bỏ phiếu với tư cách cử tri ủng hộ cho đảng nào (bầu cho ứng viên
của đảng nào).
QUY TRÌNH BẦU CỬ Ở CHXHCN VIỆT NAM
Để bạn đọc dễ hình dung nhất, ta có thể chia quy trình này thành 5 bước:
Bước 1
Ủy ban Thường vụ Quốc hội làm việc với Mặt trận Tổ quốc để
“hiệp thương” về cơ cấu của Quốc hội sẽ bầu và đại diện của từng
cơ quan, đơn vị, tổ chức. Bước này gọi là “hiệp thương lần thứ
nhất” và nó chỉ dành cho các ứng viên “dự kiến được đề cử” bởi các
cơ quan, đơn vị.
Các cơ quan, đơn vị được hiểu là phải của Nhà nước và/hoặc
của đảng Cộng sản, chẳng hạn như cơ quan nhà nước, các tổ chức
chính trị-xã hội trực thuộc Mặt trận Tổ quốc, các doanh nghiệp
nhà nước. Người nào được đề cử từ khu vực tư nhân được xem là
ứng viên độc lập.
Tuy nhiên, các ứng viên độc lập chưa tham gia vào bước này.
Bước 2
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định số lượng đơn vị bầu cử
(184 cho cuộc bầu cử năm 2016) và số đại biểu được bầu ở từng
đơn vị bầu cử, sau đó thông báo con số này cho các cơ quan, tổ
chức liên quan và các đơn vị bầu cử.
Cơ quan hoặc tổ chức có liên quan, sau khi nhận được thông tin
và các hướng dẫn từ Ủy ban Thường vụ và Mặt trận Tổ quốc, sẽ lên
danh sách người được giới thiệu ứng cử; danh sách các ứng viên
này sẽ được nộp cho Mặt trận Tổ quốc, đơn vị chính thức tổ chức
bầu cử.
Cùng thời gian này, những ứng viên độc lập, tức những người
không được bất kỳ cơ quan, đơn vị nào của Đảng hay Nhà nước đề
cử, phải đăng ký tại các mặt trận Tổ quốc địa phương (thành phố/
tỉnh). Họ được gọi là “những người tự ứng cử” trong tất cả các văn
bản chính thức liên quan đến bầu cử; hệ thống tuyên truyền của
đảng Cộng sản Việt Nam dường như muốn tránh dùng từ “độc
lập” hoặc “tự do” cho các ứng viên.
Bước 3
Mặt trận Tổ quốc tổ chức “hiệp thương lần thứ hai”, mà thành
tố cốt lõi của nó là các cuộc “hội nghị cử tri”. Quy trình này xem ra
chỉ có tại các cuộc bầu cử ở Trung Quốc và Việt Nam. Đó là những
hội nghị lấy ý kiến cử tri, tại đó cử tri được yêu cầu đánh giá trực
tiếp về ứng viên ở nơi cư trú và cơ quan/tổ chức của mình, và xác
định liệu các ứng viên có đủ điều kiện ứng cử vào Quốc hội và/
hoặc Hội đồng Nhân dân hay không.
Trong thực tế, các buổi hiệp thương này trở thành nơi đấu tố,
khi các ứng viên, nhất là những ứng viên độc lập, bị cử tri phê bình
dữ dội ở nơi công cộng. Điều quan trọng nhất là họ thường bị loại
vì các lý do vặt vãnh như “không thường xuyên tham dự các cuộc
họp chi bộ, họp dân phố tại nơi cư trú”, hoặc “trông thấy hàng xóm
mà không chào hỏi” v.v...
Do vậy, các hội nghị lấy ý kiến này gợi lại những ký ức về cuộc
cải cách ruộng đất tại Trung Quốc và Việt Nam hồi giữa thế kỷ
20, khi những người bị cáo buộc là “địa chủ bóc lột” bị đem đến
các “tòa án nhân dân” để chịu đấu tố một cách thô bạo trước khi
bị xử tử.
Bằng chứng đã cho thấy Mặt trận Tổ quốc và chính quyền địa
phương tổ chức các vòng “hiệp thương” thường mời những người
từ các khu vực lân cận đến dự họp và để cho họ gièm pha các ứng
viên nào mà đảng Cộng sản không ưa.
Những người ủng hộ các ứng viên, nếu có, thường không được
phép tham dự cuộc hội nghị cử tri do chính quyền địa phương và
Mặt trận Tổ quốc tổ chức.
Bước 4
Tại vòng “hiệp thương lần thứ ba”, Mặt trận Tổ quốc tổng kết lại
danh sách người ứng cử và loại những người mà họ coi là không
đủ tiêu chuẩn. Các cuộc họp này được Mặt trận Tổ quốc và các cơ
quan liên quan khác tổ chức kín, không có mặt ứng viên.
Danh sách cuối cùng của các ứng viên chính thức, hay những
người được chọn có tên trong phiếu bầu chính thức vào ngày bầu
cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân, sẽ chỉ được đưa ra sau ba vòng
hiệp thương.
Bước 5
Sau khi danh sách chính thức cuối cùng đã được Mặt trận Tổ
quốc và các cơ quan nhà nước liên quan duyệt, đến ngày bỏ phiếu
thì Mặt trận Tổ quốc mới tổ chức “hội nghị tiếp xúc cử tri” để các
ứng viên gặp gỡ cử tri và mở cuộc “vận động tranh cử” của họ mà
đến thời điểm này thì đã được luật pháp chấp nhận. Báo chí nhà
nước cũng có thể có mặt tại các hội nghị tiếp xúc cử tri đó và phỏng
vấn ứng viên.
Tuy nhiên, một khi danh sách chính thức cuối cùng đã được
phê duyệt, các hội nghị này phần lớn chỉ mang tính hình thức. Ứng
viên sẽ được yêu cầu trình bày chương trình nghị sự của mình cho
những cử tọa đã được các cơ quan có thẩm quyền lựa chọn một
cách kỹ lưỡng từ trước, và hiếm khi có ý kiến phản bác nào đối với
ứng viên.
PHÂN TÍCH
Quy chế bầu cử ở Việt Nam dưới thời cộng sản, với đặc thù là sự
chỉ đạo toàn diện và xuyên suốt của đảng Cộng sản Việt Nam
thông qua cơ chế Mặt trận Tổ quốc và ba vòng hiệp thương, bộc lộ
rất nhiều vấn đề. Dưới đây chỉ là một vài vấn đề chính trong số đó.
1. Không có lựa chọn thực sự
Hội đồng bầu cử quốc gia (cơ quan giữ chức năng tổ chức bầu cử
đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân các cấp) gồm 100% thành viên là đảng viên
cộng sản cấp cao.
Bầu cử ở Việt Nam được thực hiện trên cơ sở “Đảng cử, dân
bầu”. Vấn đề ở đây là cả nước chỉ có mỗi một đảng, và tiến trình bầu
cử không cho cử tri có sự lựa chọn nào. Công dân không được
thành lập đảng phái, không được tự đề cử ứng viên.
Đây là căn nguyên của tất cả các vi phạm về nhân quyền trong
tiến trình bầu cử.
2. Không thừa nhận ứng viên độc lập
Không một luật nào nói về ứng viên độc lập, chứ chưa nói tới việc
công nhận và khuyến khích họ. Theo Điều 27 Hiến pháp và Điều 2
Luật Bầu cử, mọi công dân Việt Nam trên 21 tuổi đều có quyền ứng
cử đại biểu Quốc hội và/hoặc Hội đồng Nhân dân. Tuy nhiên, các
luật liên quan đến bầu cử ở Việt Nam chỉ tập trung vào những cá
nhân được đề cử bởi các tổ chức của đảng Cộng sản, tổ chức chính
trị-xã hội, các lực lượng vũ trang nhân dân (quân đội và công an),
và các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương. Đó là những
“ứng viên Đảng cử”.
Ứng viên độc lập có thể được định nghĩa là những người không
được đề cử bởi các tổ chức của đảng Cộng sản, tổ chức chính trị-xã
hội, các lực lượng vũ trang nhân dân (quân đội và công an), hay các
cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương.
Đáng chú ý là ứng viên độc lập thậm chí còn có thể được chia
làm hai loại:
1. Ứng viên độc lập được chỉ định từ trước, hay những người
được Mặt trận Tổ quốc các cấp bố trí để “tự ứng cử” vào Quốc hội
và Hội đồng Nhân dân với tư cách độc lập; và
2. Ứng viên độc lập thật sự, hay là những người tự ứng cử vào
Quốc hội và Hội đồng Nhân dân. Họ không được đề nghị hoặc thu
xếp trước đó.
Cả hai loại ứng viên này đều được báo chí và các văn bản, tài liệu
chính thống của đảng Cộng sản và nhà nước coi là “độc lập”. Nhưng
tất nhiên, chỉ có loại 2 là độc lập thực sự. Loại 1 là được phân công
làm ứng viên độc lập, hay nói cách khác, đó là những người giả làm
ứng viên độc lập.
3. Mẫu không đại diện cho dân số
Đại đa số cử tri tham dự cuộc họp “đấu tố” ứng viên Nguyễn Quang A là người già. Ảnh chụp tại phường Long Biên (Hà Nội), 9/4/2016.
Theo truyền thống, các hội nghị lấy ý kiến cử tri do Mặt trận Tổ
quốc tổ chức là nơi mà các ứng viên tương lai bị/được một nhóm
nhỏ cử tri nơi cư trú, những người được các đại diện của đảng
Cộng sản Việt Nam và chính quyền địa phương chọn ra, đánh giá,
nhận xét. Trong nhiều trường hợp, đó là các cử tri nhiều tuổi, học
vấn thấp, và chẳng biết gì về ứng viên. Hậu quả là, họ chỉ tập trung
vào tấn công cá nhân thay vì đưa ra các đánh giá công bằng và duy
lý. Đôi khi các cử tri đó còn tỏ ra thù địch đối với những người tự
ứng cử, và thế là các hội nghị cử tri gợi lại những ký ức cay đắng của
cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam vào những năm
1940-50, trong đó nông dân được xúi giục hoặc bị gây sức ép phải
“đấu” các địa chủ hết sức dữ dội trước khi hành quyết họ.
Trong mọi trường hợp, mẫu chọn là quá nhỏ, không đại diện
được cho số dân, và trình độ, năng lực đánh giá của các cử tri được
chọn sẵn đó là rất đáng ngờ.
Tồi tệ hơn cả là thủ tục này đã thành công trong việc loại ra
nhiều ứng viên độc lập, kể cả những trí thức được rất đông quần
chúng cả nước ủng hộ mạnh mẽ.
4. Không công nhận các cơ quan giám sát và thực thi độc lập
Như trên đã nói, 100% thành viên Hội đồng bầu cử quốc gia là
đảng viên cộng sản cấp cao. Như vậy, cuộc bầu cử đã bất công ngay
từ khâu tổ chức, với một ban tổ chức hoàn toàn phi độc lập.
Bên cạnh đó, không một luật nào đề cập đến các cơ quan hành
pháp và giám sát độc lập, hay một cơ chế nào để độc lập theo dõi và
giám sát quá trình bầu cử.
Luật pháp và đường lối của đảng Cộng sản quy định các cơ
quan nhà nước liên quan đến bầu cử đều phải tuân thủ đường lối,
chính sách, chỉ thị của đảng.
5. Kiểm phiếu không minh bạch
Không ai trong quần chúng có thể biết công việc kiểm phiếu diễn ra
như thế nào, ai là người đếm và cách đếm, cách tính kết quả ra sao.
Ngay cả các cuộc “hội nghị cử tri” để “hiệp thương” về tư cách
ứng cử của ứng viên cũng diễn ra bất minh. Mặt trận Tổ quốc khống
chế hoàn toàn nội dung các cuộc hội nghị, thành phần tham dự, phát
biểu của các cử tri có mặt. Riêng tại vòng “hiệp thương lần thứ ba”,
Mặt trận Tổ quốc họp kín để loại những người mà họ coi là không
đủ tiêu chuẩn, ứng viên và người ủng hộ không được tham dự.

6. Truyền thông thiên vị
Các yêu cầu về sự chính xác, trung lập, công bằng của truyền thông
bị xâm phạm nghiêm trọng. Báo chí bị ngăn cản tiếp xúc với ứng
cử viên độc lập, nhất là những người có xu hướng bất đồng chính
kiến hoặc ủng hộ dân chủ-nhân quyền. Các sản phẩm báo chí bị
kiểm duyệt chặt chẽ.
Bài đọc
ABC VỀ BẦU CỬ QUỐC HỘI Ở VIỆT NAM 1
Kỳ bầu cử Quốc hội năm 2016 hứa hẹn một điểm rất mới, khi lần
đầu tiên trong lịch sử Quốc hội Việt Nam, có sự xuất hiện của
mạng xã hội facebook với vai trò đáng kể định hình công luận, và
trên facebook đã có những lời kêu gọi cho một chiến dịch người
dân “đồng loạt tự ứng cử”. Giữa lúc đó thì báo chí trích lời đương
kim Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho biết đã xác định
được số lượng ứng cử đại biểu khóa XIV là 896 người. Một loạt
thắc mắc có thể nảy sinh: Thế là thế nào? 896 người kia ở đâu ra, tôi
đã ứng cử đâu?
Nhằm giúp các ứng viên tự do bớt lúng túng và quá tải, bài viết
dưới đây sẽ cung cấp một số kiến thức căn bản liên quan đến quy
trình ứng cử và bầu cử Quốc hội ở Việt Nam.
VẤN ĐỀ “CƠ CẤU” CỦA QUỐC HỘI
Ông Nguyễn Sinh Hùng phát biểu như vậy vào ngày 16/01/2016,
tại một phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhằm cho ý
kiến về nghị định hướng dẫn một số điều của Luật Bầu cử, trong
đó có việc tổ chức hội nghị cử tri.
1. Bản gốc của bài viết có tựa đề “ABC về bầu cử Quốc hội – dành cho các ứng viên tự do”.
Bài đã đăng trên Luật Khoa tạp chí ngày 14/02/2016 tại địa chỉ: http://luatkhoa.
org/2016/02/abc-ve-bau-cu-quoc-hoi-danh-cho-cac-ung-vien-tu-do/
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã ra nghị quyết về dự kiến
số lượng, cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội khóa XIV. Theo đó,
ngày bầu cử Quốc hội là chủ nhật, 22/5/2016. Khóa XIV sẽ có 500
đại biểu, được bầu từ con số dự kiến 896 người ứng cử. (Luật Tổ
chức Quốc hội cũng ấn định tổng số đại biểu không quá 500).
Trong 500 đại biểu Quốc hội của khóa XIV, số người không
phải là đảng viên đảng Cộng sản, theo dự kiến của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội, chỉ khoảng 25-50.
Mặc dù Quốc hội và báo chí dùng từ “dự kiến”, nhưng thực chất,
cần hiểu đúng bản chất của nó là “xác định cơ cấu”, và đây là bước
đầu tiên trong quy trình bầu cử Quốc hội ở Việt Nam.
Trong bước đầu tiên này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ấn định
và công bố ngày bầu cử, thành lập Hội đồng Bầu cử Trung ương,
đồng thời, đưa ra “dự kiến” về cơ cấu, số lượng đại biểu được bầu,
ví dụ như kỳ này, Quốc hội phải có ít nhất 35% đại biểu là nữ. Số
lượng đại biểu của Bộ Quốc phòng là 15 người, Bộ Công an 3
người. Số đại biểu đến từ khối doanh nghiệp, hiệp hội, nghiệp đoàn
sản xuất kinh doanh: 7 người...
Việc ấn định cơ cấu được giải thích là nhằm đảm bảo cân bằng
lợi ích, cân bằng sự đại diện của tất cả các tầng lớp trong xã hội
(phụ nữ, thanh niên, nông dân, trí thức, người dân tộc thiểu số
v.v.). Mặt trái của nó, ai cũng có thể nhận thấy, là nó hợp lý hóa sự
sắp xếp nhân sự từ trước và can thiệp vào trong quá trình ứng cử
để bảo đảm cơ cấu. Một vị cựu đại biểu Quốc hội kể, thời ông,
chưa đến ngày bầu cử ông đã biết trước mình chắc chắn vào Quốc
hội, bởi cơ cấu khi ấy đang cần thêm một trí thức khoa học xã hội
ở Hà Nội, mà xung quanh ông thì toàn trí thức thuộc khối khoa
học tự nhiên.
Vậy là cơ cấu của Quốc hội đã được ấn định trước, tiếp theo sẽ
là quá trình thực hiện, với một loạt bước, gồm: hiệp thương, hội
nghị tiếp xúc cử tri. Trong đó, hiệp thương là giai đoạn quan trọng
nhất để thực hiện cơ cấu đã vạch sẵn.
BA LẦN HIỆP THƯƠNG
“Hiệp thương” có lẽ là một khái niệm nghe khá khó hiểu với nhiều
người Việt Nam. Nhưng thật ra thì nó đơn giản. Hiệp thương,
tiếng Anh là “negotiation”, có nghĩa là đàm phán, thương lượng
với nhau.
Quy trình bầu cử Quốc hội ở Việt Nam có ba (03) vòng hiệp
thương. Lần thứ nhất để xác định cơ cấu. Lần thứ hai, để thống
nhất danh sách ứng cử viên sơ bộ. Lần thứ ba, chốt danh sách cuối
cùng của các ứng cử viên, để đưa đến việc “toàn dân đi bầu”.
Hiệp thương lần 1 diễn ra sau khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội
đã đưa ra “dự kiến”, tức là đã ấn định cơ cấu, thành phần, số lượng
đại biểu Quốc hội được bầu, và đem trình nó cho Mặt trận Tổ
quốc.
Dựa trên dự kiến đó, Mặt trận Tổ quốc cấp trung ương, và cấp
tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương, sẽ tổ chức hội nghị hiệp
thương lần thứ nhất ở cấp tương ứng, để thoả thuận (tức là “hiệp
thương”) về cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu mà các cơ quan,
tổ chức, đơn vị ở trung ương hay địa phương giới thiệu, tiến cử.
Còn các ứng viên tự do, không được cơ quan, tổ chức, đơn vị
nào tiến cử, thì đương nhiên không có tên trong danh sách cơ cấu.
Tuy nhiên, họ vẫn có thể nộp hồ sơ cá nhân cho ủy ban bầu cử;
vòng hồ sơ này không quá khó khăn. Thử thách lớn nhất với ứng
viên tự do là ở lần hiệp thương sau đó.
HIỆP THƯƠNG LẦN 2: “CỬA TỬ” ĐỐI VỚI ỨNG VIÊN TỰ DO
Hiệp thương lần thứ hai thương lượng, thống nhất danh sách
ứng cử viên sơ bộ, gồm cả các ứng viên tự do, và danh sách này sẽ
được đưa ra lấy ý kiến của cử tri nơi cư trú và nơi công tác.
Các hội nghị cử tri lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri
nơi cư trú chính là nơi diễn ra cuộc thử thách nặng nề nhất với bản
lĩnh và sức chịu đựng của ứng cử viên đại biểu Quốc hội. Theo
truyền thống lâu nay, đó là nơi cử tri nơi cư trú tiến hành cuộc “đấu
tố” ứng cử viên, đặc biệt là ứng viên tự do, không được cơ quan, tổ
chức, đơn vị nào tiến cử. Nhiều người được sự ủng hộ lớn của cử
tri nơi công tác, nhưng ra hội nghị ở nơi cư trú, vẫn bị “đấu” tơi bời
và nhận tỷ lệ tín nhiệm rất thấp.
Thực tế các kỳ bầu cử nhiều năm qua cho thấy ứng cử viên
thường bị cử tri đánh giá, phê phán vì những lý do rất... không liên
quan đến năng lực, chẳng hạn như “ra đường gặp hàng xóm không
chào, chứng tỏ kiêu ngạo”, “lười đi họp tổ dân phố”, “xấu trai, ngoại
hình không đủ để làm đại biểu Quốc hội”, v.v.
Càng là ứng viên tự do, không được cơ quan, tổ chức nào giới
thiệu ứng cử, nguy cơ bị đấu tố càng lớn. Điều đó có thể vì nhiều
nguyên nhân. Chẳng hạn, do có sự chỉ đạo, tác động, can thiệp để
cử tri loại bỏ ứng cử viên; do có sự sắp xếp, điều thêm cử tri của các
địa bàn lân cận đến dự “đấu tố”; và cũng do chất lượng của chính
cử tri còn thấp, khiến họ thiếu ý thức tham gia nghiêm túc vào hoạt
động chính trị.
Hội nghị cử tri có sự tham dự của ứng cử viên đại biểu Quốc
hội, đại diện của tổ chức/ cơ quan có người ứng cử, lãnh đạo địa
phương (tức nơi cư trú của ứng viên), tổ dân phố, Mặt trận Tổ quốc
địa phương, và các cử tri... Trên thực tế, nhiều khi ứng viên tự do
phải đứng trước một cử tọa gồm phần lớn là những người họ chẳng
biết là ai, đấu tố họ một cách thô bạo. Đây là câu chuyện đã từng
xảy ra với nhiều người ứng cử tự do, như ông Nguyễn Hữu Vinh
(blogger Ba Sàm, năm 2002), nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác
Hải (năm 2011), luật sư Lê Quốc Quân (năm 2011)...
HIỆP THƯƠNG LẦN 3: “ĐẤU TỐ VẮNG MẶT” ỨNG VIÊN TỰ DO
Với kết quả đánh giá ý kiến và tín nhiệm của cử tri tại hiệp thương
lần hai, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ điều chỉnh lần hai về cơ
cấu, thành phần và số lượng đại biểu được giới thiệu ứng cử từ các
cơ quan, tổ chức, đơn vị. Tiếp theo, sẽ đến hiệp thương lần thứ ba.
Khác với các hội nghị cử tri ở nơi cư trú diễn ra trong vòng hiệp
thương trước, ở hiệp thương lần ba, các hội nghị diễn ra không có
mặt của ứng cử viên.
Chỉ có đại diện Mặt trận Tổ quốc, Hội đồng Bầu cử Quốc gia,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ (đối với việc bầu cử đại
biểu Quốc hội ở cấp trung ương); Mặt trận Tổ quốc và ủy ban bầu
cử tỉnh, thường trực hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân tỉnh
(đối với việc bầu cử đại biểu ở cấp địa phương), là được tham dự và
“hiệp thương” với nhau để lựa chọn và chốt danh sách chính thức
những người ứng cử.
Năm 2011, luật sư Võ An Đôn đã qua được vòng hiệp thương
thứ hai. Trên facebook cá nhân, ông cho biết, khi lấy tín nhiệm tại
nơi cư trú và nơi công tác, ông đều được 100% cử tri (tức người dân
địa phương và đồng nghiệp) ủng hộ, tín nhiệm. Nhưng đến vòng
hiệp thương lần ba, khi bị “đấu tố vắng mặt” tại hội nghị của Mặt
trận Tổ quốc tỉnh, thì ông bị loại, không được vào danh sách cuối
cùng, gồm những người được ứng cử đại biểu Quốc hội.
Ông Đôn phản ánh: “Khi tổ chức lấy phiếu tín nhiệm tại nơi cư
trú và tại Đoàn luật sư thì tôi được mời tham dự, nhưng khi tổ
chức hiệp thương tại Mặt trận Tổ quốc thì tôi không được mời
tham dự, nghe những người tham dự kể lại là họ đấu tố và nói xấu
tôi dữ lắm”.
Đây cũng là một cửa ải lớn đối với ứng cử viên tự do. Nếu họ
vượt qua được (xưa nay rất hiếm), thì họ mới có thể cùng các ứng
viên được giới thiệu ứng cử tiến vào giai đoạn tiếp theo: vận động
tranh cử và trình bày chương trình hành động.
VẬN ĐỘNG TRANH CỬ
Ở khâu này, Mặt trận Tổ quốc địa phương (tức là Mặt trận Tổ quốc
ở các điểm bầu cử) sẽ tổ chức những hội nghị tiếp xúc cử tri tại địa
phương để người ứng cử tiến hành vận động bầu cử, dưới sự giám
sát của Mặt trận Tổ quốc. Tại đây, họ sẽ trình bày trước cử tri
chương trình hành động của mình.
Ngoài ra, những người có tên trong danh sách ứng cử cuối cùng
còn có cơ hội làm việc với báo chí để giới thiệu bản thân và chương
trình hành động, vận động tranh cử...
Một cựu đại biểu cho biết, đến giai đoạn này, trên nguyên tắc cử
tri vẫn có thể quan sát, xem xét ứng cử viên đại biểu Quốc hội, để
bỏ phiếu bầu hoặc không bầu cho ông/bà ta. Tuy nhiên, trên thực
tế, cũng chẳng mấy khi cử tri quan tâm đến chương trình hành
động của ứng cử viên, còn báo chí thì càng không có chuyện tìm
hiểu, moi móc hồ sơ nhân thân hay phản biện ứng cử viên, mà chỉ
đưa tin, viết bài phản ánh theo hướng ca ngợi.
Như vậy, vào được danh sách chính thức, được tổ chức cho đi
“vận động tranh cử” chính thức, đã có thể coi như thắng lợi cực kỳ
lớn của ứng cử viên đại biểu Quốc hội rồi.
LỜI KẾT
Bước cuối cùng là giai đoạn cử tri bỏ phiếu chính thức. Việc kiểm
phiếu sau đó – không đảm bảo độc lập – cũng là một khâu mà
chính quyền có thể tác động để đảm bảo cơ cấu, thành phần Quốc
hội như đã chủ trương từ đầu.
Ứng cử đại biểu Quốc hội là sự thực thi một quyền chính trị căn
bản của người dân: quyền được tham gia một cách có ý nghĩa vào
chính trị. Trong hoàn cảnh Việt Nam, với hệ thống chính trị một
đảng, quyền này chịu rất nhiều hạn chế, cản trở – bằng các cơ chế
như đã chỉ ra ở trên.
Bài đọc
HỘI NGHỊ CỬ TRI – NÉT QUÁI ĐẢN
TRONG CƠ CHẾ BẦU CỬ QUỐC HỘI 1
Vâng, không phải “nét mới” mà là “nét quái đản”.
Dưới đây là một số câu hỏi và đáp xoay quanh hội nghị cử tri do
Page Vận Động Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016 tập hợp và biên
soạn.
1. HỘI NGHỊ CỬ TRI LÀ GÌ?
Hội nghị cử tri là hội nghị gặp mặt giữa người ứng cử đại biểu
Quốc hội với các cử tri ở nơi cư trú hoặc công tác của người ứng
cử, để lấy ý kiến của cử tri về người ứng cử.
Hội nghị cử tri đấu tố luật sư Võ An Đôn – ứng viên độc lập – ngày
01/4/2016 ở tỉnh Phú Yên. Nguồn ảnh: facebook luật sư Võ An Đôn.
1. Bài viết đăng trên trang facebook “Vận Động Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016”, ngày
5/4/2016, tại địa chỉ: https://www.facebook.com/daibieuQH/posts/1069488279781219:0 .
Tựa đề gốc là: “Đấu tố ứng viên độc lập, các cử tri đang làm sai quy định của pháp luật”.
Căn cứ vào đó, cơ quan, tổ chức, đơn vị có cơ sở để giới thiệu
người ứng cử, để rồi Mặt trận Tổ quốc, Hội đồng Bầu cử sẽ đưa họ
vào vòng hiệp thương thứ ba, tiến tới bố trí họ vào danh sách
những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội. Đó là với các
ứng viên được đề cử.
Còn với các ứng viên tự do, thì căn cứ vào kết quả bỏ phiếu ở
hội nghị cử tri, Mặt trận Tổ quốc, Hội đồng Bầu cử, v.v. có cơ sở
để... loại họ, không để họ vào tiếp vòng trong và nhất định là không
thể được có tên trong danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng
cử đại biểu Quốc hội.
2. AI LÀ NGƯỜI TỔ CHỨC HỘI NGHỊ CỬ TRI NƠI CƯ TRÚ?
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã phối
hợp với Ủy ban Nhân dân cùng cấp triệu tập và chủ trì hội nghị.
3. AI LÀ NGƯỜI QUYẾT ĐỊNH THÀNH PHẦN THAM DỰ HỘI
NGHỊ CỬ TRI NƠI CƯ TRÚ?
Thành phần dự hội nghị do Trưởng ban Công tác Mặt trận phối
hợp với Trưởng thôn, Tổ trưởng dân phố quyết định và mời cử tri
đến dự.
4. CỬ TRI CÓ QUYỀN LÀM GÌ TẠI HỘI NGHỊ CỬ TRI?
Khoản 3, Điều 45 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng Nhân dân 2015 quy định: “Tại hội nghị cử tri, cử tri đối chiếu
với tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, nhận xét, bày tỏ sự tín nhiệm
đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội bằng cách giơ tay hoặc bỏ
phiếu kín theo quyết định của hội nghị”.
5. TIÊU CHUẨN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI LÀ GÌ?
- Trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực
hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
- Có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm, liêm chính, chí công vô
tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan liêu, hách
dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
- Có trình độ văn hóa, chuyên môn, có đủ năng lực, sức khỏe,
kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu; có
điều kiện tham gia các hoạt động của ĐBQH.
- Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân
dân, được Nhân dân tín nhiệm.
- Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội.
Trong các tiêu chuẩn trên, không có tiêu chuẩn nào như là
“tham gia đầy đủ các cuộc họp tổ dân phố”, “gia đình không được
buôn bán tạp hóa kiếm lời”, hay “facebook không được sặc mùi dân
chủ-khai trí”... cả.
6. CHƯƠNG TRÌNH CỦA MỘT CUỘC HỘI NGHỊ CỬ TRI GỒM
NHỮNG NỘI DUNG GÌ?
Theo Điều 4, Nghị quyết số 1134/2016/UBTVQH13 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, ra ngày 18/1/2016, “quy định chi tiết, hướng
dẫn về việc tổ chức hội nghị cử tri”, thì một cuộc hội nghị cử tri bao
gồm các nội dung sau:
1/ Người chủ trì hội nghị tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu dự
hội nghị. Người chủ trì có trách nhiệm sau đây:
a) Giới thiệu về mục đích, yêu cầu của hội nghị;
b) Giới thiệu thư ký hội nghị để hội nghị quyết định;
c) Báo cáo về số cử tri được mời, số cử tri có mặt;
d) Giới thiệu danh sách người ứng cử;
e) Đọc tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội quy định tại Điều 22
của Luật Tổ chức Quốc hội và những trường hợp không được ứng
cử đại biểu Quốc hội quy định tại Điều 37 của Luật Bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng Nhân dân.
2/ Thư ký hội nghị đọc tiểu sử tóm tắt của từng người ứng cử.
3/ Cử tri phát biểu ý kiến đối với từng người ứng cử.
4/ Người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu
người ứng cử phát biểu ý kiến.
5/ Hội nghị biểu quyết bằng hình thức giơ tay hoặc bỏ phiếu
kín. Hội nghị cử tổ kiểm phiếu từ 3 đến 5 người. Trường hợp hội
nghị biểu quyết bằng hình thức giơ tay thì tổ kiểm phiếu đếm, tính
kết quả biểu quyết đối với từng người.
6/ Tổ trưởng tổ kiểm phiếu công bố kết quả biểu quyết.
7/ Hội nghị thông qua biên bản hội nghị cử tri.
7. CỬ TRI CĂN CỨ VÀO ĐÂU MÀ ĐẤU TỐ ỨNG VIÊN?
Theo quy định của chính luật pháp nước CHXHCN Việt Nam, thì
trong hội nghị cử tri, không hề có phần “chất vấn” của cử tri đối với
ứng viên, và càng không có chuyện cử tri chỉ trích, thậm chí sỉ
nhục, đấu tố ứng viên như trong các cuộc hội nghị được tổ chức
vừa qua ở nhiều nơi.
Và nhất là, ứng viên phải được quyền phản hồi lại các ý kiến của
cử tri, tất nhiên kể cả ý kiến phê bình, chỉ trích (nếu có).
Bởi vì Điều 4, Nghị quyết số 1134/2016/UBTVQH13 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, đã nêu rõ nội dung của hội nghị cử tri:
- Cử tri phát biểu ý kiến đối với từng người ứng cử.
- Người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu
người ứng cử phát biểu ý kiến.
Chúng tôi không hiểu tại các hội nghị cử tri hay là đấu tố vừa
qua, cử tri căn cứ vào đâu để mạt sát ứng viên, đặc biệt sử dụng
những lý do vụn vặt và không hề liên quan tới tiêu chuẩn của một
đại biểu Quốc hội (như Luật Tổ chức Quốc hội đã quy định).
Chúng tôi cũng không hiểu vì sao khi các cử tri đi quá đà, ban
tổ chức hội nghị hoàn toàn không can thiệp, thậm chí còn yêu cầu
ứng viên phải im lặng, không cho ứng viên có cơ hội giải thích và
phản hồi những nhận xét ác ý nhằm vào mình.
Với việc đấu tố ứng viên độc lập, cử tri vi phạm Nghị quyết
1134 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; trong những trường hợp
nghiêm trọng, còn có dấu hiệu của tội xúc phạm danh dự, nhân
phẩm người khác (Điều 122 Bộ luật Hình sự, Điều 37 và 611 Bộ
luật Dân sự).
Bài đọc
TẠI SAO ĐẢNG CỐ "LÙA" DÂN ĐI BẦU CỬ? 1
Do kiểm phiếu không độc lập, báo chí chỉ là công cụ tuyên truyền,
không có một cơ chế giám sát độc lập nào, cho nên, sự thật là: Dù
bạn tẩy chay bầu cử, dù bạn không đi bỏ phiếu, dù bạn gạch tất cả
các ứng viên Đảng cử, thì cuối cùng tỷ lệ người đi bầu vẫn xấp xỉ
100%, các ứng viên Đảng cử vẫn nghiễm nhiên vào Quốc hội ngủ
và im lặng suốt ít nhất 5 năm nữa.
Và cuối cùng, tỷ lệ người đi bầu, tỷ lệ phiếu tín nhiệm bao giờ
cũng cao ngất ngưởng.
Câu hỏi đặt ra là: Tại sao đảng Cộng sản phải tổ chức bầu cử
Quốc hội cho bằng được, dù rất tốn kém (ngân sách Nhà nước) và
dù Đảng thừa biết bầu cử Quốc hội chỉ là màn kịch do Đảng đạo
diễn toàn diện?
Trả lời: Ấy là bởi vì đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng độc
tài.
Chế độ độc tài có nhiều biểu hiện, trong đó có một biểu hiện bề
ngoài rất rõ nét là: Trong một chính thể độc tài, tỷ lệ người đi bầu
và tỷ lệ bỏ phiếu ủng hộ (lãnh đạo hoặc chủ trương, chính sách của
lãnh đạo) luôn luôn rất cao, ngược lại, tỷ lệ phiếu tín nhiệm phe đối
lập phải rất thấp.
1. Bài đăng trên blog của tác giả vào ngày 18/5/2016, bốn ngày trước kỳ bầu cử đại biểu
Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng Nhân dân nhiệm kỳ 2016-2021. Trong bài này, từ
“Đảng” (chữ Đ viết hoa) chỉ “đảng Cộng sản Việt Nam”.
Đó là những gì đã xảy ra với các ứng cử viên đại biểu Quốc hội
độc lập (ví dụ Nguyễn Trang Nhung không nhận được một phiếu
thuận nào, Nguyễn Thị Kim Anh hay Nguyễn Quang A chỉ được
6-7 phiếu trên tổng số 70-80 phiếu). Đảng nhất định phải khiến họ
thua một cách tuyệt đối. Cũng như Đảng sẽ nhất định lùa bằng
được “toàn dân đi bầu cử”, để cuối cùng tỷ lệ người đi bầu phải cao
chót vót, gần 100%, và Đảng phấn khởi tuyên truyền về thành công
của cuộc bầu cử.
“Đồng thuận” trong Quốc hội cao như thế này không chứng tỏ Đảng được
lòng dân, mà chỉ chứng tỏ Đảng độc tài thôi.
TỐN KÉM MẤY CŨNG PHẢI CHƠI
Một trong các chức năng của bầu cử là tạo dựng và/hoặc củng cố
tính chính danh cho nhà cầm quyền. Nhất là khi cuộc bầu cử được
đông đảo dân chúng tham gia - khi ấy nó sẽ bao biện cho sự cai trị
của nhà cầm quyền, nó là một cơ hội để nhà cầm quyền tuyên
truyền thật lực trong nước và quốc tế về tính dân chủ của chế độ
mình, và đặc biệt, nó tạo cho người dân cảm tưởng rằng họ đang
thực thi quyền lực của nhân dân. (Điều này cũng giải thích cho việc
dân chúng tại các hội nghị cử tri ở nơi cư trú, một khi được/bị cán
bộ của Đảng kích động, rất dễ hăng hái vào cuộc đấu tố ứng viên).
Chính vì thế, đảng Cộng sản phải tổ chức bầu cử Quốc hội, phải
mạnh tay chi tới hàng nghìn tỷ đồng cho vở kịch của Đảng. Và đã
tổ chức rồi thì Đảng sẽ phải cố xua dân đi bầu cho bằng được, càng
đông đảo càng tốt.
ĐỘC TÀI VÀ SỞ THÍCH "ĐỒNG THUẬN CAO"
Độc tài đúng là rất thích các con số, thích lượng hóa, kiểu như “ba
xây, bốn chống”, “ba phe, bốn mâu thuẫn”, “ba dòng thác cách
mạng”, “ba sẵn sàng”, “ba đảm đang”, v.v...
Độc tài cũng đam mê những con số thống kê có lợi cho họ, tức
là phải rất cao, ít nhất là trên 90%, còn thì càng gần sát mức tuyệt
đối càng tốt.
Lịch sử thế giới thế kỷ 20 và 21 đã có rất nhiều thành viên của
“câu lạc bộ 90 phần trăm”, mà sau đây chỉ là một vài ví dụ:
- Năm 1973, Tổng thống Ferdinand Marcos của Philippines
tuyên bố thông qua Hiến pháp mới với tỷ lệ 95% đại biểu Hội đồng
Nhân dân ủng hộ. Cũng năm đó, Philippines tiến hành trưng cầu
dân ý với câu hỏi “có muốn Tổng thống Marcos tiếp tục tại vị
không”, và 90,67% câu trả lời là có.
- Năm 1979, cuộc trưng cầu dân ý của Giáo chủ Khomeini ở
Iran thu được kết quả 98% người bỏ phiếu tán thành việc xây dựng
nước cộng hòa Hồi giáo Iran.
- Năm 2002, Tổng thống Iraq Saddam Hussein tái đắc cử, được
100% phiếu bầu.
- Năm 2012 Tổng thống Turkmenistan (Turkmenia) Gurbanguly
Berdimuhamedov tái đắc cử với tỷ lệ 97% số phiếu ủng hộ. Trước
đó, năm 1992, người tiền nhiệm của ông này, Saparmurat Niyazov,
còn được “tín nhiệm” cao hơn thế nữa: 99,5%.
- Anh em nhà Tổng thống Cuba, Fidel và Raul Castro, thường
xuyên được 99% phiếu bầu.
- Các cuộc bầu cử ở Liên Xô ngày trước, tỷ lệ trúng cử của đảng
viên cộng sản vào các xô viết địa phương trung bình là 99%.
- Ngày 28/11/2013, Quốc hội Việt Nam bỏ phiếu thông qua bản
Hiến pháp sửa đổi (tiếp tục khẳng định ngôi vị lãnh đạo toàn diện
của đảng Cộng sản) với tỷ lệ 97,59% tán thành (xem ảnh trên).
Và bây giờ chúng ta chờ tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu, tỷ lệ phiếu tín

nhiệm Nguyễn Phú Trọng và các đại biểu Quốc hội cấp cao của
Đảng sẽ cao chót vót, từ 80 đến 100%. 1
Đằng nào cũng vậy, cho nên... chúng ta hãy dành ngày chủ nhật
22/5/2016 cho những việc có ích, có lợi, thay vì đi bỏ phiếu.
1. Kết quả thực tế: Trong số 30 đại biểu Quốc hội ở Hà Nội được bầu, Tổng Bí thư đảng
Cộng sản Nguyễn Phú Trọng đã trúng cử với tỷ lệ phiếu hơn 86,32 % (đơn vị bầu cử số 1,
gồm ba quận Ba Đình, Hoàn Kiếm và Tây Hồ). Bí thư Thành ủy Hà Nội Hoàng Trung Hải
đạt số phiếu cao nhất trong đơn vị bầu cử số 8 (Ba Vì, Sơn Tây, Phúc Thọ) với 87,16%.
Chương V
TỔ CHỨC VÀ NHÓM LỢI ÍCH
NHÓM LỢI ÍCH
Nhóm lợi ích còn được gọi là nhóm gây áp lực. Đó là những nhóm
có tổ chức, hành động để đạt được lợi ích của mình, bằng cách gây
ảnh hưởng lên chính quyền hoặc lên tiến trình chính sách. Đương
nhiên, chúng là loại nhóm mà thành viên có ý thức về lợi ích chung
của mình và họ cùng hành động để có được lợi ích đó. Hiểu theo
nghĩa này thì đảng phái cũng là một nhóm lợi ích.
Như vậy, các bạn có thể thấy rằng nhóm lợi ích luôn tồn tại
trong xã hội; bản thân nó không phải là một khái niệm tiêu cực,
cần phải xóa bỏ như lâu nay ở Việt Nam, người ta vẫn tưởng.
Chừng nào con người còn chia sẻ lợi ích thì chừng đó họ còn có
nhu cầu kết hợp thành nhóm và tổ chức nhau lại.
Tuy nhiên, ở các chế độ độc tài, nơi các quyền tự do của dân
chúng bị hạn chế, xã hội dân sự bị kìm kẹp, nhà nước bưng bít
thông tin, thì nhóm lợi ích chỉ còn là những thế lực ngầm đen tối,
thao túng chính trường, tham nhũng và làm nghèo người dân, phá
hoại đất nước. Đó là cách hiểu lâu nay của người Việt Nam về khái
niệm nhóm lợi ích.
Các bạn cũng có thể thấy là trong xã hội, cũng tồn tại cả những
nhóm không hề có tổ chức và cũng không có ý định trở thành có
tổ chức. Đó là nhóm mà thành viên có đặc điểm chung, song họ
không quan tâm đến đặc điểm chung đó và chẳng có nhu cầu tập
hợp lại với nhau vì một mục tiêu chung nào dựa trên đặc điểm đó.
Ví dụ như nhóm những người mắt nâu, thế hệ @, thế hệ 9x, hội
những người lương hơn 200 USD/tháng, v.v. Dĩ nhiên, đây không
gọi là nhóm lợi ích. Nhưng các học giả phương Tây vẫn có tên gọi
cho nó; người ta gọi nó là “nhóm chỉ để phân loại” (tiếng Anh:
categoric group).
Ở chương này, chúng ta chỉ tìm hiểu về nhóm lợi ích.
SO SÁNH NHÓM LỢI ÍCH VÀ ĐẢNG PHÁI
Như trên đã nói, với định nghĩa nhóm lợi ích là “nhóm mà thành
viên có ý thức về lợi ích chung của mình và họ cùng hành động để
có được lợi ích đó” thì đảng chính trị cũng là một loại nhóm lợi ích.
Tuy thế, giữa đảng phái và nhóm lợi ích có một số điểm khác
nhau căn bản:
Đảng Nhóm lợi ích/ Nhóm gây áp lực
Trong các hoạt động, có hoạt động
rất quan trọng là tham gia tranh cử. Không tham gia tranh cử.
Theo đuổi việc giành quyền lực
nhà nước và thành lập nội các sau
khi giành được quyền lực đó.
Không theo đuổi việc giành quyền
lực nhà nước, không thành lập nội
các.
Có cương lĩnh.
Cương lĩnh phải thể hiện sự quan
tâm đến hàng loạt vấn đề, bao trùm
các lĩnh vực chính trị-xã hội-kinh
tế-môi trường, v.v.
Ví dụ: Cương lĩnh của đảng Xanh
là đi theo đường lối dân chủ tự
do, trường phái ôn hòa trong chủ
nghĩa môi trường, thúc đẩy phát
triển bền vững kết hợp với bảo
đảm nhân quyền và công lý...
Không có cương lĩnh.
Lập ra các phong trào hay chiến
dịch chỉ để gây áp lực lên chính
quyền nhằm giải quyết một vấn đề
hoặc một lĩnh vực duy nhất.
Ví dụ: Tổ chức Vì Một Hà Nội
Xanh chỉ cố gắng giải quyết vấn đề
bảo vệ cây xanh ở Hà Nội.
Để tránh bị ấn tượng rằng nhóm lợi ích là tiêu cực, chúng ta có
thể gọi nó bằng cái tên “nhóm gây áp lực” hoặc “nhóm vận động”.
GIÁ TRỊ CỦA NHÓM LỢI ÍCH
Ngoài việc sự tồn tại của nhóm lợi ích là đương nhiên trong mọi xã
hội, dù chúng ta ghét nó hay không, thì thực sự nhóm lợi ích cũng
có nhiều khía cạnh tích cực:
- Nó là một kênh tương tác giữa chính quyền và người dân, ít
nhất là một nhóm dân; từ đó, đảm bảo ổn định chính trị;
- Nó thúc đẩy dân chủ đại diện, tăng cường tính đại diện của
(một nhóm) người dân, giúp họ thể hiện các quan điểm hay lợi ích
khác nhau, điều mà nhiều khi đảng phái bỏ quên vì quan điểm hay
lợi ích ấy quá nhỏ bé để được vào chương trình nghị sự của đảng;
- Nó rõ ràng là một phương thức gây ảnh hưởng tới chính
quyền;
- Nó thúc đẩy chia sẻ thông tin, thảo luận và phản biện, từ đó
nâng cao chất lượng chính sách công;
- Nó kìm hãm quyền lực nhà nước, phát triển xã hội dân sự, từ
đó, bảo vệ tự do.
MẶT TRÁI CỦA NHÓM LỢI ÍCH
Bên cạnh các ưu điểm là các nhược điểm của nhóm lợi ích:
- Nó có nguy cơ khoét sâu thêm bất bình đẳng chính trị, bởi
một thực tế là người có giáo dục, có khả năng tài chính, khả năng
tổ chức hơn sẽ có tiếng nói mạnh hơn;
- Nó có thể gây chia rẽ xã hội, thông qua việc thúc đẩy quyền lợi
cục bộ của một thiểu số, bỏ qua lợi ích chung của toàn xã hội;
- Nó tiềm ẩn thứ quyền lực không có tính chính danh: trong các
nhóm lợi ích mạnh, lãnh đạo tự tung tự tác, nhiều quyền lực, mà
lại không phải minh bạch với truyền thông và công chúng;
- Nó mở đường cho tham nhũng, nhất là tham nhũng chính
sách, và tệ nạn “đi cửa sau”;
- Nó có thể ngăn cản những chính sách tốt chỉ để phục vụ lợi ích
cục bộ của một thiểu số.
PHÂN LOẠI NHÓM LỢI ÍCH
Căn cứ vào khía cạnh lợi ích và đối tượng hưởng lợi, người ta chia
nhóm lợi ích thành hai loại căn bản:
1. Nhóm lợi ích tư: Là nhóm lợi ích có mục đích thúc đẩy hoặc
bảo vệ lợi ích của các thành viên của nhóm. Thường các nhóm này
đại diện cho những tầng lớp hay ngành nghề khác nhau trong xã
hội: công nhân, người lao động, người tiêu dùng, người thiểu số.
Công đoàn là một nhóm lợi ích tư điển hình.
2. Nhóm lợi ích công: Là nhóm lợi ích có mục đích thúc đẩy các
giá trị, lý tưởng chung, lợi ích chung, chứ không phải hoặc không
chỉ bảo vệ lợi ích của thành viên nhóm mình. Ví dụ: ủng hộ nữ
quyền, chống nạn công an bạo hành, phản đối nạo phá thai, bảo vệ
môi trường. Quỹ Bảo vệ Động vật Hoang dã (WWF) là một nhóm
lợi ích công điển hình.
Trong các tổ chức thuộc nhóm lợi ích công, có một bộ phận rất
đông đảo là các tổ chức phi chính phủ.
Tổ chức phi chính phủ (NGO)
Tổ chức phi chính phủ là các tổ chức phi lợi nhuận, do tư nhân
thành lập, độc lập với các chính phủ (cả trong và ngoài nước), và
hoạt động ôn hòa để đạt được mục đích hay là sứ mệnh của chúng.
NGO ra đời có lẽ đã từ lâu trong lịch sử thế giới. Tuy nhiên, khái
niệm NGO chỉ trở nên phổ biến với sự thành lập Liên Hợp Quốc
vào năm 1945, với Điều 71 Chương 10 Hiến chương Liên Hợp
Quốc nói đến vai trò tư vấn, cố vấn của những tổ chức không phải
là chính phủ cũng không phải là nhà nước thành viên Liên Hợp
Quốc. Đó là các NGO.
Có nhiều loại NGO và nhiều cách phân loại chúng. Chẳng hạn,
có thể chia thành hai loại NGO chính:
1. NGO hoạt động/ cung ứng dịch vụ công cộng: Mục đích là
xây dựng và thực hiện các dự án phát triển và/hoặc cứu trợ. Ví dụ
như các NGO về nước sạch nông thôn, nâng cao năng lực cán bộ
địa phương, bảo tồn di sản.
2. NGO vận động: Mục đích là cổ súy, vận động cho một giá trị,
lý tưởng, hay chính sách cụ thể nào đó. Ví dụ như nhóm Vận Động
Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016 cổ súy cho phong trào tự ứng cử
làm đại biểu Quốc hội Việt Nam và vận động cho quyền tham gia
chính trị của người dân.
Tất nhiên cách phân chia này chỉ là tương đối. Nhiều NGO vận
động vẫn có thể tham gia các dự án phát triển và cứu trợ khi họ
thấy cần thiết. No-U là một tổ chức thành lập ngày 30/10/2011 với
mục đích bảo vệ chủ quyền, chống chính sách bá quyền của Trung
Quốc và chính sách ngoại giao hèn yếu của đảng Cộng sản Việt
Nam. Sứ mệnh này được phản ánh trong slogan của họ – “xóa
đường lưỡi bò, bảo vệ Tổ quốc”. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt
động, No-U cũng thường xuyên làm thiện nguyện, cứu trợ đồng
bào ở những nơi khó khăn.
Tổ chức phi chính phủ quốc tế (INGO)
Tổ chức phi chính phủ quốc tế về bản chất cũng là các tổ chức phi
chính phủ – phi lợi nhuận, do tư nhân thành lập, độc lập với các
chính phủ, hoạt động ôn hòa để thực hiện mục đích của mình –
nhưng có quy mô quốc tế. Nghĩa là chúng hoạt động trên phạm vi
quốc tế, đặt chi nhánh và làm việc tại nhiều nơi trên thế giới.
Trước năm 1895, số INGO trên toàn cầu không bao giờ vượt
quá 50 1
, nhưng sau đó con số bắt đầu tăng mạnh, đặc biệt kể từ sau
Thế chiến II. Ngày nay, có tới hàng nghìn INGO khắp toàn cầu,
trong đó, số INGO nổi tiếng và có ảnh hưởng cũng khoảng vài
1. “International Nongovernmental Organizations and their Functions”, Kjell Skjelsbaek,
International Peace Research Institute, 1975. Có trên mạng tại địa chỉ: https://www.
laetusinpraesens.org/docs/functun.php
chục. Người Việt Nam hẳn từng nghe nhắc đến những cái tên như:
CARE, OXFAM, Thầy thuốc không biên giới (Doctors without
Borders), Ân xá Quốc tế (Amnesty International, AI), Giám sát
Nhân quyền (Human Rights Watch, HRW), Hòa Bình Xanh
(Green Peace)...
Các bạn chú ý phân biệt tổ chức phi chính phủ quốc tế – INGO
– với tổ chức liên chính phủ – IGO. Tổ chức liên chính phủ tất
nhiên không phải do tư nhân thành lập và không độc lập với các
chính phủ. Ví dụ tiêu biểu là Liên Hợp Quốc (UN), và các cơ quan
của nó, như Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), v.v.
Trong thời toàn cầu hóa, các NGO và INGO có vai trò rất quan
trọng trên chính trường quốc tế. Chúng được coi như lực lượng đối
trọng với các tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia, và với các chính
quyền. Chúng là những rường cột của xã hội dân sự quốc tế.
IGO cũng là những thế lực quan trọng, nhưng chúng là các cơ
quan liên chính phủ và không phải là xã hội dân sự.
Human Rights Watch (HRW)
Tổ chức phi chính phủ quốc tế này được nhiều nhà hoạt động nhân quyền
ở Việt Nam xem như bạn, trong khi Chính phủ Việt Nam xem như kẻ
thù.
HRW ban đầu được thành lập bởi một người Mỹ, Robert L. Bernstein,
vào năm 1978. Về sau, HRW phát triển thành một tổ chức chuyên nghiên
cứu và thúc đẩy nhân quyền trên phạm vi toàn thế giới. Trụ sở của họ ở
New York City, và họ có văn phòng ở nhiều nơi thuộc các quốc gia khác
như: Amsterdam (Hà Lan), Geneva (Thụy Sĩ), Johannesburg (Nam Phi),
Nairobi (Ai Cập), Sydney (Úc), Tokyo (Nhật Bản)... Tại khu vực Đông
Nam Á, HRW không mở được văn phòng ở nước nào, chỉ có đại diện
hoạt động không chính thức ở Bangkok. Có lẽ do các chính phủ trong
khu vực đều không ưa gì tổ chức này.
Hàng năm, HRW xuất bản nhiều báo cáo về tình hình nhân quyền ở các
nơi khác nhau trên thế giới. Họ từng có nhiều báo cáo về Việt Nam, như
về vụ án Cù Huy Hà Vũ (2011), nạn công an bạo hành đối với dân thường
(2016), và việc chính quyền dùng côn đồ hành hung các nhà hoạt động
nhân quyền (2017).
Ông Phil Robertson, Phó Giám đốc Khu vực châu Á của HRW, là người
bị chính quyền nhiều nước căm ghét, nhất là các nước như Việt Nam,
Trung Quốc. Tuy nhiên, ông từng nói với người viết rằng: “Chính phủ
Việt Nam nghĩ tôi chống cộng. Nhưng họ không hiểu rằng HRW không
quan tâm tới chế độ nào cả, chúng tôi chỉ quan tâm đến nhân quyền. Bất
kể là cộng sản hay không, nếu một nhà nước vi phạm nhân quyền, chúng
tôi đều phản đối. HRW từng chỉ ra và chống cả những vi phạm nhân
quyền ở chính nước Mỹ; điều này có lẽ quan chức Việt Nam không hề
biết”.
Cũng theo ông Robertson, HRW có tiền sử chống cả các tập đoàn toàn
cầu như Google, Yahoo!, nếu họ hợp tác với các nhà nước vi phạm nhân
quyền.
Bài đọc
KHI CÓ QUÁ NHIỀU MỘT THỨ TỐT ĐẸP 1
Việc các thiểu số nhỏ, tận tình, có thể lũng đoạn chính trị, đã gây lo
ngại sâu sắc ngay từ thời các nhà tư tưởng sáng lập của nước Mỹ.
Madison 2
đã định danh chính xác vấn đề này, vấn đề mà ông gọi là
“cái nguy của bè phái”, và ông cho rằng nó xuất phát từ nguyên
nhân “sự bất ổn, bất công, và hỗn loạn trên thực tế đã là những căn
bệnh chết người mà vì chúng, các chính quyền ở khắp nơi đều diệt
vong”. Trong tiểu luận nổi tiếng của mình, Federalist Paper 51, ông
lập luận rằng giải pháp duy nhất hiệu quả cho vấn đề này là hạn chế
quyền tự do lập hội và biểu đạt, vì chúng giúp cho các nhóm như
thế hình thành (“Liberty is to faction what air is to fire”: Tự do đối
với phe phái thì cũng giống như không khí với lửa). Nhưng phương
thuốc này còn tệ hơn là căn bệnh, cho nên Madison nhanh chóng
gạt bỏ nó đi.
Thay vì thế, Madison đặt niềm tin vào quy mô và độ phức tạp
của nước Mỹ. Thứ nhất, ông cho rằng phe phái là các nhóm thiểu
số, và họ sẽ không thể có đường nào mà đi bởi vì các phe phái khác
– đông hơn về số lượng so với các nhóm thiểu số – sẽ lớn mạnh và
làm tê liệt nhóm thiểu số. Ngay cả khi phe phái mạnh thì ở một
nước rộng lớn và đa dạng như nước Mỹ, cạnh tranh sẽ bùng nổ
giữa các phe phái và tất cả sẽ trung hòa lẫn nhau.
1. “Too Much of A Good Thing”, trích từ sách “Future of Freedom” (Tương lai của tự do),
tác giả Fareed Zakaria.
2. James Madison, Tổng thống thứ tư của nước Mỹ, một trong bốn vị tổ khai quốc của Mỹ.
Than ôi, ở điểm quyết định này Madison lại nói sai. Có lẽ ông đã
không tưởng tượng được rằng chính quyền lại có thể có nhiều
bổng lộc lớn đến thế, tới mức nó thu hút hàng đàn các nhóm lợi ích
cuồng tín. Nhưng vẫn còn một vấn đề về lý thuyết nữa trong lập
luận của Madison. Olson đã chỉ ra rằng các nhóm lợi ích nhỏ thì dễ
hình thành hơn, bởi vì thành viên của chúng được hưởng quá
nhiều mà phần còn lại của đất nước thì lại ít bị thiệt. Đây là một

phần của khái niệm mà ông gọi là “logic của hành động tập thể”.
Nếu một nhóm 100 nông dân kết hợp lại để gửi kiến nghị cho
chính phủ đòi 10 triệu USD, lợi ích mỗi nông dân giành được sẽ là
100.000 USD. Chi phí đổ lên đầu phần còn lại của đất nước chỉ là
khoảng 4 xu một người. Vậy ai sẽ là người có nhiều khả năng hình
thành lobby hơn, họ hay chúng ta? Hãy nhân con số này lên hàng
nghìn lần và bạn sẽ hiểu vấn đề trung tâm của nền dân chủ Mỹ
ngày nay.
Ngoài ra, các phe phái trên thực tế không trung hòa lẫn nhau.
Hầu hết các nhóm lợi ích đều rất sung sướng khi thấy các nhóm
khác cũng phát triển. Khi được hỏi là liệu ông có ủng hộ việc giảm
bớt tài trợ ngân sách cho các nhóm đối thủ không, Bog Bergland,
thuộc Hợp tác Xã Điện Nông thôn Quốc gia, nói: “Chúng tôi nghĩ
rằng, có sự ủng hộ cho tất cả các bên là một lập luận rất hay”. Thực
tế đó giúp thêm cho lý lẽ của bất kỳ nhóm nào – họ luôn có thể chỉ
ra rằng nhóm khác cũng đang được tài trợ kia mà, tại sao lại phân
biệt đối xử với họ? Càng đông càng vui. Suy cho cùng, sẽ dễ hơn
trong việc xin được một khoản miễn thuế đặc biệt cho mình nếu ta
cổ suý việc đó cho tất cả các nhóm khác nữa. Kết quả là, chính sách
công đã trở thành, không phải là tổng của các nhóm lợi ích trung
hòa lẫn nhau và đạt tới một kết quả hợp lý, như Madison tưởng là
đúng, mà là tích lũy những khoản tiền cho không của chính phủ,
hết khoản này tới khoản kia, trong một con đường xuống dốc.
Bài đọc
CÁI GÌ QUYẾT ĐỊNH SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHE NHÓM LỢI ÍCH? 1
Vai trò và tầm quan trọng của các nhóm lợi ích trong xã hội khác
nhau tùy từng chế độ, tùy từng nhà nước, và tùy thời gian, thời đại.
Những thành tố chính quyết định ảnh hưởng của nhóm lợi ích bao
gồm:
- Văn hóa chính trị;
- Cơ cấu thể chế;
- Tính chất của hệ thống đảng;
- Tính chất của chính sách công.
Văn hóa chính trị mang tính ảnh hưởng quyết định đối với vai
trò của nhóm lợi ích, bởi hai lý do. Thứ nhất, nó quyết định liệu các
nhóm sẽ được coi là có tính chính danh hay không có tính chính
danh, sự hình thành và ảnh hưởng của các nhóm là hợp pháp và
được khuyến khích, hay ngược lại. Thứ hai, nó ảnh hưởng tới việc
người dân có sẵn sàng thành lập và/hoặc tham gia các nhóm lợi
ích, để qua đó tham gia vào chính trị không.
Một mặt, các chế độ có thể thực hành nhất nguyên luận, tức là
đàn áp tất cả các hình thức tụ tập, lập hội tự nguyện, nhằm bảo đảm
1. Dịch từ “Politics”, Andrew Heywood, 3rd edition, Palgrave Foundations, 2007, trang
301-304.
chỉ có một trung tâm quyền lực nhà nước duy nhất và không thể bị
thách thức trong xã hội. Hiện tượng này đặc biệt hay xảy ra trong
các chế độ độc tài quân sự, các nhà nước độc đảng. Mặc dù không
có nhà nước nào - hiện nay cũng như trong lịch sử - thành công
trong việc dập tắt kỳ hết mọi hình thức hội nhóm và hoạt động hội
nhóm, nhưng các thể chế nhất nguyên ít nhất cũng đã khiến hoạt
động tụ tập, lập hội trở thành bất hợp pháp hoặc chỉ có thể được
thể hiện thông qua bộ máy đảng-nhà nước và do đó bị cản trở, kìm
hãm bởi các mục tiêu chính trị và ý thức hệ của chính quyền.
Mặt khác, các chế độ đa nguyên không chỉ cho phép các nhóm
hội được tồn tại, mà còn khuyến khích và thậm chí đòi hỏi điều đó.
Các nhóm có thể được mời tham gia vào việc xây dựng chính sách.
Một trong những lý do khiến cho hoạt động nhóm nói chung rất
mạnh ở Mỹ, là việc văn hóa chính trị Mỹ thừa nhận các nhóm tư có
quyền được lên tiếng và được lắng nghe. Điều này được thể hiện rõ
trong hiến pháp và được hiến pháp bảo vệ - đó là các quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tự do tụ tập, vân vân.
Ở Nhật Bản, không có sự phân biệt rõ ràng giữa không gian
công và không gian tư, cho nên đã tạo ra một thứ văn hóa chính trị
mà ở đó, trong cả giai đoạn dân chủ lẫn tiền dân chủ, người dân
cho rằng chính quyền và giới doanh nghiệp có quan hệ thân thiết
với nhau là lẽ đương nhiên.
Ngược lại, ở một số nước Âu châu, các nhóm lợi ích bị nhìn
bằng con mắt nghi ngờ. Hiện tượng này đặc biệt đúng ở Pháp, nơi
chịu ảnh hưởng của ý thức hệ Jacobin, do đó các nhóm bị coi là phá
hoại “ý chí chung” của nhân dân, phá hoại sức mạnh và sự đoàn kết
của nhà nước. Ở cao điểm vào năm 1975 chẳng hạn, chỉ có 24% lực
lượng lao động Pháp gia nhập công đoàn - con số đó tới năm 1989
chỉ còn 13%. Tuy vậy, văn hóa chính trị Pháp vẫn đại diện cho một
truyền thống hành động trực tiếp, như khi những người nông dân
Pháp chặn đường sá, cướp xe tải để biểu tình, hay khi sinh viên và
công đoàn nổi dậy trong các vụ bê bối chính trị tháng 5/1968.

Cơ cấu thể chế của chính quyền rõ ràng rất có ảnh hưởng đối
với các nhóm lợi ích, theo nghĩa là nó thiết lập nên những cửa để
người dân tiếp xúc với tiến trình chính sách. Hệ thống chính trị tập
trung và thống nhất, như ở Anh, có xu hướng hạn chế ảnh hưởng
của nhóm lợi ích và tập trung mọi việc vào tay nhánh hành pháp.
Điều này không làm cho nhóm lợi ích trở nên khó tồn tại, nhưng
sức nặng vẫn ở trong tay người bên trong chính quyền, và chính
quyền có thể đáp ứng hoặc không đáp ứng trước áp lực của nhóm
lợi ích.
Tương tự, ở Pháp, hoạt động của nhóm lợi ích cũng tập trung
vào tham vấn trực tiếp chính quyền, đặc biệt với sự mạnh lên của
vai trò tổng thống và sự suy yếu của Quốc hội trong nền Cộng hòa
thứ năm (1958).
Ở Mỹ thì ngược lại, chính quyền phân tán và phi tập trung.
Điều đó được phản ánh trong hệ thống quốc hội lưỡng viện, tam
quyền phân lập, cơ cấu liên bang và cơ chế bảo hiến. Hệ thống
chính trị Mỹ đặc biệt nhạy cảm với áp lực của phe nhóm lợi ích.
Chẳng hạn, các nhóm đều biết rằng nếu đánh nhau thua ở Quốc
hội thì có thể lôi nhau ra đánh tiếp ở tòa án, ở cấp liên bang hay cấp
bang hay cấp địa phương, vân vân. Mặc dù hiện tượng đó chắc
chắn là một chất kích thích cho việc hình thành các nhóm phái, và
làm tăng số lượng các nhóm có ảnh hưởng, nhưng nó cũng có thể
mang tính phá hoại, theo cái nghĩa là hoạt động của các nhóm cuối
cùng lại đi đến loại trừ và hủy diệt lẫn nhau (trung hòa lẫn nhau).
Có nhiều nhóm lợi ích có khi chỉ làm mỗi việc “phủ quyết” các
nhóm khác.
Quan hệ giữa đảng phái và các nhóm lợi ích luôn luôn phức tạp.
Nhiều khi, đảng và nhóm còn là đối thủ cạnh tranh của nhau.
Trong khi đảng tìm cách tăng cường lợi ích và hoạch định nên các
chương trình, chính sách, chủ yếu căn cứ vào các mục tiêu ý thức
hệ, thì nhóm lợi ích chỉ quan tâm đến những vấn đề nhỏ hẹp hơn
nhiều, những mục tiêu rất cụ thể. Tuy nhiên, nhóm lợi ích lại
thường tìm cách gây ảnh hưởng trong đảng và thông qua đảng, đôi
khi còn tạo ra đảng nhằm tham gia tranh giành quyền lực. Nhiều
đảng xã hội, như Công đảng Anh, là do công đoàn lập ra, và những
mối liên hệ tài chính, cơ cấu... giữa họ vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Phe nhóm lợi ích có ảnh hưởng tới mức nào cũng còn tùy hệ
thống đảng. Chế độ độc đảng, hoặc đa đảng mà một đảng chi phối
tất cả, cũng có xu hướng thu hẹp ảnh hưởng của phe nhóm lợi ích,
một cách tự nhiên, để mọi việc tập trung cả vào tay đảng cầm
quyền. Do đó, những nhóm lợi ích trong các ngành sản xuất, kinh
doanh, thương mại ở Ý và Nhật đều cố gây áp lực thông qua đảng
cầm quyền - như đảng Dân chủ Thiên chúa Giáo, đảng Tự do-Dân
chủ. Mặc khác, chế độ đa đảng là miếng đất màu mỡ cho hoạt động
của các phe nhóm lợi ích, bởi vì đa đảng sẽ giúp cho các phe nhóm
lợi ích có nhiều cửa để tiếp xúc với chính quyền hơn. Ảnh hưởng
của giới lập pháp lên phe nhóm có lẽ là mạnh nhất ở Mỹ, nơi các
đảng yếu cả về tổ chức lẫn kỷ luật. Điều đó thể hiện rõ vào cuối
những năm 1970, khi các nhóm lợi ích phá hoại chương trình năng
lượng của Tổng thống Jimmy Carter, bất chấp việc đảng Dân chủ
có đa số trong cả Thượng viện và Nghị viện.
Cuối cùng, mức độ phát triển của phe nhóm lợi ích còn có quan
hệ với những thay đổi trong chính sách công, đặc biệt là trong mức
độ nhà nước can thiệp vào đời sống kinh tế và xã hội. Quy luật
chung là, chủ nghĩa can thiệp (việc nhà nước ra các chính sách để
điều tiết hay quản lý đời sống kinh tế, hay nói rộng ra là chính sách
can dự, can thiệp nói chung của nhà nước) luôn đi cùng, tồn tại
cùng, tay trong tay, với chủ nghĩa tập đoàn (việc các tập đoàn lớn,
các nhóm lợi ích lớn kiểm soát, chi phối cả nhà nước), mặc dù
người ta vẫn còn tranh cãi xem cái nào là nguyên nhân, cái nào là
kết quả. Liệu các chính sách can thiệp có khiến chính quyền dấn
sâu hơn vào quan hệ thân thiết với các nhóm lợi ích có tổ chức,
nhằm thu được thông tin, sự tư vấn, lời khuyên và sự hợp tác? Hay
liệu các nhóm có tận dụng khả năng tiếp cận với chính quyền để
xin bao cấp, viện trợ nhà nước, hay các khoản lợi khác, cho thành
viên của nhóm mình? Cho dù câu trả lời là gì đi nữa thì cũng rõ
ràng là, trong các nước phương Tây, sự thâm nhập của các nhóm
lợi ích có tổ chức vào đời sống công cộng đã đi quá xa.
Hệ thống chính trị Thụy Điển là một ví dụ điển hình của hiện
tượng này. Các nhóm lợi ích đã cấu thành một phần không thể
thiếu trong sân khấu chính trị Thụy Điển, ở mọi cấp. Có những
mối liên hệ, chưa nói là thân thiết, giữa công đoàn và Công đảng
Dân chủ Xã hội (SAP). Tiến trình lập pháp ở Riksdag phải gắn với
tham vấn rộng rãi các nhóm lợi ích có ảnh hưởng, quan chức nhà
nước thì xem những tổ chức/hiệp hội “đỉnh” như là Liên đoàn Lao
động Thụy Điển và Liên đoàn Các chủ lao động là “đối tác xã hội”.
Một mô hình tương tự, trong đó giới doanh thương có đại diện
rất đáng kể, đã hình thành trong hệ thống chính trị Áo, nơi các
nhóm lợi ích lớn trong thương mại, nông nghiệp và lao động đều
có tiếng nói mạnh trong vấn đề lập pháp. Ở Đức, các nhóm lợi ích
lớn như Liên đoàn Các Hiệp hội Chủ Lao động Đức, Liên đoàn
Công nghiệp Đức, Liên đoàn Công đoàn Đức, đều tham gia rất sâu
vào việc hình thành chính sách.
Chương VI
XÃ HỘI DÂN SỰ
Xã hội dân sự đã tồn tại từ rất lâu trong lịch sử loài người. Chẳng
hạn, học giả Pháp Alexis de Toqueville từng đề cập tới những “hội
nhóm chính trị” mà ông chứng kiến ở Hoa Kỳ trong chuyến thăm
đất nước này vào năm 1831; chuyến thăm đó là khởi nguồn cho tác
phẩm nổi tiếng “Nền dân trị Mỹ” của ông. Ở Việt Nam, xã hội dân
sự cũng tồn tại từ xa xưa dưới hình thức những phường hội, họ
tộc...
Tuy nhiên, cùng với sự nở rộ các NGO và INGO sau hai cuộc
Thế chiến, khái niệm xã hội dân sự bỗng nhiên nổi lên trên chính
trường quốc tế, và đặc biệt trở nên thời thượng ở Việt Nam từ
khoảng giữa những năm 2000-2010, gắn với sự phát triển của
Internet và toàn cầu hóa. Đặc biệt, từ năm 2011 – năm đánh dấu
những cuộc biểu tình chống Trung Quốc đầu tiên được tập hợp
thông qua facebook – khái niệm xã hội dân sự lại được gắn với dân
chủ, nhân quyền. Các tổ chức xã hội dân sự, dĩ nhiên kể cả các
NGO, được coi như các tổ chức đấu tranh vì sự thay đổi và dân chủ
hóa Việt Nam; đồng thời, bị an ninh và tuyên giáo coi như thế lực
thù địch, chống nhà nước.
Vậy, xã hội dân sự là gì?
ĐỊNH NGHĨA
Có rất nhiều định nghĩa về xã hội dân sự.
Học viện Công dân (ICEVN) đưa ra diễn giải và định nghĩa
như sau: 1
“Khái niệm xã hội dân sự đã được các triết gia về chính trị thuộc
thời kỳ Khai Sáng ở Âu châu sử dụng, và khái niệm này đã theo
thời gian mà thay đổi cho đến ngày hôm nay. Các tư tưởng gia như
Hobbes, Locke, Rousseau dùng xã hội dân sự để chỉ một trạng thái
xã hội khi con người đã bắt đầu sống quần tụ với nhau, khác với
trạng thái thiên nhiên. Xã hội càng phát triển thì lại càng nẩy nở
thêm nhiều sắc thái và bộ phận khác nhau; do đó, các nhà tư tưởng
thuộc thế kỷ 19 và thế kỷ 20 như Hegel, Marx, Gramsci, Diamond,
v.v... đều có những khái niệm không giống nhau, và không thể
thống nhất về một định nghĩa cho xã hội dân sự. Tuy nhiên, các
học giả thuộc thế kỷ 20 đều đồng ý trên mẫu số chung sau đây của
xã hội dân sự. Đó là sự hiện hữu của một lãnh vực công nằm giữa
nhà nước, thị trường, và cá nhân. Chính trong lãnh vực công này
mà các công dân hoạt động “nhằm biểu tỏ các mối quan tâm, tư
tưởng, trao đổi thông tin, thực hiện các mục tiêu chung có tính
chất hỗ tương, kiến nghị với nhà nước và buộc các viên chức nhà
nước phải chịu trách nhiệm trong công vụ” (Diamond, 1994).
Theo Brian O’Connell, chủ tịch sáng lập của Independent
Sector, lãnh vực công là miền hội tụ của 5 thành tố sau: Thành tố
đầu tiên là các cá nhân, tiêu biểu cho quyền lợi riêng tư. Thành tố
thứ hai là cộng đồng bao gồm gia đình, làng xóm, chùa chiền, các
hội đoàn, v.v. Cộng đồng là nơi các cá nhân sinh hoạt và phát triển
và cũng là nơi đại diện cho các quyền lợi tập thể. Cộng đồng chưa
phải là xã hội dân sự; tuy nhiên cộng đồng và gia đình tạo nên một
hệ thống giá trị căn bản về đạo lý và văn minh chung cần thiết cho
đời sống của xã hội. Thành tố thứ ba là chính quyền. Thành tố này,
thật đáng ngạc nhiên thay, lại thường bị bỏ sót trong các định nghĩa
về xã hội dân sự. Chính quyền là một thành tố thiết yếu của xã hội
nói chung và của xã hội dân sự nói riêng, vì chính quyền có thể
1. Bài đăng trên trang mạng của Học viện Công dân: http://icevn.org/vi/XaHoiDanSu
giúp phát triển hay làm cản trở sự phát triển của xã hội dân sự.
Thành tố thứ tư là sự tham gia tự nguyện; thành tố này chính là cốt
lõi cho hoạt động của xã hội dân sự và thường hay bị lẫn lộn với xã
hội dân sự. Thành tố cuối cùng là lãnh vực thương mại. Thành tố
này có vẻ trái ngược với xã hội dân sự, vì chúng ta thường nghĩ đến
các hoạt động vô vị lợi của các tổ chức thiện nguyện, trong khi nói
đến thương mại là nói đến các hoạt động sinh lợi. Tuy vậy để có thể
hoạt động được hữu hiệu mọi tổ chức thiện nguyện đều cần một
số các phương tiện để hoạt động mà không tùy thuộc vào nhà
nước, và từ đâu các tổ chức này có được phương tiện tài chính, nếu
không từ lãnh vực thương mại? O’Connell nhận xét thêm: “Có rất
nhiều công ty thương mại không có tí lương tâm xã hội gì cả,
nhưng những công ty nào đã chấp nhận và chu toàn trách nhiệm
xã hội đều có những đóng góp quý báu cho phẩm chất của cộng
đồng và xã hội dân sự””.
No-U giúp xây dựng và tu bổ trường học ở Háng Đề Sủa
(Lao Chải, Yên Bái), tháng 9/2015.
Một học giả danh tiếng về chính trị, Giáo sư Larry Diamond,
định nghĩa trong một tiểu luận xuất bản tháng 6/1997 1
để làm rõ
xã hội dân sự là gì và không là gì:
1. “Civil Society and the Development of Democracy” (“Xã hội dân sự và sự phát triển của
dân chủ”), Larry Diamond, 1997.
“Xã hội dân sự là lĩnh vực đời sống xã hội có tổ chức, mở (hướng
ngoại), tự nguyện, tự sinh sôi, ít nhất cũng tự nuôi sống được mình
một phần nào, tự trị trước nhà nước, và bị ràng buộc bởi một trật
tự pháp lý hoặc một tập hợp các quy tắc chung. Nó khác với khái
niệm “xã hội” nói chung ở chỗ nó có sự tham gia hoạt động tập thể
trong môi trường công cộng của công dân để biểu đạt những sự
quan tâm, say mê, nguyện vọng, ý tưởng, quan điểm, để chia sẻ
thông tin, để đạt các mục tiêu tập thể, để ra yêu cầu đối với nhà
nước, để cải thiện cấu trúc và chức năng của nhà nước, và để làm
cho các quan chức nhà nước phải có trách nhiệm giải trình.
Xã hội dân sự là một hiện tượng có tính trung gian, đứng ở giữa
khối tư nhân và khối nhà nước. Do đó, nó không bao gồm đời sống
cá nhân và gia đình, không bao gồm các hoạt động nhóm hướng
nội (ví dụ, để thư giãn, giải trí, thờ cúng hoặc các hoạt động tâm
linh), và không bao gồm các cơ sở tìm kiếm lợi nhuận mà các công
ty kinh doanh mở ra. Đây là tất cả những chiều kích của một “hội
hướng nội” (hay là, trong lĩnh vực thương mại, tìm kiếm lợi nhuận,
đó là các “tổ chức kinh tế”) không liên quan đến đời sống dân sự và
lĩnh vực công cộng. Tuy thế, như chúng ta sẽ thấy, chúng có thể góp
phần tạo ra các thông lệ về văn hóa và các mô thức tham gia có ảnh
hưởng lan tỏa vào lĩnh vực dân sự. Tương tự, xã hội dân sự khác
với “tổ chức chính trị”, vốn bao gồm tất cả các tác nhân có tổ chức
(trong một nền dân chủ thì chủ yếu đó là các đảng phái và các tổ
chức vận động), mà mục tiêu chính là giành quyền kiểm soát nhà
nước hay ít nhất là một vài vị trí cho họ trong bộ máy nhà nước.
Các tổ chức và mạng lưới trong xã hội dân sự có thể hình thành
liên minh với đảng phái, nhưng nếu họ bị cầm tù bởi đảng phái,
hoặc bị chi phối bên trong đảng phái, thì họ sẽ chuyển lĩnh vực
hoạt động của họ sang thành tổ chức chính trị và mất phần lớn khả
năng thực hiện các chức năng trung gian và xây dựng dân chủ mà
chỉ họ có”.
Cho đến nay, có nhiều định nghĩa về xã hội dân sự được các nhà khoa
học, viện nghiên cứu, trung tâm xã hội công dân đưa ra, và trên cơ sở
nghiên cứu các định nghĩa trên có thể thấy rằng xã hội dân sự bao gồm
mọi nhóm và mọi hoạt động không bị “ràng buộc” bởi chính quyền: tổ
chức chính trị, các hội kinh doanh, các tổ chức tôn giáo, hiệp hội truyền
thông, tổ chức từ thiện, công dân, tổ chức phi chính phủ...
Xã hội dân sự, vì thế, không phải điều gì đó hay ai xa lạ. Xã hội dân sự là
bạn, là tôi, là bất cứ ai mong muốn làm một điều gì để cuộc sống này tốt
đẹp hơn. Chúng ta có thể giống hoặc khác nhau về nghề nghiệp, tính
cách, hay hoàn cảnh sống, nhưng chỉ cần chúng ta chung tay vì cùng một
lý tưởng, một niềm tin, cùng nhau hướng tới sự thay đổi mà mình mong
muốn, chúng ta đã là một phần của xã hội dân sự.
iSEE tin rằng, một xã hội dân sự lành mạnh, minh bạch, hiệu quả và có
tính trách nhiệm cao sẽ đóng góp tốt hơn cho sự phát triển chung của đất
nước. Một xã hội dân sự phát triển sẽ tạo nhiều không gian tự do cho
người dân thể hiện ý chí và nguyện vọng của mình, trao đổi ý tưởng và
kiến thức để sáng tạo, hợp tác và thúc đẩy cho mục đích chung. Một xã
hội dân sự phát triển tốt cũng sẽ giúp cho việc thúc đẩy và bảo vệ quyền
của những đối tượng yếu thế và thiệt thòi hơn như người dân tộc thiểu số,
người đồng tính, song tính và chuyển giới.
Vậy bạn đã là một phần của xã hội dân sự chưa?
(Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường – iSEE)*
* https://www.facebook.com/iseevn/videos/364849933671237/
Sau khi chịu khó đọc hết các diễn giải và định nghĩa trên thì các
bạn có thể thấy rằng xã hội dân sự được đặc trưng bởi những liên
kết xã hội (giữa người với người) tự nguyện và phi lợi nhuận, nhằm
chia sẻ và thúc đẩy những lợi ích chung. Có rất nhiều việc xã hội
dân sự làm để chia sẻ và thúc đẩy lợi ích chung: phản biện chính
sách; kiềm chế quyền lực nhà nước; bảo vệ nhân quyền và dân chủ;
đào tạo, nâng cao năng lực; bảo vệ môi trường.
NGƯỜI HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI DÂN SỰ LÀ NHỮNG AI?
Sổ tay hướng dẫn hoạt động xã hội dân sự do Văn phòng Cao ủy
Nhân quyền Liên Hợp Quốc (OHCHR) ấn hành định nghĩa chủ
thể hoạt động dân sự là “những cá nhân và nhóm tự nguyện tham
gia các hình thức tham gia và hành động vì việc chung, xoay quanh
các lợi ích, mục đích và giá trị được chia sẻ chung, phù hợp với các
mục tiêu của Liên Hợp Quốc: bảo vệ hòa bình và an ninh, phát
triển, và thúc đẩy cũng như tôn trọng nhân quyền”. 1
OHCHR cung cấp một số ví dụ như sau về người hoạt động xã
hội dân sự:
- Những người bảo vệ nhân quyền, bao gồm cả các nhà hoạt
động trên mạng;
- Các tổ chức nhân quyền (NGO, hội, hiệp hội, nhóm, các nhóm
bảo vệ hoặc hỗ trợ nạn nhân);
- Các liên minh, liên hiệp, các mạng lưới (ví dụ để bảo vệ quyền
phụ nữ, quyền trẻ em, môi trường, quyền đất đai, quyền của LGBT,
v.v);
- Người khuyết tật và các tổ chức đại diện cho họ;
- Các tổ chức cộng đồng – tức là các nhóm được thành lập ở
một cộng đồng dân cư (ví dụ nhóm thổ dân, người dân tộc thiểu
số, người nông thôn, v.v.);
- Các nhóm tôn giáo, tín ngưỡng (ví dụ nhà thờ);
- Các nghiệp đoàn (các hội nghề cũng như hội chuyên môn,
như hội nhà báo, hội thẩm phán, hội luật gia, đoàn luật sư, hội sinh
viên, v.v.);
- Các phong trào xã hội (phong trào vì hòa bình, phong trào
sinh viên, phong trào dân chủ, v.v.);
- Các chuyên gia có đóng góp trực tiếp cho việc thụ hưởng
quyền con người (nhân viên cứu trợ nhân đạo, luật sư, y bác sĩ, v.v.);
- Thân nhân của những nạn nhân trong các vụ vi phạm nhân
quyền;
- Hội các nạn nhân trong các vụ vi phạm nhân quyền;
- Các thiết chế công cộng có chức năng thực hiện những hoạt
1. “A Practical Guide for Civil Society: Civil Society Space and the United Nations Human
Rights System”, Office of the UN High Commissioner for Human Rights, 2014.
động nhằm thúc đẩy nhân quyền (trường học, đại học, các viện
nghiên cứu, v.v.);
- v.v.
HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI DÂN SỰ LÀ LÀM GÌ?
Chức năng chính của các chủ thể hoạt động xã hội dân sự, theo
OHCHR, là nâng cao nhận thức về nhân quyền, hỗ trợ các cộng
đồng trong việc giải quyết các vấn đề chung của cộng đồng, xây
dựng chiến lược, tác động đến chính sách và pháp luật (vận động),
và thúc đẩy trách nhiệm giải trình của nhà nước.
Có thể phân chia hoạt động của xã hội dân sự ra làm ba mảng
chính: phát triển, dân chủ và nhân quyền.
Các chủ thể hoạt động xã hội dân sự có thể hoạt động ở mọi
phạm vi, mọi cấp: địa phương, quốc gia, khu vực, quốc tế.
Cụ thể hơn, các hoạt động đó bao gồm, chẳng hạn:
- Chống nghèo đói (Việt Nam gọi là “xóa đói giảm nghèo”);
- Chống tham nhũng;
- Thu hẹp bất bình đẳng kinh tế;
- Ứng phó với các thảm họa, các khủng hoảng nhân đạo, gồm
cả xung đột vũ trang;
- Thúc đẩy nhà nước pháp trị và trách nhiệm giải trình của nhà
nước;
- Thúc đẩy các quyền tự do công cộng – tức là các quyền tự do
của tất cả các cá nhân trong một cộng đồng, như một toàn thể, ví
dụ các quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do tụ tập...;
- Cổ súy minh bạch ngân sách nhà nước;
- Bảo vệ môi trường;
- Thực hiện quyền phát triển;
- Nâng cao năng lực cho người thiểu số hoặc các nhóm người bị
rủi ro khác;
- Nâng cao năng lực cho phụ nữ;
- Nâng cao năng lực cho thanh niên;
- Chống mọi hình thức phân biệt đối xử;
- Hỗ trợ hoạt động phòng chống tội phạm;
- Thúc đẩy trách nhiệm xã hội và trách nhiệm giải trình của
doanh nghiệp;
- Chống buôn người;
- Chống ngôn luận thù hận, bôi nhọ, xúc phạm nhân phẩm;
- Thúc đẩy công lý;
- Bảo vệ người tiêu dùng;
- Cung cấp các dịch vụ xã hội;
- v.v.
“Nếu các lãnh đạo không lắng nghe dân, thì họ sẽ phải nghe dân – trên
đường phố, trên quảng trường, hay là, như chúng ta vẫn thường thấy rất
nhiều lần, trên chiến trường. Có một cách tốt hơn thế. Tham gia nhiều
hơn. Dân chủ hơn. Tham gia sâu hơn và cởi mở hơn. Điều đó có nghĩa là
mở rộng tối đa không gian cho xã hội dân sự”.
(Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon phát biểu, ngày 23/9/2013).
XÃ HỘI DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
Như đã nói trong phần đầu Chương V này, ở Việt Nam, xã hội dân
sự cũng tồn tại từ xa xưa dưới hình thức những phường hội, dòng
tộc thời phong kiến. Sau đó, dưới thời Pháp thuộc, những tổ chức
xã hội dân sự theo nghĩa hiện đại lần đầu tiên đã xuất hiện tại Việt
Nam, như Hội Khai Trí Tiến Đức, Phong trào Duy Tân, Phong trào
Đông Kinh Nghĩa Thục, Hướng Đạo Sinh, Hội Ánh Sáng (của Tự
Lực Văn Đoàn). Tuy nhiên, sự thống trị của đảng Cộng sản ở miền
Bắc, đi liền với các cuộc cải cách ruộng đất ở nông thôn, sau đó là
ép dân vào hợp tác xã và khuyến khích theo dõi, chấm công điểm,
tố giác lẫn nhau, đã khiến xã hội dân sự kiểu truyền thống vỡ ra
từng mảng. Việc theo đuổi mô hình xã hội kiểu xô viết của đảng
Cộng sản Việt Nam cũng đưa đến sự chấm dứt đối với các tổ chức
dân sự hiện đại mới nhen nhóm hoạt động thời Pháp thuộc.
Ở miền Nam, sau ngày 30/4/1975, đảng Cộng sản chính thức
cầm quyền. Trong những năm sau đó, đảng thực hiện đường lối
toàn trị trên cả nước: xóa bỏ xã hội dân sự, kiểm soát toàn bộ đời
sống kinh tế... (xem phần “hội chứng 6 điểm của chế độ toàn trị”
ở Phần III, “Dân chủ”).
“Trong những năm sau khi thống nhất đất nước (năm 1975),
Việt Nam không công nhận xã hội dân sự là một thành phần độc
lập với nhà nước.Nhà nước thực hiện công tác huy động nhân dân
thông qua các “tổ chức quần chúng” lớn kết nối với nhà nước từ
trung ương đến cấp làng xã”. 1
1. Xã hội dân sự “chính thống”
“Sự kiện đổi mới vào năm 1986 là một bước ngoặt ở Việt Nam và
đánh dấu một giai đoạn mới của sự cởi mở tương đối, bao gồm cả
xã hội dân sự. Trong những năm 1990 cùng với đầu tư nước ngoài
gia tăng, một số lượng đáng kể các tổ chức phi chính phủ (NGO)
quốc tế bắt đầu hoạt động trong nước. Các tổ chức phi chính phủ
Việt Nam trong nước cũng đã hiện diện từ những năm 1990, mặc
dù các tổ chức được công nhận là phi chính phủ chỉ là một phần
nhỏ của xã hội dân sự ở Việt Nam”. 2
CIVICUS (Liên minh Thế giới về Sự Tham gia của Công dân)

cho rằng ở Việt Nam có bốn loại tổ chức xã hội dân sự chính: 3
y Các tổ chức cộng đồng;
y Các tổ chức quần chúng;
y Các hội nghề nghiệp;
y Các tổ chức phi chính phủ Việt Nam.
1. “Báo cáo tóm tắt về xã hội dân sự Việt Nam”, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), tháng
10/2011.
2. Như trên.
3. Như trên.
Các tổ chức cộng đồng
Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), “các tổ chức cộng
đồng (CBO) có thể là phi chính thức hoặc liên kết với các tổ chức
chính thức, nhưng, cũng tương tự như các phong trào cơ sở, nói
chung là được các cấp chính quyền địa phương chấp nhận. CBO
thường được khởi đầu bằng một mục tiêu phát triển địa phương
– chẳng hạn như sử dụng nước, tín dụng, hoặc hỗ trợ cho một
nhóm bên lề xã hội như người khuyết tật – và có thể kết hợp các
thành viên của chính quyền địa phương và/hoặc các tổ chức đoàn
thể. Các hoạt động cốt lõi của các CBO này là các lĩnh vực xóa đói
giảm nghèo, cứu trợ nhân đạo, tự tổ chức, và phát triển chuyên
môn. Tuy nhiên, chỉ từ những năm 2000, các CBO ở Việt Nam mới
bắt đầu nhận được tiền từ các nguồn quốc tế”.
Các tổ chức quần chúng
Cũng theo ADB, “các tổ chức quần chúng được tài trợ một phần
và do đó, không phù hợp trong một số định nghĩa của xã hội dân
sự, nhất là khi tư cách thành viên không nhất thiết phải do sự hoạt
động hoặc tham gia. Tư cách thành viên của một tổ chức quần
chúng có thể đến thông qua việc làm ở khu vực công chẳng hạn.
Tuy nhiên, các tổ chức quần chúng có liên kết ở cấp cơ sở rất mạnh
và đông hội viên, đồng thời đang trở nên ngày càng độc lập kể từ
giai đoạn đổi mới. Đây chính là trường hợp của Hội Nông dân, Hội
Phụ nữ, và Đoàn Thanh niên”.
Ta có thể thấy sự khéo léo diễn đạt “cho nhẹ vấn đề” của ADB ở
đây. Thực tế là ở Việt Nam, có 5 tổ chức quần chúng lớn: Hội Cựu
chiến binh, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân,
Hội Phụ nữ, và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
5 tổ chức này được đảng Cộng sản Việt Nam thu xếp để “đại
diện” cho 5 lực lượng nòng cốt trong xã hội là cựu chiến binh, công
nhân, nông dân, phụ nữ, và thanh niên. 5 tổ chức này cũng là
những cánh tay nối dài của đảng Cộng sản, khi mà lãnh đạo của
chúng luôn là ủy viên Trung ương Đảng, nhận lương từ ngân sách
Nhà nước, kinh phí hoạt động cũng nhận từ ngân sách Nhà nước,
và chức năng của chúng là tuyên truyền, giải thích đường lối chính
sách của “Đảng và Nhà nước” đến người dân thay vì bảo vệ quyền
lợi của các thành viên hay thúc đẩy lợi ích chung.
Bao trùm lên tất cả là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức quần
chúng lớn nhất, “liên minh chính trị và liên hiệp tự nguyện của các
tổ chức chính trị, tổ chức xã hội và các cá nhân đại diện cho các giai
cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định
cư ở nước ngoài”.
Không phải là chúng “được tài trợ một phần và do đó, không
phù hợp trong một số định nghĩa của xã hội dân sự”, mà chúng
đích thực là các tổ chức do chính quyền lập nên để phục vụ lợi ích
của “Đảng và Nhà nước”, tức đảng và nhà nước cộng sản. Ta có thể
gọi chúng là các GONGO – tổ chức phi chính phủ do chính phủ
điều hành, tức là xã hội dân sự giả, do chính quyền lập nên để phục
vụ lợi ích của mình và diễn trò dân chủ với cộng đồng quốc tế.
Các hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ
Bên cạnh CBO và các tổ chức quần chúng, hai loại tổ chức xã
hội dân sự còn lại, theo CIVICUS, là các hội nghề nghiệp và các tổ
chức phi chính phủ Việt Nam.
Các hội nghề nghiệp chịu sự kiểm soát chặt chẽ của đảng Cộng
sản, nhất là hội của các nghề được xã hội chú ý, như hội nhà báo,
hội nhà văn, hội luật gia, đoàn luật sư.
Đại đa số các tổ chức phi chính phủ tập trung vào những hoạt
động như đào tạo nâng cao năng lực, cung cấp dịch vụ, và phát
triển. Nguồn kinh phí của họ chủ yếu đến từ các dự án hợp tác với
nước ngoài. Tất cả cũng đều chịu sự kiểm soát chặt chẽ của đảng
Cộng sản, đặc biệt thông qua lực lượng an ninh với những bộ phận
chuyên về “quản lý” các tổ chức có yếu tố nước ngoài.
Hầu như không có tổ chức nào trong khối xã hội dân sự “chính
thống” ở Việt Nam thật sự độc lập và hoạt động để thúc đẩy dân
chủ-nhân quyền, nhà nước pháp trị, hoặc để bảo vệ các nhân quyền
bị coi là “nhạy cảm” như các quyền dân sự và chính trị (tự do ngôn
luận, tự do tụ tập, tự do biểu tình, tự do lập hội...).
2. Xã hội dân sự “ngoài luồng”
Trong những năm sau khi đảng Cộng sản bắt đầu công cuộc
Đổi Mới (1986), lác đác đã có vài tổ chức chính trị tuyên bố thành
lập với mục tiêu thúc đẩy dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam.
Sớm nhất có lẽ là Câu lạc bộ Những người Kháng chiến cũ, một tổ
chức dân sự mà thành viên nòng cốt là những người cộng sản có
tinh thần phản tỉnh, như Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng... Câu lạc bộ
chính thức ra đời (được cấp giấy phép) vào tháng 5/1986. Về sau,
trong cơn lốc dân chủ hóa ở Đông Âu, nó đã bị chính quyền cộng
sản thẳng tay đàn áp. Các thành viên tích cực đều bị bắt giam hoặc
quản thúc tại gia. Tới năm 1990, nó bị đảng Cộng sản kiểm soát
hoàn toàn.
Dĩ nhiên, các tổ chức cổ súy cho dân chủ, nhân quyền sau đó
đều bị đặt ra ngoài vòng pháp luật; thành viên bị truy bức, đàn áp.
Không rõ có tổ chức nào có giấy phép (đăng ký thành lập) không.
Ngày 08/4/2006, Khối 8406 ra đời với bản Tuyên ngôn Tự do
Dân chủ 2006. Một lần nữa, những người đi tiên phong trong công
cuộc đấu tranh cho dân chủ lại bị đàn áp. Một loạt người bị bắt vào
năm 2007: Linh mục Nguyễn Văn Lý, luật sư Nguyễn Văn Đài, luật
sư Lê Thị Công Nhân...
Ngày 09/9/2007, blogger Ba Sàm (tên thật Nguyễn Hữu Vinh)
mở trang blog “Thông Tấn Xã Vỉa Hè”. Ngày 19/9/2007, blogger
Điếu Cày (Nguyễn Văn Hải) thành lập Câu lạc bộ Nhà báo Tự do.
Có thể xem đây là những nhóm đấu tranh cho dân chủ-nhân
quyền đầu tiên trên nền tảng Internet. Hai người sáng lập này về
sau đều phải trả giá bằng những án tù nhiều năm.
Sáng chủ nhật 05/6/2011, cuộc biểu tình chống Trung Quốc
đầu tiên được tập hợp thông qua facebook nổ ra tại cả Hà Nội và
Sài Gòn. Trước đó, vào tháng 12/2007, blogger ở hai thành phố này
cũng từng biểu tình, nhưng lời kêu gọi khi ấy xuất phát trên mạng
Yahoo! 360°, và khác biệt quan trọng nhất giữa hai kỳ biểu tình là:
Năm 2011 đánh dấu sự ra đời những tổ chức xã hội dân sự “không
giấy phép”, bắt đầu tham gia vào cuộc chiến chống độc tài và bảo vệ
nhân quyền, thúc đẩy dân chủ. Không giấy phép, bởi họ không có
trụ sở, không có vốn điều lệ, không đăng ký thành lập, và chắc chắn
là có “xin” đăng ký thì cũng chẳng được cấp giấy phép.
Ngày 10/8/2011, nhóm facebook đầu tiên tập hợp “100 bạn trẻ
yêu nước xuống đường ngày chủ nhật” được thành lập, sử dụng
tính năng tạo nhóm kín của facebook. Vài tháng sau, một số thành
viên của nó đã có sáng kiến lập đội bóng No-U (có nghĩa là “nói
không với đường chữ U”, hay là đường lưỡi bò của Trung Quốc,
vốn ôm lấy 85% diện tích Biển Đông). Sinh nhật No-U được xác
định là ngày 30/10/2011.
“Cùng chung tinh thần yêu nước, phẫn nộ trước hành vi xâm
lấn của Trung Quốc, cùng cảnh ngộ bị đe dọa, bị đàn áp khi xuống
đường, những người biểu tình đã gắn kết lại với nhau. Bóng đá
cũng là môn thể thao làm cho con người dễ gần nhau, dễ gắn kết
lại với nhau hơn cả. Đội bóng NO-U ra đời trong hoàn cảnh ấy”.
“Với tinh thần xóa đường lưỡi bò phi lý của Trung Quốc; Hoàng
Sa, Trường Sa là của Việt Nam, đội bóng còn làm nhiều việc có ý
nghĩa khác, trong đó có tổ chức một số chuyến thiện nguyện vì
đồng bào nghèo, vì trẻ em ở nơi vùng sâu vùng xa” (blogger Nguyễn
Tường Thụy).
No-U cũng ra mắt tại Sài Gòn vào ngày 27/11/2011.
Kể từ đó, khái niệm xã hội dân sự được gắn với dân chủ, nhân
quyền và càng trở nên nhạy cảm trong mắt chính quyền. Các tổ
chức xã hội dân sự không giấy phép bị an ninh và tuyên giáo coi
như thế lực thù địch, chống nhà nước. Mục “Bình luận - Phê phán”
trên báo Nhân Dân, ngày 31/8/2012, còn đăng một bài xã luận
nhan đề “Xã hội dân sự - một thủ đoạn của diễn biến hòa bình” của
tác giả Dương Văn Cừ.
“Ðáng chú ý là một số đối tượng cơ hội chính trị có quan điểm
chống đối cực đoan đã lợi dụng một số tổ chức quần chúng hợp
pháp để tổ chức các hội thảo, tọa đàm, diễn đàn có nội dung đòi hỏi
đưa Hiến pháp 1992 trở về Hiến pháp năm 1946, trưng cầu ý dân
về Ðiều 4 cũng như toàn bộ Hiến pháp, lập Tòa án Hiến pháp, thúc
đẩy XHDS và thực hiện các quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận,
báo chí, lập hội theo tiêu chí phương Tây, tư hữu hóa đất đai... Nếu
thực hiện các nội dung này theo ý đồ của họ thì chế độ XHCN thực
tế sẽ không còn tồn tại ở Việt Nam. Ðây là phương thức đấu tranh
công khai rất nguy hiểm, nếu không cảnh giác có thể sẽ giúp các
thế lực thù địch lợi dụng các tổ chức XHDS để đưa ra những kiến
nghị nhằm thay đổi thể chế, thay đổi hệ thống luật pháp XHCN
bằng luật pháp dân chủ, tư sản”. 1
Ngoài việc đàn áp công khai, lực lượng an ninh cũng phối hợp
với dư luận viên theo dõi sát sao và đăng tải nhiều bài viết, video
clip... đánh phá các tổ chức xã hội dân sự “ngoài luồng”, ghép cho
họ các tội lỗi xấu xa như “ăn bám”, “ăn tiền ngoại bang”, “gây rối
trật tự”, “gây bất ổn xã hội”, thậm chí “bán nước”, “phản bội Tổ
quốc”. Tất cả các sản phẩm truyền thông này đều đánh đồng đảng
Cộng sản với Tổ quốc, và đánh đồng sự tồn vong của chế độ với
an ninh quốc gia, từ đó kết tội các tổ chức dân chủ-nhân quyền là
chống phá đất nước.
Từ vị thể kẻ bị đàn áp, đánh phá và bôi nhọ như vậy, con đường
để các tổ chức xã hội dân sự “ngoài luồng” đi tới chỗ được thừa
nhận và hoạt động tự do ở Việt Nam còn rất dài.
1. ““Xã hội dân sự” - một thủ đoạn của diễn biến hòa bình”, Dương Văn Cừ/ Nhân Dân,
31/8/2012. Có trên mạng tại địa chỉ: http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item
/1252402-.html
XÃ HỘI DÂN SỰ CÓ THỂ THAM GIA CHÍNH TRỊ KHÔNG?
Nhiều nhà hoạt động xã hội dân sự ở Việt Nam thường khẳng định
rằng họ chỉ hoạt động xã hội dân sự để làm cho đất nước tốt đẹp
lên, họ không mưu đồ lật đổ đảng Cộng sản cầm quyền và không
định làm chính trị.
Nói như vậy có nghĩa họ hiểu chính trị là “việc giành, giữ và
thực thi quyền lực nhà nước, do các đảng phái, tổ chức chính trị, và
các cá nhân là chính trị gia thực hiện”, như cách định nghĩa thứ hai
về chính trị mà chúng ta đã biết trong Chương I, Phần I.
Nói như vậy không sai. Tuy nhiên, nếu ta hiểu chính trị là “việc
gây ảnh hưởng lên những người khác, chẳng hạn và rõ rệt nhất là
tác động lên chính sách” như cách định nghĩa thứ tư ở Chương I,
Phần I, thì xã hội dân sự tất nhiên là những thực thể có khả năng
gây ảnh hưởng trong xã hội và tác động đến chính sách công.
Và, như đã nói ở phần đầu Phần V này, trong mục “Những kịch
bản thay đổi ở Việt Nam theo hướng dân chủ hóa”, có một khả
năng là xã hội dân sự phát triển mạnh, kéo theo các phong trào xã
hội rộng lớn, đủ sức mạnh gây sức ép buộc đảng cầm quyền phải
nhượng bộ. Ngoài ra, những nhà hoạt động xã hội dân sự nổi tiếng
và được nhiều người yêu mến rất có thể trở thành những ứng viên
tiềm năng để tranh cử vào các cương vị quản lý nhà nước trong
một chế độ dân chủ, hậu cộng sản.
Vậy thì, với câu hỏi “xã hội dân sự có thể tham gia chính trị
không?”, câu trả lời là có. Nỗi lo lắng và sự căm ghét của đảng Cộng
sản Việt Nam đối với xã hội dân sự là không thừa.
Bài đọc
XÂY DỰNG KHÔNG GIAN CHO XÃ HỘI DÂN SỰ 1
5 thành tố căn bản để tạo ra và duy trì một môi trường an toàn,
tạo điều kiện cho xã hội dân sự là:
- Một khuôn khổ pháp lý vững chắc phù hợp với các tiêu chuẩn
quốc tế bảo vệ các quyền tự do chung và bảo vệ việc thực thi công
lý một cách hữu hiệu;
- Một môi trường chính trị có lợi cho công việc của xã hội dân
sự;
- Khả năng tiếp cận thông tin;
- Không gian cho khối xã hội dân sự tham gia vào tiến trình ra
quyết định;
- Sự hỗ trợ cũng như nguồn lực dài hạn cho xã hội dân sự.
Bằng việc tạo ra những điều kiện đó, chính phủ, cộng đồng
quốc tế và những bên có liên quan khác sẽ ở cương vị tốt hơn để
nuôi dưỡng một bầu không khí tin cậy và hợp tác vì lợi ích của tất
cả mọi người, ở cấp độ địa phương, quốc gia và toàn cầu.
KHUYẾN NGHỊ
Để có một khuôn khổ pháp lý mang tính hỗ trợ và tiếp cận công lý,
các nước thành viên cần phải:
1. “Practical recommendations for the creation and maintenance of a safe and enabling
environment for civil society, based on good practices and lessons learned”, báo cáo của
Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc, ra ngày 11/4/2016.
(a) Bảo vệ, trong luật pháp và trên thực tế, những quyền cần
thiết cho những người làm xã hội dân sự hoạt động, kể cả quyền tự
do quan điểm và biểu đạt và tụ tập ôn hòa và hiệp hội, lẫn quyền
tham gia vào các vấn đề công cộng, kể cả trên mạng;
(b) Xem xét lại và hủy bỏ hoặc sửa đổi tất cả những quy định
của pháp luật mà ngăn chặn hoạt động tự do và độc lập của những
người làm xã hội dân sự; đảm bảo rằng tất cả các đạo luật có ảnh
hưởng đến khả năng hoạt động của họ đều tuân thủ luật pháp và
chuẩn mực quốc tế về nhân quyền và Tuyên bố về Những người
bảo vệ nhân quyền; và sử dụng các công cụ, trong đó có những chỉ
dấu về việc thực thi các quyền tự do nơi công cộng do OHCHR xây
dựng;
(c) Để cho các tổ chức không đăng ký được vận hành, và đưa ra
những quy định pháp lý và hành chính tối giản nhằm hỗ trợ việc
thông báo đơn giản đến một cơ quan hành chính độc lập và khả
năng tiếp cận với chi phí thấp hoặc miễn phí;
(d) Đảm bảo việc tiếp cận công lý thông qua một hệ thống tư
pháp độc lập và hiệu quả, cũng như việc tiếp cận đến các định chế
nhân quyền quốc gia phù hợp với Công ước Paris và các cơ chế
nhân quyền khu vực và quốc tế;
(e) Đưa ra các cơ chế để phối hợp điều tiết hoặc tự điều tiết ở
những lĩnh vực nơi các vấn đề về không gian dân sự có thể được xử
lý bởi các tổ chức xã hội dân sự;
(f) Đảm bảo rằng tất cả các biện pháp chống khủng bố có ảnh
hưởng tới xã hội dân sự đều tuân thủ tất cả luật pháp và chuẩn mực
quốc tế về nhân quyền có liên quan.
Để có một môi trường chính trị và công cộng thuận lợi, các
nước thành viên cần phải:
(a) Thể hiện sự ủng hộ chính trị ở cấp cao đối với sự độc lập và
đa dạng của các hoạt động dân sự thông qua những tuyên bố công
khai và những chiến dịch thông tin công khai;
(b) Xây dựng và thực hiện các chương trình hành động quốc gia
để thực hiện Các Nguyên tắc Hướng dẫn Kinh doanh và Nhân
quyền của Liên Hợp Quốc: Thực hiện khuôn khổ “Bảo vệ, Tôn
trọng và Giải quyết” của Liên Hợp Quốc, gồm cả những cam kết
nhằm thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng và ủng hộ của khối
kinh doanh dành cho những người hoạt động xã hội dân sự, trong
nước và nước ngoài;
(c) Đảm bảo trách nhiệm giải trình về bất kỳ một hành vi đe dọa
hay trả thù nào nhằm vào những người hoạt động xã hội dân sự,
bằng cách bảo đảm điều tra nhanh chóng, toàn diện, không thiên
vị, và đưa thủ phạm ra trước công lý;
(d) Phát triển hoặc cập nhật một khuôn khổ chính sách quốc
gia và chương trình hành động quốc gia để hướng dẫn việc thực thi
các khuyến nghị được trình bày trong báo cáo này và thực thi tất cả
các luật và tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền liên quan đến không
gian xã hội dân sự.
Để đảm bảo tiếp cận thông tin, các nước thành viên cần phải:
(a) Thông qua những đạo luật, quy định và chính sách rõ ràng,
bảo đảm việc công bố thông tin chủ động từ các cơ quan nhà nước,
kể cả những cơ quan thực hiện các chức năng công vụ, và trao
quyền phổ quát được đề nghị và tiếp nhận những thông tin đó, chỉ
chịu sự hạn chế của những ngoại lệ được quy định rõ ràng và rất
hẹp, theo luật pháp và các chuẩn mực nhân quyền quốc tế; đảm
bảo quyền tiếp cận thông tin của các cơ quan tư nhân, khi mà
thông tin đó là thiết yếu đối với việc thực thi hoặc việc bảo vệ nhân
quyền; và trao quyền khiếu nại đến một cơ quan độc lập, trong bất
kỳ trường hợp nào bị từ chối cung cấp thông tin;
(b) Đào tạo cho các quan chức nhà nước về việc thực hiện quyền
tiếp cận thông tin và truyền bá thông tin tới cộng đồng về quyền
tiếp cận cũng như các tiến trình để đạt được nó.
Để thực hiện sự tham gia của người dân vào triển khai chính
sách, lên kế hoạch và ra quyết định, các nước thành viên cần phải:
(a) Công nhận quyền tham gia vào các tiến trình ra quyết định
công cộng trong luật pháp. Điều này phải bao gồm thông tin kịp
thời, rõ ràng, chính xác và phù hợp, với thông điệp và vấn đề dễ
hiểu; tuyên truyền rộng rãi về đầu ra, cùng với sự mô tả tiến trình;
lý do để chấp nhận hoặc bác bỏ các đề xuất hoặc thông tin đầu vào
của khối xã hội dân sự; các cơ hội để phản hồi và sửa chữa; và cung
cấp ngân sách thích đáng để có sự tham gia đó;
(b) Triển khai các chương trình hành động quốc gia về thu hút
sự tham gia của những người làm xã hội dân sự, theo đó, tất cả các
cơ quan nhà nước phải tham vấn xã hội dân sự trong việc xây dựng
và triển khai thực hiện chính sách;
(c) Tích hợp các hình thức tham gia mới thông qua việc sử dụng
ICT (công nghệ thông tin-truyền thông) và truyền thông xã hội
như là phương tiện để tạo sự tiếp cận bình đẳng với thông tin và
tham vấn rộng khắp;
(d) Đánh giá một cách có hệ thống xem liệu các cải cách về luật
pháp và chính sách được đề xuất có ảnh hưởng tiêu cực đến phụ nữ
hay không, hoặc có chứa đựng các yếu tố giới cụ thể hay không,
hoặc có ảnh hưởng đến những bộ phận cụ thể trong dân số hay
không;
(e) Đào tạo và hướng dẫn cho quan chức nhà nước hỗ trợ các
tiến trình tham vấn kịp thời và hiệu quả.
Để tạo sự hỗ trợ và nguồn lực dài hạn cho các tổ chức xã hội dân
sự, các nước thành viên cần phải:
(a) Thừa nhận rằng hạn chế một cách vô lý việc tài trợ là một sự
vi phạm quyền tự do hiệp hội, đảm bảo rằng những người làm xã
hội dân sự có thể tìm kiếm, tiếp nhận và sử dụng tiền tài trợ và các
nguồn lực khác, dù là trong nước hay nước ngoài, mà không cần
được sự cho phép trước và không có các cản trở vô lý khác; nếu
không có những hạn chế đối với việc tiếp nhận tài trợ nước ngoài
ở các cơ quan nhà nước hay cơ sở kinh doanh, thì cũng không
được có hạn chế ở các tổ chức xã hội dân sự;
(b) Tài trợ một cách linh hoạt cho các tổ chức xã hội dân sự, với
thủ tục đơn giản, và luân chuyển mọi nguồn quỹ cho các hoạt động
xã hội dân sự thông qua những tiến trình công khai, minh bạch;
(c) Trong khuôn khổ các hoạt động tài chính thích hợp, áp dụng
miễn thuế cho các tổ chức xã hội dân sự và khuyến khích bằng thuế
cho những nhà tài trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân
hàng cho phép chuyển tiền xuyên biên giới;
(d) Tích hợp giáo dục nhân quyền và dân sự vào tài liệu giảng
dạy và các chương trình đào tạo ở mọi cấp.
Khuyến nghị đến các thực thể khu vực và quốc tế
Các thực thể khu vực và quốc tế cần phải:
(a) Đảm bảo các cơ sở tiền đề an toàn cho xã hội dân sự và tư vấn trong trường hợp có hiểm nguy, đe dọa hay hành động trả thù;
(b) Thông qua các hoạt động và tiến trình của mình, tạo sự tham gia hiệu quả của xã hội dân sự, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về không phân biệt đối xử, tự do biểu đạt, tự do lập hội, tụ tập ôn hòa và quyền tham gia vào các vấn đề cộng đồng;
(c) Tăng cường minh bạch, thông qua các hình thức như webcasting, tổ chức các cuộc họp công khai, chẳng hạn, các cuộc họp của Ủy ban Các Tổ chức Phi Chính phủ của Hội đồng Kinh tế và Xã hội;
(d) Duy trì giám sát thường xuyên, xem xét lại và báo cáo về các vấn đề về không gian dân sự và những khó khăn thách thức ở tất cả các thực thể.
29/8/2018
Phạm Đoan Trang
Theo https://luatkhoa.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chính trị bình dân 5 000000bbbbbbbb

Chính trị bình dân 5 Chương III HÀNH PHÁP Đây là nhánh thứ hai trong ba nhánh quyền lực cấu trúc nên bộ  máy nhà nước. Thực thể này thường đ...