Thứ Ba, 16 tháng 12, 2025

Chính trị bình dân 5 000000bbbbbbbb

Chính trị bình dân 5

Chương III
HÀNH PHÁP
Đây là nhánh thứ hai trong ba nhánh quyền lực cấu trúc nên bộ máy nhà nước. Thực thể này thường được gọi bằng cái tên “chính phủ”. Trên hình thức, nó dường như là nhánh nổi bật nhất trong ba nhánh quyền lực. Thậm chí, nói đến nhà nước, nhiều người chỉ nghĩ đến chính phủ mà quên mất hai nhánh lập pháp, tư pháp; người ta đồng nhất luôn chính phủ với nhà nước, chính quyền.
Vậy cơ quan hành pháp, hay chính phủ, là gì? Một cách ngắn gọn nhất, đó là một tổ chức mà hoạt động cốt lõi là xây dựng chính sách công và lãnh đạo, chỉ huy, giám sát, để bảo đảm rằng chính sách đó được thực thi. Thành viên của nó (các quan chức) và bản thân nó được bầu chọn thông qua bỏ phiếu (bầu cử) hoặc được chỉ định, và làm việc theo nhiệm kỳ.
Để hiểu rõ hơn, chúng ta hãy xem xét các chức năng cụ thể củamột chính phủ: 1. Đại diện cho quốc gia; 2. Ban hành chính sách, lãnh đạo, điều khiển việc thực thi chính sách; 3. Đối phó với khủng hoảng của đất nước.
CHỨC NĂNG CỦA CHÍNH PHỦ
1. Đại diện cho quốc gia
Chính phủ là tổ chức đại diện cho một quốc gia. Các nhân vật như tổng thống hay chủ tịch nước, thủ tướng, bộ trưởng, đều là những gương mặt đại diện cho cả đất nước trong quan hệ quốc tế nói chung, trong các sự kiện ngoại giao, ký kết hiệp định, hiệp ước nói riêng. Sự đại diện này mang tính chất hình thức và biểu tượng rất cao. (Còn trên thực tế, rất có thể họ chẳng đủ tư cách đại diện cho đất nước, ví dụ nếu họ là một chính quyền không do dân bầu nên).
2. Ban hành chính sách, lãnh đạo, điều khiển việc thực thi Chức năng chính của cơ quan hành pháp là “hành”, tức là ban hành, điều hành, thi hành chính sách. Chính phủ là nơi xây dựng các chương trình kinh tế, xã hội của cả đất nước và lãnh đạo quá trình triển khai chúng, cũng như giám sát cả quá trình này để bảo đảm đạt được mục tiêu chính sách.
Bạn có thể thấy yếu tố “ban hành chính sách” rất giống với hoạt động lập pháp của quốc hội. Đúng là như vậy. Cơ quan hành pháp có quyền lực lập pháp; nó có thể ban hành nghị định, sắc lệnh, pháp lệnh, quyết định, chỉ thị, v.v... Sẽ là sai lầm nếu nghĩ rằng chức năng chính của quốc hội là làm luật, còn chính phủ thi hành luật:
Như đã nói ở Chương II, “Lập pháp”, thời nay, vai trò làm luật của quốc hội ngày càng giảm mà vai trò giám sát chính phủ ngày càng tăng. Trong khi đó, về phần chính phủ, vai trò lãnh đạo, chỉ huy, điều phối việc thực thi tiến trình chính sách cũng ngày càng mở rộng. Ở những đất nước thiếu dân chủ, cơ quan lập pháp không đại diện cho dân, thì chính phủ hoàn toàn lấn át quốc hội. Bạn có thể thấy Việt Nam dưới thời cộng sản, chính phủ đồng nhất với “Đảng và Nhà nước”, bộ máy nhà nước phình to và can thiệp vào đủ việc thuộc về xã hội dân sự, và quốc hội chỉ là nơi hợp thức hóa và triển khai các nghị quyết của đảng Cộng sản.
3. Đối phó với khủng hoảng của đất nước
Khi xảy ra khủng hoảng trong nước hoặc trong chính trị quốc tế mà có liên quan đến đất nước (thiên tai, chiến tranh...), chính phủ có chức năng ra quyết định và hành động khẩn cấp để đương đầu và xử lý khủng hoảng.
Lệ thường, dân chúng ở các vùng bị thiên tai luôn mong chờ nhà nước đứng ra ứng cứu. Tính chính danh của một chính phủ – đối với người dân trong nước và đối với cộng đồng quốc tế – có thể tùy thuộc vào cách ứng phó của họ trước thiên tai. Đó là bởi vì chính phủ là thực thể duy nhất có thể huy động lượng lớn sức người sức của vào dự báo, phòng chống thiên tai; cứu giúp dân khi có thiên tai và tái thiết sau khi thiên tai đã qua đi.
Tất nhiên, ngoài chính phủ còn có khu vực xã hội dân sự – tức các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế, các nhóm thiện nguyện, nhà thờ, nhà chùa v.v... Nhưng, chính phủ vẫn có khả năng tập hợp lực lượng mạnh mẽ hơn cả.
Người dân luôn có xu hướng trông đợi chính phủ hành động. Chính vì thế, thiên tai, địch họa là cơ hội cho chính phủ tạo thiện cảm và uy tín chính trị nơi dân chúng.
Tại Mỹ, sau vụ khủng bố 11/9/2001, uy tín của Thị trưởng New York Rudolph Giuliani tăng vọt, do chính quyền New York đã đưa ra được những biện pháp hiệu quả để khắc phục khủng hoảng. Tương tự, sau đợt động đất hồi tháng 5/2008 ở Tứ Xuyên, uy tín của Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo cũng tăng đáng kể do ông đã rất nhiệt tình và thường xuyên có mặt tại nơi xảy ra thảm họa.
Mùa đông năm 2008, do mưa lũ kéo dài, ở Hà Nội xảy ra một trận lụt lịch sử. Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị nói với VietNamNet trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại: “Tôi thấy nhân dân ta bây giờ so với ngày xưa ỷ lại Nhà nước lắm. Cứ chờ trên về, chờ cung cấp cái này, hỗ trợ cái kia chứ không đem hết sức ra tự làm”.* Phát biểu của ông Nghị gây phản ứng giận dữ từ nhiều độc giả.
* Bí thư Hà Nội: “Thiên tai thì không tính trước được”, Lê Nhung/ VietNamNet, 4/11/2008.
Tuy nhiên, tiềm ẩn nguy cơ không nhỏ nếu chính phủ lạm quyền, lấy cớ đối phó với tình huống khẩn cấp.
“Thường thường cơ quan lập pháp sẽ trao quyền gần như độc đoán cho hành pháp trong thời gian có chiến tranh, hoặc cho hành pháp “quyền lực trong tình huống khẩn cấp” khi đất nước phải đối diện với những khủng hoảng nội bộ như thiên tai, khủng bố, sản xuất rối loạn và bất ổn dân sự. Tuy nhiên, rõ ràng là quyền tuyên bố “tình trạng khẩn cấp” và áp đặt kiểu cai trị, điều hành rất dễ bị lạm dụng. Không hiếm việc chính phủ tận dụng các quyền này để làm suy yếu hoặc xóa bỏ lực lượng đối lập chính trị, dưới vỏ bọc là hiến
pháp” (Andrew Heywood). 1
Một ví dụ ở gần Việt Nam là Philippines dưới thời chính quyền Marcos (1965-1986). Vào ngày 23/9/1972, viện lý do phiến quân cộng sản có vũ trang nổi dậy nhiều, Tổng thống Ferdinand Marcos tuyên bố đưa Philippines vào tình trạng thiết quân luật. Trong thời gian thiết quân luật đó, ông ta sửa hiến pháp, bịt miệng báo chí, đàn áp đối lập, cai trị rất hà khắc nhân danh chống cộng. Philippines đã phải sống dưới ách độc tài của Marcos cho đến khi cuộc Cách mạng Nhân dân 1986 lật đổ được ông ta.
NGUYÊN THỦ QUỐC GIA VÀ NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CHÍNH PHỦ
Đến đây chúng ta cần phải dành riêng một phần của chương này để nói về hai ngôi sao của chính trường: nguyên thủ quốc gia (vua/ nữ hoàng, tổng thống, quốc trưởng, hoặc chủ tịch nước) và người đứng đầu chính phủ (thủ tướng). Sở dĩ gọi là ngôi sao vì đây chắc chắn là hai nhân vật nổi bật nhất trong bất kỳ nền chính trị nào, hai cá nhân có tính đại diện cao nhất cho nhà nước trên trường quốc tế.
Nguyên thủ quốc gia Nguyên thủ là người đứng đầu nhà nước về mặt hình thức. Người đó có thể là vua (như đức vua Thái Lan), nữ hoàng (nữ hoàng Anh), là tổng thống (tổng thống Mỹ), hoặc chủ tịch nước (CHXHCN Việt Nam). Điều 86 Hiến pháp Việt Nam 2013 quy 1. “Politics”, Andrew Heywood, 3rd, Palgrave Foundations, 2007. định “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước CHXHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại”.
Nguyên thủ quốc gia là một cương vị có tính hình thức và biểu tượng rất cao. Do đó, ta thường thấy họ xuất hiện trong các nghi thức long trọng, buổi lễ, sự kiện chính trị, sự kiện ngoại giao... của đất nước. Khoản 4 Điều 88 Hiến pháp Việt Nam 2013 quy định Chủ tịch nước là người có thẩm quyền “quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, các giải thưởng nhà nước, danh hiệu vinh dự nhà nước; quyết định cho nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam”.
Ở Anh, nữ hoàng là người giữ quyền ban tước hiệu hiệp sĩ, như Nữ hoàng Elizabeth đã phong hiệp sĩ cho danh ca Paul McCartney.
Ở Việt Nam, bạn cũng thấy chủ tịch nước xuất hiện trong các dịp được coi là rất trang trọng, ví dụ như trao giải thưởng Hồ Chí Minh hay đọc thư chúc Tết đồng bào lúc giao thừa (thực ra là ghi hình từ trước và tới thời điểm đó thì đài truyền hình phát sóng).
Vua hay nữ hoàng lên ngôi theo truyền thống (cha/mẹ truyền con nối). Tổng thống hay chủ tịch nước thì có thể do dân bầu cử trực tiếp (như ở Mỹ) hoặc do quốc hội bầu chọn. Trường hợp nước CHXHCN Việt Nam, chủ tịch nước do quốc hội bầu (Khoản 7 Điều 70 Hiến pháp Việt Nam 2013).
Người đứng đầu chính phủ Cương vị đứng đầu chính phủ - tức đứng đầu cơ quan hành pháp – là một chức vụ được gọi là thủ tướng hay thủ hiến. Thủ tướng do nguyên thủ quốc gia chỉ định hoặc do phe đa số trong quốc hội bầu chọn. Trong trường hợp CHXHCN Việt Nam, thủ tướng là do “chủ tịch nước đề nghị quốc hội bầu” (Khoản 3, Điều 88 Hiến pháp Việt Nam 2013). Đóng cả hai vai trò Đến đây thì có lẽ bạn đã nhận thấy có những nền chính trị, hay những quốc gia, trong đó có một cá nhân đóng cả hai vai trò – nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu cơ quan hành pháp. Đó là tổng thống chế, một trong hai hình thức phổ biến nhất của chế độ cộng hòa, bên cạnh nghị viện chế. Ví dụ nổi bật nhất là Mỹ. Tổng thống Mỹ đứng đầu nhà nước, đồng thời cũng là người đứng đầu chính phủ. Có một số quốc gia khác cũng vậy: Argentina, Brazil, Venezuela... nhưng do Mỹ là một trong các siêu cường của thế giới nên chắc chắn Mỹ là ví dụ mà ai nấy đều biết đến. Tổng thống Mỹ cũng luôn là một ngôi sao trên chính trường quốc tế, là một trong các nhân vật được báo chí quốc tế chú ý.
Là nguyên thủ quốc gia, tổng thống Mỹ đóng một vai trò mang tính hình thức và biểu tượng rất cao. Tổng thống là đại diện của nước Mỹ, hiện thân của tinh thần ái quốc ở xứ hợp chủng, là biểu tượng của sự đoàn kết dân tộc, ở chừng mực nào đó còn là niềm tự hào của người dân Mỹ. Ở cương vị ấy, ông ta được kỳ vọng phải hành xử mẫu mực, công bằng, đạo đức, một lòng phụng sự đất nước. Ông ta được đòi hỏi phải sẵn sàng giúp đỡ các đảng chính trị khác trong các hoạt động vì lợi ích chung, trong quan hệ và tiếp xúc của các đảng đó với Quốc hội.
Đồng thời, tổng thống lại cũng là người đứng đầu cơ quan hành pháp, chỉ huy quá trình làm ra và thực thi chính sách, và là lãnh đạo một đảng nào đó (Dân chủ, Cộng hòa...). Với tư cách đứng đầu hành pháp, tổng thống phối hợp với các bộ và các cơ quan hành pháp lớn, ví dụ như Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA), lãnh đạo tiến trình chính sách.
Tóm lại, ở Mỹ, tổng thống đóng vai trò kép. Truyền hình và phát thanh ở Mỹ gặp một khó khăn với điều này. Ví dụ, khi một tổng thống Mỹ phát biểu trên truyền hình quốc gia mà không phải trả phí cho nhà đài, đảng đối lập có thể sẽ la ó đòi được lên sóng miễn phí với cùng thời lượng phát hình để đáp lại. Khi ấy, nhà đài sẽ phải xác định xem tổng thống đã xuất hiện trên truyền hình với tư cách gì – nguyên thủ quốc gia hay người đứng đầu chính phủ. Nếu ông ta phát biểu với tư cách nguyên thủ quốc gia thì đảng đối lập không có lý gì để đòi được lên sóng. Còn nếu ông ta phát biểu với tư cách lãnh đạo một đảng chính trị (Dân chủ, Cộng hòa...) thì nguyên tắc công bằng sẽ buộc đài truyền hình phải để phe đối lập xuất hiện trên sóng một cách tương đương. Ngoài ra, theo Hiến pháp Mỹ, tổng thống còn là tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Hiến pháp cho tổng thống quyền này để thực thi nguyên tắc dân quản quân. Trên cương vị tổng tư lệnh, tổng thống có quyền huy động quân đội đến bất kỳ nơi đâu và làm bất kỳ điều gì, kể cả tấn công vũ trang các nước khác. Tuy nhiên, Quốc hội Mỹ mới được quyền quyết định tình trạng chiến tranh và tuyên chiến. Ngày 08/12/1941, Tổng thống Franklin Delano Roosevelt đã đọc một bài diễn văn đầy hùng biện trước Quốc hội Mỹ, đề nghị Quốc hội tuyên chiến với phát xít Nhật. Bài diễn văn nổi tiếng đến nỗi sau này nhiều người tưởng lầm rằng Tổng thống Roosevelt trực tiếp tuyên chiến với Nhật Bản.
Ở Việt Nam, theo Khoản 5, Điều 88 Hiến pháp 2013, Chủ tịch nước cũng là người thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh. Hội đồng này có toàn quyền quyết định tình trạng chiến tranh, động viên mọi lực lượng và khả năng của đất nước để bảo vệ Tổ quốc... (Xem Chương VII, “Hệ thống chính trị ở Việt Nam cộng sản”). “Ông trùm”
Riêng ở Việt Nam thời cộng sản, bên cạnh Chủ tịch nước và Thủ tướng, lại có một nhân vật thứ ba cũng là ngôi sao nghị trường, thậm chí trong nhiều giai đoạn còn là ngôi sao sáng nhất trong cả ba, đó là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam, gọi tắt là Tổng Bí thư đảng. Không phải là nguyên thủ quốc gia, cũng không đứng đầu chính phủ, chỉ là lãnh đạo một đảng, nhưng nhiều đời tổng bí thư có quyền lực bao trùm cả hệ 1. “Governing: An Introduction to Political Science”, Austin Ranney, 8th edition, Prentice Hall, 2001, trang 268. thống chính trị, biến cả chủ tịch nước lẫn thủ tướng thành cái bóng mờ nhạt, ví dụ như thời Lê Duẩn cầm quyền sau chiến tranh (từ năm 1976 đến khi mất, năm 1986).
Theo quy chế đảng, Đại hội đại biểu toàn quốc của đảng Cộng sản (5 năm một lần) bầu ra Ban Chấp hành Trung ương đảng. Ban Chấp hành Trung ương bầu ra Bộ Chính trị, và bầu ra Tổng Bí thư trong số ủy viên Bộ Chính trị. Trên thực tế, tính bí mật, mưu mô là đặc thù và cũng là sức mạnh của đảng trước dân; chính trị trong đảng là một thế giới riêng mà người dân ở ngoài đảng (được gọi là “quần chúng”) không thể nào tiếp cận để hiểu được.
Ông Nguyễn Phú Trọng – Tổng Bí thư thứ 12 của đảng Cộng sản Việt Nam, gương mặt nổi bật trong nền chính trị cộng sản kể từ Đại hội đảng XII (tháng 1/2016).
CƠ QUAN HÀNH PHÁP Ở VIỆT NAM
Cơ quan hành pháp ở Việt Nam là Chính phủ và ủy ban nhân dân các cấp. Điều 94 Hiến pháp năm 2013 quy định: Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội, tức là 5 năm. Chính phủ gồm Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng
và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quyết định. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021 của nước CHXHCN Việt Nam có 18 bộ và 4 cơ quan ngang bộ. 18 bộ gồm: Quốc phòng; Công an; Ngoại giao; Nội vụ; Tư pháp; Kế hoạch và Đầu tư; Tài chính; Công Thương; Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; Giao thông Vận tải; Xây dựng; Tài nguyên và Môi trường; Thông tin và Truyền thông; Lao động, Thương binh và Xã hội; Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Khoa học và Công nghệ; Giáo dục và Đào tạo; Y tế. 4 cơ quan ngang bộ gồm: Ủy ban Dân tộc; Ngân hàng nhà nước; Thanh tra Chính phủ; Văn phòng Chính phủ.
Bài đọc
NHÁNH HÀNH PHÁP Ở MỸ 1
Nhánh hành pháp liên bang chịu trách nhiệm thi hành các luật mà Quốc hội thông qua. Nó bao gồm Tổng thống, Phó Tổng thống, nhân viên Nhà Trắng, và bộ máy hành chính liên bang. Mặc dù tổng thống không làm luật, nhưng họ tham gia tích cực vào việc lập chương trình nghị sự, hình thành và thông qua chính sách, và thực thi chính sách. Ngoài phó tổng thống, tổng thống là quan chức duy nhất của liên bang được bầu chọn trên toàn quốc. Trên thực tế, tổng thống đại diện cho chính quyền Mỹ, là biểu tượng cho văn hóa và các giá trị Mỹ, và phát ngôn đại diện cho cả nước Mỹ ở bên ngoài. Với vai trò đó, tổng thống thu hút sự chú ý khổng lồ của dư luận và giới truyền thông, khiến ông ta có ảnh hưởng không ai bằng trong việc thiết lập chương trình nghị sự và lãnh đạo một chính sách. Ví dụ, Tổng thống George H. W. Bush là người khởi động thảo luận về việc xem xét lại Luật Không khí Sạch. Việc ông quan tâm đến sửa đổi luật này và tham gia tích cực vào xây dựng nó đã phá vỡ một thế bế tắc, đóng băng kéo dài cả thập kỷ, và cuối cùng, vào năm 1990, đã đưa đến việc một trong những đạo luật quan trọng nhất về môi trường được thông qua. Tổng thống Reagan năm 1981 và Tổng thống George W. Bush năm 2001 cũng thành công tương tự trong việc tập trung toàn bộ sự chú ý của quốc dân 1. “Public Policy: Politics, Analysis, and Alternatives”, Kraft & Furlong, 3rd edition, CQ Press, 2009 vào yêu cầu phải cắt giảm bền vững thuế liên bang. (...) thành công của họ trong việc thuyết phục Quốc hội phê chuẩn giảm thuế liên bang đã tác động sâu sắc tới chính sách kinh tế, kể cả làm tăng thâm hụt ngân sách liên bang và nợ quốc gia. Bên cạnh tổng thống, toàn thể nhân viên Nhà Trắng và Văn phòng Điều hành của Tổng thống 1 (EOP) cũng tham gia mật thiết vào quá trình xây dựng và triển khai chính sách. EOP bao gồm các văn phòng và cơ quan của Nhà Trắng đóng vai trò hỗ trợ tổng thống trong việc xây dựng, triển khai và thực thi chính sách công.
Trong số các văn phòng này, có Văn phòng Quản lý và Ngân sách (OMB), Hội đồng Cố vấn Kinh tế, Hội đồng An ninh Quốc gia (NSC), Văn phòng Chính sách Khoa học và Công nghệ. Cùng với nhau, các văn phòng này tạo nên một nền “tiểu hành chính”, cung cấp cho tổng thống và các nhân viên của ông những thông tin và ý tưởng chính sách quan trọng trong lĩnh vực có liên quan. EOP cập nhật thông tin cho tổng thống về số lượng tràn ngập các chính sách đang được xem xét ở Quốc hội hoặc đã được thực thi ở cơ quan
hành chính liên bang, giúp tổng thống có cơ hội gây ảnh hưởng đến định hướng chính sách. Trong hầu hết các lĩnh vực chính sách, chương trình nghị sự và quan điểm của tổng thống, đặc biệt trong các vấn đề quốc nội, phản ánh sự quan tâm và ý thức hệ của đảng mà tổng thống là thành viên; cũng như phản ánh các đơn vị bầu cử quan trọng nhất đối với đảng của ông ta và đối với việc tái đắc cử của tổng thống, nếu ông đang làm nhiệm kỳ đầu.
Các tổng thống đảng Dân chủ và Cộng hòa có xu hướng thông qua các lập trường chính sách khác biệt về phần lớn vấn đề, do triết lý khác nhau của họ về quản trị và do những lợi ích cụ thể mà đảng của họ đại diện. George W. Bush ủng hộ cải cách hệ thống an sinh xã hội năm 2004, nhấn mạnh việc lập những tài khoản cá nhân hoặc tài khoản hưu trí tư nhân – một ý tưởng chia rẽ sâu sắc Quốc hội, chủ yếu là do khác biệt về đường lối của mỗi đảng.
1. Executive Office of the President
Hệ thống hành chính liên bang cấu thành nên nhánh hành pháp. Nó bao gồm tất cả các cơ quan, văn phòng trực thuộc mỗi bộ trong nội các và các văn phòng và cơ quan khác có nhiệm vụ xây dựng, triển khai và thực thi chính sách trong từng lĩnh vực chuyên môn cụ thể. Nổi tiếng nhất trong số các cơ quan, văn phòng này là 15 bộ cấp nội các 1, mỗi bộ được quản lý bởi một bộ trưởng 2 do tổng thống chỉ định và Thượng viện xác nhận.
Mỗi bộ trong nội các lại bao gồm nhiều cơ quan cấp dưới, một số trong các cơ quan đó còn nổi tiếng hơn bộ chủ quản của nó. Ví dụ, Cơ quan Hàng không Liên bang (FAA), mà nhiệm vụ chính là bảo đảm an toàn hàng không, là một phần của Bộ Giao thông Vận tải. Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA), chịu trách nhiệm bảo đảm an toàn lương thực-thực phẩm và thuốc men, là một phần của Bộ Y tế và Con người. FBI, có nhiệm vụ bảo vệ nước Mỹ khỏi những mối đe dọa bên trong và bên ngoài, là cánh tay điều tra của Bộ Tư pháp. Các cơ quan hành chính này ban hành báo cáo và những nghiên cứu giúp cho công chúng theo sát các hoạt động của chúng trong các lĩnh vực chính sách cụ thể.
Mỗi cơ quan làm chính sách trong lĩnh vực cụ thể của nó thông qua việc diễn giải luật và triển khai những quy định quan trọng đối với việc thực thi chính sách. Các quan chức trong những cơ quan liên bang này có quyền hạn tương đối lớn để hình thành chính sách công, thậm chí trách nhiệm cuối cùng trong việc làm chính sách là thuộc về người được tổng thống chỉ định đứng đầu mỗi cơ quan hay bộ đó. Họ phối hợp chặt chẽ với Nhà Trắng để bảo đảm rằng quyết định của các cơ quan và bộ đều nhất quán với các chương trình và ưu tiên của tổng thống, ít nhất là trong các lĩnh vực mà quyết định đó không bị luật pháp giới hạn quá nghiêm khắc. Kết quả là, hệ thống hành chính Mỹ bị/được chính trị hóa rất mạnh so với hệ thống hành chính ở nhiều nước phát triển khác, và chính
1. Cabinet-level department
2. Secretary sách của họ có thể thay đổi rất đáng kể từ đời tổng thống này sang đời tổng thống khác.
Ví dụ như sự chuyển đổi từ Tổng thống Bill Clinton sang Tổng thống George W. Bush. Những người Bush chỉ định vào các cơ quan hành chính, cũng như các chính sách của chính quyền Bush, mang tính bảo thủ hơn so với người tiền nhiệm Bill Clinton. Sự khác biệt thể hiện đáng kể ngay cả trong việc chọn những cá nhân phục vụ tình nguyện trong các ủy ban cố vấn khoa học của các cơ quan hành chính như FDA và CDC (Trung tâm Kiểm soát và Ngăn ngừa Dịch bệnh). Các ủy ban cố vấn đó có mục đích cập nhật thông tin cho chính phủ về sức khỏe cộng đồng và các lĩnh vực chính sách khác. Chỉ riêng Bộ Y tế và Con Người đã có hơn 250 ủy ban cố vấn trong lĩnh vực y tế. Do những diễn giải của các ủy ban về khoa học có thể thúc đẩy các quyết định chính sách theo cách này hay cách khác, nên tổng thống và các quan chức nội các đặc biệt quan tâm đến việc ai là người làm trong các ủy ban ấy...
Một sự thay đổi trong ý thức hệ cũng khiến chính quyền khó mà lấp đầy ngay những vị trí quan trọng trong các cơ quan hành pháp. Ví dụ như việc chỉ định người đứng đầu FDA. Trong vòng hai năm đầu của nhiệm kỳ Tổng thống George W. Bush, FDA không có người đứng đầu, do các đảng viên Dân chủ và Cộng hòa trong Quốc hội không thống nhất được với nhau về các yêu cầu đối với người đứng đầu FDA. Đảng Dân chủ nói rằng họ phản đối những ứng viên có liên hệ chặt chẽ với những ngành nghề mà FDA quản lý, gồm cả những ngành làm về dược phẩm, thiết bị y tế, thực phẩm và hóa mỹ phẩm. Đảng Cộng hòa lại khẳng định rằng ứng viên nhất định phải là người ủng hộ các quan điểm bảo thủ, ví dụ như phải ủng hộ dừng mua bán thuốc tránh thai RU-486. Vào tháng 10/2002, Bush chỉ định Mark McClellan – bác sĩ nội khoa, phó giáo sư ĐH Stanford, người được cả hai đảng tin tưởng và có quan điểm thực dụng hơn là nặng về ý thức hệ – vào FDA. Tuy nhiên, đầu năm 2004, McClellan đã từ chức để chuyển sang làm lãnh đạo Trung tâm Dịch vụ Medicare và Medicaid. Tiến sĩ Lester M. Crawford thay thế ông, đầu tiên làm quyền giám đốc FDA, cho đến khi được Thượng viện chính thức phê chuẩn vào tháng 7/2005.
Tới tháng 9/2005, đến lượt ông Crawford lại từ chức, sau một loạt quyết định gây tranh cãi ở FDA, đặc biệt về việc mua bán thuốc tránh thai khẩn cấp không cần kê đơn. Bên ngoài các bộ thuộc nội các là vô số cơ quan hành pháp và pháp quy độc lập. Một trong số những cơ quan nổi tiếng nhất là Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA), một cơ quan hành pháp độc lập, có lãnh đạo là được chỉ định và là người nắm trách nhiệm lớn trong việc xây dựng và thực thi chính sách môi trường. Các cơ quan độc lập khác với các bộ thuộc nội các chủ yếu bởi vì họ chịu trách nhiệm trong một lĩnh vực chính sách tập trung hơn. Các ví dụ khác là Cơ quan Hàng không Vũ trụ Quốc gia (NASA), Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA), và Ủy ban Pháp quy về Hạt nhân (NRC) chịu trách nhiệm giám sát việc sử dụng năng lượng hạt nhân dân sự, gồm cả nhà máy điện hạt nhân lẫn lượng chất thải hạt nhân cao cấp mà chúng sản sinh ra.
Ủy ban Pháp quy Độc lập (IRC) là một nhánh khác của hành pháp. Giống như các bộ thuộc nội các, người đứng đầu ủy ban là do tổng thống chỉ định và thượng viện phê chuẩn, nhưng chỉ trong các nhiệm kỳ cố định. Nhiệm kỳ nhằm tách việc ra quyết định của IRC khỏi các áp lực chính trị từ tổng thống hay quốc hội. Thêm vào đó, hầu hết các IRC đều chịu trách nhiệm về việc xây dựng các quy định kinh tế trong những ngành cụ thể. Ví dụ như Ủy ban Truyền thông Liên bang (FCC) làm nhiệm vụ quản lý ngành truyền thông, và SEC điều phối thị trường tài chính. Mỗi IRC tập trung vào một ngành nhất định, do đó phạm vi quyền hạn của nó thường là hẹp.
Mặc dù mỗi cơ quan hành pháp đều vận hành trong lĩnh vực chuyên môn riêng của nó, nhưng việc mà nó làm có thể mâu thuẫn với các cơ quan khác. Ví dụ, EPA, với nhiệm vụ làm giảm ô nhiễm, trong nhiều năm đã muốn các ô tô phải cài thiết bị kiểm soát ô nhiễm để giảm chất thải từ động cơ. Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia (trực thuộc Bộ Giao thông Vận tải), có liên quan đến an toàn giao thông bằng phương tiện xe hơi, thì lại cho rằng cơ chế như thế có thể khiến ô tô dễ bị cháy nổ hơn.
15 bộ thuộc nội các và các cơ quan lớn
Bộ điều hành Các cơ quan liên bang
Bộ Nông nghiệp Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA)
Bộ Thương mại Ủy ban An toàn Sản phẩm Tiêu dùng
Bộ Quốc phòng Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA)
Bộ Giáo dục Ủy ban Cơ hội Việc làm Bình đẳng
Bộ Năng lượng Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Mỹ
Bộ Y tế và Con Người Ủy ban Truyền thông Liên bang (FCC)
Bộ An ninh Nội địa Tập đoàn Bảo hiểm Ký quỹ Liên bang
Bộ Nhà ở và Phát triển Đô thị Cục Dự trữ Liên bang
Bộ Nội vụ Ủy ban Thương mại Liên bang
Bộ Tư pháp Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Liên bang (NASA)
Bộ Lao động Quỹ Khoa học Quốc gia
Bộ Ngoại giao Ủy ban Pháp quy Hạt nhân
Bộ Giao thông Vận tải Peace Corps
Bộ Tài chính Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái
Bộ Cựu chiến binh Cơ quan Bưu chính Mỹ
Chương IV
TƯ PHÁP
Đây là nhánh thứ ba trong ba nhánh quyền lực cấu trúc nên bộ máy nhà nước. Thực thể này có chức năng diễn giải luật pháp, trên cơ sở đó, xét xử và giải quyết các tranh chấp pháp lý. Để hiểu rõ hơn về các chức năng của nó, ta cần biết hai hệ thống luật pháp cơ bản trên thế giới.
PHÂN LOẠI HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
Nếu phân loại theo cách thức áp dụng luật, trên thế giới có hai hệ thống pháp luật chính: 1. thông luật (common law), hay còn gọi là luật thường; 2. dân luật (civil law), hay còn gọi là luật dân sự, luật lục địa.
Nếu phân loại theo cách thức truy tìm sự thật, thế giới có hai hệ thống pháp luật chính: 1. hệ thống tranh tụng, có người dịch là hệ thống đối nghịch (adversarial system); 2. hệ thống điều tra, còn gọi là hệ thống thẩm vấn (inquisitorial system).
Trong hệ thống tranh tụng, tòa án trung lập, độc lập sẽ nghe lập luận và xem xét bằng chứng mà hai bên đối nghịch nhau – công tố viên và bị cáo trong các vụ hình sự, nguyên đơn và bị đơn trong các vụ dân sự – đưa ra, và trên cơ sở đó, ra phán quyết. Trong hệ thống điều tra, tòa án trung lập, độc lập đóng vai trò chủ động trong việc tìm kiếm, thu thập bằng chứng và thẩm vấn nhân chứng, và trên cơ sở đó, ra phán quyết. Việc điều tra thường do một hay nhiều thẩm phán đảm nhận.
Các nước theo thông luật thường áp dụng hệ thống tranh tụng, còn các nước theo dân luật thì áp dụng hệ thống điều tra. Các quốc gia theo thông luật điển hình là: Mỹ (trừ tiểu bang Lousiana), Canada (trừ bang nói tiếng Pháp Quebec), Anh, Úc, các nước chịu ảnh hưởng của Anh như Ấn Độ. Các quốc gia theo dân luật điển hình là Pháp, Đức (các nước châu Âu lục địa), Trung Quốc... và một nước trước kia là thuộc địa của Pháp, phần nào chịu ảnh hưởng từ hệ thống luật của Pháp, là CHXHCN Việt Nam.
Hai hệ thống luật pháp – tranh tụng và điều tra – khác nhau ở các khía cạnh cơ bản sau:
1. Trong hệ thống điều tra, quyết định có khởi tố, xét xử một người nào đó hay không là của thẩm phán, đại diện cho Bộ Tư pháp. Trong hệ thống tranh tụng, nó là quyết định của bồi thẩm đoàn.
2. Trong hệ thống điều tra, thẩm phán là người chủ động tìm kiếm, thu thập bằng chứng để ra quyết định khi xét xử. Trong hệ thống tranh tụng, đó là việc của hai bên đối nghịch nhau – công tố viên và bị cáo, nguyên đơn và bị đơn.
3. Trong hệ thống điều tra, vai trò của thẩm phán quan trọng.
Trong hệ thống tranh tụng, luật sư là ngôi sao, là người có ảnh hưởng lớn đến kết quả phiên tòa. (Ban đầu là như vậy, nhưng ngày nay, hệ thống pháp luật ở các nước cũng đã có nhiều thay đổi. Có nơi, như ở bang California của Mỹ, cả thẩm phán và bồi thẩm đoàn đều có thể ra quyết định có khởi tố, xét xử hay không.)
Điều quan trọng ở đây là: Tuy hai hệ thống luật pháp có những khác biệt như vậy, song cả hai đều phải hướng tới sự thật, tới việc trừng phạt người có tội, bảo vệ các quyền tự do của người dân và công lý. Muốn vậy, tư pháp phải bảo đảm các chuẩn mực tố tụng, chuẩn mực về pháp luật và nhân quyền. Và các bạn chú ý, ở cả hai định nghĩa về hai hệ thống pháp luật, đều có cụm từ “tòa án trung lập, độc lập”. Đó là đòi hỏi cao nhất đối với hệ thống tư pháp ở các nhà nước pháp trị (có rule of law).
Trung lập
Trung lập là sự không tồn tại tính bè phái, phe cánh, không đứng về phía bên nào. Trong quan hệ quốc tế, trung lập là một tình trạng pháp lý trong đó một nhà nước tuyên bố và xác quyết rằng nó không tham gia vào xung đột hay chiến tranh, không ủng hộ và không giúp đỡ hay viện trợ cho bên nào.
Trong một quốc gia hay xã hội, nguyên tắc trung lập được áp dụng đối với thẩm phán, công chức, quân đội, công an, và những người của cộng đồng khác. Nó đòi hỏi tất cả những người ở các cương vị này không được có cảm tình, sự ủng hộ hay có xu hướng ngả về ý thức hệ nào. Đó là trên nguyên tắc. Trên thực tế, đòi hỏi có thể ít khe khắt hơn: Những người này chỉ phải công bằng, vô tư, không thiên vị. Họ có thể có cảm tình đối với một ý thức hệ nào đó, miễn là điều đó không xâm phạm hoặc không mâu thuẫn với những trách nhiệm, nghĩa vụ của họ đối với cộng đồng, hoặc nghề nghiệp của họ.
TÒA ÁN ĐỘC LẬP
Như vậy, cho dù ở hệ thống luật pháp nào thì tòa án cũng phải trung lập và độc lập. Trung lập hiểu nôm na là không đứng về bên nào, không ủng hộ ý thức hệ nào. Còn độc lập, đối với ngành tư pháp, có nghĩa là gì? Một cách ngắn gọn, hệ thống tư pháp độc lập phải bảo đảm hai nguyên tắc sau:
1. Thẩm phán và công tố phải tách biệt
Thẩm phán (bên điều tra và/hoặc xét xử) và công tố (bên buộc tội) không bao giờ được cùng là một người hay một cơ quan, tổ chức.
Ở Mỹ, quyền công tố được trao cho một cơ quan hành pháp là Bộ Tư pháp (trực thuộc nội các). Người đứng đầu Bộ Tư pháp là Bộ trưởng Tư pháp, tiếng Anh là attorney general mà có người dịch sang tiếng Việt là tổng chưởng lý, hoặc công tố viên trưởng.
Chức này do tổng thống chỉ định và Thượng viện phê chuẩn. Tuy vậy, công tố ở Mỹ lại độc lập với tổng thống cũng như với chính phủ. Ở Anh cũng vậy, công tố là cơ quan nhà nước, không trực thuộc bộ nào, và độc lập với các cơ quan nhà nước khác.
Ở Việt Nam, Viện Kiểm sát Nhân dân đóng hai vai trò: 1. Công tố; 2. Giám sát tòa án, cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án. Với vai trò công tố, viện kiểm sát là thực thể có quyền buộc tội ai đó và phải điều tra, nhưng trên thực tế, cơ quan điều tra của Viện Kiểm sát chỉ có thẩm quyền đối với các vụ việc vi phạm pháp luật tố tụng, và gần như 100% trường hợp, Viện Kiểm sát chỉ làm mỗi cái việc phê chuẩn các cáo buộc do công an đưa ra. Với vai trò giám sát, họ cũng không giám sát được ai, nhất là không giám sát được công an.
Bằng chứng là đã có hàng trăm vụ người dân chết trong đồn công an hoặc trong trại tạm giam của công an, nhưng không vụ việc nào được điều tra và không nhân viên công an nào phải chịu trách nhiệm gì.
Tòa án ở Việt Nam khi ra phán quyết cũng thường chỉ dựa vào kết luận điều tra của công an và cáo buộc của viện kiểm sát, mà cáo buộc đó thì dựa vào kết luận điều tra. Vì thế, nguyên tắc “tách biệt thẩm phán và công tố” không được bảo đảm.
Viện Kiểm sát Nhân dân ở Việt Nam là một thực thể rất khó được xếp vào nhánh hành pháp hay tư pháp. Không có văn bản pháp luật nào xác định điều đó. Bản thân họ, vì không có một cơ quan điều tra riêng đủ thẩm quyền và năng lực, cho nên phụ thuộc hoàn toàn vào công an trong đa số vụ án, khiến ai cũng tưởng Viện
Kiểm sát thuộc nhánh hành pháp.
2. Tòa án, thẩm phán phải độc lập trước mọi sức ép về chính trị Nguyên tắc thứ hai của việc tư pháp độc lập, là tòa án và thẩm phán
phải thoát khỏi chính trị, không được phép chịu một sức ép chính trị nào. Tòa án không được phép thuộc về hành pháp hay lập pháp. Môi trường làm việc của tòa án và thẩm phán phải bảo đảm bình yên, ổn định, trong sạch, không nhuốm màu lợi ích, không bị đe dọa...
Điều đó thể hiện ở việc chức vụ thẩm phán thường là chức vụ trọn đời (để thẩm phán không phải lo chạy chọt giữ chức), thẩm phán tuyệt đối không được tham gia đảng phái hay tổ chức nào.
Ở Mỹ, Hiến pháp quy định tất cả các thẩm phán liên bang đều do tổng thống chỉ định (và trình Thượng viện phê chuẩn), giữ chức trọn đời và không bị hạ lương. Như vậy có nghĩa là họ không phải vận động tranh cử, công việc của họ không có nhiệm kỳ, và họ không chịu sức ép bị trừ lương. Tóm lại, họ không phải chịu tác động nào về mặt chính trị. Bạn có thể hỏi, vậy nếu trong thời gian tại vị, thẩm phán hành xử không chuẩn mực, lạm quyền, tham nhũng, xét xử oan sai thì sao? Khi đó, họ sẽ bị Hạ viện luận tội và Thượng viện kết tội. Nếu đa số thành viên Hạ viện thông qua việc luận tội họ và hai phần ba thành viên Thượng viện kết tội, thì thẩm phán mới bị cách chức. Ở Vương quốc Anh cũng vậy. Còn ở Pháp, lập pháp và tư pháp sẽ cùng bầu ra một cơ quan giám sát đặc biệt để giám sát thẩm phán.
Trong khi đó, ở Việt Nam dưới thời cộng sản, thẩm phán phải là đảng viên đảng Cộng sản. Bạn sẽ không tìm thấy quy định này ở bất kỳ văn bản pháp luật nào; nó là luật bất thành văn. Cũng tương tự như vậy, mọi tổng biên tập, lãnh đạo cơ quan báo chí phải là đảng viên cộng sản, riêng Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam còn phải (và được) là ủy viên Trung ương đảng.
Chỉ riêng điều đó thôi đã đủ vi phạm hoàn toàn nguyên tắc trung lập và độc lập của hệ thống tư pháp (và báo chí).
TƯ PHÁP CÓ THỂ LÀM RA LUẬT KHÔNG?
Đến đây hẳn bạn đã thấy, nếu hiểu “lập pháp là làm luật, hành pháp là thi hành luật, tư pháp là diễn giải luật và xét xử tranh chấp” thì tuy đúng nhưng đó là một cách hiểu quá thô sơ, đơn giản trong xã hội hiện đại. Trong các nền dân chủ ngày nay, lập pháp không chỉ làm luật nữa mà có thể điều tra như hành pháp, hành pháp có thể ra luật, và tất nhiên, tư pháp cũng không chỉ dừng ở việc diễn giải luật và xét xử tranh chấp.
Nói cách khác, tư pháp có thể làm luật, tạo ra chính sách. Một ví dụ thường được nhắc đến trong các sách về chính trị học là việc Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã ra phán quyết khẳng định việc phân biệt trường công dành riêng cho người da trắng và da màu là vi hiến (vụ kiện Brown và Hội đồng Giáo dục của Topeka, 1954), và ra lệnh cho các bang phải nhanh chóng chấm dứt tệ nạn phân biệt chủng tộc ở trường học (1955).
Vụ kiện Brown và Hội đồng Giáo dục Topeka sau này được xem như cột mốc mở đầu phong trào đấu tranh vì quyền dân sự của người da đen ở Mỹ.
Bài đọc
TÒA ÁN ĐỘC LẬP 1
TẤT CẢ CÁC BỊ CÁO ĐỀU CÓ QUYỀN ĐƯỢC XÉT XỬ BỞI MỘT 
TÒA ÁN ĐỘC LẬP.
Tất cả các tòa án và thẩm phán đều phải độc lập với nhánh hành pháp và lập pháp của chính quyền cũng như các bên tham gia tố tụng. Điều này có nghĩa là cả ngành tư pháp lẫn các thẩm phán của ngành ấy đều không được là cấp dưới của bất kỳ nhánh nào trong nhà nước hay bên nào trong tiến trình tố tụng. Tòa án cũng phải thật sự độc lập và độc lập một cách hiệu quả, cũng như hoàn toàn không chịu ảnh hưởng hay áp lực nào từ các nhánh khác trong nhà nước hay bất kỳ khu vực nào khác.
Sự độc lập của tòa án và các quan chức tư pháp phải được bảo đảm bằng hiến pháp, luật và chính sách của quốc gia, và được tôn trọng trên thực tế bởi chính phủ, các cơ quan nhà nước, cũng như bởi quốc hội. Nhánh tư pháp phải có quyền tài phán đối với tất cả các vấn đề mang bản chất tư pháp và phải có độc quyền trong việc quyết định một vấn đề nào đó được đưa ra lấy quyết định có thuộc thẩm quyền của tòa án như định nghĩa của pháp luật hay không.
Không được có bất kỳ một sự can thiệp không thích đáng hoặc không có lý do xác đáng nào vào hoạt động tư pháp. Các quyết 
định của tòa án không bị đem ra để xem xét lại (trừ phi thông qua cơ chế bảo hiến) hay để giảm nhẹ – trừ phi việc đó do các cơ quan có thẩm quyền tiến hành theo luật định.
Tư pháp phải độc lập về các vấn đề trong nội bộ của ngành tư pháp, kể cả việc chỉ định thẩm phán cho vụ án, tại cấp tòa của vị thẩm phán ấy.
Sự độc lập của thẩm phán và tòa án có hai phương diện: cơ quan độc lập và cá nhân độc lập. Cả hai đều đòi hỏi rằng ngành tư pháp cũng như thẩm phán của ngành đều không phải là cấp dưới của bất kỳ quyền lực nhà nước nào khác:
Cơ quan độc lập, có nghĩa là thẩm phán, tòa án đều phải được độc lập khỏi các nhánh quyền lực khác, mà một trong những yêu cầu là thẩm phán không phải là cấp dưới, cũng không chịu trách nhiệm trước các nhánh khác trong chính quyền, đặc biệt là hành pháp. Điều này cũng có nghĩa, tất cả các định chế nhà nước khác đều có nghĩa vụ phải tôn trọng và tuân theo phán quyết và quyết định của tư pháp;
Cá nhân độc lập, có nghĩa là thẩm phán phải được độc lập khỏi những thành viên khác trong ngành tư pháp (cũng như ở các nhánh quyền lực khác – ND bổ sung).
Tiến trình chỉ định cá nhân vào cơ quan tư pháp phải minh bạch và chịu những tiêu chuẩn chọn lọc khắc nghiệt. Nói chung, sẽ tốt hơn nếu thẩm phán được lựa chọn bởi các đồng nghiệp hoặc bởi một cơ quan độc lập với hành pháp và lập pháp. Bất kỳ cách chọn lựa người nào cho ngành tư pháp cũng phải bảo đảm tính độc lập và vô tư của ngành tư pháp. Việc chỉ định, nếu do hành pháp thực hiện hoặc thông qua phổ thông đầu phiếu để lựa chọn thẩm phán, đều làm hỏng tính độc lập của tư pháp.
Tiêu chuẩn để chỉ định người vào cơ quan tư pháp phải là sự phù hợp của ứng cử viên với những cơ quan như vậy, căn cứ vào tính liêm chính, năng lực, các kỹ năng pháp lý, và được đào tạo hoặc có trình độ phù hợp về luật pháp. Bất kỳ ai đáp ứng được những tiêu chuẩn này phải có quyền được xem xét để chọn vào cơ quan tư pháp, không có sự phân biệt đối xử vì bất kỳ nguyên nhân gì, chẳng hạn như sắc tộc, màu da, nguồn gốc dân tộc, tiếng nói, tình dục, giới tính, khuynh hướng tình dục, bản sắc giới, quan điểm chính trị và các quan điểm khác, tôn giáo, tín ngưỡng, tàn tật, quốc tịch gốc hay nguồn gốc xã hội, tình trạng lúc sinh, tình trạng kinh tế và các tình trạng khác. Tuy nhiên, có thể coi là không phân biệt đối xử nếu nhà nước:
• Quy định một độ tuổi tối thiểu hoặc một mức kinh nghiệm tối thiểu với các ứng viên vào cơ quan tư pháp;
• Quy định một độ tuổi tối đa hoặc tuổi nghỉ hưu, hoặc thời
gian làm nghề, cho các quan chức trong ngành tư pháp;
• Quy định rằng tuổi tối đa hoặc tuổi nghỉ hưu hoặc thời gian làm nghề có thể khác nhau tùy theo cấp bậc của thẩm phán hoặc các quan chức khác trong ngành tư pháp;
• Yêu cầu rằng chỉ có công dân của nước mình mới đủ tư cách được chỉ định vào cơ quan tư pháp.
Không ai có thể được chỉ định vào cơ quan tư pháp trừ phi người đó được đào tạo thích hợp về pháp luật hoặc có trình độ về luật pháp, cho phép họ có thể thực hiện một cách xứng đáng chức năng nhiệm vụ của họ.
Hoạt động của thẩm phán được đảm bảo cho tới khi họ đến tuổi về hưu theo quy định hoặc khi nhiệm kỳ của họ kết thúc.
Độ dài của nhiệm kỳ, lương thưởng, lương hưu, các điều kiện về an toàn thân thể và an sinh xã hội, tuổi về hưu, kỷ luật và cơ chế hỗ trợ cùng các điều kiện khác về hoạt động của thẩm phán được quy định và đảm bảo bởi pháp luật. Việc thăng tiến phải căn cứ vào các yếu tố khách quan, đặc biệt là năng lực chuyên môn, tính liêm chính và kinh nghiệm của thẩm phán.
Thẩm phán chỉ có thể bị bãi chức vì những sai phạm nghiêm trọng về đạo đức vốn không phù hợp với cơ quan tư pháp, vì vi phạm kỷ luật hoặc phạm tội hình sự, hoặc vì năng lực yếu kém khiến họ không thể hoàn thành chức năng nhiệm vụ. Ngoài ra, thẩm phán được hưởng miễn trừ cá nhân – không bị kiện dân sự vì những thiệt hại vật chất phát sinh từ phán quyết của họ. Trong mọi trường hợp, thủ tục kỷ luật thẩm phán phải tuân theo các tiêu chuẩn sau:
Thủ tục xử lý khiếu nại đối với thẩm phán hoặc thủ tục kỷ luật thẩm phán, liên quan đến hành xử chuyên môn của họ, phải được quy định bởi pháp luật. Bất kỳ khiếu nại hoặc cáo buộc nào đối với thẩm phán cũng phải được xử lý nhanh chóng và công bằng;
Thẩm phán, nếu có khả năng bị kỷ luật, tạm đình chỉ chức vụ hoặc bãi chức, có quyền được điều trần một cách công bằng, gồm cả quyền được đại diện bởi một đại diện pháp lý do họ lựa chọn vàcó quyền yêu cầu một cơ quan độc lập và vô tư xem xét lại bất kỳ quyết định nào được đưa ra trong tiến trình xử lý kỷ luật, tạm đình chỉ hoặc bãi chức thẩm phán đó;
Thẩm phán không thể bị bãi chức hay bị trừng phạt vì nhữnglỗi xuất phát từ thiện ý, hay vì đã không tán thành một sự diễn giải luật nào đó, hay chỉ vì quyết định của họ đã bị đảo ngược tại phiên phúc thẩm, hay vì quyết định của họ bị đề nghị để cho một cơ quan tư pháp ở cấp cao hơn xem xét lại.
VAI TRÒ CỦA CÔNG TỐ VIÊN 1
Tất cả các bị cáo đều có quyền được xét xử bởi một tòa án trong đó công tố viên công bằng và không thiên vị.
Công tố viên phải thực thi các chức năng chuyên môn của họ một cách vô tư và khách quan, và tránh phân biệt đối xử vì các nguyên nhân chính trị, xã hội, tôn giáo, chủng tộc, văn hóa, khuynh hướng tình dục hay bất kỳ nguyên nhân nào khác.
Việc thực thi một cách thích hợp các chức năng công tố đòi hỏi tính tự chủ và độc lập trước các nhánh khác của nhà nước. Khác với trường hợp thẩm phán, luật quốc tế không có điều khoản nào bảo đảm tính chất “cơ quan độc lập” của bên công tố. Điều này do một thực tế là trong một số chế độ, công tố viên do bên hành pháp chỉ định và họ chịu trách nhiệm trước hành pháp ở một mức độ nào đó, do đó họ có nghĩa vụ phải tuân theo những mệnh lệnh nhất định do chính phủ đưa ra. Mặc dù một cơ quan công tố độc lập luôn được ưa thích hơn một cơ quan công tố phải chịu trách nhiệm trước hành pháp, nhưng trong mọi trường hợp, nhà nước có nghĩa vụ cung cấp cơ chế bảo đảm rằng công tố viên có thể tiến hành điều tra một cách vô tư và khách quan. Văn phòng công tố phải tách biệt hoàn toàn khỏi các chức năng tư pháp. Công tố viên phải có khả năng thực thi nhiệm vụ chuyên môn của họ mà không bị đe dọa, ngăn cản, quấy rối, không bị can thiệp không đúng hoặc không phải chịu trách nhiệm dân sự, hình sự hoặc các trách nhiệm khác một cách vô lý.
Công tố viên phải được giáo dục, đào tạo phù hợp và phải được ý thức về lý tưởng cũng như về trách nhiệm đạo đức của nghề công tố, về sự bảo vệ của hiến pháp và luật đối với quyền của nghi phạm và nạn nhân, về quyền con người và những quyền tự do căn bản được luật pháp quốc gia và quốc tế thừa nhận.
Công tố viên phải đóng vai trò chủ động trong tố tụng hình sự, kể cả trong việc bắt đầu tiến hành khởi tố, và nếu được luật cho phép hay nếu tuân theo đúng lệ thường ở nước sở tại, công tố viên phải chủ động trong quá trình điều tra tội ác, giám sát tính hợp pháp của công tác điều tra, giám sát việc thực thi các quyết định do cơ quan tư pháp đưa ra, giám sát việc thực thi các chức năng khác, như là đại diện cho lợi ích công.
Công tố viên, theo quy định của pháp luật, phải thực thi nhiệmvụ một cách công bằng, nhất quán và nhanh chóng, tôn trọng và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, và ủng hộ quyền con người; qua đó, góp phần vào việc bảo đảm pháp trình chính đáng và bảo đảm sự vận hành thông suốt của hệ thống tư pháp hình sự.
Khi thi hành nhiệm vụ, công tố viên phải:
Thực hiện các chức năng của mình một cách vô tư, tránh mọi phân biệt đối xử về chính trị, xã hội, chủng tộc, nguồn gốc dân tộc, tôn giáo, văn hóa, tình dục, giới tính hoặc bất kỳ hình thức phân biệt nào khác;
Bảo vệ lợi ích công, hành động một cách khách quan, cân nhắc thích đáng đến cương vị của nghi phạm và nạn nhân, và lưu tâm tới tất cả các tình huống liên quan, bất kể chúng có là lợi thế hay bất lợi cho nghi phạm;
Bảo mật các thông tin mình có được, chỉ trừ phi việc thực thi nhiệm vụ hay nhu cầu công lý đòi hỏi phải làm khác;
Cân nhắc các quan điểm và những nỗi lo ngại của nạn nhân khi mà lợi ích cá nhân của họ bị ảnh hưởng, và bảo đảm rằng nạn nhân đã được thông báo rõ về quyền của họ.
Công tố viên không nên mở đầu hay tiếp tục tiến trình truy tố, cũng không nên cố gắng tham gia tiến trình, khi một điều tra vô tư cho thấy lời cáo buộc là không có cơ sở.
Công tố viên nên chú ý thích đáng đến việc truy tố những tội ác do các quan chức chính quyền gây ra, đặc biệt tội tham nhũng, lạm dụng quyền, vi phạm nghiêm trọng quyền con người, và các tội khác mà luật quốc tế đã thừa nhận.
Khi công tố viên có được bằng chứng chống lại một nghi phạm – mà họ biết và tin, dựa trên những lý do xác đáng, rằng những bằng chứng đó có được là nhờ sử dụng những biện pháp bất hợp pháp, cấu thành tội vi phạm thô bạo nhân quyền của nghi phạm, đặc biệt là biện pháp tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, phi nhân tính, hạ thấp nhân phẩm, hay các hình thức vi phạm nhân quyền khác – họ phải từ chối sử dụng những bằng chứng đó để chống lại bất cứ ai, chỉ trừ chống lại chính những người đã sử dụng các biện pháp như thế; hoặc họ phải thông báo như vậy cho cơ quan tư pháp, và tiến hành tất cả các bước cần thiết để đảm bảo rằng những kẻ chịu trách nhiệm sử dụng các biện pháp đó sẽ bị đưa ra trước công lý.
TÍNH ĐỘC LẬP CỦA NGHỀ LUẬT SƯ 1
Bất kỳ ai bị cáo buộc vi phạm hình sự đều có quyền được luật sư trợ giúp và bảo vệ. Nhà nước phải đảm bảo tính độc lập của nghề luật
sư và đảm bảo rằng các luật sư đều có thể thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của họ.
Trừ phi muốn tự bào chữa, các cá nhân bị cáo buộc phạm tội đều luôn luôn phải được đại diện bởi một luật sư – người bảo đảm rằng quyền của bị cáo được xét xử công bằng bởi một tòa án độc lập và vô tư sẽ được tôn trọng trong suốt tiến trình tố tụng. Luật sư phải được phép đặt câu hỏi về tính độc lập và vô tư của tòa án, và phải cố gắng bảo đảm rằng quyền của bị cáo cũng như những bảo đảm tư pháp dành cho bị cáo đều được tôn trọng.
Quyền được trợ giúp bởi luật sư, ngay cả khi cá nhân không thể lo được, là một phần không thể tách rời của quyền được xét xử công bằng mà luật quốc tế đã thừa nhận.
Thêm vào đó, luật sư đóng một vai trò quan trọng quyết định trong việc bảo vệ quyền không bị bắt giữ tùy tiện, bằng cách chống việc bắt giữ, chẳng hạn, bằng cách trình đơn habeas corpus [lệnh
đình việc bắt giữ - ND]. Họ cũng tư vấn và đại diện cho các nạn nhân của những vụ vi phạm nhân quyền và người thân của nạn nhân trong tiến trình tố tụng hình sự đối với kẻ bị cáo buộc là thủ phạm của vụ vi phạm nhân quyền đó, cũng như trong tiến trình tìm cách phục hồi cho nạn nhân.
Để việc trợ giúp pháp lý được hiệu quả thì nó phải được thực thi độc lập.
Luật quốc tế đã thiết lập những cơ chế nhất định nhằm bảo đảm sự độc lập của cá nhân mỗi luật sư cũng như của cả nghề luật.
Tất cả mọi người đều có quyền yêu cầu sự trợ giúp từ một luật sư do họ chọn để bảo vệ và xác lập các quyền của họ, và bảo vệ họ trong mọi giai đoạn tố tụng hình sự. Chính quyền phải đảm bảo cung cấp các thủ tục hiệu quả, các cơ chế có tính phản hồi cao, để tất cả mọi người ở trong lãnh thổ của chính quyền ấy và chịu quyền tài phán hoặc kiểm soát hiệu quả của chính quyền ấy đều có thể tiếp cận như nhau và hiệu quả đến các luật sư, không có bất kỳ hình thức phân biệt nào như phân biệt dựa trên các lý do chủng tộc, màu da, nguồn gốc dân tộc, tình dục, khuynh hướng giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị và các quan điểm khác, quốc tịch gốc hoặc nguồn gốc xã hội, tài sản, tình trạng lúc sinh, tình trạng kinh tế và các tình trạng khác.
Luật sư Trần Thu Nam (bên phải) và luật sư Lê Văn Luân bị côn đồ (có cả công an) hành hung ở huyện Chương Mỹ (Hà Tây), ngày 3/11/2015. Các nhà nước phải bảo đảm rằng:
Tất cả mọi người đều phải được cơ quan có thẩm quyền thông báo ngay lập tức về quyền của họ được trợ giúp bởi một luật sư do họ chọn – thông báo ngay khi họ bị bắt hoặc khi bị khởi tố về một tội hình sự; Tất cả mọi người khi bị bắt, dù bị khởi tố hay chưa, đều có quyền nhanh chóng được gặp luật sư, và trong bất kỳ trường hợp nào, họ cũng phải được gặp luật sư không muộn hơn 48 tiếng kể từ thời điểm bị bắt;
Các cá nhân bị khởi tố về một tội hình sự đều được có luật sư đại diện vào mọi lúc, trong suốt các khâu của tiến trình tố tụng hình sự của tư pháp; Những người không có luật sư thì trong mọi trường hợp mà công lý đòi hỏi, họ đều có quyền được có một luật sư có kinh nghiệm và năng lực tương xứng với bản chất của tội hình sự mà họ bị cáo buộc phạm phải, để họ được trợ giúp pháp lý một cách hiệu quả, mà không phải trả tiền nếu như họ không có đủ tiền để trang
trải cho dịch vụ đó.
Các nhà nước cần phải đảm bảo rằng:
Luật sư có thể thực thi tất cả các nhiệm vụ chuyên môn của họ mà không đe dọa, ngăn cản, quấy rối, hay bị can thiệp không đúng;
Bất cứ khi nào sự an toàn của luật sư bị đe dọa vì họ đã thực thi nhiệm vụ của mình, thì họ phải được bảo vệ thích đáng;
Luật sư có thể tự do đi lại và tự do tham vấn khách hàng, cả trong nước lẫn nước ngoài;
Luật sư không phải chịu hoặc không bị đe dọa phải chịu truy tố hay chịu các biện pháp xử lý hành chính, kinh tế, hay các hình thức trừng phạt khác, vì bất kỳ việc gì mà họ đã làm theo nghĩa vụ nghề nghiệp, chuẩn mực và đạo đức nghề nghiệp đã được công nhận;
Tất cả các giao dịch, tham vấn, tư vấn giữa luật sư và khách hàng, trong khuôn khổ quan hệ chuyên môn của họ, đều phải được bảo mật; và Luật sư không bị đánh đồng với khách hàng hay việc làm của khách hàng chỉ vì đã thực thi chức năng nhiệm vụ của mình. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải có trách nhiệm đảm bảo cho luật sư được tiếp cận với thông tin và hồ sơ phù hợp mà cơ quan đó sở hữu hay kiểm soát, trong khoảng thời gian phù hợp, để luật sư có thể trợ giúp pháp lý một cách hữu hiệu cho khách hàng.
Việc tiếp cận đó phải được sẵn sàng vào thời gian sớm nhất có thể. Luật sư được miễn trách nhiệm dân sự và hình sự vì những phát biểu liên quan mà ông/bà ta đưa ra với thiện ý, bằng văn bản hoặc bằng lời nói hoặc trong khi đang hành nghề trước cơ quan tư pháp hoặc các cơ quan pháp luật hay hành chính khác.
Luật sư luôn luôn phải gìn giữ danh dự và phẩm giá của nghề nghiệp của mình như thể đó là tác nhân căn bản nhất trong việc thực thi công lý, và họ cũng luôn luôn phải tôn trọng lợi ích của khách hàng. Luật sư có những trách nhiệm chuyên môn cơ bản, phần lớn là liên quan đến khách hàng, bao gồm:
Tư vấn cho khách hàng về các quyền và nghĩa vụ pháp lý của khách, và về sự vận hành của hệ thống pháp luật ở chừng mực liên quan đến các quyền và nghĩa vụ pháp lý của khách;
Hỗ trợ khách hàng bằng mọi cách thích hợp, và có các hành động pháp lý để bảo vệ lợi ích của khách hàng;
Trợ giúp khách hàng trước tòa hay trước cơ quan hành chính, khi cần.
Khi bảo vệ quyền của khách hàng và thúc đẩy công lý, luật sư phải cố gắng ủng hộ nhân quyền và các quyền tự do căn bản đã được luật quốc gia và quốc tế công nhận, và phải luôn luôn hành động tự do và cần mẫn, theo đúng luật pháp, theo đúng những chuẩn mực và đạo đức đã được thừa nhận của nghề luật sư.
Những cáo buộc và khiếu nại nhằm vào luật sư trong lĩnh vực chuyên môn của họ cần phải được xử lý nhanh chóng và công bằng theo những thủ tục phù hợp. Luật sư phải có quyền được điều trần công bằng, kể cả quyền được trợ giúp bởi một luật sư khác do họ lựa chọn.
Chương V
CHẾ ĐỘ ĐẠI NGHỊ VÀ CHẾ ĐỘ TỔNG THỐNG

Khi tìm hiểu một chế độ, hay một hệ thống chính trị, một trong những câu hỏi đầu tiên cần được đặt ra là nó theo thể chế đại nghị hay tổng thống? Điều này có thể được xác định căn cứ vào mối quan hệ giữa cơ quan hành pháp (chính phủ) và cơ quan lập pháp (quốc hội, hay nghị viện) của nó.
CHẾ ĐỘ ĐẠI NGHỊ
Chế độ đại nghị (nghị viện chế) có ở các nước như: Anh, Đức, Thụy Điển, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, Úc, v.v. và còn nhiều nữa. Trên thế giới hiện nay, số nước theo thể chế đại nghị đông hơn so với theo thể chế tổng thống.
Chế độ đại nghị là hệ thống chính trị trong đó chính phủ điều hành thông qua quốc hội, vì thế, nhánh hành pháp và lập pháp gần như trộn lẫn (dù về mặt hình thức thì vẫn là hai nhánh tách biệt).
Nói cách khác, đặc điểm chính của chế độ đại nghị là sự hòa trộn, hợp nhất giữa quyền lực của hành pháp và quyền lực của lập pháp. Chính xác thì nó không phải là “tam quyền phân lập” mà là “lưỡng quyền hợp nhất”, tức quyền lực của hành pháp và lập pháp hợp nhất. Tư pháp thì vẫn độc lập.
Đặc điểm của chế độ đại nghị:
Chính phủ do quốc hội chỉ định chứ không phải do dân bầu bằng phổ thông đầu phiếu;
Thành viên của chính phủ được lấy từ quốc hội, thường họ chính là lãnh đạo của đảng hoặc các đảng chiếm đa số trong quốc hội;
Người đứng đầu chính phủ (tức thủ tướng) cũng là thành viên quốc hội; vì vậy, có một nguyên thủ quốc gia riêng biệt, không thuộc hành pháp cũng không thuộc lập pháp. Đó là vua/ nữ hoàng, hoặc tổng thống;
Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước quốc hội;
Chính phủ chỉ có thể vận hành nếu có được sự tín nhiệm của quốc hội; thành viên chính phủ có thể bị quốc hội bỏ phiếu bất tín nhiệm và bị bãi miễn (cách chức);
Quốc hội giữ quyền lực tối cao: Nó có thể phế bỏ chính phủ.
Xin nhắc lại với các bạn rằng, với những đặc điểm đó, chế độ đại nghị không theo nguyên tắc tam quyền phân lập.
Ở Việt Nam dưới thời cộng sản, thủ tướng và bộ trưởng đều có thể là đại biểu quốc hội. Nhiều người chỉ trích rằng như thế là “vừa đánh trống vừa thổi còi”, vi phạm nguyên tắc tam quyền phân lập.
Tuy nhiên, thật ra thì điều đó không sai, vì Việt Nam “có vẻ” theo thể chế đại nghị; thành viên của chính phủ được lấy từ quốc hội.
Như ở Anh, thủ tướng (người đứng đầu nội các) cũng chính là chủ tịch của đảng chiếm đa số trong quốc hội.
Điểm khác biệt lớn giữa CHXHCN Việt Nam và các nước dân chủ theo chế độ đại nghị là quốc hội của họ có nhiều đảng, có phe đa số, thiểu số, còn quốc hội CHXHCN Việt Nam thì chỉ có một mình đảng Cộng sản. Và, cả hành pháp lẫn lập pháp Việt Nam đều nằm dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản cầm quyền – điểm này thì chẳng giống một nền dân chủ đại nghị hay dân chủ tổng thống nào cả.
Ưu điểm của chế độ đại nghị:

- Chính phủ buộc phải có trách nhiệm; nếu không, có thể bị quốc hội bỏ phiếu bất tín nhiệm.
- Chính phủ vận hành hiệu quả, nhanh chóng hơn là khi hành pháp và lập pháp độc lập hay bất đồng.
Nhược điểm của chế độ đại nghị:
- Nếu một đảng chiếm đa số trong quốc hội thì có thể sẽ kiểm soát được cả chính phủ. Hành pháp nằm trong tay phe đa số trong quốc hội thì việc cân bằng và đối trọng giữa hai nhánh quyền lực này
khó được đảm bảo.
- Nếu có nhiều đảng và không đảng nào đủ đa số, thì lại có nguy cơ chính phủ yếu, dễ mất ổn định chính trị. (Ví dụ như ở Ý, có đến 59 chính phủ tồn tại trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 2001).
- Hành pháp và lập pháp khó có thể bất đồng (vì vốn dĩ thành viên cùng đảng và/hoặc kiêm nhiệm ở cả hai nhánh).
- Còn nếu có bất đồng giữa hành pháp và lập pháp thì một trong hai nhánh phải thay đổi nhân sự hoặc quan điểm.
Anh là một nước điển hình theo chế độ đại nghị. Thủ tướng
Anh là chủ tịch của đảng chiếm đa số trong quốc hội. Ví dụ như bà Margaret Thatcher khi làm Thủ tướng Anh cũng chính là Chủ tịch đảng Bảo thủ. Khi bà buộc phải từ chức thủ tướng (năm 1990), thực ra không phải vì bị chính phủ bỏ phiếu bất tín nhiệm, mà vì ngay trước đó bà đã mà mất chức chủ tịch đảng Bảo thủ. John Major kế nhiệm bà, trở thành Chủ tịch đảng và Thủ tướng Anh.
Những nhược điểm của chế độ đại nghị có thể được giải quyết bằng cách: Đa đảng, và bảo đảm đảng đối lập luôn có quyền và có thể phản biện đảng cầm quyền, ngay cả khi họ chỉ là thiểu số. Ở trong một văn hóa chính trị dân chủ và tôn trọng đối thoại thì điều này không phải là vấn đề lớn: Nước Mỹ chẳng hạn, có một đặc điểm thú vị là mặc dù thực tế chỉ có hai đảng lớn thay nhau cầm quyền (có đảng viên làm tổng thống và đứng đầu hành pháp, và/ hoặc chiếm đa số trong quốc hội), nhưng không đảng nào lợi dụng việc mình cầm quyền để dồn ép đảng kia quá đáng. Lý do là bởi đảng nào cũng sợ đến hết nhiệm kỳ của mình, đảng kia giành được quyền lực, có thể sẽ dồn ép mình để trả đũa.
Phong trào dân chủ ở Việt Nam những năm từ 2011 trở đi cũng có một chuyện thú vị tương tự: Các tổ chức xã hội dân sự có thể ưa hoặc không ưa nhau nhưng dù sao cũng không chống nhau quá đáng. Họ đều ý thức được việc phải chung sống trong hòa bình, đoàn kết để đương đầu với một kẻ thù chung là chế độ toàn trị. Và xuất hiện hiện tượng “biểu tình ngoại giao”: Khi nhóm No-U kêu 
gọi biểu tình chống Trung Quốc hoặc tổ chức thắp hương tưởng niệm tử sĩ, liệt sĩ chống Tàu, nhóm Cây Xanh (Green Trees) sẽ phải cố gắng tham gia, vì sợ nếu không dự thì tới khi Cây Xanh hô hào tuần hành bảo vệ môi trường, No-U sẽ đứng ngoài cuộc. Cái hay của dân chủ và đối thoại là như vậy.

CHẾ ĐỘ TỔNG THỐNG
Chế độ tổng thống (tổng thống chế) có ở Mỹ và các nước chịu ảnh hưởng của Mỹ, như Mỹ Latin và Philippines. Đó là hệ thống chính trị thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc tam quyền phân lập: hành pháp và lập pháp độc lập với nhau; hành pháp và lập pháp đều được bầu cử độc lập.
Đặc điểm của chế độ tổng thống:
Chính phủ và quốc hội được bầu cử độc lập với nhau;
Thành viên chính phủ không được là thành viên quốc hội, và ngược lại;
Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu cơ quan hành pháp;
Chính phủ không phải chịu trách nhiệm trước quốc hội và không bị quốc hội bãi miễn (trừ việc tổng thống có thể bị mất chức vì thủ tục luận tội của quốc hội);
Tổng thống nắm quyền lực hành pháp; nội các và các bộ trưởng phải chịu trách nhiệm trước tổng thống;
Dù ba nhánh quyền lực độc lập, nhưng chúng đều ràng buộc và có khả năng kiểm soát lẫn nhau. Như ở Mỹ, tổng thống có quyền phủ quyết luật do quốc hội làm ra. Quốc hội có quyền bỏ qua phủ quyết đó nếu được 2/3 phiếu trong cả hai viện nhất trí bác bỏ. Tổng thống có quyền chỉ định quan chức hành pháp cấp cao và chánh án tòa tối cao, nhưng sau đó phải được thượng viện phê chuẩn.
Ưu điểm của chế độ tổng thống
- Ba nhánh quyền lực kiểm soát lẫn nhau. Không có chuyện hành pháp lấn át lập pháp và tư pháp.
- Chống lạm quyền và độc tài, do đó, có thể bảo vệ quyền con người.
Nhược điểm của chế độ tổng thống
Hành pháp, lập pháp nhiều khi mâu thuẫn, không thống nhất được với nhau, dẫn đến bế tắc về chính sách. Đó là khi những người ra các quyết định chính trị không thể nào (hoặc không muốn) thỏa hiệp được với nhau để có được một hành động chính sách.
CHẾ ĐỘ BÁN TỔNG THỐNG
Chế độ bán tổng thống là hệ thống chính trị “lai” giữa chế độ đại nghị và chế độ tổng thống: Ở đó, tổng thống được bầu cử riêng (giống chế độ tổng thống), thành viên của chính phủ do tổng thống chỉ định và quốc hội phê chuẩn, nhưng chính phủ phải chịu trách nhiệm trước quốc hội (giống chế độ đại nghị).
Chế độ bán tổng thống có ở Pháp, Nga, Rumani, Đài Loan, Đông Timor...
Ngày nay, nguyên tắc “tam quyền phân lập” đã thay đổi ít nhiều:
Không cơ quan nào trong ba nhánh quyền lực lại chỉ thực hiện duy nhất chức năng lập pháp, hành pháp hay tư pháp. Trên thực tế, lập pháp có thể điều tra sai phạm của hành pháp; hành pháp có thể soạn thảo và diễn giải luật pháp; và tư pháp có thể làm ra luật. Về phần mình, chúng ta chỉ cần nhớ rằng không phải nền dân chủ nào cũng thực hiện tam quyền phân lập. Chế độ đại nghị áp dụng nguyên tắc quyền lực hợp nhất, chế độ tổng thống mới áp dụng tam quyền phân lập. Khó nói hệ thống chính trị nào ưu việt hơn; điều quan trọng là phải có đa đảng thực chất, có sự ràng buộc, giám sát và kiểm soát để không đảng nào và không nhánh quyền lực nào có thể lạm quyền, và tư pháp luôn độc lập.
Chương VI
BỘ MÁY HÀNH CHÍNH
Đến đây chúng ta sẽ bàn về một “tầng lớp” những cá nhân và cơ quan, tổ chức không nắm quyền lực lập pháp, hành pháp hay tư pháp nào, nhưng lại đóng vai trò như “chất bôi trơn” trong cả hệ thống chính trị và xã hội.
Họ là những cá nhân, cơ quan, tổ chức được trả lương để làm những công việc rất cụ thể nhằm triển khai các chính sách của ba nhánh quyền lực trong thực tế. Họ mới thực sự là những người, cơ quan, tổ chức mà người dân gặp gỡ, tiếp xúc, va chạm hàng ngày – chứ không phải ngài tổng thống, ông chủ tịch nước hay bà chủ tịch quốc hội. Và, họ không phải chính trị gia, họ không tranh cử, không phải tìm cách giành lá phiếu của cử tri, không cần lấy lòng người dân chúng ta, dù rõ ràng họ được trả lương từ ngân sách nhà nước, tức là bằng tiền thuế của chúng ta.
Họ là ai vậy? Đó là các công chức và các cơ quan nhà nước làm nên bộ máy hành chính.
HÀNH CHÍNH VÀ HÀNH PHÁP
Như đã nói ở Chương II, “Hành pháp”, một trong các chức năng của hành pháp là xây dựng chính sách công và lãnh đạo, chỉ huy, giám
sát, để bảo đảm rằng chính sách đó được thực thi. Thế nên, người ta dễ nhầm hành pháp với hành chính, và nhầm các công chức  những người ăn lương của chính phủ – với “quan chức”, “người nhà nước”, nghe như thể họ ở tầng lớp trên, tầng lớp lãnh đạo.
Thực ra thì hành pháp và hành chính khác nhau. Theo Austin Ranney, hành pháp là những cá nhân hoặc cơ quan “được bầu cử hoặc chỉ định làm việc trong những nhiệm kỳ có giới hạn để khởi xướng các chính sách và định hướng, hướng dẫn công việc của cơ hành chính”. Còn hành chính là những cá nhân “được chỉđịnh để làm công việc triển khai thực thi pháp luật, thực thi các chính sách; nhiệm kỳ và sự thăng tiến của họ phụ thuộc vào công trạng, thành tích chuyên môn hơn là vào những liên hệ đảng phái”.
Điểm khác biệt quan trọng là, nhân viên hành chính, hay công chức, không phải là chính trị gia, nghĩa là họ không tìm cách gây ảnh hưởng – tự mình hoặc thông qua đảng phái – để giành và giữ quyền lực nhà nước. Họ không phải tranh cử và không được bầu chọn bằng lá phiếu của cử tri. Họ chỉ là những người được chỉ định, làm công ăn lương (cụ thể là nhận lương từ ngân sách nhà nước), để làm các công việc rất cụ thể nhằm triển khai, thực thi 
chính sách.
Việc tuyển dụng và thăng tiến của nhân viên hành chính phụ thuộc vào thành tích chuyên môn của họ chứ không phải vào khả năng “làm chính trị”, “gây ảnh hưởng” của họ và đảng của họ. Đó là chưa nói đến chuyện nhân viên và cơ quan hành chính còn phải giữ địa vị trung lập, phi đảng phái. Cũng giống như đòi hỏi đối với tư pháp (tòa án và công tố viên), nhân viên hành chính phải thực hiện chức năng của mình một cách tận tụy và công bằng với tất cả mọi người, hay nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh là “cán bộ là đầy tớ của dân”. Để làm được điều đó, môi trường công việc của họ phải bình yên, ổn định; họ không phải chịu bất cứ sức ép chính trị nào như mất việc, bị trừ lương, hoặc bị tống cổ ra đường khi chính quyền thay đổi hay nội các thay đổi, đảng này lên, đảng kia xuống...
Nói chung, một nền hành chính tốt cần phải trung lập, tức là phi đảng phái, và tận tụy, công bằng với tất cả. Do vậy, ở nhiều nước, công chức bị hạn chế hoặc không được khuyến khích tham gia chính trị. Ở Mỹ chẳng hạn, công chức không được làm thuê cho đảng nào, không được gây quỹ, vận động cho đảng nào.
Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Mỹ ở Việt Nam nhiệm kỳ 2015- 2017, ông David Muehlke, khi được hỏi ông ủng hộ ứng viên nào trong các ứng viên tổng thống Mỹ, đã trả lời: “Là một công chức, tôi không thể công khai ủng hộ đảng hay ứng viên nào được”.
Nguyên tắc là phải phi chính trị hóa nền hành chính. Tuy vậy, trên thực tế ở CHXHCN Việt Nam, trong các cơ quan nhà nước, công chức luôn được khuyến khích, dụ dỗ, thậm chí ép phải gia nhập đảng Cộng sản, và tồn tại vô số các chi bộ đảng cộng sản trong tất cả các cơ quan hành chính nhà nước, mục đích chính là tạo ra cảm giác tâm lý về cùng một phe với đảng trong người công chức.
Điều 94 Hiến pháp năm 2013 cũng quy định: Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp.
CHỨC NĂNG CỦA HÀNH CHÍNH
1. Cung cấp dịch vụ
Một trong các chức năng của các cơ quan hành chính là cung cấp dịch vụ cho người dân, miễn phí hoặc có nhận phí, lệ phí. Các dịch vụ điển hình có thể được kể đến gồm: giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội. Ở Việt Nam, ngành bưu chính chẳng hạn, vẫn do nhà nước quản lý và cung cấp dịch vụ.
2. Điều tiết
Một chức năng khác của các cơ quan hành chính là ra các quy định
để điều chỉnh, điều tiết hoạt động của cá nhân và tổ chức, nhất là
doanh nghiệp, để họ không làm gì có hại.
Có thể có ý kiến nói rằng thay vì điều tiết, các nền kinh tế hiện đại nên tăng cường “giải điều tiết”, nghĩa là bớt đi vai trò ra quy định và điều chỉnh của các cơ quan hành chính, bớt đi các mệnh lệnh, quyết định hành chính can thiệp vào thị trường. Có người cũng cho rằng xã hội hiện đại nên hướng tới sự tự quản, tư nhân hóa triệt để, thu hẹp vai trò của nhà nước mà lý tưởng nhất là để chủ nghĩa vô chính phủ lên ngôi.
Tuy nhiên, thực tế là xã hội càng hiện đại thì các ý kiến đó càng ít tính khả thi; những người ủng hộ chúng chắc đều cổ súy chủ nghĩa vô chính phủ hoặc tự do tuyệt đối trong kinh tế. Còn những người nghiên cứu chính trị, đặc biệt là chính sách công – một mảng lớn của khoa học chính trị – thì hẳn sẽ dễ dàng đưa ra lý do phản bác nó. Dưới đây là một lý giải vì sao xã hội càng hiện đại, càng cần có sự điều tiết.
“Sự lan tỏa của chính sách công... chủ yếu là kết quả của hiện đại hóa. Hiện đại hóa kéo theo sự phát triển của công nghệ, tri thức, và tiếp đó là sự phân công lao động và chuyên môn hóa. Điều ấy khiến tất cả chúng ta đều phụ thuộc lẫn nhau. Nhà thám hiểm có thể mở cabin mà không cần sự trợ giúp từ bên ngoài, nhưng vận hành một thiết bị khoan hiện đại đòi hỏi phải có chuyên môn của nhà thầu xây dựng, thợ mộc, thợ điện, thợ hàn, thợ nề, thợ lợp nhà, v.v. Chúng ta phụ thuộc vào năng lực và tay nghề của những người thợ mà chúng ta không đủ trình độ để đánh giá chất lượng công việc của họ, họ được đánh giá bởi một cơ quan nhà nước.
Chúng ta thậm chí còn kém năng lực hơn để có thể độc lập đánh giá công việc của các chuyên gia như bác sĩ hay luật sư. Bất kỳ khi nào có một công nghệ mới ra đời, chúng ta lại cần một cơ quan mới ra quy định để điều chỉnh, điều tiết nó”*.
Có vô số lĩnh vực cần sự điều tiết, sau đây chỉ là một vài ví dụ:
- Cấp giấy phép kinh doanh những mặt hàng đặc biệt (súng, đồ
cổ...);
- Cấp chứng nhận và bảo hộ bản quyền, bằng sáng chế...;
- Chống độc quyền trong sản xuất, kinh doanh;
- Chống cạnh tranh không lành mạnh (bán phá giá, quảng cáo bôi nhọ đối thủ, v.v.);
- Bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm;
- Ban hành quy định về dán nhãn sản phẩm hàng hóa;
- Ban hành quy định về khám chữa bệnh;
- Ban hành quy định về phòng cháy chữa cháy, chống hỏa hoạn;
- Xác lập quy chuẩn về xây dựng;
- Xác lập quy chuẩn về an toàn giao thông đường bộ;
- v.v...
Trong điều tiết (bằng những giấy phép, quy định, quy chuẩn...), cơ quan hành chính cũng sẽ có thêm một công việc nữa: xét xử các tranh chấp. Tất nhiên, xét xử tranh chấp là chức năng nguyên thủy và chính yếu của tòa án hay là của tư pháp. Tuy vậy, ở một số quốc gia ngày nay, một số cơ quan hành chính cũng đã có thêm một chức năng “gần như tư pháp”, như nhận đơn thư khiếu nại, tổ chức điều trần, hòa giải, giải quyết tranh chấp.
Chương VII
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CHXHCN VIỆT NAM
Như đã nói ở trên, hệ thống chính trị Việt Nam “có vẻ” như đại
nghị, ở chỗ nó có một chủ tịch nước không phải là người đứng đầu
chính phủ, thành viên của chính phủ được lấy từ quốc hội và do
quốc hội chỉ định, và quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất.
Tuy thế, hệ thống chính trị Việt Nam có một đặc thù khác hẳn
các chế độ đại nghị: Nó là hệ thống độc đảng, và đảng Cộng sản
Việt Nam làm nên một trong ba thành phần chính yếu, chủ chốt
của nó.
Trên lý thuyết (do chính đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận),
hệ thống chính trị Việt Nam gồm có ba thành phần: 1. Đảng Cộng
sản Việt Nam; 2. Nhà nước; và 3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
thành viên.
Trên thực tế, quyền lực của đảng Cộng sản bao trùm lên tất cả
hệ thống chính trị.
ĐẢNG CỘNG SẢN
Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội (Điều 4
Hiến pháp 2013).
Đảng Cộng sản giữ quyền lãnh đạo nhà nước và khối xã hội dân
sự (hay “các tổ chức chính trị-xã hội” như họ đặt tên) thông qua
việc áp đặt ý thức hệ cộng sản và các đường lối, cương lĩnh, để từ
đó thể chế hóa chúng thành luật, nghị quyết, chỉ thị... Bên cạnh đó,
đảng giữ quyền đề cử hoặc bổ nhiệm cán bộ của đảng vào các cơ
quan nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội. Tức là, đảng lãnh
đạo “toàn diện, triệt để, tuyệt đối”, bằng đường lối, nhân sự, bằng
công tác kiểm tra - thanh tra.
Hệ thống của đảng Cộng sản vận hành giống như hệ thống cấp
bậc của nhà nước. Mỗi cơ quan nhà nước đều có một chi bộ đảng
chịu trách nhiệm trước đảng bộ địa phương, có thể là cấp tỉnh hoặc
cấp huyện. Trong quân đội và công an, có các chi bộ hoạt động theo
đúng với điều lệ và chỉ thị của đảng Cộng sản và theo luật.
NHÀ NƯỚC
Nhà nước CHXHCN Việt Nam bao gồm các thành tố sau:
- Chủ tịch nước;
- Cơ quan hành pháp: gồm Chính phủ và ủy ban nhân dân các
cấp (các chính quyền địa phương);
- Cơ quan lập pháp: gồm Quốc hội và hội đồng nhân dân các
cấp;
- Cơ quan tư pháp: gồm hệ thống tòa án (Tòa án Nhân dân Tối
cao và các tòa án nhân dân địa phương), viện kiểm sát (Viện Kiểm
sát Nhân dân Tối cao và các viện kiểm sát nhân dân địa phương),
công an.
Cơ quan hành pháp còn bao gồm cả bốn cơ quan ngang bộ là:
Ủy ban Dân tộc; Ngân hàng Nhà nước; Thanh tra Chính phủ; Văn
phòng Chính phủ.
Ngoài ra, còn Kiểm toán Nhà nước – là một cơ quan độc lập, do
Quốc hội bầu ra, hoạt động độc lập và chỉ chịu trách nhiệm trước
pháp luật, không thuộc cơ quan nào.
Ở đây bạn sẽ thấy một điều rất kỳ lạ là công an tưởng như thuộc
nhánh hành pháp, nhưng hóa ra cũng thuộc cả nhánh tư pháp.
Trong hoạt động điều tra, tố tụng, xét xử, công an giữ vai trò hết sức
bao trùm và nổi bật. Ngược lại, không có một cơ quan độc lập nào
giám sát hoạt động của công an. Không có gì lạ khi tình trạng công
an lạm quyền, sử dụng bạo lực quá đà tới mức bạo hành, rồi can
thiệp vào bản án, xảy ra thường xuyên và kéo dài hàng chục năm ở
Việt Nam.
Các bạn cũng chú ý thêm là khác với ở nhiều quốc gia khác, tại
Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước là một cơ quan ngang bộ, trực
thuộc Chính phủ. Điều đó cũng có nghĩa là Ngân hàng này không
độc lập mà chịu sự quản lý của Chính phủ.
MẶT TRẬN TỔ QUỐC
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, theo Hiến pháp, “là một liên minh
chính trị và liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, tổ chức
xã hội và các cá nhân đại diện cho các giai cấp, tầng lớp xã hội, các
dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài”. “Tổng
Liên đoàn Lao động, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, và Hội Cựu Chiến binh là các tổ chức
chính trị-xã hội hợp tác với các thành viên khác của Mặt trận Tổ
quốc và thống nhất các hoạt động của Mặt trận Tổ quốc”.
Như vậy, Mặt trận Tổ quốc hoạt động như một tổ chức “xã hội
dân sự” hình thức, quản lý thống nhất các tổ chức xã hội dân sự
khác trong cả nước. Nó đóng vai trò rất quan trọng trong bầu cử
Quốc hội. (Xem Chương “Bầu cử”, thuộc Phần V, “Tương tác chính
trị”).
QUAN HỆ GIỮA CÁC THÀNH PHẦN TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1. “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”
Tháng 12/1986, Đại hội lần thứ 6 của đảng Cộng sản Việt Nam (tên
gọi đầy đủ là “Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của đảng Cộng
sản Việt Nam”, gọi tắt là “Đại hội VI”) đưa ra một “sáng kiến”. Đó là
cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, được
ấn định là “cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”.
Suốt hàng chục năm sau đó, các cây bút lý luận chính trị của đảng
Cộng sản đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực để ca ngợi và làm rõ
phương châm này, vì thật sự là nó quá khó hiểu và khó áp dụng.
- Đảng Cộng sản cầm quyền, lãnh đạo “toàn diện, triệt để, tuyệt
đối”;
- Nhà nước quản lý (nhưng không lãnh đạo);
- Nhân dân làm chủ (nhưng không lãnh đạo cũng không quản
lý).
Vấn đề ở đây là, đảng Cộng sản thì có thể lãnh đạo bằng đường
lối, nhân sự, thanh tra-kiểm tra, Nhà nước thì có cả bộ máy hành
pháp, lập pháp, tư pháp, công an, quân đội, nên cũng có thể quản
lý. Còn nhân dân thì sẽ thực hiện quyền làm chủ như thế nào, nếu
không có gì trong tay?
Một số nhà lý luận có cố gắng cụ thể hóa cách để nhân dân làm
chủ, đó là thông qua các tổ chức “của nhân dân”, đó là Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị-xã hội. Họ coi Mặt trận Tổ quốc là tập
hợp các tầng lớp nhân dân để thể hiện quyền làm chủ của người
dân. Tuy nhiên, thực chất cả Mặt trận Tổ quốc và các thành viên
của nó đều chỉ là những tổ chức ngoại vi, những cánh tay nối dài
của đảng Cộng sản. Do vậy, bảo người dân phải thể hiện quyền làm
chủ thông qua đó thì thật khó khăn.
Nhìn chung, các nhà lý luận bảo rằng nhân dân chắc chắn là
chủ, thậm chí “nhân dân làm chủ” là yếu tố trung tâm của cơ chế
quản lý toàn xã hội nêu trên, bởi vì mọi hoạt động của Đảng và
Nhà nước đều từ nhân dân, vì nhân dân. Tuy nhiên, làm thế nào để
bảo đảm các hoạt động đó đều của dân, do dân, vì dân thì họ
thường không nói rõ, chỉ hô khẩu hiệu như vậy và khẳng định
nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào Đảng và Nhà nước.
2. Quan hệ thứ bậc
Trên thực tế, quan hệ trong đảng Cộng sản là quan hệ thứ bậc, có
cấp trên-cấp dưới rất rõ ràng. Khoản 4, Điều 9 Điều lệ đảng Cộng
sản Việt Nam nêu rõ: “Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành
nghị quyết của Ðảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục
tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn
Ðảng phục tùng Ðại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành
Trung ương”.
Khoản 5, Điều 9 quy định: “Ðảng viên có ý kiến thuộc về thiểu
số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Ðại
hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị
quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Ðảng”.
Trong khi đảng viên cấp dưới có nghĩa vụ phục tùng cấp trên thì
ngược lại, cấp trên có quyền bổ nhiệm hoặc cách chức cấp dưới.
Cơ quan hành pháp duy trì một hệ thống cấp bậc trên dưới
tương tự. Thủ tướng có quyền phê chuẩn và cách chức chủ tịch
UBND cấp tỉnh, chủ tịch UBND cấp tỉnh có quyền phê chuẩn và
cách chức chủ tịch UBND cấp huyện... Mặt trận Tổ quốc các cấp
cũng vậy.
Cơ quan lập pháp – có thể nói là cơ quan có tính đại diện cho
dân cao nhất trong hệ thống chính trị Việt Nam trên lý thuyết – thì
lại không phân định cấp trên-cấp dưới với quyền và nghĩa vụ ngặt
nghèo như hành pháp và Mặt trận Tổ quốc. Quốc hội và các hội
đồng nhân dân ở cấp cao hơn chỉ có quyền hướng dẫn và giám sát
các hội đồng nhân dân cấp dưới, chứ không có quyền bổ nhiệm
hay cách chức. Theo quy định, tất cả đều được dân bầu trực tiếp.
Cơ quan tư pháp cũng không duy trì quyền và nghĩa vụ theo
thứ bậc. Trên danh nghĩa, các cấp tòa án đều độc lập. Tòa án cấp
cao hơn có quyền bác bỏ kết luận của tòa án cấp dưới, nhưng
không có quyền bổ nhiệm, cách chức. Trên thực tế, hệ thống tòa án
ở Việt Nam không thể độc lập, một khi thẩm phán luôn phải là
đảng viên đảng Cộng sản và phải chấp hành nghị quyết của đảng,
phục tùng đa số, phục tùng cấp trên.
Công an, viện kiểm sát, và tòa án cũng thường có các cuộc họp
ba bên, gọi là họp liên cơ quan tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử) để
thống nhất tinh thần chung trước khi xét xử. Cuộc họp này định
hướng đường lối xét xử, có thể nói đây gần như là cuộc bàn bạc
định tội trước; sau đó tại tòa, hội đồng xét xử chỉ việc làm theo định
hướng đã có sẵn, hay còn gọi là theo chỉ đạo.
Chương VIII
QUÂN ĐỘI VÀ CÔNG AN
Bây giờ chúng ta sẽ đi đến thảo luận về hai lực lượng có vai trò rất
quan trọng và cũng rất phức tạp trong mọi xã hội, mọi quốc gia. Đó
là quân đội và công an.
Quân đội và công an giữ vai trò rất quan trọng, bởi vì họ liên
quan đến chủ quyền của quốc gia. Ở Chương III thuộc Phần II,
chúng ta đã nói về vấn đề chủ quyền. Một trong các yếu tố để một
quốc gia hình thành và tồn tại là chủ quyền của nhà nước, vốn gồm
hai khía cạnh: đối nội và đối ngoại. Một cách vắn tắt, có thể nói
công an bảo vệ chủ quyền đối nội, và quân đội bảo vệ chủ quyền
đối ngoại. Không có họ thì không thể giữ được chủ quyền đối nội
và đối ngoại. Cũng có nghĩa là, đó là hai lực lượng bắt buộc phải có
ở mọi quốc gia độc lập.
Tất nhiên có ngoại lệ, ví dụ như Puerto Rico không sở hữu quân
đội riêng mà hoàn toàn trông cậy vào Mỹ; song đó chỉ là thiểu số.
Bản thân Puerto Rico rất mong được trở thành bang thứ 51 của
nước Mỹ, đến mức ta phải tự hỏi liệu người dân của họ có nguyện
vọng chung sống với nhau như một quốc gia không.
Quân đội và công an cũng giữ vai trò rất phức tạp, bởi vì với sức
mạnh của họ, họ luôn luôn có thể lạm quyền, có thể bảo vệ một chế
độ cũng như lật đổ, thay thế chế độ đó. Riêng trong hoàn cảnh Việt
Nam, tính chất phức tạp càng cao hơn nữa: Họ vừa lạm quyền, vừa
bảo vệ đảng Cộng sản, lại vừa lợi dụng nền cai trị của đảng để làm
lợi cho mình.
CHỨC NĂNG CỦA QUÂN ĐỘI VÀ CÔNG AN
1. Quân đội
Quân đội có chức năng:
- Làm công cụ để nhà nước tiến hành chiến tranh (phòng vệ,
phản công, tấn công, bành trướng - xâm lược);
- Bảo vệ chủ quyền quốc gia (quốc phòng);
- Bảo đảm trật tự trong nước. Ví dụ: bảo đảm trật tự xã hội trong
các tình huống khẩn cấp như thiên tai, địch họa; cứu hộ, cứu trợ;
trấn áp bạo động, bạo loạn, đàn áp các cuộc nổi loạn.
Chức năng “trấn áp bạo động, bạo loạn, đàn áp các cuộc nổi
loạn” này là một chức năng gây tranh cãi của quân đội, bởi vì nhiều
khi ranh giới giữa bảo đảm trật tự quốc nội và đàn áp những cuộc
nổi dậy của dân chúng chống lại nhà cầm quyền phi nghĩa là rất
mong manh.
Bạn sẽ thấy là có những trường hợp, đất nước rất cần một quân
đội mạnh để trấn áp bạo động, bảo vệ chính quyền, ví dụ như khi
quân Taliban kéo quân vào cướp chính quyền Afghanistan và áp
đặt ách thống trị tàn bạo lên đất nước này từ năm 1996 đến năm
2001. Ngược lại, trong trường hợp nhà nước độc tài và một bộ
phận dân chúng nổi dậy khởi nghĩa, mà quân đội lại thực hiện
chức năng “đàn áp bạo loạn” của họ thì đó lại là điều chúng ta
không mong muốn.
2. Công an
Chức năng của công an là bảo vệ nhân quyền của mỗi người dân,
không để người này xâm phạm nhân quyền của người kia. Ngoài
ra, công an cũng có chức năng bảo vệ trật tự trong nước, trong từng
địa phương của đất nước, thông qua việc ngăn chặn, phòng chống
tội phạm. Họ cũng có thể được huy động để bảo đảm trật tự xã hội
trong các tình huống khẩn cấp như thiên tai, địch họa.
So với quân đội, công an không có chức năng “làm công cụ
chiến tranh” và “quốc phòng”. Có thể vì thế mà công an không
được vũ trang ở mức độ như quân đội: Ở nhiều quốc gia, họ chỉ là
lực lượng bán vũ trang, thậm chí có những nơi công an không
được phép sử dụng súng.
ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA QUÂN ĐỘI VÀ CÔNG AN
So với dân thường, quân đội và công an có những đặc thù sau đây:
1. Độc quyền sử dụng vũ khí và vũ lực
Ở bất kỳ quốc gia nào thì quân đội và công an cũng được mặc định
là hai lực lượng duy nhất trong xã hội có quyền sử dụng vũ khí và
vũ lực để cưỡng bức khi cần. Cả xã hội mặc định điều đó, hay nói
cách khác, họ có tính chính danh để sử dụng vũ khí và vũ lực.
2. Hệ thống cấp bậc và kỷ luật
Quân đội và công an được đặc thù bởi hệ thống tổ chức theo cấp
bậc trên-dưới và kỷ luật rất chặt chẽ, nghiêm khắc. Thậm chí có
quan niệm cho rằng kỷ luật làm nên sức mạnh của họ. Cấp trên
được khuyến khích quyết đoán, còn cấp dưới được khuyến khích
phục tùng – đó là phẩm chất của quân đội và công an. Chủ nghĩa
cá nhân, tự do, sáng tạo và cá tính là những thứ không được đề cao
trong đội ngũ này.
3. Can đảm, xả thân, sẵn sàng hy sinh
Xin nói rõ đây không phải là đặc điểm cố hữu của quân đội và công
an, mà là những đặc điểm được xã hội kỳ vọng, đòi hỏi ở họ, và xã
hội cũng mặc định là quân nhân và công an có những phẩm chất
cao đẹp đó. Nói cách khác, quân nhân và công an là hai nghề có
thương hiệu tự thân, cũng giống như ở Việt Nam, nhà giáo được
mặc định là nghề có đạo đức, mô phạm.
Tuy nhiên, đặt chuyện kỳ vọng của xã hội qua một bên, thì quân
đội và công an về bản chất là hai nghề vì cộng đồng; quân đội và
công an được coi là người của cộng đồng.
Xin bạn lưu ý: Người của cộng đồng ở đây không có nghĩa là
người nổi tiếng, như ca sĩ, diễn viên, người mẫu, mà có nghĩa là
người có ảnh hưởng đến cộng đồng, thậm chí có thể làm gương và
dẫn dắt cộng đồng, và vì thế phải chịu trách nhiệm trước cộng
đồng ấy về lối sống, hành động, hành vi ứng xử của họ.
Cụ thể những ai hoặc những nghề nào là người của cộng đồng
thì không có luật pháp nào quy định, điều đó tùy thuộc văn hóa của
mỗi xã hội, mỗi cộng đồng.
Một cách chung nhất thì những người của cộng đồng có thể bao
gồm lãnh đạo chính trị, linh mục, thầy tu, sư sãi, giáo viên, nhà báo,
nhà văn, nhà hoạt động xã hội, quân nhân, cảnh sát, kể cả các chức
vụ lãnh đạo nhỏ trong cấp chính quyền địa phương như chủ tịch
xã, chủ tịch huyện, trưởng thôn.
4. Nguy cơ lạm quyền rất cao
Chính vì là hai lực lượng duy nhất trong xã hội có quyền và có tính chính danh để sử dụng vũ khí, vũ lực, cho nên quân đội và công an có sức mạnh, và ở họ tiềm ẩn khả năng lạm quyền rất cao.
Quân đội có thể dựng lên một chế độ, bảo vệ chế độ, và lật đổ chế độ ấy. Họ có thể thay thế một chính quyền dân sự bằng một chính quyền quân sự, với các tướng lĩnh quân đội nắm giữ các chức vụ lãnh đạo dân sự, và lập nên một chế độ quân phiệt hay là một chính quyền quân sự.
Công an, có thể do mức độ vũ trang kém hơn và tính chính danh thấp hơn quân đội, thường không dựng lên một chế độ, không lật đổ chế độ và không thay thế chế độ. Nhưng họ lại có thể khống chế, chi phối chính quyền, can thiệp, kiểm soát tiến trình chính sách và mọi khía cạnh của đời sống dân sự, và tạo ra một nhà nước cảnh sát hay là một chính quyền công an trị.
Ngay cả khi quân đội và công an đứng ngoài chính trị, thì nguy cơ lạm quyền vẫn tồn tại, nhất là ở công an. Bởi vì, khác với quân đội, hoạt động của công an gắn chặt với cộng đồng trong đời sống thường nhật. Nếu không có cơ chế kiểm soát (ta sẽ nói về cơ chế ấy sau, trong chương này), thì công an rất dễ bắt nạt, hà hiếp dân, đơn giản là vì họ mạnh hơn dân và họ ở gần dân hơn quân đội.
CHẾ ĐỘ QUÂN PHIỆT VÀ CHẾ ĐỘ CÔNG AN TRỊ
Đặc trưng của chế độ quân phiệt hay là nhà nước quân sự là:
Tướng lĩnh quân đội nắm giữ các chức vụ lãnh đạo của nhà nước – những chức vụ mà lẽ ra là thuần túy dân sự.
Quân đội kiểm soát tiến trình chính sách.
Chủ nghĩa quân phiệt trở thành ý thức hệ bao trùm: Quốc phòng, quân sự phải mạnh thì đất nước mới hùng cường; chiến tranh là một công cụ chính sách chính đáng và hiệu quả; quân nhân được tôn vinh và được hưởng đặc quyền, đặc lợi; tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng, kỷ luật nhà binh, sự phục tùng, cống hiến, xả thân được ngợi ca.
Luật nhà binh, tòa án quân sự được tăng cường và áp đặt rộng rãi; thiết quân luật có thể được áp dụng thường xuyên và kéo dài. Đất nước bị quân sự hóa (có thể đến mức độ như đang trong thời chiến).
Các quyền tự do dân sự bị bóp nghẹt.
Để lấy ví dụ về nhà nước quân phiệt, có thể kể đến: Chile dưới thời Pinochet, Myanmar từ 1962 đến khi cải cách dân chủ, Libya dưới thời đại tá Gaddafi.
Đặc trưng của chế độ công an trị hay nhà nước cảnh sát là:
Lực lượng công an phát triển rất hùng mạnh về quân số.
Công an được hưởng đặc quyền đặc lợi, hoạt động ngoài sự giới hạn của luật pháp, có thể nói là đứng trên luật pháp.
Công an nắm quyền lực hành pháp không giới hạn, không bị kiểm soát, và có thể sử dụng tùy tiện, không phải chịu trách nhiệm giải trình trước bất kỳ lực lượng nào khác trong xã hội (công chúng, báo chí, quốc hội hay tòa án).
Công an can thiệp và kiểm soát tiến trình chính sách.
Công an can thiệp và kiểm soát mọi khía cạnh của đời sống dân sự, bằng các biện pháp nghiệp vụ như theo dõi, nghe lén, quay phim trộm, quay phim công khai.
Các quyền tự do dân sự bị bóp nghẹt.
Ví dụ về các nhà nước cảnh sát, có thể kể đến Đông Đức cũ (CHDC Đức), và chính Việt Nam thời cộng sản (CHXHCN Việt Nam).
Các bạn chú ý điểm giống nhau lớn giữa chúng là ở cả hai loại xã hội này, các quyền tự do dân sự đều bị bóp nghẹt. Đó là những nhân quyền mà người dân có trong quan hệ của họ với nhà nước, tức là các nhân quyền để bảo vệ người dân khỏi sự can thiệp tùy tiện của nhà nước, ví dụ: tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và lương tâm, tự do đi lại, tự do tụ tập, tự do hiệp hội.
Khi quyền lực được tập trung cao độ vào một người hoặc một nhóm người ở cương vị lãnh đạo, và các quyền tự do dân sự bị siết chặt, quốc gia có thể đã trở thành độc tài quân sự hoặc độc tài công an trị. (Xem “hội chứng sáu điểm” của chế độ toàn trị ở Phần III, “Dân chủ”).
KIỂM SOÁT QUÂN ĐỘI
Do quân đội sở hữu vũ khí và sức mạnh như chúng ta đã biết, nên
kiểm soát quân đội trở thành một vấn đề trong mọi nền chính trị.
Ở các nước trên thế giới lâu nay, có hai cách chính để kiểm soát
quân đội: 1. Sử dụng cách tiếp cận tự do (liberal approach); 2. Sử
dụng cách tiếp cận theo kiểu thâm nhập (penetration approach).
1. Cách tiếp cận tự do
Với cách tiếp cận này, hiến pháp và luật pháp của một quốc gia phải
bảo đảm rằng quân đội hoàn toàn giữ tính trung lập, phi chính trị
hay là nằm ngoài chính trị, và hệ thống quân đội phải nằm dưới sự
lãnh đạo của chính quyền dân sự. Họ phải trung thành với quốc
gia, theo nghĩa là trung thành với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền đối
ngoại của đất nước, trung thành với nhân dân và hiến pháp. Nhưng
không có nghĩa là trung thành với bất kỳ một đảng phái, chính
quyền, nội các nào.
Trung lập, như đã định nghĩa ở Chương IV (“Tư pháp”) của
Phần VI này, là phi đảng phái, không ủng hộ hay chống lại đảng
phái hay ý thức hệ nào. Phi chính trị, tức là không tìm cách gây
ảnh hưởng đến tiến trình chính sách, không giữ và không tranh
giành quyền lực nhà nước. Quân đội phải nằm dưới sự lãnh đạo
của chính quyền dân sự, thậm chí ngay cả trong lĩnh vực quốc
phòng – cùng lắm thì tướng lĩnh quân đội chỉ có thể đóng vai trò
cố vấn, tư vấn cho quan chức dân sự thôi chứ không có tiếng nói
quyết định.
Xin bạn lưu ý rằng những nguyên tắc này có thể thay đổi trong
thời chiến, tức là khi đất nước thật sự trong tình trạng chiến tranh.
Tuy nhiên, việc xác định và tuyên bố tình trạng chiến tranh cũng là
của chính quyền dân sự. Không thể có chuyện tướng lĩnh quân đội
đột nhiên tuyên bố đặt đất nước vào tình trạng chiến tranh, áp đặt
thiết quân luật và thay đổi mọi nguyên tắc trên.
Sở dĩ đây được gọi là “cách tiếp cận tự do” bởi vì nó được sử
dụng bởi các nước theo chế độ dân chủ tự do, ví dụ Mỹ và Tây Âu.
Từ “tự do” ở đây không hề hàm ý là quân đội được tự do, mà ngược
lại: Quân đội phải tuyệt đối phi chính trị, không được can thiệp vào
chính sách.
2. Cách tiếp cận theo kiểu thâm nhập
Cách tiếp cận này hoàn toàn ngược lại với cách tiếp cận tự do: Thay
vì giữ quân đội trong tình trạng tuyệt đối phi chính trị thì ngược lại,
chính quyền (dân sự) chính trị hóa quân đội triệt để, theo hướng
để cho ý thức hệ và đảng cầm quyền “thâm nhập” toàn diện vào
quân đội. Thay vì trung thành với chủ quyền quốc gia, nhân dân và
hiến pháp, thì quân đội trung thành với đảng cầm quyền và ý thức
hệ của nó. Lòng trung thành này có được nhờ áp dụng đồng bộ
một loạt biện pháp: 1. Dành đặc quyền đặc lợi cho quân đội, đặc
biệt là tầng lớp lãnh đạo; 2. Tuyên truyền dữ dội về ý thức hệ của
đảng cầm quyền; 3. Trừng phạt, trừ khử, tiêu diệt các phần tử bất
tuân phục, song song với việc tưởng thưởng các quân nhân trung
thành, nhiệt thành về ý thức hệ.
Hẳn bạn đã biết cách tiếp cận này được áp dụng ở đâu: Các
nước độc tài, độc đảng, đặc biệt là các quốc gia cộng sản như Liên
Xô, Đông Đức cũ, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, và Việt Nam. Tại
các nước cộng sản này, một mạng lưới chi bộ đảng được lập nên
trong quân đội và vận hành song song với quân đội, lãnh đạo toàn
diện quân đội. (Các bạn có để ý đến những nhân vật được gọi là
“chính ủy”, “chính trị viên” trong quân đội?).
Những tướng lĩnh cao cấp, ngoài việc được hưởng quyền lợi vật
chất to lớn, còn có thể can thiệp vào tiến trình chính sách và/hoặc
giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền dân sự. Đổi lại,
quân đội đương nhiên là trung thành với đảng và đường lối của
đảng, và một lòng bảo vệ đảng cầm quyền.
Ở Việt Nam, so với công an, quân đội có được thiện cảm lớn
hơn nhiều từ dân chúng, do thừa hưởng hình ảnh đẹp của “anh bộ
đội cụ Hồ” trong cuộc chiến tranh vệ quốc, do tuyên truyền, và do
thực tế là tình trạng công an lạm quyền, bạo hành dân quá nghiêm
trọng. Vì lẽ đó, nhiều người vẫn nghĩ về khả năng quân đội đảo
chính, lật đổ chế độ toàn trị độc đảng để dân chủ hóa đất nước. Tuy
nhiên, có lẽ họ không để ý tới một thực tế là đảo chính quân sự rất
ít xảy ra ở các nước cộng sản – nơi quân đội và chính quyền “thâm
nhập” nhau quá sâu sắc.
KIỂM SOÁT CÔNG AN
Cơ chế kiểm soát công an cũng tương tự như với quân đội, có hai
cách cơ bản nói trên. Tuy nhiên, do đặc thù của nghề công an là gắn
bó chặt chẽ với cộng đồng hơn quân đội, khả năng họ lạm quyền,
bạo hành dân cao hơn hẳn quân đội và vì thế, sự kiểm soát đối với
họ cũng phải chặt chẽ hơn.
Ở các nước theo chế độ dân chủ tự do, công an, ngoài việc trung
lập, phi chính trị và nằm dưới sự lãnh đạo của chính quyền dân sự,
còn phải chịu trách nhiệm giải trình và minh bạch rất ngặt nghèo
trước chính quyền, trước các lãnh đạo dân cử, trước quốc hội đại
diện của dân, trước báo chí và trước công luận.
Vấn đề đặt ra là: Ai, và làm thế nào để buộc công an phải chịu
trách nhiệm giải trình và minh bạch đây?
Giải pháp căn bản nhất là một nhà nước pháp trị (còn gọi là nhà
nước pháp quyền), một hệ thống tư pháp độc lập, quyền lực của
các cơ quan dân cử như quốc hội, và báo chí tự do.
Ngoài ra, những chuyên gia về nhân quyền trên thế giới khuyến
nghị rằng, ở nhiều nước, trong tình trạng công an lạm quyền mà
các thiết chế khác (quốc hội, tòa án, báo chí) chưa đủ mạnh để
kiểm soát nó, thì chính quyền có thể thành lập một cơ quan độc lập
để giám sát và điều tra hoạt động của công an. Song song với đó, là
việc đào tạo mạnh mẽ về nhân quyền, tự do, dân chủ cho công an
để họ ý thức được về chức năng, nhiệm vụ, nghĩa vụ của mình.
Bài đọc
NGHỀ CÔNG AN TRONG CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ 1
THEO CHUẨN NHÂN QUYỀN:
Công an phải bảo vệ sự an toàn của cộng đồng và quyền của tất cả mọi người. Công an phải là một cơ quan độc lập trong nhánh hành pháp, chịu sự hướng dẫn, chỉ đạo của tòa án và bị ràng buộc bởi các mệnh lệnh của tòa án. Mọi cơ quan hành pháp đều phải đại diện cho toàn thể cộng đồng, phải minh bạch và chịu trách nhiệm trước toàn thể cộng đồng. Tất cả quan chức/ cán bộ công an đều thuộc về cộng đồng và có nghĩa vụ phục vụ cộng đồng. Tất cả công an phải thực thi chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ như những đầy tớ tận tụy, không thiên vị, của toàn thể cộng đồng. Bất kỳ công an nào cũng không được phép tham gia trực tiếp vào hoạt động chính trị. Bất kỳ công an nào cũng không thể được lệnh hoặc bị ép buộc phải thực thi chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ hay huy động nguồn lực công an để hỗ trợ hay phá hoại bất kỳ đảng phái/ nhóm
lợi ích nào cũng như thành viên của đảng phái/ nhóm lợi ích đó.
1. “Human Rights Standards and Practice for the Police”, Professional Training Series No.
5/ Add. 3, Office of the United Nations High Commissioner for Human Rights, 2004.
Công an có nghĩa vụ bảo vệ quyền của tất cả các đảng phái, cá
nhân và tổ chức, cũng như bảo vệ tất cả các đảng phái, cá nhân và
tổ chức đó, một cách bình đẳng, không gây sợ hãi, không tạo đặc
quyền đặc lợi.
Trong việc thực thi các quyền và quyền tự do của mình, tất cả
mọi người đều chỉ phải chịu những giới hạn do luật pháp quy định.
Những giới hạn đối với việc thực thi các quyền và quyền tự do
chỉ có thể là những giới hạn cần thiết để công nhận và tôn trọng
quyền của người khác và để đáp ứng các đòi hỏi bắt buộc về đạo
đức, trật tự công cộng cũng như lợi ích chung trong một xã hội
dân chủ.
Mọi người đều có quyền tham gia vào việc quản trị đất nước
mình, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua những đại diện
do họ tự do lựa chọn.
Ý chí của nhân dân được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ
và trung thực với phổ thông đầu phiếu, mọi lá phiếu đều bình
đẳng.
Mọi người đều có quyền tự do quan điểm, tự do biểu đạt, tự do tụ tập và tự do hiệp hội.
TẤT CẢ CÔNG AN ĐỀU PHẢI:
Giữ tính độc lập về chính trị và tính công bằng, vô tư, ở mọi lúc mọi nơi.
Thực thi tất cả nhiệm vụ một cách công bằng, vô tư, và không
phân biệt đối xử về sắc tộc, chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo
hay chính kiến.
Bảo vệ và tôn trọng nhân quyền của tất cả mọi người, gồm cả
những quyền thiết yếu trong chính trị.
Giữ gìn và bảo vệ trật tự xã hội sao cho nền chính trị dân chủ có
thể vận hành một cách hợp hiến và hợp pháp.
LÃNH ĐẠO CÔNG AN PHẢI:
Đảm bảo rằng mọi chính sách và đường lối của ngành công an đều
trên tinh thần tôn trọng dân chủ.
Có biện pháp để xác định nhu cầu của cộng đồng và đáp ứng
các nhu cầu đó.
Đảm bảo rằng cơ quan công an thực sự là đại diện cho toàn thể
cộng đồng, thông qua việc tuyển dụng công bằng và không phân
biệt đối xử, cũng như thông qua các chính sách và thực thi chính
sách công bằng và không phân biệt đối xử.
Đảm bảo rằng các thủ tục, quy trình tuyển dụng cũng như các
nội dung đào tạo, huấn luyện đều được xây dựng nhằm tuyển dụng
những nhân viên công an có tinh thần sẵn sàng và có năng lực đáp
ứng mọi yêu cầu của nghề công an trong một thể chế dân chủ.
SỬ DỤNG VŨ LỰC VÀ VŨ KHÍ TRONG NGÀNH CÔNG AN 1
Việc sử dụng vũ lực
Mọi người đều có quyền sống, quyền được an toàn, quyền không
bị tra tấn hay phải chịu các cách đối xử và trừng phạt tàn nhẫn, vô
nhân đạo, xúc phạm nhân phẩm.
Luôn luôn phải sử dụng các biện pháp phi bạo lực trước tiên.
Chỉ được sử dụng vũ lực khi cực kỳ cần thiết.
Chỉ được sử dụng vũ lực cho các mục đích hành pháp đúng luật.
Không có ngoại lệ hay cách giải thích nào cho việc sử dụng vũ
lực bất hợp pháp.
1. “International Human Rights Standards for Law Enforcement – A Pocket Book on
Human Rights for the Police”, United Nations High Commissioner for Human Rights.
Việc sử dụng vũ lực phải luôn tương xứng với các mục tiêu hợp
pháp.
Sử dụng vũ lực luôn phải có sự kiềm chế.
Phải giảm thiểu thiệt hại vật chất và thương vong.
Luôn phải có một loạt phương tiện khác nhau cho việc sử dụng
vũ lực.
Tất cả các nhân viên công quyền đều phải được huấn luyện về
các phương tiện khác nhau cho việc sử dụng vũ lực.
Tất cả các nhân viên công quyền đều phải được huấn luyện về
các biện pháp hành pháp phi bạo lực.
Trách nhiệm giải trình trong việc sử dụng vũ lực và vũ khí
Tất cả các trường hợp sử dụng vũ lực hoặc vũ khí đều phải được
báo cáo đến các cán bộ, nhân viên cấp cao và có sự phê duyệt từ họ.
Các cán bộ, nhân viên cấp cao phải chịu trách nhiệm về những
hoạt động của công an theo mệnh lệnh của họ, nếu như quan chức
cấp cao đó đã biết hoặc lẽ ra đã phải biết về những hành vi lạm
quyền, mà lại không có hành động cụ thể nào.
Cán bộ, nhân viên từ chối tuân theo những mệnh lệnh vi phạm
pháp luật sẽ được miễn trách.
Cán bộ, nhân viên lạm quyền không thể nại lý do tuân lệnh cấp
trên để được miễn trừ trách nhiệm.
Các tình huống cho phép dùng vũ khí
Chỉ được sử dụng vũ khí trong các tình huống cực đoan.
Chỉ được sử dụng vũ khí để tự vệ hoặc để bảo vệ người khác
khỏi nguy cơ sắp bị giết hoặc bị thương nặng, hoặc
để ngăn chặn một tội ác đặc biệt nghiêm trọng, kéo theo nguy
cơ đe dọa mạng sống, hoặc
để bắt giữ hoặc ngăn chặn việc bỏ trốn của một cá nhân đang
gây ra một mối đe dọa hoặc đang chống lại các nỗ lực ngăn chặn
mối đe dọa đó, và
Trong mọi trường hợp, chỉ là khi các biện pháp ít cực đoan hơn
đã trở thành không đủ.
Việc cố ý sử dụng vũ lực và vũ khí chỉ được cho phép khi đó là
việc thật sự không thể tránh khỏi để có thể bảo vệ sinh mạng con
người.
Bài đọc
NGUYÊN TẮC "DÂN QUẢN QUÂN" VÀ VẤN ĐỀ TƯỚNG LĨNH NẮM QUYỀN CƠ QUAN DÂN SỰ VIỆT NAM 1
Nguyễn Quốc Tấn Trung
Thiếu tướng Nguyễn Đức Chung, sau khi trở thành Phó bí thư
Đảng bộ Hà Nội, đang được giới thiệu nắm giữ chức Chủ tịch Ủy
ban Nhân dân Thành phố Hà Nội. Nếu chưa xét đến thành tựu, kỹ
năng quản lý kinh tế, xã hội hay các cáo buộc lạm quyền đang ngày
càng gia tăng nhắm đến giới công an tại Hà Nội trong khoảng thời
gian gần đây, quy trình tổ chức nhân sự nói riêng cũng đã làm quan
ngại một bộ phận người dân thủ đô khi chúng ta đang đi vào con
đường của một chính phủ lai quân sự, bỏ qua một trong những
nguyên tắc quản lý nhà nước cơ bản của một quốc gia hiện đại:
“dân quản quân”.
CÔNG AN NHÂN DÂN VIỆT NAM – QUÂN ĐỘI "ĐỐI NỘI"
Đến đây có lẽ sẽ có người bắt đầu nghi ngờ về tính liên kết của bài
viết bởi tướng Chung thuộc ngành công an, không phải thành viên
quân đội.
Dù vậy, ít người chú ý rằng Việt Nam là một trong những số ít
1. Bài đăng trên Luật Khoa Tạp Chí ngày 16/11/2015 tại địa chỉ: http://luatkhoa.
 
org/2015/11/nguyen-tac-dan-quan-quan-va-van-de-tuong-linh-nam-quyen-co-quan-
dan-su-viet-nam/
quốc gia phong tướng cho các vị trí lãnh đạo công an, những vị trí
mà đáng lẽ ra chỉ nên là một công chức bình thường thuộc ngạch
quản lý của Bộ Tư pháp.
Tính chất này kèm với việc duy trì một bộ riêng biệt – Bộ Công
an, có quyền hạn và nguồn nhân lực khổng lồ, trở thành một đặc
sản không thể thiếu trong bộ máy bạo lực của Nhà nước Việt Nam,
song song với quân đội nhân dân.
Nói cách khác, việc các vị trí quản lý của cơ quan công an mang
danh hàm tướng không hẳn chỉ là vấn đề “tâm tư”, mà thể hiện
đúng vai trò và tầm ảnh hưởng của họ đối với các cơ quan quyền
lực nhà nước, vốn không kém cạnh gì so với tổ chức quân đội. Vì
vậy, dù còn nhiều tranh cãi, người viết cho rằng vẫn có đủ cơ sở để
xem hệ thống công an nhân dân tại Việt Nam tương tự như một tổ
chức quân đội “đối nội”. Đây cũng là căn cứ để người viết cân nhắc
phân tích nguyên tắc “dân quản quân” trong thực trạng hiện nay.
VÌ SAO "DÂN QUẢN QUÂN" QUAN TRỌNG?
Dân quản quân, hiểu theo nghĩa đơn giản là một nguyên tắc trong
quân sự học và khoa học chính trị, giao quyền quyết định tối cao
các vấn đề chiến lược, trật tự xã hội và an ninh quốc gia trong tay
của các lãnh đạo chính trị dân sự mà không phải là các thủ lĩnh
quân đội chuyên nghiệp. Thực tiễn chứng minh trong trường hợp
ngược lại, tức quân đội kiểm soát chính phủ, thông thường sẽ tạo
ra chế độ quân phiệt hoặc độc tài quân sự. Trong một trường hợp
khác, nếu cơ quan quyền lực dân sự không thể kiểm soát quân đội,
chúng ta lại có tình trạng “quốc gia trong quốc gia”.
Câu hỏi làm thế nào để kiểm soát những cá nhân sở hữu kỹ
năng, chiến thuật và quyền lực tối thượng, vốn có thể đàn áp và
cưỡng chế vật lý các chủ thể còn lại luôn là bài toán căn bản trong
tiến trình quản trị nhà nước của lịch sử nhân loại.
Các bậc vua chúa trong thời kỳ phong kiến cũng như một số
nhà nước còn tồn tại hiện nay ưa thích phương pháp xóa mờ ranh
giới giữa hai nhánh quyền lực dân sự và quân sự, đồng nghĩa với
việc họ là người nắm toàn quyền kiểm soát của cả hai nhánh. Cách
làm này thật sự không khác biệt mấy so với thể chế độc tài quân sự
bởi nếu cần thiết, cá nhân nắm quyền vẫn sẽ sử dụng quyền lực
quân sự như là công cụ đắc lực nhất nhằm kiểm soát các biến động
về dân sự, có thể bao gồm xử lý yêu sách của công dân, thuế, các
tranh chấp dân sự thông thường hay quan trọng nhất, bảo vệ quyền
lực dân sự tối cao của mình.
Đặc điểm dễ nhận biết của thể chế này là những người thống trị
quyền lực dân sự không có sự chính danh từ ý nguyện của nhân
dân (như thông qua bầu cử) mà từ các cơ sở khác như thần quyền,
huyết thống, hay lý thuyết chính trị. Vì lý do đó, nắm giữ cả hai
nhánh là chìa khóa để bảo vệ lợi ích và sự cầm quyền lâu dài của họ.
Ngược lại, sự quản chế đúng nghĩa của chức danh dân sự, được
bầu chọn bởi nhân dân, đối với hệ thống quân sự là nền tảng cơ
bản để một thể chế dân chủ có thể tồn tại. Vì sao lại có quan niệm
như vậy?
1. Sự kiểm soát dân sự trước tiên cho phép chính phủ một quốc
gia đánh giá và kiểm soát những giá trị và mục đích của mình căn
cứ vào nguyện vọng và niềm tin phổ biến của nhân dân hơn là kỳ
vọng vào các lựa chọn của giới lãnh đạo quân sự, vốn chỉ tập trung
vào trật tự nội bộ và an ninh biên giới.
Ví dụ cụ thể cho đặc điểm này là việc pháp luật của một quốc gia
cho phép biểu tình.
Theo đánh giá ngắn hạn, biểu tình diện rộng khó lòng có bất kỳ
tác dụng tích cực nào ngoài sự hỗn loạn nhất thời, đốt cháy thời
gian lao động một cách vô nghĩa và ảnh hưởng lớn đến nguồn thu
kinh tế của xã hội. Vì vậy, giới quân sự sẽ có cách quản lý cấm đoán,
triệt tiêu và dập tắt ngay lập tức.
Trong khi đó, các chức danh dân sự được nhân dân bầu chọn,
thấu hiểu quan điểm, niềm tin của quần chúng nhân dân và quan
trọng hơn, họ được sống trong một môi trường tin rằng sự hỗn
loạn nhất thời đó cần thiết để chính phủ có thể biết được công dân
của họ đang muốn điều gì, là cơ sở của cải cách và hoàn thiện bộ
máy nhà nước.
2. Tổ chức quân đội (hay các tập hợp bạo lực tương tự) dù cực
kỳ cần thiết và quan trọng, lại là mô hình tổ chức thiếu dân chủ
nhất trong kinh nghiệm lịch sử quản lý nhà nước. Điều này trái
ngược với bản chất tự nhiên tự do cá nhân và tự do dân sự của con
người. Vì quân đội được lập ra để bảo vệ các bản chất tự do đó, sự
kiểm soát phải thuận chiều.
3. Quân đội mang tính chất ủy quyền. Trong khi đó xã hội là sự
hợp tác và đồng thuận.
Nói cách khác, dù ở quy mô quốc gia hay cộng đồng, sự tồn tại
của một chính quyền dựa trên sự ủy quyền của các cá nhân trong
xã hội, tự nguyện từ bỏ một phần quyền lợi của mình nhằm duy trì
sự ổn định và khả năng phát triển của xã hội đó. Quân đội cũng
không nằm ngoài phạm vi này. Trường hợp những người đứng đầu
quân đội không hề được ủy quyền từ bất kỳ cơ quan dân sự hay
đồng thuận xã hội nào khác, tức là họ tự giao cho mình quyền được
thay mặt dân chúng, bước đầu tiên của thể chế độc tài.
Lý thuyết này chắc chắn không thừa khi nó hoàn toàn có thể
ảnh hưởng đến vận mệnh thế giới mà ví dụ cụ thể là xung đột nổi
tiếng Truman - MacArthur vào những năm 1950 trong kỷ nguyên
bom nguyên tử.
Trong chiến tranh Triều Tiên và các cuộc chiến tranh Hoa Kỳ
phát động chống lại phong trào cộng sản cùng thời điểm, vị tướng
huyền thoại MacArthur luôn mong muốn sử dụng bom nguyên tử
như một chiến thuật chiến tranh đơn giản, hiệu quả, hoàn thành
nhiệm vụ mà vẫn bảo đảm được tính mạng của quân nhân dưới
trướng ông. Nguyên tắc “dân quản quân” trong pháp luật Hoa Kỳ,
may mắn thay, giúp quan chức dân sự kịp thời ngăn cản vì lo ngại
sự bùng nổ của một cuộc thế chiến và chạy đua vũ trang mới.
Tướng MacArthur sau đó nhanh chóng phải từ bỏ vị trí chỉ huy
chiến trường và trở về Hoa Kỳ.
HOA KỲ: KHÔNG ĐƯỢC DÁN BIỂU TƯỢNG ĐẢNG PHÁI TRÊN XE CÁ NHÂN – VƯƠNG QUỐC ANH: KHÔNG ĐƯỢC BÌNH LUẬN CHÍNH TRỊ
Một câu hỏi mà nhiều người có thể đặt ra là “Điều gì xảy ra nếu quá
trình dân chủ lựa chọn một ra một vị tướng đương nhiệm trở
thành quan chức dân sự?” và liệu cấm cản có vi phạm quyền tự do
bầu cử của dân chúng. Câu trả lời là có, nhưng đó là điều cần thiết;
bởi khả năng của việc lạm dụng bạo lực để khống chế và kiểm soát
hệ thống bầu cử là quá cao, như cách mà chính quyền Thái Lan hay
Myanmar vẫn đang sử dụng. Cách tốt nhất là ngăn chặn cơ hội xảy
ra vấn đề ngay từ đầu như một số quốc gia đã làm, bảo đảm rằng
quá trình bổ nhiệm, chỉ định chỉ đi một hướng từ dân sự sang quân
sự mà không có chiều ngược lại.
Với pháp luật Hoa Kỳ, hiển nhiên sản phẩm nền tảng là bản hiến
pháp dân sự. Theo đó, Tổng thống Hoa Kỳ, thống chế tối cao của
lực lượng quân đội, là một chức danh được nhân dân bầu cử rộng
rãi mỗi bốn năm một lần. Quyền lực quân sự đồng thời cũng được
chia tách giữa Tổng thống và Nghị viện.
Không dừng lại, các văn bản dưới hiến pháp còn quy định
những vấn đề cụ thể hơn với chỉ thị 1344.10 của Bộ Quốc phòng
Hoa Kỳ làm nòng cốt (DOD Directive 1344.10). Chỉ thị này hướng
đến việc kiểm soát việc tham gia chính trị các quân nhân thuộc
biên chế quân đội Hoa Kỳ vào mọi cấp chính quyền dân sự.
Trong đó, thành viên quân đội không thể:
- Là ứng cử viên hay nắm giữ bất kỳ chức vụ nào trong bộ máy
dân sự.
- Đăng tải, cho phép đăng tải hoặc có bất kỳ tác động nào khác
dẫn đến việc đăng tải bài viết của hoặc nhân danh mình nhằm lôi
kéo phiếu bầu cho hoặc chống lại một đảng phái, ứng cử viên
chính trị.
- Phát biểu trước quần chúng nhằm kêu gọi ủng hộ cho một
đảng phái, ứng cử viên chính trị.
- Tham gia vào bất kỳ chương trình phát thanh, truyền hình,
chương trình truyền thông khác, với tư cách người ủng hộ cho một
đảng phái hoặc ứng cử viên chính trị.
- Bán vé (hoặc tham gia tích cực) vào quảng bá các sự kiện gây
quỹ chính trị.
- Tham gia vào bất kỳ buổi tuần hành ủng hộ chính trị nào.
- Phục vụ như thành viên chính thức hoặc được liệt kê như nhà
tài trợ cho một câu lạc bộ hoặc đảng phái chính trị.
- Trưng bày, dán dấu hiệu, tranh cổ động, biểu tượng của một
đảng phái chính trị lên phương tiện di chuyển riêng tư
- ...
Tương tự, tại Vương quốc Anh, sự tham gia của quân đội vào
các vấn đề chính trị không phải là một thái độ được cho phép, đôi
khi được xem là làm hại đến thanh danh Hoàng gia.
Các tiêu chuẩn và quy tắc ứng xử của lực lượng vũ trang Vương
quốc Anh được ghi nhận rõ trong Điều lệ Nữ hoàng (trong đó có
các văn bản riêng biệt dành cho Lục quân, Hải quân và Không
quân), bao gồm:
- Nghiêm cấm các thành viên quân đội nắm giữ các vị trí hoạt
động tích cực trong các tổ chức chính trị; đồng thời cũng hạn chế
chặt chẽ việc bổ nhiệm vào các vị trí này trong và sau thời gian
quân ngũ.
- Quân nhân không được phép bình luận hoặc đóng góp vào
các cuộc tham luận công liên quan đến bất kỳ chủ đề chính trị gây
tranh cãi nào.
- ...
Văn hóa nói chung của hầu hết các quốc gia đều coi trọng và
vinh danh những người lính. Điều này không nên đồng nghĩa với
việc các tướng lĩnh có thể tham gia một cách tự do vào các hoạt
động chính trị dân sự.
Dưới cơ chế quản lý đơn nhất và mệnh lệnh, quân đội luôn có
khả năng trở thành công cụ để bảo vệ nền độc tài toàn trị, thậm chí
chính nó trở thành người kế thừa của nền độc tài đó. Ở một góc
nhìn khác, một quân đội lớn hơn cần thiết, thực hiện các nhiệm vụ
hoặc công việc nằm ngoài phạm vị bảo vệ quốc gia (như hành
chính, kinh tế...) luôn tiềm ẩn rủi ro sự thoát ly, lộng quyền và
thách thức của quân đội so với các thể chế dân sự.
Phụ lục
KỸ THUẬT TUYÊN TRUYỀN
Các học giả đã xác định được rất nhiều kỹ thuật được sử dụng làm
chuẩn mực trong tuyên truyền và thuyết phục.
Tấn công cá nhân - Ad hominem
Một cụm từ tiếng Latin, có nghĩa là tấn công vào đối thủ của
mình thay vì tấn công quan điểm mà đối thủ đưa ra.
Lặp đi lặp lại - Ad nauseam
Kỹ thuật này đòi hỏi phải lặp đi lặp lại không ngừng một quan
điểm, một ý kiến nào đó. Một ý tưởng, đặc biệt là một khẩu hiệu
đơn giản, nếu được lặp đi lặp lại đủ nhiều lần, có thể sẽ bắt đầu
được coi là sự thật.
Kỹ thuật này có hiệu quả nhất khi báo chí bị giới hạn hoặc bị
kiểm soát bởi các nhà tuyên truyền.
Viện dẫn thẩm quyền - Appeal to authority
Trích dẫn những người nổi tiếng để ủng hộ cho một lập trường,
ý kiến, lập luận, hoặc hành động của mình.
Gây sợ hãi - Appeal to fear
Tạo ảnh hưởng bằng cách gieo rắc nỗi lo sợ và hốt hoảng trong
dân chúng, chẳng hạn như Joseph Goebbels khai thác thuyết
“Nước Đức phải chết!” của Theodore Kaufman để tuyên bố rằng
quân Đồng minh có ý đồ tiêu diệt dân tộc Đức.
Sử dụng thành kiến - Appeal to prejudice
Dùng những ngôn từ gài bẫy hoặc đánh vào cảm xúc để gắn giá
trị hoặc sự tốt đẹp về đạo đức với việc tin tưởng vào quan điểm
được tuyên truyền.
Vận động tham gia đoàn diễu hành - Bandwagon
Tạo một đoàn diễu hành và vinh danh “chiến thắng tất yếu”
nhằm thuyết phục người nghe tham gia và hành động, bởi vì “tất cả
mọi người khác đều đang tham gia và hành động”.
- Chiến thắng tất yếu: Mời những người chưa tham gia đoàn
diễu hành cùng hòa vào những người đã tham gia và đang trên
đường đi tới chiến thắng. Những người đã tham gia hay ít nhất có
dự một phần trong đoàn diễu hành thì được đảm bảo rằng đấy là
hành động tuyệt vời nhất của họ. Ví dụ: Tuyên bố “Cuộc tranh luận
thế là đã chấm dứt. 97% các nhà khoa học nhất trí rằng...”.
- Tham gia đám đông: Kỹ thuật này củng cố một nguyện vọng
tự nhiên của con người là được đứng bên thắng cuộc. Sử dụng kỹ
thuật này để thuyết phục người nghe rằng chương trình của mình
là biểu hiện của một phong trào quần chúng rất mạnh, không thể
cưỡng nổi và quần chúng sẽ đạt được lợi ích lớn nhất khi tham gia.
Đêm trước cuộc bầu cử, đảng có thể tổ chức một chương trình
truyền hình vui vẻ, ví dụ, lấy tên là “Đoàn lữ nhạc”, rồi mời ứng
viên của đảng mình, các đảng viên, các ủng hộ viên, cảm tình viên,
các ngôi sao showbiz, v.v. đến tham dự. Tại đây, điểm nhấn của
chương trình sẽ là màn thông báo với các khán giả xem truyền
hình rằng đa số lãnh đạo trong địa phương đã tham gia “đoàn lữ
nhạc” để ủng hộ các ứng viên của đảng này.
Bằng cách đó, sẽ thuyết phục được các cử tri còn đang do dự.
Dùng người đẹp - Beautiful people
Kiểu tuyên truyền sử dụng người nổi tiếng hoặc những người
quyến rũ, hạnh phúc. Điều này hàm ý rằng nếu mọi người mua
một sản phẩm hay đi theo một ý thức hệ nào đó, họ cũng sẽ hạnh
phúc hoặc thành công như thế. (Kỹ thuật này được sử dụng nhiều
trong quảng cáo sản phẩm hơn là cho mục đích chính trị).
Nói dối trắng trợn - Big Lie
Lặp đi lặp lại việc giải thích một chuỗi sự kiện nhằm biện minh
cho hành động sau đó. Việc mô tả những sự kiện đó cũng có vài
yếu tố sự thật, và những khái quát hóa mang tính “nói dối trắng
trợn” rồi sẽ hòa tan vào và cuối cùng thế chỗ cách hiểu đúng đắn
của công chúng về các sự kiện ngầm ẩn. Sau Thế chiến I, cách giải
thích về thất bại, cho rằng nó xuất phát từ việc bị “người Đức đâm
dao sau lưng”, đã trở thành một lý lẽ biện hộ cho việc phe phát xít
tái quân sự hóa và trả thù.
Ngụy biện Đen- Trắng - Black-and-White fallacy
Chỉ đưa ra có hai lựa chọn, trong đó, sản phẩm hoặc ý tưởng
được tuyên truyền sẽ là lựa chọn tốt hơn. Ví dụ: “Hoặc anh theo
chúng tôi, hoặc chống chúng tôi”.
Lượm đào hay là chọn lọc sự thật - Cherry picking (fallacy) or
Selective truth
Richard Crossman, Phó Giám đốc Phòng Chiến tranh Tâm lý
Anh quốc (PWD) trong Thế chiến II, từng nói: “Trong tuyên
truyền, sự thật rất có lợi... Nếu nghĩ nhà tuyên truyền xuất sắc chỉ
là một kẻ nói dối chuyên nghiệp thì sai hoàn toàn. Nhà tuyên
truyền xuất sắc là người nói thật, hay là nói có chọn lọc những sự
thật cần thiết cho mục đích của ông ta, và nói theo một cách làm
cho người tiếp nhận không hề nghĩ là mình đang bị tuyên truyền...
[...] Nghệ thuật tuyên truyền không phải là nói dối, mà thay vì thế,
phải lựa chọn các sự thật mình cần và công bố, pha trộn nó với một
số điều mà người nghe muốn nghe”.
Điều kiện hóa cổ điển - Classical conditioning
Tất cả các động vật có xương sống, gồm cả con người, đều phản
ứng với điều kiện hóa cổ điển. Tức là, nếu đối tượng A luôn luôn
có mặt khi đối tượng B hiện diện và đối tượng B gây ra một phản
ứng vật lý/ thể chất (ví dụ: kinh tởm, khoan khoái...), thì, nếu chúng
ta thấy đối tượng A khi đối tượng B không có mặt, chúng ta sẽ có
cùng những cảm giác đó.
Đây là giải thích khoa học của các hành vi lặp đi lặp lại hay thói
quen. Ví dụ: Từ nhỏ, một người đã được nhắc nhở đánh răng mỗi
buổi sáng, cho đến khi trở thành thói quen cứ sáng thức dậy là đi
đánh răng, nếu không sẽ cảm thấy khó chịu.
Không hòa hợp về nhận thức - Cognitive dissonance
Con người luôn muốn thống nhất, nhất quán. Giả sử một người
đi thăm dò ý kiến (làm poll) nhận thấy rằng một nhóm người nào
đó ghét ứng viên thượng nghị sĩ nhưng lại yêu diễn viên điện ảnh
A. Người làm poll này bèn mướn A ca tụng ứng viên nọ để thay đổi
suy nghĩ của dư luận, bởi vì mọi người không thể chịu nổi sự không
thống nhất. Họ buộc phải: hoặc là ghét diễn viên A, hoặc là thích
ứng viên thượng nghị sĩ đó.
Người thường - Common man
Dùng hình ảnh những “con người bình dị” hay “người thường” để thuyết phục người nghe rằng quan điểm của nhà tuyên truyền phản ánh lương tri, lẽ phải thông thường của dân chúng. Việc này nhằm giành sự tin cậy, tin tưởng của người nghe, thông qua việc trao đổi, trò chuyện, giao tiếp với họ bằng hình thức và phong cách chung của đối tượng đó.
Các nhà tuyên truyền sẽ dùng ngôn ngữ bình dân, phong cách bình dị (và che phủ thông điệp của mình bằng lối giao tiếp/ truyền thông trực diện, có cả nghe cả nhìn), cố gắng làm sao để đồng nhất quan điểm của mình với quan điểm của một người bình thường.
Ví dụ rất phổ biến của kỹ thuật tuyên truyền này là khi một chính khách, thường là khi tranh cử để được tái đắc cử, sẽ xuất hiện ở sân sau nhà hay là trong cửa hàng để làm những việc lặt vặt thường ngày. Hình ảnh đó rất hấp dẫn những người dân bình thường nói chung.
Bằng kỹ thuật sử dụng hình ảnh “người thường”, nhà tuyên truyền có thể giành được sự tin cậy của người dân - những người căm ghét hoặc không tin vào ngôn ngữ ngoại giao, ngôn từ có nhiều tiếng nước ngoài, ngôn ngữ hàn lâm của giới trí thức, hoặc các phong cách như thế.
Ví dụ khác: Một chính trị gia khi nói trước đám đông cử tọa là người ở các bang phía nam Hoa Kỳ có thể dùng những từ như “Y’all” (you all - tất cả các bạn) và các từ thông tục khác để tạo ra cảm giác ông ta thuộc về cộng đồng đó.
Sùng bái cá nhân - Cult of personality
Sùng bái cá nhân xuất hiện khi một cá nhân sử dụng truyền thông đại chúng để tạo ra một hình ảnh anh hùng và lý tưởng trước công chúng, thường là thông qua nịnh bợ, tâng bốc và tôn vinh không cần hỏi. Sau đó, cá nhân “anh hùng” đó sẽ cổ súy những lập trường/ quan điểm mà nhà tuyên truyền muốn thúc đẩy. Ví dụ, nhà tuyên truyền hiện đại thuê các cá nhân nổi tiếng để phổ biến ý tưởng và/hoặc sản phẩm của mình.
Biến đối phương thành ác quỷ - Demonizing the enemy
Làm cho các cá nhân thuộc quốc gia đối lập, thuộc sắc dân khác, hay là những người ủng hộ quan điểm đối lập với mình, trở thành không còn là người nữa, vô giá trị, hoặc vô đạo đức, thông qua việc sử dụng những cách dùng từ sai hoặc có hàm ý buộc tội (sai). Ví dụ: Từ “gooks” - nghĩa là “da vàng” - được dùng trong thời Chiến tranh Việt Nam để chỉ những người lính thuộc Mặt trận Quốc gia Giải phóng Miền Nam Việt Nam, tức Việt Cộng, hay “VC”. Coi đối phương như không phải là người nữa cũng đồng nghĩa với biến đối phương thành ác quỷ, cái sau thường là một nhánh nhỏ của cái trước.
Dictat
Kỹ thuật này hướng tới đơn giản hóa quá trình ra quyết định, bằng cách sử dụng các hình ảnh và ngôn từ để nói với người nghe chính xác là cần hành động như thế nào, xóa bỏ mọi lựa chọn khả dĩ khác. Có thể sử dụng các nhân vật quyền lực để ra lệnh - điều này giống như ở kỹ thuật “Viện dẫn thẩm quyền” đã nói ở trên, nhưng không nhất thiết. Hình Chú Sam với câu nói “Tôi cần các anh” là ví dụ của việc sử dụng kỹ thuật Dictat.
Tung tin sai lệch - Disinformation
Là tạo ra hoặc xóa bỏ thông tin khỏi các lưu trữ công cộng,
nhằm mục đích đưa đến sự ghi chép sai lệch về một sự kiện hoặc
hành động của một cá nhân hay tổ chức, gồm cả việc ngụy tạo triệt
để những hình ảnh, phim, chương trình phát thanh-truyền hình,
file ghi âm... cũng như các tài liệu văn bản.
Kỹ thuật “đập cửa vào mặt” - Door-in-the-face technique
Được dùng để làm tăng mức độ chấp nhận ở một người nào đó.
Ví dụ, nếu người bán hàng muốn bán một sản phẩm với giá 100
USD nhưng công chúng chỉ sẵn sàng trả có 50 USD, thì đầu tiên
người bán hàng đó rao bán sản phẩm với mức giá cao hơn (chẳng
hạn, 200 USD), và sau đó giảm giá xuống còn 100 USD để làm cho
nó giống như một cái giá phải chăng.
Nói giảm nói tránh, nói khéo – Euphemism
Nói giảm nói tránh, nói khéo, hay uyển ngữ, là những từ ngữ
hay thành ngữ nói chung là vô thưởng vô phạt, được sử dụng để
thay thế những ngôn từ có thể bị coi là thô lỗi, xúc phạm, hay hàm
ý không hay.
Khoái lạc - Euphoria
Sử dụng một sự kiện có khả năng tạo ra niềm vui, hạnh phúc,
hứng khởi, hoặc sử dụng một sự kiện thú vị để làm người nghe lên
tinh thần. Có thể tạo ra sự phấn khởi đó bằng cách tuyên bố một
ngày nghỉ, hạ giá các xa xỉ phẩm, hoặc tổ chức diễu binh với ban
nhạc và các thông điệp yêu nước.
Phóng đại - Exaggeration
Phóng đại (ngoa dụ) xuất hiện khi các khía cạnh quan trọng

nhất của một thông báo là đúng sự thật, nhưng chỉ đúng ở chừng
mực nào đó thôi. Kỹ thuật này còn được gọi là “tán thêm vào sự
thật” hay là làm cho cái gì đó trở nên hoành tráng hơn, ý nghĩa hơn,
thật hơn, sống động hơn thực tế. Nói rằng một người ăn được 20
cái nem trong bữa tiệc, trong khi thực ra người đó chỉ ăn 7-8 cái
nem, là một hành vi phóng đại.
Sợ hãi, bất trắc, và nghi ngờ - Fear, uncertainty, and doubt
Nỗ lực gây ảnh hưởng đến quan niệm của công chúng bằng
cách phát tán các thông tin tiêu cực, lờ mờ không đáng tin cậy/sai
lệch, nhằm phá hoại sự tín nhiệm của công chúng.
Vẫy cờ - Flag-waving
Cố gắng bao biện cho một hành động, lấy lý do là làm như thế
sẽ khiến cho mọi người yêu nước hơn; hay nói cách khác việc đó sẽ
có lợi cho tổ chức/ đất nước, hay cho một quan niệm. Tình cảm
yêu nước mà kỹ thuật này tạo ra có thể không nhất thiết làm giảm
hoặc xóa bỏ hoàn toàn khả năng kiểm tra vấn đề một cách lý tính,
duy lý.
Đặt dần chân vào cửa - Foot-in-the-door technique
Kỹ thuật này thường được các nhà tuyển dụng hoặc giới bán
hàng sử dụng. Ví dụ, người khác giới đi đến bên nạn nhân và trao
một bông hoa hay một món quà nhỏ cho nạn nhân. Nạn nhân cảm
ơn và thế là họ đã mắc một món nợ tâm lý với thủ phạm. Cuối
cùng, thủ phạm sẽ hỏi xin một ân huệ còn lớn hơn thế (chẳng hạn
xin tài trợ thiện nguyện hoặc mua một cái gì đó còn đắt hơn gấp
nhiều lần). Cái khế ước xã hội bất thành văn giữa nạn nhân và thủ
phạm khiến cho nạn nhân cảm thấy có một nghĩa vụ đáp lại bằng
cách đồng ý gia ân hoặc bỏ tiền mua một món quà đắt hơn nhiều.
Đóng khung, định hình, tạo khuôn - Framing (trong khoa
học xã hội)
Đóng khung là việc tạo ra một hiện tượng xã hội, thường là
bằng truyền thông đại chúng, bằng các phong trào chính trị hoặc
phong trào xã hội, bằng các nhà lãnh đạo chính trị, hoặc các diễn
viên và các tổ chức khác. Đó là một quá trình tất yếu: tác động một
cách có chọn lọc lên nhận thức của cá nhân về ý nghĩa được gán
cho các từ ngữ.
Các chuyên gia cho rằng, khi ta lý giải một sự việc nào đó, cách
ta hiểu về nó sẽ phụ thuộc vào “cái khung” mà ta gắn với nó. Ví dụ,
khi một người có hành vi nhắm rồi mở rất nhanh một con mắt với
ta, thì nếu gắn hành vi đó với cái khung “vật lý/ sinh lý”, ta sẽ hiểu
rằng đó chỉ là một phản ứng tự nhiên của cơ thể. Còn nếu gắn nó
với cái khung xã hội, ta sẽ cho rằng người ấy đang nháy mắt với ta,
có thể là đang đùa vui. Tất nhiên, chúng ta không đi theo thứ tự
nhìn sự việc - gắn nó vào một cái khung - lý giải; mà là ngược lại,
chúng ta áp đặt sẵn một cái khung vào mọi sự vật, hiện tượng, và
chúng ta chỉ biết được là mình đã bị đóng khung sẵn như thế khi
có ai đó hoặc cái gì đó buộc ta phải thay thế cái khung này bằng cái
khung khác.
Những cái tổng quát lấp lánh - Glittering generalities
Đó là những từ ngữ dễ nghe, cuốn hút, được áp dụng cho sản
phẩm hay ý tưởng, nhưng chẳng đưa ra được lý lẽ hay phân tích cụ
thể nào. Kỹ thuật này còn được gọi là “hiệu ứng PT Barnum”. Ví dụ
như slogan quảng cáo: Ford có một ý tưởng còn tuyệt vời hơn.
Phạm tội tập thể - Guilt by association or Reductio ad
Hitlerum
Kỹ thuật này được dùng để thuyết phục những người phản đối/
không tán thành một hành động hay ý tưởng, bằng cách gợi ý rằng
ý tưởng đó rất phổ biến/ được ưa thích bởi những nhóm mà họ
ghét, sợ, khinh bỉ. Do đó, nếu một nhóm ủng hộ một chính sách
nào đó lại bị dẫn dắt để tin rằng những người bị căm ghét, những
người gây rối/ chống phá, hoặc đáng khinh cũng ủng hộ chính sách
đó, thì khi ấy, các thành viên của nhóm ủng hộ có thể quyết định
thay đổi lập trường ban đầu của họ. Đây là một hình thức logic tồi,
trong đó, A được cho là bao gồm X, và B cũng được cho là bao gồm
X, do đó A = B.
Một nửa sự thật
Nửa sự thật là một phát biểu lừa dối nhưng có chứa đựng yếu tố
sự thật. Về hình thức, nó có vài dạng: phát biểu có thể đúng một
phần, phát biểu có thể đúng hoàn toàn nhưng chỉ là một phần của
toàn bộ sự thật, hoặc phát biểu có thể sử dụng một vài yếu tố lừa
dối, ví dụ như sử dụng cú pháp (dấu chấm câu) không đúng, hay
đa nghĩa, đặc biệt nếu ý đồ là để lừa, để trốn tránh, để buộc tội, hay
diễn giải sai sự thật.
Sự mơ hồ có chủ đích - Intentional vagueness
Những cái tổng quát được nêu ra một cách mơ hồ cố ý, sao cho
đối tượng có thể tự tìm cách diễn giải cho mình. Ý đồ là tác động
tới người nghe bằng cách sử dụng những cụm từ không được định
nghĩa, và không phân tích ý nghĩa của chúng cũng như không xác
quyết tính hợp lý hay khả năng ứng dụng chúng.
Chủ đích ở đây là khiến cho người ta phải tự rút ra diễn giải
riêng của mình thay vì tiếp nhận một ý kiến được trình bày rõ ràng.
Trong việc cố gắng “luận giải, làm rõ” nội dung được tuyên truyền,
người nghe sẽ bỏ qua việc đánh giá các ý kiến được trình bày. Ý
nghĩa, logic, tính hợp lý và khả năng ứng dụng có thể vẫn được
xem xét.
Dán nhãn - Labeling
Uyển ngữ (nói khéo) được dùng khi nhà tuyên truyền muốn
làm tăng chất lượng, độ tin cậy, hay sự chấp nhận từ phía người
nghe đối với một lý tưởng cụ thể nào đó. Còn thô ngữ (nói phũ)
được dùng khi chủ đích của nhà tuyên truyền là làm mất tín nhiệm,
là làm giảm chất lượng, độ tin cậy, hoặc hạ thấp phẩm chất của đối
phương. Bằng việc tạo ra một cái nhãn, bằng việc xếp loại, phân
loại người dân, sẽ dễ dàng hơn nhiều để nhà tuyên truyền lôi những
nhóm dân lớn hơn ra làm đối tượng, làm gương, bởi vì khi làm thế,
ông ta có thể nâng người ta lên hoặc bôi nhọ người ta mà không
thực sự phạm vào tội phỉ báng (bôi nhọ, xúc phạm nhân phẩm)
theo quy định của pháp luật.
Dán nhãn có thể được xem như một nhánh của kỹ thuật “Phạm
tội tập thể”, cũng là một dạng ngụy biện khác.
Biên độ chấp nhận - Latitudes of acceptance
Nếu thông điệp của một người nào đó nằm ngoài khả năng
chấp nhận của một cá nhân và/hoặc nhóm, thì hầu hết các kỹ thuật
tuyên truyền sẽ tạo ra sự phản kháng về mặt tâm lý (nếu chỉ nghe ý
kiến đó không thôi thì sẽ làm thông điệp thậm chí còn khó chấp
nhận hơn).
Có hai kỹ thuật để mở rộng biên độ chấp nhận. Một là, người đó
có thể đưa ra một quan điểm thậm chí còn cực đoan hơn, khiến
cho các quan điểm ôn hòa hơn sẽ trở nên dường như dễ nghe hơn.
Điều này tương tự như kỹ thuật “Đập cửa vào mặt”. Hoặc, hai là,
người đó có thể điều chỉnh quan điểm của mình cho ôn hòa hơn,
lọt vào trong biên độ chấp nhận được, và sau đó, dần dần tiến chậm
đến quan điểm mà trước đó bị phản ứng.
Ngôn từ gài bẫy/ cài cắm - Loaded language
Sử dụng những từ, ngữ có hàm ý cảm xúc mạnh để gây ảnh

hưởng lên người nghe. Ví dụ, dùng từ “cải cách” thay vì một từ
trung tính hơn là “thay đổi”.
Bom tình - Love bombing
Sử dụng kỹ thuật này để tuyển lựa các thành viên tham gia một
tín ngưỡng hay một ý thức hệ (chủ nghĩa), bằng cách làm cho một
nhóm cá nhân cắt mọi ủng hộ xã hội hiện có của họ dành cho một
người nào đó, và thay thế hoàn toàn sự ủng hộ đó bằng các thành
viên của nhóm - các thành viên đó sẽ dội bom người đó bằng thật
nhiều tình cảm yêu mến, nhằm nỗ lực cách ly người đó khỏi niềm
tin và hệ thống giá trị trước đấy của anh ta. Xem thêm Mileu
control (Kiểm soát hoàn cảnh).
Dối trá, lừa đảo - Lying and deception
Dối trá, lừa đảo có thể là cơ sở của rất nhiều kỹ thuật tuyên
truyền, gồm “Tấn công cá nhân”, “Nói dối trắng trợn”, “Bôi nhọ”,
“Đập cửa vào mặt”, “Một nửa sự thật”, “Gọi tên”, hoặc bất kỳ kỹ
thuật nào khác dựa trên sự giả trá hoặc lừa dối. Ví dụ, nhiều chính
khách đã bị phát hiện thường xuyên nói phét hoặc bẻ cong sự thật.
Quản lý báo chí - Managing the news
Theo Adolf Hitler, “kỹ thuật tuyên truyền thông minh nhất
cũng sẽ không đạt thành công nếu không luôn luôn ghi khắc trong
đầu một nguyên tắc căn bản - phải giới hạn nội dung lại trong một
vài điểm chính yếu và nhắc đi nhắc lại chúng”. Ý tưởng này thống
nhất với nguyên tắc “Điều kiện hóa kinh điển” cũng như nguyên
tắc “Tiếp tục thông điệp mãi”.
Kiểm soát hoàn cảnh - Milieu control
Cố gắng kiểm soát môi trường xã hội và các ý tưởng, thông qua
việc sử dụng áp lực xã hội.
Giảm thiểu - Minimisation
Giảm thiểu là kỹ thuật ngược lại với phóng đại. Nó là một kiểu
lừa dối trong đó nhà tuyên truyền hợp lý hóa sự phủ nhận, trong
những tình huống mà không thể nào phủ nhận hoàn toàn được.
Gọi tên - Name-calling
Các nhà tuyên truyền dùng kỹ thuật gọi tên để gây sợ hãi, thù
hận, và kích động thành kiến ở người nghe, nhằm mục đích làm
cho các tên xấu sẽ khiến người nghe hình thành quan điểm tiêu
cực về một nhóm hoặc một tập hợp những niềm tin/ ý tưởng mà
nhà tuyên truyền muốn người nghe phải lên án.
Phương pháp này nhằm đưa đến những kết luận về một vấn đề
mà không có sự kiểm chứng công bằng sự thật. Do đó, Gọi tên là
một thứ ngụy biện thế chỗ cho những lập luận duy lý, có căn cứ,
bác bỏ các quan điểm và niềm tin chỉ dựa trên sự đúng sai của
chúng.
Ví dụ: Dân Làm Báo gọi chính quyền Việt Nam là “tà quyền cộng
sản”, “vẹm nô”, “cộng nô”. Còn báo chí quốc doanh gọi chính quyền
Việt Nam là “Đảng và Nhà nước”.
Làm ngu người nghe, cố ý mơ hồ và gây rối trí - Obfuscation,
intentional vagueness, confusion
Những cái tổng quát được nêu ra một cách mơ hồ cố ý, sao cho
người nghe có thể tự tìm cách diễn giải cho mình. Ý đồ là tác động
tới người nghe bằng cách sử dụng những cụm từ không được định
nghĩa, và không phân tích ý nghĩa của chúng cũng như không xác
quyết tính hợp lý hay khả năng ứng dụng chúng.
Chủ đích ở đây là khiến cho người ta phải tự rút ra diễn giải
riêng của mình thay vì tiếp nhận một ý kiến được trình bày rõ ràng.
Trong việc cố gắng “luận giải, làm rõ” nội dung được tuyên truyền,
người nghe sẽ bỏ qua việc đánh giá các ý kiến được trình bày. Ý
nghĩa, logic, tính hợp lý và khả năng ứng dụng có thể vẫn được
xem xét.
Điều kiện hóa qua quan sát - Operant conditioning
Điều kiện hóa qua quan sát hàm ý việc học thông qua bắt chước.
Ví dụ, nhìn một người quyến rũ mua một sản phẩm nào đó hay có
một quan điểm như thế nào đó, sẽ khiến một cá nhân mua sản
phẩm đó hay có cùng quan điểm đó luôn. Điều kiện hóa qua quan
sát là nguyên tắc ẩn dưới các kỹ thuật Lặp đi lặp lại (Ad Nauseam),
Khẩu hiệu và các chiến dịch PR lặp đi lặp lại khác.
Đơn giản hóa thái quá - Oversimplification
Sử dụng những kết luận tổng quát được ưa thích, nhằm đưa ra
các câu trả lời thật giản đơn cho các vấn đề xã hội, chính trị, kinh tế
hoặc quân sự vốn rất phức tạp.
Hoa păng-xê độc nhất vô nhị - Pensée unique
Ra sức giảm thiểu các tranh luận, bằng cách sử dụng từ ngữ
hoặc lập luận đơn giản hóa thái quá, ví dụ: Không có khả năng nào
thay cho chiến tranh cả.
Tách câu trích dẫn khỏi bối cảnh của nó - Quotes out of
Context
Việc biên tập lại các câu trích dẫn một cách có chọn lọc có thể
làm thay đổi ý nghĩa của chúng. Các phim tài liệu về chính trị
nhằm mục đích làm mất tín nhiệm của đối thủ hoặc quan điểm
chính trị đối lập thường sử dụng kỹ thuật này.
Hợp lý hóa - Rationalization
Các cá nhân hay nhóm có thể sử dụng những điều tổng quát
được ưa thích để hợp lý hóa các hành động hay niềm tin còn bị
nghi ngờ. Thường là nên dùng những cụm từ mơ hồ và dễ nghe để
biện hộ cho các hành động hay niềm tin đó.
Cá trích đỏ (đánh tráo chủ đề) - Red herring
Trình bày các dữ liệu hoặc vấn đề mà, mặc dù đáng chú ý nhưng
hoàn toàn không thích hợp với chủ đề/ lập luận đang bàn, và sau
đó tuyên bố rằng những dữ liệu hoặc vấn đề đó là có giá trị.
Nhắc lại - Repetition
Tức là việc nhắc lại một biểu tượng hoặc slogan cụ thể nào đó,
để cho người nghe phải nhớ nó. Kỹ thuật này có thể thể hiện dưới
dạng một điệp từ/ điệp ngữ, hoặc một hình ảnh được đặt trên gần
như tất cả mọi nơi trong bức tranh/ quang cảnh. Nó bao gồm cả
việc sử dụng những từ ngữ, hình ảnh hoặc các nội dung khác thuộc
về tiềm thức, trong một sản phẩm tuyên truyền.
Con dê tế thần - Scapegoating
Đổ hết mọi sự chỉ trích lên một cá nhân hay một nhóm, nhờ đó
làm giảm tội lỗi của các bên chịu trách nhiệm và/hoặc đánh lạc
hướng, làm dư luận mất sự chú ý đến việc giải quyết vấn đề đang bị
chỉ trích.
Khẩu hiệu - Slogans
Khẩu hiệu là một cụm từ ngắn gọn, mạnh mẽ, có thể bao gồm
cả hành vi dán nhãn và rập khuôn. Mặc dù khẩu hiệu có thể được
dùng để bày tỏ sự ủng hộ đối với những quan điểm hợp lý, nhưng
trên thực tế, chúng có xu hướng chỉ để đánh vào cảm xúc.
Những người chỉ trích việc Mỹ đem quân vào chiếm Iraq đã sử
dụng khẩu hiệu “Đổi máu lấy dầu” để ngụ ý rằng việc xâm lược và
những tổn thất về con người (mà Mỹ gây ra) là nhằm tiếp cận
những giếng dầu của Iraq. Mặt khác, những người ủng hộ lại nói
rằng Mỹ nên tiếp tục chiến đấu ở Iraq, và họ dùng khẩu hiệu “cắt
giảm và tháo chạy”, hàm ý rút quân là hèn, là yếu.
Tương tự, tên gọi của các chiến dịch quân sự, ví dụ “tự do lâu
dài” (“enduring freedom”) hay “sự nghiệp công bình” (“just cause”)

cũng có thể được coi là khẩu hiệu, được thiết kế nhằm tác động lên
con người.
Rập khuôn, hay “Gọi tên” hay “Dán nhãn” - Stereotyping or
Name Calling or Labeling
Kỹ thuật này nhằm kích động thành kiến ở người nghe, bằng
cách dán nhãn lên đối tượng của chiến dịch tuyên truyền, coi đó
như cái gì mà người nghe sợ hãi, căm ghét, kinh tởm, hoặc cảm
thấy không thể ưa nổi. Chẳng hạn, đưa tin về một nước khác hay
một nhóm xã hội nào đó, có thể tập trung vào những đặc điểm rập
khuôn mà người đọc đã định trước, mặc dù những đặc điểm đó
không đại diện cho cả quốc gia hay nhóm xã hội đó; việc đưa tin
thường tập trung vào các giai thoại.
Vận dụng kỹ thuật này trong tranh ảnh cổ động tuyên truyền,
gồm cả poster chiến tranh, họa sĩ thường khắc họa hình ảnh kẻ thù
với những đặc điểm về nhân chủng sai lệch.
Người rơm - Straw man
Ngụy biện người rơm là một kiểu ngụy biện dựa vào việc diễn
giải sai quan điểm của đối thủ. “Tấn công người rơm” tức là tạo ra
huyễn tưởng rằng mình đã bác bỏ một luận điểm bằng cách thay
thế nó bằng một luận điểm nhìn bề ngoài có vẻ tương tự (“người
rơm”), sau đó bác bỏ nó, mà thậm chí chưa hề thực sự bác bỏ quan
điểm ban đầu của đối thủ.
Chứng thực - Testimonial
Chứng thực là những trích dẫn, đặt trong hoặc đặt ra ngoài bối cảnh, đặc biệt nhằm ủng hộ hoặc bác bỏ một chính sách/ hành động/ chương trình/ cá nhân cụ thể nào đó. Khai thác uy tín hoặc vai trò (chuyên gia, nhân vật công chúng được kính trọng, v.v...) của cá nhân đưa ra những phát biểu ấy.
Sự chứng thực sẽ áp đặt hình phạt/ sự khen ngợi chính thức của cá nhân được kính trọng hay bên có thẩm quyền đó lên thông điệp tuyên truyền. Điều này nhằm khiến cho người nghe tự đồng nhất mình với bên có thẩm quyền hoặc chấp nhận các quan điểm và niềm tin của bên có thẩm quyền, coi đó như quan điểm và niềm tin của mình. Xem thêm “trích dẫn có hại” (damaging quotation).
Bên thứ ba - Third party technique
Kỹ thuật này vận hành dựa trên nguyên tắc: Con người sẵn sàng chấp nhận một lập luận/ lý lẽ từ một nguồn tin có vẻ độc lập, hơn là từ ai đó liên quan. Nó là một chiến dịch marketing được sử dụng rộng rãi bởi các công ty PR, theo đó, những thông điệp có mưu tính từ trước sẽ được đặt vào miệng “giới truyền thông, báo chí”.
Kỹ thuật bên thứ ba này có thể có rất nhiều hình thức thể hiện, từ việc thuê nhà báo đưa tin về tổ chức theo hướng có lợi cho tổ chức, đến việc sử dụng các nhà khoa học trong tổ chức để trình bày những phát hiện tưởng như khách quan của họ cho công chúng.
Xem thêm: Quyền lực mềm.
Sáo ngữ “khỏi nghĩ” - Thought-terminating cliché
Là những thành ngữ, tục ngữ, những cụm từ được sử dụng rộng rãi, đôi khi được coi như trí khôn của nhân dân, dùng để dẹp hết sự không hòa hợp về nhận thức.
Chuyển giao - Transfer
Còn được gọi là “liên hệ, liên kết, liên tưởng”, một kỹ thuật chuyển những phẩm chất tích cực hoặc đặc điểm tiêu cực (hay những lời khen ngợi hoặc chỉ trích) ở một người, một tổ chức/ thực thể, một sự vật sự việc, một giá trị, sang đối tượng khác để khiến đối tượng khác đó dễ được chấp nhận hơn, hoặc để làm mất độ tin cậy của nó.
Kỹ thuật này tạo ra một phản ứng về mặt tình cảm, mà phản ứng này sẽ kích thích người nghe, khiến họ đồng nhất mình với các bên có thẩm quyền đã được công nhận. Nó thường có tính thị giác rất cao, thường sử dụng những biểu tượng (chẳng hạn như biểu tượng chữ thập ngoặc của nước Đức quốc xã, ban đầu nó vốn là biểu tượng của sức khỏe và sự thịnh vượng) đè lên các hình ảnh thị giác khác.
Giả định ngầm - Unstated assumption
Kỹ thuật này được dùng khi nội dung tuyên truyền có thể sẽ tỏ ra ít độ tin cậy hơn nếu được nêu ra một cách rõ ràng. Do đó, thay vì thế, nội dung tuyên truyền sẽ liên tục được giả định hoặc ám chỉ/ ngụ ý ngầm.
Những từ cao đẹp - Virtue words
Đó là những từ nằm trong hệ thống giá trị của người nghe, có khả năng tạo ra một hình ảnh tích cực khi chúng được gắn với một cá nhân hay một vấn đề nào đó, có khả năng tạo ra những tình cảm tốt đẹp như: yêu mến, cảm thông, tôn trọng, quý trọng, tình anh em..
Hòa bình, hy vọng, hạnh phúc, an toàn, lãnh đạo sáng suốt, tự do, công lý, chân lý, sự thật, v.v... là những từ cao đẹp. Nhiều người coi ngoan đạo là một phẩm chất, khiến cho mọi sự liên hệ đến phẩmchất này đều rất có lợi và hiệu quả. Xem thêm “Chuyển giao” (transfer).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Politics”, Andrew Heywood, 3rd edition, Palgrave Foundations, 2007.
2. “Governing: An Introduction to Political Science”, Austin Ranney, 8th edition, Prentice Hall, 2001
3. “Political Philosophy - A Complete Introduction”, Phil Parvin & Clare Chambers, McGraw-Hill Companies, Inc., 2012
4. “Democracy: A Reader”, Larry Diamond & Marc F. Plattner, John Hopkins University Press, 2009
5. “The Future of Freedom: Illiberal Democracy at Home and Abroad”, Fareed Zakaria, 1st edition, W. W. Norton & Company, 2007
6. “Public Policy: Politics, Analysis, and Alternatives”, Kraft & Furlong, 3rd edition, CQ Press, 2009
7. “Introduction to Public Policy”, Charles Wheelan, 1st edition, W. W. Norton & Company, 2011
8. “Society: Understanding the Basics”, John J. Macionis, 8th edition, Prentice Hall, 2006
9. “Political science”, Government of Tamilnadu, India, 2003
10. “Fundamentals of Political Science”, the Philippines, 2013
11. “Trial Observation Manual for Criminal Proceedings: Practitioners Guide No. 5”, International Commission ofJurists (ICJ), 2009
12. “Introducing Democracy: 80 Questions and Answers”, David Beetham & Kevin Boyle, UNESCO Publishing, 2nd edition, 2005.
TỪ ĐIỂN THUẬT NGỮ
Accountability: trách nhiệm giải trình. Nghĩa vụ của nhà nước, của cơ quan nhà nước, quan chức, công chức, công an phải báo cáo đầy đủ với người dân, phản hồi khiếu nại, giải thích, làm rõ, minh bạch và chịu trách nhiệm trước người dân về mọi hoạt động chính trị và hành vi ứng xử của mình.
Activist: nhà hoạt động
Legal activist: nhà hoạt động pháp lý
Administration: 1. chính quyền; 2. sự quản lý
Administrative: hành chính (tính từ)
Administrative machinery: bộ máy hành chính
Administrator: nhân viên hành chính (như civil servant, bureaucrat)
Adversarial system: hệ thống tranh tụng, hệ thống đối nghịch. Hệ thống luật pháp theo thể thức tranh tụng.
Advocacy: sự vận động
Advocacy T-shirt: áo phông vận động
International advocacy: vận động quốc tế
Agenda: chương trình nghị sự
Amendment: đề xuất sửa đổi một đạo luật; tu chính án
Anarchism: chủ nghĩa vô chính phủ
Anarchist: người theo thuyết vô chính phủ
Apathy: sự vô cảm
Apathetic: vô cảm (tính từ)
Arbitrary: tùy tiện, thích làm gì thì làm (tính từ)
Arbitrary detention/ arrest: bắt giữ tùy tiện, là hành vi bắt giữ người mà không có chứng cứ về việc người đó phạm tội, và/hoặc hành vi bắt giữ người được tiến hành không bảo đảm trình tự, thủ tục pháp lý, ví dụ bắt người mà không có lệnh bắt.
Assembly: 1. sự tụ tập; 2. hội đồng
Peaceful assembly: cuộc tụ tập ôn hòa
National assembly: quốc hội
Authority: quyền lực (như power)
State authority: quyền lực nhà nước
Traditional authority: quyền lực có được do truyền thống để lại
Charisma authority: quyền lực có được do có cá nhân kiệt xuất thu hút lòng người
Rational-legal authority: quyền lực có được một cách hợp pháp, hợp lý
Autocracy: chế độ chuyên quyền
Authoritarianism: chế độ độc đoán
Ballot: lá phiếu; sự bỏ phiếu
Banner: băng rôn
Bicameral: lưỡng viện (tính từ)
Bicameral assembly/ legislature: quốc hội lưỡng viện
Bill: dự thảo luật, dự luật
Boycott: tẩy chay (động từ)
Bureaucrat: công chức (như administrator, civil servant)
Bureaucracy: hệ thống hành chính, hệ thống quan liêu (hàm ý tiêu cực)
Cabinet: nội các
Campaign: chiến dịch
Social campaign/ movement: phong trào xã hội
Caste: đẳng cấp
Caste system: chế độ đẳng cấp
Censor: kiểm duyệt (động từ)
Censorship: sự kiểm duyệt, chế độ kiểm duyệt
Centralization: tập trung hóa
Centralism: chế độ tập quyền trung ương; chế độ tập trung
Democratic centralism: nguyên tắc tập trung dân chủ
Citizenry: toàn thể các công dân của một quốc gia hay một lãnh thổ
Civil servant: công chức (như administrator, bureaucrat)
Civil society: xã hội dân sự
Civil society actor(s): chủ thể hoạt động xã hội dân sự
Civil society organization (CSO): tổ chức xã hội dân sự
Unregistered CSO: tổ chức xã hội dân sự không đăng ký
Civil society space/ sphere: không gian xã hội dân sự
Chief of State: người đứng đầu nhà nước, nguyên thủ quốc gia
Collective action: hành động tập thể
Communication: truyền tải thông tin, truyền thông
Political communication: truyền thông chính trị
Communism: chủ nghĩa cộng sản
Orthodox communism: chủ nghĩa cộng sản chính thống (xuất phát ở Liên Xô)
Communitarianism: chủ nghĩa cộng đồng
Community: cộng đồng
Community-based organization (CBO): tổ chức cộng đồng
Congress: 1. Đại hội; 2. Quốc hội (Mỹ...)
Congressman/ Congresswoman: dân biểu/ nữ dân biểu (ở Mỹ)
Consent (tính từ), consensus (danh từ): đồng thuận, với sự tự nguyện thỏa thuận và tự nguyện đồng ý
Conservatism: chủ nghĩa bảo tồn (hay chủ nghĩa bảo thủ)
Constituency: đơn vị bầu cử, khu vực bầu cử
Constituent: cử tri (như voter)
Constitutional: hợp hiến, lập hiến, mang tính chất của một hiến pháp (tính từ)
Constitutionalism: chủ nghĩa lập hiến, chủ nghĩa hợp hiến
Corporatism: chủ nghĩa nghiệp đoàn. Việc các tập đoàn lớn, các nhóm lợi ích lớn kiểm soát, chi phối cả nhà nước
Corruption: tham nhũng
Macro corruption: đại án tham nhũng, tham nhũng lớn
Petty corruption: tham nhũng vặt
Country: đất nước
Court: tòa án
Constitutional court: tòa án hiến pháp; tòa bảo hiến
High court: tòa án cấp cao
Supreme court: tòa án tối cao; tối cao pháp viện
Debate: tranh luận
Social debate: thảo luận trên toàn xã hội, phản biện xã hội
Decentralization: phi tập trung hóa
Demagogy: sự mị dân, thói mị dân
Democracy: dân chủ
Direct democracy: dân chủ trực tiếp
Representational democracy: dân chủ đại diện
Demonstrate: biểu tình (động từ)
Demonstration: cuộc biểu tình (danh từ)
Development: phát triển
Development project: dự án phát triển
Dictatorship: chế độ độc tài, ách độc tài
Dictatorship of the proletariat: chuyên chính vô sản. Một nhà nước trong đó giai cấp vô sản, tức là công nhân, kiểm soát quyền lực chính trị.
Dictator: nhà độc tài
Discrimination: sự phân biệt đối xử
Doctrine: học thuyết
Dogmatic: giáo điều (tính từ)
Dualism: thuyết nhị nguyên
Election: bầu cử
Free and fair election: bầu cử tự do và công bằng
Elite: tinh hoa (danh từ, tính từ)
The intellectual elite: giới trí thức tinh hoa
Environmentalism: chủ nghĩa môi trường
Equality: bình đẳng
Equality of opportunity: bình đẳng về cơ hội, đầu vào
Equality of outcome: bình đẳng về kết quả, đầu ra
Ethnicity: sắc tộc, sắc dân
Ethnic minority: dân tộc thiểu số
Ethnic cleansing: thanh lọc sắc tộc
Evaluation: đánh giá
Evolution: chuyển hóa, sự thay đổi từ từ
Executive: điều hành, hành pháp (tính từ)
Executive branch: nhánh hành pháp
Fascism: chủ nghĩa phát xít, chế độ phát xít
Feminism: chủ nghĩa nữ quyền
Filibuster: thủ tục cản trở việc thông qua một đạo luật ở nghị viện
Fragmented: chia rẽ (tính từ)
Freedom: tự do, quyền tự do (cũng freedom right)
Negative freedom: tự do không (điều kiện)
Positive freedom: tự do có (điều kiện)
Freedom of (peaceful) assembly: quyền tự do tụ tập (ôn hòa)
Freedom of association: quyền tự do hiệp hội
Freedom of expression: quyền tự do biểu đạt
Freedom of creative expression: quyền tự do sáng tác
Front: mặt trận

The Vietnamese Fatherland Front: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Fundamentalism: chủ nghĩa tôn giáo thuần túy
Fusion of power: quyền lực hợp nhất
Gerrymandering: sự sắp xếp gian lận về khu vực bỏ phiếu để giành phần thắng trong bầu cử
Globalization: toàn cầu hóa
Government-organized non-governmental organization
(GONGO): tổ chức phi chính phủ do chính phủ điều hành (tức là tổ chức phi chính phủ giả, do chính quyền lập nên để phục vụ lợi ích của mình và diễn trò dân chủ với cộng đồng quốc tế)
Governance: điều hành (đất nước)

Govern: cai trị, điều hành (động từ)
Government: 1. chính quyền; 2. chính phủ
Head of Government: người đứng đầu chính phủ, thủ tướng.
Hearing: buổi điều trần
Hierarchy: hệ thống cấp bậc, thứ bậc, tôn ti (danh từ)
House of representative: hạ viện
Human rights: nhân quyền, quyền con người
Human rights defender: người bảo vệ nhân quyền
Human rights violation(s): vi phạm nhân quyền
Idea: quan điểm, quan niệm
Ideology: chủ nghĩa, ý thức hệ, hệ tư tưởng
Impeachment: cơ chế luận tội (tổng thống, chánh án) trong chính trị Mỹ; sự luận tội
Individualism: chủ nghĩa cá nhân
Injustice: sự bất công
Inquisitorial system: hệ thống thẩm vấn, hệ thống điều tra. Hệ thống pháp luật theo thể thức điều tra.
Institution: thiết chế, thể chế, định chế
Intergovernmental organization (IGO): tổ chức liên chính phủ
Interest(s): lợi ích
Interventionism: chủ nghĩa can thiệp. Việc nhà nước ra các chính sách để điều tiết hay quản lý đời sống kinh tế, hay nói rộng ra là chính sách can dự, can thiệp nói chung của nhà nước.
Issue: vấn đề (danh từ); phát hành, ban hành (động từ)
Journalism: nghề báo
Citizen journalism: báo chí công dân
Judicial review: cơ chế bảo hiến. Cơ chế đánh giá lại một đạo luật xem có vi hiến hay không, nếu vi hiến thì nó sẽ bị tuyên vô hiệu.
Judiciary: tư pháp (tính từ)
Judiciary branch: nhánh tư pháp
Judiciary system: hệ thống tư pháp
Justice: công lý
Administer justice: thực thi công lý (động từ)
Miscarriage of justice: oan sai, án oan
Legitimacy: tính chính danh (danh từ)
Legitimate: chính danh, chính đáng, phải đạo (tính từ)
Performance legitimacy: tính chính danh có được nhờ đạt thành tựu về kinh tế và/hoặc đạo đức, cộng với năng lực bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Legislation: đạo luật
Legislative: lập pháp (tính từ)
Legislative branch: nhánh lập pháp
Legislative process: tiến trình lập pháp
Legislature: cơ quan lập pháp
Liberal: tự do, khai phóng, rộng rãi, hào phóng, không định kiến (tính từ)
Liberalism: chủ nghĩa tự do
Classical liberalism: chủ nghĩa tự do cổ điển
Modern American liberalism: chủ nghĩa tự do hiện đại ở Mỹ
Liberty: tự do (danh từ)
Litigation: khiếu kiện, hoạt động kiện tụng
Lobby: vận động hành lang
Lobbyist: nhà vận động, người vận động hành lang chuyên nghiệp
Majority: đa số
Leader of the majority: lãnh đạo phe đa số
Tyranny of the majority; majority rule: ách độc tài của số
đông; đa số đánh bại thiểu số
Marxism: chủ nghĩa Mác
Mass: quần chúng

Mass organization: tổ chức quần chúng
Mechanism: cơ chế
United Nations human rights mechanism(s): (các) cơ chế bảo vệ nhân quyền của Liên Hợp Quốc
Media: giới truyền thông, các phương tiện truyền thông
Independent/ alternative media: truyền thông độc lập
Internet media: truyền thông Internet
Mainstream media: truyền thông chính thống
Mass media: truyền thông đại chúng
Social media network: mạng truyền thông xã hội
Meritocracy: chế độ nhân tài. Một xã hội hoặc một thể chế trong đó người ta có được quyền lực và/hoặc tiền bạc của cải là do có tài.
Military: quân đội
Military rule: quân phiệt
Minority: thiểu số
Miscarriage(s) of justice: oan sai
Victims of miscarriage of justice: dân oan
Monism: thuyết nhất nguyên
Movement: phong trào
Social movement: phong trào xã hội
Nation: quốc gia
Nationalism: chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa dân tộc
Nepotism: gia đình trị
Neutral: trung lập (tính từ)
Neutrality: tính trung lập, sự trung lập (danh từ)
Nomination: đề cử, tiến cử
Self-nomination: sự tự ứng cử, hành động tự ứng cử
Non-governmental organization (NGO): tổ chức phi chính phủ
International non-governmental organization (INGO): tổ chức phi chính phủ quốc tế
Obligation: nghĩa vụ
Political obligation: nghĩa vụ chính trị
Opinion: ý kiến, quan niệm, quan điểm
Public opinion: công luận
Public opinion shaper: người định hướng dư luận (có thể là
một trong các cách dịch từ “dư luận viên”)
Key opinion leader (KOL): người chủ chốt định hình công luận
Parliamentary system: chế độ đại nghị, nghị viện chế
Partisan: tính bè phái (tính từ)
Partisanship: tính bè phái, chủ nghĩa bè phái, đầu óc bè phái (danh từ)
Party: đảng, đảng phái. Một nhóm có tổ chức, gồm các cá nhân nhất trí với nhau về một hoặc một số nguyên tắc chính trị chung (một ý thức hệ hay một chính sách v.v...) và cùng nhau hoạt động để giành và giữ quyền lãnh đạo, nhằm phục vụ lợi ích quốc gia và hưởng lợi từ việc có được quyền lãnh đạo đó.
Patriotism: lòng yêu nước, chủ nghĩa ái quốc
Petition: kiến nghị (động từ, danh từ)
Picket: biểu tình đứng hoặc ngồi
Pluralism: thuyết đa nguyên
Policy: chính sách
Policy advocacy: vận động chính sách
Policy grid: thế bế tắc về chính sách
Policy making: làm chính sách, hoạch định chính sách
Policy process: tiến trình chính sách
Poll: cuộc khảo sát lấy ý kiến bằng cách bỏ phiếu
Power: quyền lực (như authority) 
Populism: dân túy
Presidential system: chế độ tổng thống, tổng thống chế
Press: báo chí, báo giới
Pressure: áp lực (danh từ, động từ)
Pressure group: nhóm gây áp lực, nhóm vận động
Prisoner of conscience: tù nhân lương tâm. Người bị tù chỉ vì đã thực thi một cách ôn hòa quyền tự do biểu đạt của họ, và không sử dụng bạo lực hay cổ súy bạo lực, hận thù.
Private: riêng, riêng tư, tư nhân, của riêng
Private sphere: không gian riêng, không gian tư
Pragmatism: chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa thực tiễn, chủ nghĩa hành động
Problem: vấn đề, nan đề
Public problem/ issue: vấn đề chung của cộng đồng, xã hội

Process: tiến trình, quá trình
Due process: tiến trình hợp lý; (trong luật) đúng trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định, đúng chuẩn mực tố tụng, pháp trình chính đáng
Proceedings: tố tụng, thủ tục tố tụng, tiến trình tố tụng
Criminal proceedings: tố tụng hình sự
Propaganda: tuyên truyền, tuyên giáo (hàm nghĩa tiêu cực)
Propagandist: nhà tuyên truyền, tuyên giáo
Public: công, công cộng, của chung
Public debt: nợ công
Public opinion: công luận
Public order: trật tự công cộng
Public sphere: không gian công cộng
Purging: thanh trừng
Rational: duy lý, hợp lý (tính từ)
Reactionary: chống lại sự tiến bộ, chống lại cách mạng (tức là phản động, trái nghĩa với cách mạng)
Reform: cải cách
Reign: trị vì (động từ)
Representation: đại diện
Geographical representation: đại diện theo khu vực địa lý
Proportional representation: đại diện theo tỷ lệ
Repression: sự trấn áp
Restriction: sự hạn chế, ngăn trở
Restriction of freedom rights: sự hạn chế các quyền tự do
Revisionism: chủ nghĩa xét lại
Revolution: cách mạng
Revolutionary: nhà cách mạng, người làm cách mạng
Right: quyền
Civil and political rights: các quyền dân sự và chính trị
Economic and cultural rights: các quyền kinh tế và văn hóa
Rule: nền cai trị, sự cai trị
Rule of law: pháp trị, pháp quyền. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, xã hội thượng tôn pháp luật.
Rule by law: ỷ pháp trị quốc. Dùng luật pháp để tiện cho việc cai trị dân còn giai cấp thống trị thì ngồi trên luật pháp, hưởng đặc quyền đặc lợi.
Samizdat: (phong trào) tự xuất bản, xuất bản chui
Secular: thế tục (tính từ)
Semi-presidential system: chế độ bán tổng thống
Senate: thượng viện
Senator: thượng nghị sĩ
Separation of power: tam quyền phân lập
Sit-in: tọa kháng, biểu tình ngồi
Slogan: khẩu hiệu
Socialism: chủ nghĩa xã hội

Social democracy: dân chủ xã hội
Social mobilization: lưu động xã hội
Sovereignty: chủ quyền, quyền quyết định tối cao
State: 1. nhà nước; 2. quốc gia
Police state: nhà nước công an trị, nhà nước cảnh sát
Statism: chủ nghĩa nhà nước, chủ nghĩa trọng nhà nước, thuyết trung ương tập quyền
Strike: đình công (động từ, danh từ)
Hunger strike: tuyệt thực (danh từ)
Supporter: người ủng hộ, cảm tình viên
Suppression: sự đàn áp (danh từ)
Suppress: đàn áp (động từ)
Survey: khảo sát (động từ), cuộc khảo sát (danh từ)
Sympathy: thiện cảm, tình cảm, sự cảm thông (danh từ)
Sympathizer: người ủng hộ, cảm tình viên
Territory: lãnh thổ
Terrorism: sự khủng bố, chủ nghĩa khủng bố
White terrorism: khủng bố trắng.
Red terrorism: khủng bố đỏ
Think-tank: viện nghiên cứu chiến lược, viện tư tưởng
Tolerance: tinh thần khoan dung, bao dung, chấp nhận
Totalitarianism: chế độ toàn trị
Tradition: truyền thống
Transparency: sự minh bạch
Unfair: bất công, không công bằng (tính từ)
Unicameral: một viện (tính từ)
Unicameral assembly/ legislature: quốc hội một viện
Unjust: bất công (tính từ)
Veto: sự phủ quyết, quyền phủ quyết
Violence: bạo lực (danh từ); violent (tính từ)
Non-violent resistance: đấu tranh, phản kháng phi bạo lực
Vote: bỏ phiếu (động từ), lá phiếu (danh từ)
Vote counting: đếm phiếu, kiểm phiếu
Welfare: phúc lợi
Welfare state: nhà nước phúc lợi
Workfare state: nhà nước công lợi
Wrongdoing: sai phạm
Bảo hiến 351
Bầu cử 8, 101, 110, 111, 195, 247, 248, 250, 251, 252, 253, 256, 264, 269, 273, 274, 277, 280, 281, 394, 463
Bình đẳng 93, 133, 140, 153, 154, 430
Chính danh 72, 74
Chính phủ 40, 50, 61, 158, 177, 277, 294, 295, 325, 360, 363, 366, 381, 398, 402, 405, 410, 412, 413, 414, 415, 416, 422, 423, 450, 451, 452, 457, 462, 463
Chính quyền 7, 21, 59, 65, 69, 70, 78, 84, 110, 111, 112, 203, 227, 265, 306, 444
Chủ nghĩa 8, 108, 128, 131, 133, 134, 138, 140, 141, 143, 144, 145, 146, 148, 151, 152, 153, 
154, 155, 156, 157, 161, 162, 163, 164, 165, 166, 167, 176, 181, 183, 184, 193, 194, 204, 392, 422, 457, 469, 471

bảo tồn (bảo thủ) 22, 146
cộng đồng 14, 18, 26, 27, 29, 31, 32, 33, 35, 40, 49, 57, 58, 74, 83, 87, 92, 95, 96, 102, 103, 104, 116, 131, 133, 134, 139, 153, 154, 157, 159, 162, 163, 165, 166, 167, 181, 183, 191, 193, 207, 212, 221, 306, 307, 310, 311, 313, 314, 315, 321, 323, 325, 327, 330, 335, 347, 353, 370, 417, 428, 433, 470, 471, 475, 477, 479, 486, 495, 511, 514, 519
cộng sản 17, 48, 50, 58, 60, 72, 73, 74, 75, 76, 79, 81, 84, 93, 101, 103, 104, 113, 123, 125, 127, 152, 153, 154, 155, 156, 157, 161, 162, 176, 177, 182, 191, 204, 211, 214, 216, 231, 233, 234, 236, 238, 240, 241, 243, 249, 254, 255, 256,
ĐỀ MỤC TRA CỨU
257, 259, 264, 268, 271, 287, 295, 315, 316, 319, 351, 352, 353, 354, 355, 356, 370, 379, 389, 393, 394, 416, 418, 421, 422, 435, 450, 457, 461, 472, 474, 475, 486, 501, 511
dân chủ xã hội 8, 125, 131, 153, 155, 157, 158, 193, 367, 521
dân tộc 22, 32, 52, 63, 72, 73, 74, 75, 85, 86, 87, 121, 131, 143, 152, 161, 162, 181, 182, 183, 184, 193, 198, 211, 239, 274, 309, 310, 315, 333, 359, 360, 363, 370, 373, 374, 379, 393, 398, 411, 420, 439, 442, 444, 463, 491, 513, 517
môi trường 46, 63, 80, 131, 138, 164, 193, 220, 221, 227, 250, 290, 292, 308, 309, 310, 311, 321, 322, 338, 340, 412, 425, 429, 452, 456, 485, 501, 513, 529
nữ quyền 125, 129, 131, 167, 169, 173, 193, 292, 514
phát xít 22, 72, 125, 131, 161, 162, 163, 182, 193, 421, 493, 513
quốc gia 27, 31, 33, 38, 44, 45, 59, 61, 65, 69, 70, 75, 76, 77, 83, 85, 86, 100, 107, 110, 116, 125, 130, 155, 158, 162, 163, 171, 181, 182, 183, 184, 189, 193, 220, 226, 228, 230, 231, 245, 263, 268, 271, 294, 311, 318, 321, 322, 323, 324, 347, 348, 349, 350, 374, 377, 378, 379, 381, 388, 389, 401, 405, 406, 407, 412, 415, 418, 419, 420, 421, 426, 432, 433, 437, 441, 446, 450, 452, 459, 463, 467, 468, 469, 472, 473, 474, 483, 484, 485, 486, 487, 488, 489, 495, 504, 511, 516, 517, 518, 521
thực dụng 143, 144, 194, 
428, 519

tôn giáo thuần túy 514
tự do 8, 11, 13, 14, 18, 21, 22, 29, 39, 46, 52, 59, 60, 61, 62, 74, 76, 77, 93, 95, 107, 108, 109, 110, 111, 113, 114, 117, 120, 121, 123, 124, 125, 127, 128, 131, 133, 134, 135, 136, 137, 138, 140, 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147, 148, 149, 150, 156, 158, 161, 162, 163, 164, 166, 171, 172, 173, 179, 182, 193, 194, 201, 204, 208, 226, 227, 228, 236, 245, 248, 249, 252, 253, 254, 255, 256, 257, 258, 259, 264, 266, 273, 275, 276, 277, 280, 289, 290, 291, 297, 300, 309, 311, 316, 318, 321, 322, 324, 325, 328, 330, 334, 335, 348, 351, 354, 356, 357, 361, 363, 370, 404, 405, 432, 441, 445, 446, 458, 469, 471, 472, 473, 474, 475, 478, 486, 487, 488, 504, 506, 513, 514, 516, 519, 520
vô chính phủ 131, 163, 164, 193, 348, 458, 509
xã hội 8, 9, 13, 14, 15, 18, 22, 25, 26, 27, 29, 30, 31, 32, 33, 34, 35, 40, 41, 43, 44, 48, 50, 51, 52, 61, 62, 63, 65, 69, 70, 71, 72, 73, 74, 75, 76, 77, 79, 80, 84, 94, 95, 96, 102, 103, 104, 107, 108, 109, 110, 113, 114, 115, 119, 120, 121, 124, 125, 128, 129, 131, 133, 138, 140, 141, 143, 144, 145, 146, 148, 149, 151, 152, 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 161, 162, 163, 165, 166, 167, 173, 175, 176, 177, 179, 180, 193, 194, 195, 197, 198, 199, 200, 201, 202, 203, 204, 205, 206, 208, 209, 210, 212, 215, 216, 217, 218, 219, 225, 226, 228, 232, 233, 239, 244, 245, 246, 248, 251, 254, 255, 256, 257, 259, 266, 269, 273, 274, 289, 290, 291, 292, 294, 296, 299, 300, 302, 303, 305, 306, 307, 308, 309, 310, 311, 312, 313, 314, 315, 317, 318, 319, 320, 324, 329, 333, 334, 335, 337,338, 339, 340, 341, 342, 343, 351, 353, 354, 355, 356, 357, 360, 362, 366, 367, 368, 373, 379, 390, 392, 404, 405, 411, 412, 416, 417, 426, 433, 435, 439, 441, 442, 444, 452, 455, 
457, 458, 461, 462, 463, 464, 467, 468, 469, 470, 472, 478, 483, 484, 485, 486, 497, 498, 500, 501, 502, 504, 511, 512, 517, 519, 520, 521

xét lại 72, 152, 153, 322, 325, 381, 387, 425, 438, 440, 520
Chủ quyền 85
Công lý 165
Dân chủ 7, 8, 21, 22, 27, 40, 41, 60, 75, 91, 94, 100, 108, 110, 115, 116, 119, 122, 123, 124, 125, 146, 147, 148, 149, 157, 166, 236, 237, 247, 248, 264, 302, 303, 312, 313, 316, 335, 379, 389, 420, 421, 426, 428, 472
dân chủ đại diện 8, 92, 116, 117, 291, 512
dân chủ trực tiếp 92, 96, 115, 116, 117, 512
Đại diện 96, 99, 102, 104, 251, 260, 362, 377, 379, 415
Độc tài 287
Hiến pháp 9, 226, 233, 249, 254, 255, 269, 280, 287, 288, 318, 345, 347, 349, 350, 351, 352, 353, 359, 360, 361, 362, 363, 364, 365, 366, 367, 368, 369, 370, 371, 372, 373, 374, 375, 379, 382, 392, 393, 402, 407, 418, 419, 421, 422, 435, 457, 461, 463
Lãnh thổ 84
Mạng Lưới Blogger Việt Nam 27, 39, 40, 41
Ngụy biện 493, 504
Nguyên thủ quốc gia 418, 419
Nhân quyền 39, 40, 57, 92, 110, 112, 113, 140, 294, 309, 323, 384
Nhà nước 7, 26, 31, 35, 39, 41, 45, 77, 83, 84, 85, 86, 120, 146, 147, 152, 158, 159, 216, 226, 227, 228, 242, 266, 285, 313, 315, 348, 357, 366, 367, 368, 370, 372, 373, 392, 393, 398, 414, 416, 417, 419, 443, 461, 
462, 463, 464, 484, 501

Quốc gia 43, 277, 298, 384, 426, 429, 430, 495
Quyền 69, 91, 93, 143, 145, 216, 239, 240, 241, 256, 368, 374, 386, 405, 443, 487, 505
Truyền thông 42, 148, 205, 206, 210, 211, 212, 213, 215, 223, 224, 271, 330, 368, 423, 429, 430
Tự do 8, 124, 133, 134, 135, 145, 164, 166, 201, 227, 241, 252, 259, 297, 302, 316, 374, 405
Tuyên bố 258 39, 55, 56, 57
Tuyên truyền 81–533, 214–533, 217–533, 218–533, 474–533
Xã hội dân sự 9–533, 96–533, 111–533, 113–533, 203–533, 248–533, 305–533, 307–533, 308–533, 309–533, 312–533, 313–533, 316–533, 318–533, 319–533
Ý thức hệ 8–533, 127–533, 129–533, 158–533
EXECUTIVE SUMMARY
Forewords Acknowledgements How to use this book Part I. What is politics? Chapter I. Definitions of politics Chapter II. Political activities Chapter III. Political science as a subject Part II. The state Chapter I. Definitions of the state Chapter II. Legitimacy Chapter III. The state Part III. Democracy Chapter I. Definitions of democracy  Chapter II. Representation Chapter III. The four pillars of a democracy Chapter IV. Direct and representational democracies Chapter V. The defects of democracy Part IV. Ideologies Chapter I. What is an ideology? Chapter II. Liberalism 
 Chapter III. Conservatism Chapter IV. Socialism Chapter IV. Other widely-known ideologies Are ideologies needed, after all? Part V. Political interaction Chapter I. How a society changes Chapter II. Public opinion, political communication, and propaganda Chapter III. Parties and party systems Chapter IV. Election Chapter V. Personal organizations and interest groups Chapter VI. Civil society Chapter VII. Social movements Part VI. Machinery of government Chapter I. Constitutions and the law Chapter II. The legislative branch Chapter III. The executive branch Chapter IV. The judiciary branch Chapter V. The administrative machinery Chapter VI. Parliamentary and presidential system. Chapter VII. The political system in communist Vietnam Chương VIII. The military and the police Part I, “What is politics?”, provides readers with some of the most important definitions of politics, which is very useful for you in understanding what political activities are. Part II, “The state”, introduces to Vietnamese readers the core subject matter of political science. Part III, “Democracy”, focuses on one of the most controversial topics among the Vietnamese whenever they talk about politics. Part IV, “Ideologies”, refers to some strong ideologies that the Vietnamese to some extent have heard of: liberalism, conservatism, socialism, fascism, nationalism, etc. On discussing nationalism, the chapter also mentions patriotism, which has at times been an elusive notion for the Vietnamese. Part V, “Political interaction”, is all about political activities widely undertaken in most societies, including Vietnam: political communication, propaganda, the politics of parties, the politics of civil society, mass revolution, voting and elections, etc. This chapter also briefly introduces a range of different ways to make a political and social change. Part VI, “Machinery of the government”, introduces to the readers the most common organization of state authority in the world. Particularly it provides knowledge of the administrative system and the roles and functions of the two forces whose authority keeps controversial under communist rule: the military and the police.

VỀ TÁC GIẢ
Phạm Đoan Trang, sinh năm 1978 tại Hà Nội, là một nhà báo, nhà hoạt động dân chủ ở Việt Nam. Tốt nghiệp chuyên ngành kinh tế, Đại học Ngoại thương Hà Nội, Đoan Trang đã làm việc trong lĩnh vực truyền thông (báo chí, truyền hình, xuất bản) từ tháng 11/2000. Cô từng là phóng viên, biên tập viên ở nhiều tờ báo tiếng Việt lớn như VnExpress, VietNamNet, Tuần Việt Nam, Pháp luật TP.HCM, Luật Khoa tạp chí, trang mạng tiếng Anh Vietnam Right Now và The Vietnamese.
Sau một khóa học 10 tháng ở Mỹ về chính sách công, tháng 1/2015 Đoan Trang trở về nước và từ đó trở thành một nhà hoạt động, đấu tranh cho dân chủ-nhân quyền ở Việt Nam.
Phạm Đoan Trang cũng là tác giả, đồng tác giả của các cuốn sách “Việt Nam và tranh chấp Biển Đông” (NXB Tri Thức, 2012), “Căn bản về truyền thông và báo chí” (2014), “Anh Ba Sàm” (NXB Trẻ Hà Nội, 2016), “Từ Facebook xuống đường” (NXB Hoàng Sa, 2016), báo cáo “Toàn cảnh thảm họa môi trường biển Việt Nam” (Green Trees, 2016)...

ABOUT THE AUTHOR
Pham Doan Trang, born in Hanoi in 1978, is a journalist and democracy activist in Vietnam. After graduating in international economics from the Hanoi Foreign Trade University in November 2000, she started to work in the realm of communication and mass media, including printed media, TV production, and publishing. She used to work for major Vietnamese media agencies such as the VnExpress, VietNamNet, Vietnam Week, HCMC Legal Daily, Journal of Jurisprudence, and the English websites Vietnam Right Now and The Vietnamese.
She took a ten-month course on public policy in the United States and returned to Vietnam in January 2015. Since then, she has been working as an activist advocating democracy and human rights in the country.
She is the author and co-author of many books, among which were “Vietnam and the Southeast Asian Sea Dispute” (2012), “The Beauty of Politics” (2013), “Basic Journalism and Communication” (2014), “Anh Ba Sam” (2016), “From Facebook down to the Street” (2016), “An Overview of the Marine Life Disaster in Vietnam”. (2016).
29/8/2018
Phạm Đoan Trang
Theo https://luatkhoa.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chính trị bình dân 5 000000bbbbbbbb

Chính trị bình dân 5 Chương III HÀNH PHÁP Đây là nhánh thứ hai trong ba nhánh quyền lực cấu trúc nên bộ  máy nhà nước. Thực thể này thường đ...