6. Truyền thông thiên vị
Các yêu cầu về sự chính xác, trung lập, công bằng của truyền thông
bị xâm phạm nghiêm trọng. Báo chí bị ngăn cản tiếp xúc với ứng
cử viên độc lập, nhất là những người có xu hướng bất đồng chính
kiến hoặc ủng hộ dân chủ-nhân quyền. Các sản phẩm báo chí bị
kiểm duyệt chặt chẽ.
Bài đọc
ABC VỀ BẦU CỬ QUỐC HỘI Ở VIỆT NAM 1
Kỳ bầu cử Quốc hội năm 2016 hứa hẹn một điểm rất mới, khi lần
đầu tiên trong lịch sử Quốc hội Việt Nam, có sự xuất hiện của
mạng xã hội facebook với vai trò đáng kể định hình công luận, và
trên facebook đã có những lời kêu gọi cho một chiến dịch người
dân “đồng loạt tự ứng cử”. Giữa lúc đó thì báo chí trích lời đương
kim Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho biết đã xác định
được số lượng ứng cử đại biểu khóa XIV là 896 người. Một loạt
thắc mắc có thể nảy sinh: Thế là thế nào? 896 người kia ở đâu ra, tôi
đã ứng cử đâu?
Nhằm giúp các ứng viên tự do bớt lúng túng và quá tải, bài viết
dưới đây sẽ cung cấp một số kiến thức căn bản liên quan đến quy
trình ứng cử và bầu cử Quốc hội ở Việt Nam.
VẤN ĐỀ “CƠ CẤU” CỦA QUỐC HỘI
Ông Nguyễn Sinh Hùng phát biểu như vậy vào ngày 16/01/2016,
tại một phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhằm cho ý
kiến về nghị định hướng dẫn một số điều của Luật Bầu cử, trong
đó có việc tổ chức hội nghị cử tri.
1. Bản gốc của bài viết có tựa đề “ABC về bầu cử Quốc hội – dành cho các ứng viên tự do”.
Bài đã đăng trên Luật Khoa tạp chí ngày 14/02/2016 tại địa chỉ: http://luatkhoa.
org/2016/02/abc-ve-bau-cu-quoc-hoi-danh-cho-cac-ung-vien-tu-do/
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã ra nghị quyết về dự kiến
số lượng, cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội khóa XIV. Theo đó,
ngày bầu cử Quốc hội là chủ nhật, 22/5/2016. Khóa XIV sẽ có 500
đại biểu, được bầu từ con số dự kiến 896 người ứng cử. (Luật Tổ
chức Quốc hội cũng ấn định tổng số đại biểu không quá 500).
Trong 500 đại biểu Quốc hội của khóa XIV, số người không
phải là đảng viên đảng Cộng sản, theo dự kiến của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội, chỉ khoảng 25-50.
Mặc dù Quốc hội và báo chí dùng từ “dự kiến”, nhưng thực chất,
cần hiểu đúng bản chất của nó là “xác định cơ cấu”, và đây là bước
đầu tiên trong quy trình bầu cử Quốc hội ở Việt Nam.
Trong bước đầu tiên này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ấn định
và công bố ngày bầu cử, thành lập Hội đồng Bầu cử Trung ương,
đồng thời, đưa ra “dự kiến” về cơ cấu, số lượng đại biểu được bầu,
ví dụ như kỳ này, Quốc hội phải có ít nhất 35% đại biểu là nữ. Số
lượng đại biểu của Bộ Quốc phòng là 15 người, Bộ Công an 3
người. Số đại biểu đến từ khối doanh nghiệp, hiệp hội, nghiệp đoàn
sản xuất kinh doanh: 7 người...
Việc ấn định cơ cấu được giải thích là nhằm đảm bảo cân bằng
lợi ích, cân bằng sự đại diện của tất cả các tầng lớp trong xã hội
(phụ nữ, thanh niên, nông dân, trí thức, người dân tộc thiểu số
v.v.). Mặt trái của nó, ai cũng có thể nhận thấy, là nó hợp lý hóa sự
sắp xếp nhân sự từ trước và can thiệp vào trong quá trình ứng cử
để bảo đảm cơ cấu. Một vị cựu đại biểu Quốc hội kể, thời ông,
chưa đến ngày bầu cử ông đã biết trước mình chắc chắn vào Quốc
hội, bởi cơ cấu khi ấy đang cần thêm một trí thức khoa học xã hội
ở Hà Nội, mà xung quanh ông thì toàn trí thức thuộc khối khoa
học tự nhiên.
Vậy là cơ cấu của Quốc hội đã được ấn định trước, tiếp theo sẽ
là quá trình thực hiện, với một loạt bước, gồm: hiệp thương, hội
nghị tiếp xúc cử tri. Trong đó, hiệp thương là giai đoạn quan trọng
nhất để thực hiện cơ cấu đã vạch sẵn.
BA LẦN HIỆP THƯƠNG
“Hiệp thương” có lẽ là một khái niệm nghe khá khó hiểu với nhiều
người Việt Nam. Nhưng thật ra thì nó đơn giản. Hiệp thương,
tiếng Anh là “negotiation”, có nghĩa là đàm phán, thương lượng
với nhau.
Quy trình bầu cử Quốc hội ở Việt Nam có ba (03) vòng hiệp
thương. Lần thứ nhất để xác định cơ cấu. Lần thứ hai, để thống
nhất danh sách ứng cử viên sơ bộ. Lần thứ ba, chốt danh sách cuối
cùng của các ứng cử viên, để đưa đến việc “toàn dân đi bầu”.
Hiệp thương lần 1 diễn ra sau khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội
đã đưa ra “dự kiến”, tức là đã ấn định cơ cấu, thành phần, số lượng
đại biểu Quốc hội được bầu, và đem trình nó cho Mặt trận Tổ
quốc.
Dựa trên dự kiến đó, Mặt trận Tổ quốc cấp trung ương, và cấp
tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương, sẽ tổ chức hội nghị hiệp
thương lần thứ nhất ở cấp tương ứng, để thoả thuận (tức là “hiệp
thương”) về cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu mà các cơ quan,
tổ chức, đơn vị ở trung ương hay địa phương giới thiệu, tiến cử.
Còn các ứng viên tự do, không được cơ quan, tổ chức, đơn vị
nào tiến cử, thì đương nhiên không có tên trong danh sách cơ cấu.
Tuy nhiên, họ vẫn có thể nộp hồ sơ cá nhân cho ủy ban bầu cử;
vòng hồ sơ này không quá khó khăn. Thử thách lớn nhất với ứng
viên tự do là ở lần hiệp thương sau đó.
HIỆP THƯƠNG LẦN 2: “CỬA TỬ” ĐỐI VỚI ỨNG VIÊN TỰ DO
Hiệp thương lần thứ hai thương lượng, thống nhất danh sách
ứng cử viên sơ bộ, gồm cả các ứng viên tự do, và danh sách này sẽ
được đưa ra lấy ý kiến của cử tri nơi cư trú và nơi công tác.
Các hội nghị cử tri lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri
nơi cư trú chính là nơi diễn ra cuộc thử thách nặng nề nhất với bản
lĩnh và sức chịu đựng của ứng cử viên đại biểu Quốc hội. Theo
truyền thống lâu nay, đó là nơi cử tri nơi cư trú tiến hành cuộc “đấu
tố” ứng cử viên, đặc biệt là ứng viên tự do, không được cơ quan, tổ
chức, đơn vị nào tiến cử. Nhiều người được sự ủng hộ lớn của cử
tri nơi công tác, nhưng ra hội nghị ở nơi cư trú, vẫn bị “đấu” tơi bời
và nhận tỷ lệ tín nhiệm rất thấp.
Thực tế các kỳ bầu cử nhiều năm qua cho thấy ứng cử viên
thường bị cử tri đánh giá, phê phán vì những lý do rất... không liên
quan đến năng lực, chẳng hạn như “ra đường gặp hàng xóm không
chào, chứng tỏ kiêu ngạo”, “lười đi họp tổ dân phố”, “xấu trai, ngoại
hình không đủ để làm đại biểu Quốc hội”, v.v.
Càng là ứng viên tự do, không được cơ quan, tổ chức nào giới
thiệu ứng cử, nguy cơ bị đấu tố càng lớn. Điều đó có thể vì nhiều
nguyên nhân. Chẳng hạn, do có sự chỉ đạo, tác động, can thiệp để
cử tri loại bỏ ứng cử viên; do có sự sắp xếp, điều thêm cử tri của các
địa bàn lân cận đến dự “đấu tố”; và cũng do chất lượng của chính
cử tri còn thấp, khiến họ thiếu ý thức tham gia nghiêm túc vào hoạt
động chính trị.
Hội nghị cử tri có sự tham dự của ứng cử viên đại biểu Quốc
hội, đại diện của tổ chức/ cơ quan có người ứng cử, lãnh đạo địa
phương (tức nơi cư trú của ứng viên), tổ dân phố, Mặt trận Tổ quốc
địa phương, và các cử tri... Trên thực tế, nhiều khi ứng viên tự do
phải đứng trước một cử tọa gồm phần lớn là những người họ chẳng
biết là ai, đấu tố họ một cách thô bạo. Đây là câu chuyện đã từng
xảy ra với nhiều người ứng cử tự do, như ông Nguyễn Hữu Vinh
(blogger Ba Sàm, năm 2002), nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác
Hải (năm 2011), luật sư Lê Quốc Quân (năm 2011)...
HIỆP THƯƠNG LẦN 3: “ĐẤU TỐ VẮNG MẶT” ỨNG VIÊN TỰ DO
Với kết quả đánh giá ý kiến và tín nhiệm của cử tri tại hiệp thương
lần hai, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ điều chỉnh lần hai về cơ
cấu, thành phần và số lượng đại biểu được giới thiệu ứng cử từ các
cơ quan, tổ chức, đơn vị. Tiếp theo, sẽ đến hiệp thương lần thứ ba.
Khác với các hội nghị cử tri ở nơi cư trú diễn ra trong vòng hiệp
thương trước, ở hiệp thương lần ba, các hội nghị diễn ra không có
mặt của ứng cử viên.
Chỉ có đại diện Mặt trận Tổ quốc, Hội đồng Bầu cử Quốc gia,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ (đối với việc bầu cử đại
biểu Quốc hội ở cấp trung ương); Mặt trận Tổ quốc và ủy ban bầu
cử tỉnh, thường trực hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân tỉnh
(đối với việc bầu cử đại biểu ở cấp địa phương), là được tham dự và
“hiệp thương” với nhau để lựa chọn và chốt danh sách chính thức
những người ứng cử.
Năm 2011, luật sư Võ An Đôn đã qua được vòng hiệp thương
thứ hai. Trên facebook cá nhân, ông cho biết, khi lấy tín nhiệm tại
nơi cư trú và nơi công tác, ông đều được 100% cử tri (tức người dân
địa phương và đồng nghiệp) ủng hộ, tín nhiệm. Nhưng đến vòng
hiệp thương lần ba, khi bị “đấu tố vắng mặt” tại hội nghị của Mặt
trận Tổ quốc tỉnh, thì ông bị loại, không được vào danh sách cuối
cùng, gồm những người được ứng cử đại biểu Quốc hội.
Ông Đôn phản ánh: “Khi tổ chức lấy phiếu tín nhiệm tại nơi cư
trú và tại Đoàn luật sư thì tôi được mời tham dự, nhưng khi tổ
chức hiệp thương tại Mặt trận Tổ quốc thì tôi không được mời
tham dự, nghe những người tham dự kể lại là họ đấu tố và nói xấu
tôi dữ lắm”.
Đây cũng là một cửa ải lớn đối với ứng cử viên tự do. Nếu họ
vượt qua được (xưa nay rất hiếm), thì họ mới có thể cùng các ứng
viên được giới thiệu ứng cử tiến vào giai đoạn tiếp theo: vận động
tranh cử và trình bày chương trình hành động.
VẬN ĐỘNG TRANH CỬ
Ở khâu này, Mặt trận Tổ quốc địa phương (tức là Mặt trận Tổ quốc
ở các điểm bầu cử) sẽ tổ chức những hội nghị tiếp xúc cử tri tại địa
phương để người ứng cử tiến hành vận động bầu cử, dưới sự giám
sát của Mặt trận Tổ quốc. Tại đây, họ sẽ trình bày trước cử tri
chương trình hành động của mình.
Ngoài ra, những người có tên trong danh sách ứng cử cuối cùng
còn có cơ hội làm việc với báo chí để giới thiệu bản thân và chương
trình hành động, vận động tranh cử...
Một cựu đại biểu cho biết, đến giai đoạn này, trên nguyên tắc cử
tri vẫn có thể quan sát, xem xét ứng cử viên đại biểu Quốc hội, để
bỏ phiếu bầu hoặc không bầu cho ông/bà ta. Tuy nhiên, trên thực
tế, cũng chẳng mấy khi cử tri quan tâm đến chương trình hành
động của ứng cử viên, còn báo chí thì càng không có chuyện tìm
hiểu, moi móc hồ sơ nhân thân hay phản biện ứng cử viên, mà chỉ
đưa tin, viết bài phản ánh theo hướng ca ngợi.
Như vậy, vào được danh sách chính thức, được tổ chức cho đi
“vận động tranh cử” chính thức, đã có thể coi như thắng lợi cực kỳ
lớn của ứng cử viên đại biểu Quốc hội rồi.
LỜI KẾT
Bước cuối cùng là giai đoạn cử tri bỏ phiếu chính thức. Việc kiểm
phiếu sau đó – không đảm bảo độc lập – cũng là một khâu mà
chính quyền có thể tác động để đảm bảo cơ cấu, thành phần Quốc
hội như đã chủ trương từ đầu.
Ứng cử đại biểu Quốc hội là sự thực thi một quyền chính trị căn
bản của người dân: quyền được tham gia một cách có ý nghĩa vào
chính trị. Trong hoàn cảnh Việt Nam, với hệ thống chính trị một
đảng, quyền này chịu rất nhiều hạn chế, cản trở – bằng các cơ chế
như đã chỉ ra ở trên.
Bài đọc
HỘI NGHỊ CỬ TRI – NÉT QUÁI ĐẢN
TRONG CƠ CHẾ BẦU CỬ QUỐC HỘI 1
Vâng, không phải “nét mới” mà là “nét quái đản”.
Dưới đây là một số câu hỏi và đáp xoay quanh hội nghị cử tri do
Page Vận Động Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016 tập hợp và biên
soạn.
1. HỘI NGHỊ CỬ TRI LÀ GÌ?
Hội nghị cử tri là hội nghị gặp mặt giữa người ứng cử đại biểu
Quốc hội với các cử tri ở nơi cư trú hoặc công tác của người ứng
cử, để lấy ý kiến của cử tri về người ứng cử.
Hội nghị cử tri đấu tố luật sư Võ An Đôn – ứng viên độc lập – ngày
01/4/2016 ở tỉnh Phú Yên. Nguồn ảnh: facebook luật sư Võ An Đôn.
1. Bài viết đăng trên trang facebook “Vận Động Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016”, ngày
5/4/2016, tại địa chỉ: https://www.facebook.com/daibieuQH/posts/1069488279781219:0 .
Tựa đề gốc là: “Đấu tố ứng viên độc lập, các cử tri đang làm sai quy định của pháp luật”.
Căn cứ vào đó, cơ quan, tổ chức, đơn vị có cơ sở để giới thiệu
người ứng cử, để rồi Mặt trận Tổ quốc, Hội đồng Bầu cử sẽ đưa họ
vào vòng hiệp thương thứ ba, tiến tới bố trí họ vào danh sách
những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội. Đó là với các
ứng viên được đề cử.
Còn với các ứng viên tự do, thì căn cứ vào kết quả bỏ phiếu ở
hội nghị cử tri, Mặt trận Tổ quốc, Hội đồng Bầu cử, v.v. có cơ sở
để... loại họ, không để họ vào tiếp vòng trong và nhất định là không
thể được có tên trong danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng
cử đại biểu Quốc hội.
2. AI LÀ NGƯỜI TỔ CHỨC HỘI NGHỊ CỬ TRI NƠI CƯ TRÚ?
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã phối
hợp với Ủy ban Nhân dân cùng cấp triệu tập và chủ trì hội nghị.
3. AI LÀ NGƯỜI QUYẾT ĐỊNH THÀNH PHẦN THAM DỰ HỘI
NGHỊ CỬ TRI NƠI CƯ TRÚ?
Thành phần dự hội nghị do Trưởng ban Công tác Mặt trận phối
hợp với Trưởng thôn, Tổ trưởng dân phố quyết định và mời cử tri
đến dự.
4. CỬ TRI CÓ QUYỀN LÀM GÌ TẠI HỘI NGHỊ CỬ TRI?
Khoản 3, Điều 45 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng Nhân dân 2015 quy định: “Tại hội nghị cử tri, cử tri đối chiếu
với tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, nhận xét, bày tỏ sự tín nhiệm
đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội bằng cách giơ tay hoặc bỏ
phiếu kín theo quyết định của hội nghị”.
5. TIÊU CHUẨN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI LÀ GÌ?
- Trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực
hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
- Có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm, liêm chính, chí công vô
tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan liêu, hách
dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
- Có trình độ văn hóa, chuyên môn, có đủ năng lực, sức khỏe,
kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu; có
điều kiện tham gia các hoạt động của ĐBQH.
- Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân
dân, được Nhân dân tín nhiệm.
- Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội.
Trong các tiêu chuẩn trên, không có tiêu chuẩn nào như là
“tham gia đầy đủ các cuộc họp tổ dân phố”, “gia đình không được
buôn bán tạp hóa kiếm lời”, hay “facebook không được sặc mùi dân
chủ-khai trí”... cả.
6. CHƯƠNG TRÌNH CỦA MỘT CUỘC HỘI NGHỊ CỬ TRI GỒM
NHỮNG NỘI DUNG GÌ?
Theo Điều 4, Nghị quyết số 1134/2016/UBTVQH13 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, ra ngày 18/1/2016, “quy định chi tiết, hướng
dẫn về việc tổ chức hội nghị cử tri”, thì một cuộc hội nghị cử tri bao
gồm các nội dung sau:
1/ Người chủ trì hội nghị tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu dự
hội nghị. Người chủ trì có trách nhiệm sau đây:
a) Giới thiệu về mục đích, yêu cầu của hội nghị;
b) Giới thiệu thư ký hội nghị để hội nghị quyết định;
c) Báo cáo về số cử tri được mời, số cử tri có mặt;
d) Giới thiệu danh sách người ứng cử;
e) Đọc tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội quy định tại Điều 22
của Luật Tổ chức Quốc hội và những trường hợp không được ứng
cử đại biểu Quốc hội quy định tại Điều 37 của Luật Bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng Nhân dân.
2/ Thư ký hội nghị đọc tiểu sử tóm tắt của từng người ứng cử.
3/ Cử tri phát biểu ý kiến đối với từng người ứng cử.
4/ Người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu
người ứng cử phát biểu ý kiến.
5/ Hội nghị biểu quyết bằng hình thức giơ tay hoặc bỏ phiếu
kín. Hội nghị cử tổ kiểm phiếu từ 3 đến 5 người. Trường hợp hội
nghị biểu quyết bằng hình thức giơ tay thì tổ kiểm phiếu đếm, tính
kết quả biểu quyết đối với từng người.
6/ Tổ trưởng tổ kiểm phiếu công bố kết quả biểu quyết.
7/ Hội nghị thông qua biên bản hội nghị cử tri.
7. CỬ TRI CĂN CỨ VÀO ĐÂU MÀ ĐẤU TỐ ỨNG VIÊN?
Theo quy định của chính luật pháp nước CHXHCN Việt Nam, thì
trong hội nghị cử tri, không hề có phần “chất vấn” của cử tri đối với
ứng viên, và càng không có chuyện cử tri chỉ trích, thậm chí sỉ
nhục, đấu tố ứng viên như trong các cuộc hội nghị được tổ chức
vừa qua ở nhiều nơi.
Và nhất là, ứng viên phải được quyền phản hồi lại các ý kiến của
cử tri, tất nhiên kể cả ý kiến phê bình, chỉ trích (nếu có).
Bởi vì Điều 4, Nghị quyết số 1134/2016/UBTVQH13 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, đã nêu rõ nội dung của hội nghị cử tri:
- Cử tri phát biểu ý kiến đối với từng người ứng cử.
- Người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu
người ứng cử phát biểu ý kiến.
Chúng tôi không hiểu tại các hội nghị cử tri hay là đấu tố vừa
qua, cử tri căn cứ vào đâu để mạt sát ứng viên, đặc biệt sử dụng
những lý do vụn vặt và không hề liên quan tới tiêu chuẩn của một
đại biểu Quốc hội (như Luật Tổ chức Quốc hội đã quy định).
Chúng tôi cũng không hiểu vì sao khi các cử tri đi quá đà, ban
tổ chức hội nghị hoàn toàn không can thiệp, thậm chí còn yêu cầu
ứng viên phải im lặng, không cho ứng viên có cơ hội giải thích và
phản hồi những nhận xét ác ý nhằm vào mình.
Với việc đấu tố ứng viên độc lập, cử tri vi phạm Nghị quyết
1134 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; trong những trường hợp
nghiêm trọng, còn có dấu hiệu của tội xúc phạm danh dự, nhân
phẩm người khác (Điều 122 Bộ luật Hình sự, Điều 37 và 611 Bộ
luật Dân sự).
Bài đọc
TẠI SAO ĐẢNG CỐ "LÙA" DÂN ĐI BẦU CỬ? 1
Do kiểm phiếu không độc lập, báo chí chỉ là công cụ tuyên truyền,
không có một cơ chế giám sát độc lập nào, cho nên, sự thật là: Dù
bạn tẩy chay bầu cử, dù bạn không đi bỏ phiếu, dù bạn gạch tất cả
các ứng viên Đảng cử, thì cuối cùng tỷ lệ người đi bầu vẫn xấp xỉ
100%, các ứng viên Đảng cử vẫn nghiễm nhiên vào Quốc hội ngủ
và im lặng suốt ít nhất 5 năm nữa.
Và cuối cùng, tỷ lệ người đi bầu, tỷ lệ phiếu tín nhiệm bao giờ
cũng cao ngất ngưởng.
Câu hỏi đặt ra là: Tại sao đảng Cộng sản phải tổ chức bầu cử
Quốc hội cho bằng được, dù rất tốn kém (ngân sách Nhà nước) và
dù Đảng thừa biết bầu cử Quốc hội chỉ là màn kịch do Đảng đạo
diễn toàn diện?
Trả lời: Ấy là bởi vì đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng độc
tài.
Chế độ độc tài có nhiều biểu hiện, trong đó có một biểu hiện bề
ngoài rất rõ nét là: Trong một chính thể độc tài, tỷ lệ người đi bầu
và tỷ lệ bỏ phiếu ủng hộ (lãnh đạo hoặc chủ trương, chính sách của
lãnh đạo) luôn luôn rất cao, ngược lại, tỷ lệ phiếu tín nhiệm phe đối
lập phải rất thấp.
1. Bài đăng trên blog của tác giả vào ngày 18/5/2016, bốn ngày trước kỳ bầu cử đại biểu
Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng Nhân dân nhiệm kỳ 2016-2021. Trong bài này, từ
“Đảng” (chữ Đ viết hoa) chỉ “đảng Cộng sản Việt Nam”.
Đó là những gì đã xảy ra với các ứng cử viên đại biểu Quốc hội
độc lập (ví dụ Nguyễn Trang Nhung không nhận được một phiếu
thuận nào, Nguyễn Thị Kim Anh hay Nguyễn Quang A chỉ được
6-7 phiếu trên tổng số 70-80 phiếu). Đảng nhất định phải khiến họ
thua một cách tuyệt đối. Cũng như Đảng sẽ nhất định lùa bằng
được “toàn dân đi bầu cử”, để cuối cùng tỷ lệ người đi bầu phải cao
chót vót, gần 100%, và Đảng phấn khởi tuyên truyền về thành công
của cuộc bầu cử.
“Đồng thuận” trong Quốc hội cao như thế này không chứng tỏ Đảng được
lòng dân, mà chỉ chứng tỏ Đảng độc tài thôi.
TỐN KÉM MẤY CŨNG PHẢI CHƠI
Một trong các chức năng của bầu cử là tạo dựng và/hoặc củng cố
tính chính danh cho nhà cầm quyền. Nhất là khi cuộc bầu cử được
đông đảo dân chúng tham gia - khi ấy nó sẽ bao biện cho sự cai trị
của nhà cầm quyền, nó là một cơ hội để nhà cầm quyền tuyên
truyền thật lực trong nước và quốc tế về tính dân chủ của chế độ
mình, và đặc biệt, nó tạo cho người dân cảm tưởng rằng họ đang
thực thi quyền lực của nhân dân. (Điều này cũng giải thích cho việc
dân chúng tại các hội nghị cử tri ở nơi cư trú, một khi được/bị cán
bộ của Đảng kích động, rất dễ hăng hái vào cuộc đấu tố ứng viên).
Chính vì thế, đảng Cộng sản phải tổ chức bầu cử Quốc hội, phải
mạnh tay chi tới hàng nghìn tỷ đồng cho vở kịch của Đảng. Và đã
tổ chức rồi thì Đảng sẽ phải cố xua dân đi bầu cho bằng được, càng
đông đảo càng tốt.
ĐỘC TÀI VÀ SỞ THÍCH "ĐỒNG THUẬN CAO"
Độc tài đúng là rất thích các con số, thích lượng hóa, kiểu như “ba
xây, bốn chống”, “ba phe, bốn mâu thuẫn”, “ba dòng thác cách
mạng”, “ba sẵn sàng”, “ba đảm đang”, v.v...
Độc tài cũng đam mê những con số thống kê có lợi cho họ, tức
là phải rất cao, ít nhất là trên 90%, còn thì càng gần sát mức tuyệt
đối càng tốt.
Lịch sử thế giới thế kỷ 20 và 21 đã có rất nhiều thành viên của
“câu lạc bộ 90 phần trăm”, mà sau đây chỉ là một vài ví dụ:
- Năm 1973, Tổng thống Ferdinand Marcos của Philippines
tuyên bố thông qua Hiến pháp mới với tỷ lệ 95% đại biểu Hội đồng
Nhân dân ủng hộ. Cũng năm đó, Philippines tiến hành trưng cầu
dân ý với câu hỏi “có muốn Tổng thống Marcos tiếp tục tại vị
không”, và 90,67% câu trả lời là có.
- Năm 1979, cuộc trưng cầu dân ý của Giáo chủ Khomeini ở
Iran thu được kết quả 98% người bỏ phiếu tán thành việc xây dựng
nước cộng hòa Hồi giáo Iran.
- Năm 2002, Tổng thống Iraq Saddam Hussein tái đắc cử, được
100% phiếu bầu.
- Năm 2012 Tổng thống Turkmenistan (Turkmenia) Gurbanguly
Berdimuhamedov tái đắc cử với tỷ lệ 97% số phiếu ủng hộ. Trước
đó, năm 1992, người tiền nhiệm của ông này, Saparmurat Niyazov,
còn được “tín nhiệm” cao hơn thế nữa: 99,5%.
- Anh em nhà Tổng thống Cuba, Fidel và Raul Castro, thường
xuyên được 99% phiếu bầu.
- Các cuộc bầu cử ở Liên Xô ngày trước, tỷ lệ trúng cử của đảng
viên cộng sản vào các xô viết địa phương trung bình là 99%.
- Ngày 28/11/2013, Quốc hội Việt Nam bỏ phiếu thông qua bản
Hiến pháp sửa đổi (tiếp tục khẳng định ngôi vị lãnh đạo toàn diện
của đảng Cộng sản) với tỷ lệ 97,59% tán thành (xem ảnh trên).
Và bây giờ chúng ta chờ tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu, tỷ lệ phiếu tín
nhiệm Nguyễn Phú Trọng và các đại biểu Quốc hội cấp cao của
Đảng sẽ cao chót vót, từ 80 đến 100%. 1
Đằng nào cũng vậy, cho nên... chúng ta hãy dành ngày chủ nhật
22/5/2016 cho những việc có ích, có lợi, thay vì đi bỏ phiếu.
1. Kết quả thực tế: Trong số 30 đại biểu Quốc hội ở Hà Nội được bầu, Tổng Bí thư đảng
Cộng sản Nguyễn Phú Trọng đã trúng cử với tỷ lệ phiếu hơn 86,32 % (đơn vị bầu cử số 1,
gồm ba quận Ba Đình, Hoàn Kiếm và Tây Hồ). Bí thư Thành ủy Hà Nội Hoàng Trung Hải
đạt số phiếu cao nhất trong đơn vị bầu cử số 8 (Ba Vì, Sơn Tây, Phúc Thọ) với 87,16%.
Chương V
TỔ CHỨC VÀ NHÓM LỢI ÍCH
NHÓM LỢI ÍCH
Nhóm lợi ích còn được gọi là nhóm gây áp lực. Đó là những nhóm
có tổ chức, hành động để đạt được lợi ích của mình, bằng cách gây
ảnh hưởng lên chính quyền hoặc lên tiến trình chính sách. Đương
nhiên, chúng là loại nhóm mà thành viên có ý thức về lợi ích chung
của mình và họ cùng hành động để có được lợi ích đó. Hiểu theo
nghĩa này thì đảng phái cũng là một nhóm lợi ích.
Như vậy, các bạn có thể thấy rằng nhóm lợi ích luôn tồn tại
trong xã hội; bản thân nó không phải là một khái niệm tiêu cực,
cần phải xóa bỏ như lâu nay ở Việt Nam, người ta vẫn tưởng.
Chừng nào con người còn chia sẻ lợi ích thì chừng đó họ còn có
nhu cầu kết hợp thành nhóm và tổ chức nhau lại.
Tuy nhiên, ở các chế độ độc tài, nơi các quyền tự do của dân
chúng bị hạn chế, xã hội dân sự bị kìm kẹp, nhà nước bưng bít
thông tin, thì nhóm lợi ích chỉ còn là những thế lực ngầm đen tối,
thao túng chính trường, tham nhũng và làm nghèo người dân, phá
hoại đất nước. Đó là cách hiểu lâu nay của người Việt Nam về khái
niệm nhóm lợi ích.
Các bạn cũng có thể thấy là trong xã hội, cũng tồn tại cả những
nhóm không hề có tổ chức và cũng không có ý định trở thành có
tổ chức. Đó là nhóm mà thành viên có đặc điểm chung, song họ
không quan tâm đến đặc điểm chung đó và chẳng có nhu cầu tập
hợp lại với nhau vì một mục tiêu chung nào dựa trên đặc điểm đó.
Ví dụ như nhóm những người mắt nâu, thế hệ @, thế hệ 9x, hội
những người lương hơn 200 USD/tháng, v.v. Dĩ nhiên, đây không
gọi là nhóm lợi ích. Nhưng các học giả phương Tây vẫn có tên gọi
cho nó; người ta gọi nó là “nhóm chỉ để phân loại” (tiếng Anh:
categoric group).
Ở chương này, chúng ta chỉ tìm hiểu về nhóm lợi ích.
SO SÁNH NHÓM LỢI ÍCH VÀ ĐẢNG PHÁI
Như trên đã nói, với định nghĩa nhóm lợi ích là “nhóm mà thành
viên có ý thức về lợi ích chung của mình và họ cùng hành động để
có được lợi ích đó” thì đảng chính trị cũng là một loại nhóm lợi ích.
Tuy thế, giữa đảng phái và nhóm lợi ích có một số điểm khác
nhau căn bản:
Đảng Nhóm lợi ích/ Nhóm gây áp lực
Trong các hoạt động, có hoạt động
rất quan trọng là tham gia tranh cử. Không tham gia tranh cử.
Theo đuổi việc giành quyền lực
nhà nước và thành lập nội các sau
khi giành được quyền lực đó.
Không theo đuổi việc giành quyền
lực nhà nước, không thành lập nội
các.
Có cương lĩnh.
Cương lĩnh phải thể hiện sự quan
tâm đến hàng loạt vấn đề, bao trùm
các lĩnh vực chính trị-xã hội-kinh
tế-môi trường, v.v.
Ví dụ: Cương lĩnh của đảng Xanh
là đi theo đường lối dân chủ tự
do, trường phái ôn hòa trong chủ
nghĩa môi trường, thúc đẩy phát
triển bền vững kết hợp với bảo
đảm nhân quyền và công lý...
Không có cương lĩnh.
Lập ra các phong trào hay chiến
dịch chỉ để gây áp lực lên chính
quyền nhằm giải quyết một vấn đề
hoặc một lĩnh vực duy nhất.
Ví dụ: Tổ chức Vì Một Hà Nội
Xanh chỉ cố gắng giải quyết vấn đề
bảo vệ cây xanh ở Hà Nội.
Để tránh bị ấn tượng rằng nhóm lợi ích là tiêu cực, chúng ta có
thể gọi nó bằng cái tên “nhóm gây áp lực” hoặc “nhóm vận động”.
GIÁ TRỊ CỦA NHÓM LỢI ÍCH
Ngoài việc sự tồn tại của nhóm lợi ích là đương nhiên trong mọi xã
hội, dù chúng ta ghét nó hay không, thì thực sự nhóm lợi ích cũng
có nhiều khía cạnh tích cực:
- Nó là một kênh tương tác giữa chính quyền và người dân, ít
nhất là một nhóm dân; từ đó, đảm bảo ổn định chính trị;
- Nó thúc đẩy dân chủ đại diện, tăng cường tính đại diện của
(một nhóm) người dân, giúp họ thể hiện các quan điểm hay lợi ích
khác nhau, điều mà nhiều khi đảng phái bỏ quên vì quan điểm hay
lợi ích ấy quá nhỏ bé để được vào chương trình nghị sự của đảng;
- Nó rõ ràng là một phương thức gây ảnh hưởng tới chính
quyền;
- Nó thúc đẩy chia sẻ thông tin, thảo luận và phản biện, từ đó
nâng cao chất lượng chính sách công;
- Nó kìm hãm quyền lực nhà nước, phát triển xã hội dân sự, từ
đó, bảo vệ tự do.
MẶT TRÁI CỦA NHÓM LỢI ÍCH
Bên cạnh các ưu điểm là các nhược điểm của nhóm lợi ích:
- Nó có nguy cơ khoét sâu thêm bất bình đẳng chính trị, bởi
một thực tế là người có giáo dục, có khả năng tài chính, khả năng
tổ chức hơn sẽ có tiếng nói mạnh hơn;
- Nó có thể gây chia rẽ xã hội, thông qua việc thúc đẩy quyền lợi
cục bộ của một thiểu số, bỏ qua lợi ích chung của toàn xã hội;
- Nó tiềm ẩn thứ quyền lực không có tính chính danh: trong các
nhóm lợi ích mạnh, lãnh đạo tự tung tự tác, nhiều quyền lực, mà
lại không phải minh bạch với truyền thông và công chúng;
- Nó mở đường cho tham nhũng, nhất là tham nhũng chính
sách, và tệ nạn “đi cửa sau”;
- Nó có thể ngăn cản những chính sách tốt chỉ để phục vụ lợi ích
cục bộ của một thiểu số.
PHÂN LOẠI NHÓM LỢI ÍCH
Căn cứ vào khía cạnh lợi ích và đối tượng hưởng lợi, người ta chia
nhóm lợi ích thành hai loại căn bản:
1. Nhóm lợi ích tư: Là nhóm lợi ích có mục đích thúc đẩy hoặc
bảo vệ lợi ích của các thành viên của nhóm. Thường các nhóm này
đại diện cho những tầng lớp hay ngành nghề khác nhau trong xã
hội: công nhân, người lao động, người tiêu dùng, người thiểu số.
Công đoàn là một nhóm lợi ích tư điển hình.
2. Nhóm lợi ích công: Là nhóm lợi ích có mục đích thúc đẩy các
giá trị, lý tưởng chung, lợi ích chung, chứ không phải hoặc không
chỉ bảo vệ lợi ích của thành viên nhóm mình. Ví dụ: ủng hộ nữ
quyền, chống nạn công an bạo hành, phản đối nạo phá thai, bảo vệ
môi trường. Quỹ Bảo vệ Động vật Hoang dã (WWF) là một nhóm
lợi ích công điển hình.
Trong các tổ chức thuộc nhóm lợi ích công, có một bộ phận rất
đông đảo là các tổ chức phi chính phủ.
Tổ chức phi chính phủ (NGO)
Tổ chức phi chính phủ là các tổ chức phi lợi nhuận, do tư nhân
thành lập, độc lập với các chính phủ (cả trong và ngoài nước), và
hoạt động ôn hòa để đạt được mục đích hay là sứ mệnh của chúng.
NGO ra đời có lẽ đã từ lâu trong lịch sử thế giới. Tuy nhiên, khái
niệm NGO chỉ trở nên phổ biến với sự thành lập Liên Hợp Quốc
vào năm 1945, với Điều 71 Chương 10 Hiến chương Liên Hợp
Quốc nói đến vai trò tư vấn, cố vấn của những tổ chức không phải
là chính phủ cũng không phải là nhà nước thành viên Liên Hợp
Quốc. Đó là các NGO.
Có nhiều loại NGO và nhiều cách phân loại chúng. Chẳng hạn,
có thể chia thành hai loại NGO chính:
1. NGO hoạt động/ cung ứng dịch vụ công cộng: Mục đích là
xây dựng và thực hiện các dự án phát triển và/hoặc cứu trợ. Ví dụ
như các NGO về nước sạch nông thôn, nâng cao năng lực cán bộ
địa phương, bảo tồn di sản.
2. NGO vận động: Mục đích là cổ súy, vận động cho một giá trị,
lý tưởng, hay chính sách cụ thể nào đó. Ví dụ như nhóm Vận Động
Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016 cổ súy cho phong trào tự ứng cử
làm đại biểu Quốc hội Việt Nam và vận động cho quyền tham gia
chính trị của người dân.
Tất nhiên cách phân chia này chỉ là tương đối. Nhiều NGO vận
động vẫn có thể tham gia các dự án phát triển và cứu trợ khi họ
thấy cần thiết. No-U là một tổ chức thành lập ngày 30/10/2011 với
mục đích bảo vệ chủ quyền, chống chính sách bá quyền của Trung
Quốc và chính sách ngoại giao hèn yếu của đảng Cộng sản Việt
Nam. Sứ mệnh này được phản ánh trong slogan của họ – “xóa
đường lưỡi bò, bảo vệ Tổ quốc”. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt
động, No-U cũng thường xuyên làm thiện nguyện, cứu trợ đồng
bào ở những nơi khó khăn.
Tổ chức phi chính phủ quốc tế (INGO)
Tổ chức phi chính phủ quốc tế về bản chất cũng là các tổ chức phi
chính phủ – phi lợi nhuận, do tư nhân thành lập, độc lập với các
chính phủ, hoạt động ôn hòa để thực hiện mục đích của mình –
nhưng có quy mô quốc tế. Nghĩa là chúng hoạt động trên phạm vi
quốc tế, đặt chi nhánh và làm việc tại nhiều nơi trên thế giới.
Trước năm 1895, số INGO trên toàn cầu không bao giờ vượt
quá 50 1
, nhưng sau đó con số bắt đầu tăng mạnh, đặc biệt kể từ sau
Thế chiến II. Ngày nay, có tới hàng nghìn INGO khắp toàn cầu,
trong đó, số INGO nổi tiếng và có ảnh hưởng cũng khoảng vài
1. “International Nongovernmental Organizations and their Functions”, Kjell Skjelsbaek,
International Peace Research Institute, 1975. Có trên mạng tại địa chỉ: https://www.
laetusinpraesens.org/docs/functun.php
chục. Người Việt Nam hẳn từng nghe nhắc đến những cái tên như:
CARE, OXFAM, Thầy thuốc không biên giới (Doctors without
Borders), Ân xá Quốc tế (Amnesty International, AI), Giám sát
Nhân quyền (Human Rights Watch, HRW), Hòa Bình Xanh
(Green Peace)...
Các bạn chú ý phân biệt tổ chức phi chính phủ quốc tế – INGO
– với tổ chức liên chính phủ – IGO. Tổ chức liên chính phủ tất
nhiên không phải do tư nhân thành lập và không độc lập với các
chính phủ. Ví dụ tiêu biểu là Liên Hợp Quốc (UN), và các cơ quan
của nó, như Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), v.v.
Trong thời toàn cầu hóa, các NGO và INGO có vai trò rất quan
trọng trên chính trường quốc tế. Chúng được coi như lực lượng đối
trọng với các tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia, và với các chính
quyền. Chúng là những rường cột của xã hội dân sự quốc tế.
IGO cũng là những thế lực quan trọng, nhưng chúng là các cơ
quan liên chính phủ và không phải là xã hội dân sự.
Human Rights Watch (HRW)
Tổ chức phi chính phủ quốc tế này được nhiều nhà hoạt động nhân quyền
ở Việt Nam xem như bạn, trong khi Chính phủ Việt Nam xem như kẻ
thù.
HRW ban đầu được thành lập bởi một người Mỹ, Robert L. Bernstein,
vào năm 1978. Về sau, HRW phát triển thành một tổ chức chuyên nghiên
cứu và thúc đẩy nhân quyền trên phạm vi toàn thế giới. Trụ sở của họ ở
New York City, và họ có văn phòng ở nhiều nơi thuộc các quốc gia khác
như: Amsterdam (Hà Lan), Geneva (Thụy Sĩ), Johannesburg (Nam Phi),
Nairobi (Ai Cập), Sydney (Úc), Tokyo (Nhật Bản)... Tại khu vực Đông
Nam Á, HRW không mở được văn phòng ở nước nào, chỉ có đại diện
hoạt động không chính thức ở Bangkok. Có lẽ do các chính phủ trong
khu vực đều không ưa gì tổ chức này.
Hàng năm, HRW xuất bản nhiều báo cáo về tình hình nhân quyền ở các
nơi khác nhau trên thế giới. Họ từng có nhiều báo cáo về Việt Nam, như
về vụ án Cù Huy Hà Vũ (2011), nạn công an bạo hành đối với dân thường
(2016), và việc chính quyền dùng côn đồ hành hung các nhà hoạt động
nhân quyền (2017).
Ông Phil Robertson, Phó Giám đốc Khu vực châu Á của HRW, là người
bị chính quyền nhiều nước căm ghét, nhất là các nước như Việt Nam,
Trung Quốc. Tuy nhiên, ông từng nói với người viết rằng: “Chính phủ
Việt Nam nghĩ tôi chống cộng. Nhưng họ không hiểu rằng HRW không
quan tâm tới chế độ nào cả, chúng tôi chỉ quan tâm đến nhân quyền. Bất
kể là cộng sản hay không, nếu một nhà nước vi phạm nhân quyền, chúng
tôi đều phản đối. HRW từng chỉ ra và chống cả những vi phạm nhân
quyền ở chính nước Mỹ; điều này có lẽ quan chức Việt Nam không hề
biết”.
Cũng theo ông Robertson, HRW có tiền sử chống cả các tập đoàn toàn
cầu như Google, Yahoo!, nếu họ hợp tác với các nhà nước vi phạm nhân
quyền.
Bài đọc
KHI CÓ QUÁ NHIỀU MỘT THỨ TỐT ĐẸP 1
Việc các thiểu số nhỏ, tận tình, có thể lũng đoạn chính trị, đã gây lo
ngại sâu sắc ngay từ thời các nhà tư tưởng sáng lập của nước Mỹ.
Madison 2
đã định danh chính xác vấn đề này, vấn đề mà ông gọi là
“cái nguy của bè phái”, và ông cho rằng nó xuất phát từ nguyên
nhân “sự bất ổn, bất công, và hỗn loạn trên thực tế đã là những căn
bệnh chết người mà vì chúng, các chính quyền ở khắp nơi đều diệt
vong”. Trong tiểu luận nổi tiếng của mình, Federalist Paper 51, ông
lập luận rằng giải pháp duy nhất hiệu quả cho vấn đề này là hạn chế
quyền tự do lập hội và biểu đạt, vì chúng giúp cho các nhóm như
thế hình thành (“Liberty is to faction what air is to fire”: Tự do đối
với phe phái thì cũng giống như không khí với lửa). Nhưng phương
thuốc này còn tệ hơn là căn bệnh, cho nên Madison nhanh chóng
gạt bỏ nó đi.
Thay vì thế, Madison đặt niềm tin vào quy mô và độ phức tạp
của nước Mỹ. Thứ nhất, ông cho rằng phe phái là các nhóm thiểu
số, và họ sẽ không thể có đường nào mà đi bởi vì các phe phái khác
– đông hơn về số lượng so với các nhóm thiểu số – sẽ lớn mạnh và
làm tê liệt nhóm thiểu số. Ngay cả khi phe phái mạnh thì ở một
nước rộng lớn và đa dạng như nước Mỹ, cạnh tranh sẽ bùng nổ
giữa các phe phái và tất cả sẽ trung hòa lẫn nhau.
1. “Too Much of A Good Thing”, trích từ sách “Future of Freedom” (Tương lai của tự do),
tác giả Fareed Zakaria.
2. James Madison, Tổng thống thứ tư của nước Mỹ, một trong bốn vị tổ khai quốc của Mỹ.
Than ôi, ở điểm quyết định này Madison lại nói sai. Có lẽ ông đã
không tưởng tượng được rằng chính quyền lại có thể có nhiều
bổng lộc lớn đến thế, tới mức nó thu hút hàng đàn các nhóm lợi ích
cuồng tín. Nhưng vẫn còn một vấn đề về lý thuyết nữa trong lập
luận của Madison. Olson đã chỉ ra rằng các nhóm lợi ích nhỏ thì dễ
hình thành hơn, bởi vì thành viên của chúng được hưởng quá
nhiều mà phần còn lại của đất nước thì lại ít bị thiệt. Đây là một
phần của khái niệm mà ông gọi là “logic của hành động tập thể”.
Nếu một nhóm 100 nông dân kết hợp lại để gửi kiến nghị cho
chính phủ đòi 10 triệu USD, lợi ích mỗi nông dân giành được sẽ là
100.000 USD. Chi phí đổ lên đầu phần còn lại của đất nước chỉ là
khoảng 4 xu một người. Vậy ai sẽ là người có nhiều khả năng hình
thành lobby hơn, họ hay chúng ta? Hãy nhân con số này lên hàng
nghìn lần và bạn sẽ hiểu vấn đề trung tâm của nền dân chủ Mỹ
ngày nay.
Ngoài ra, các phe phái trên thực tế không trung hòa lẫn nhau.
Hầu hết các nhóm lợi ích đều rất sung sướng khi thấy các nhóm
khác cũng phát triển. Khi được hỏi là liệu ông có ủng hộ việc giảm
bớt tài trợ ngân sách cho các nhóm đối thủ không, Bog Bergland,
thuộc Hợp tác Xã Điện Nông thôn Quốc gia, nói: “Chúng tôi nghĩ
rằng, có sự ủng hộ cho tất cả các bên là một lập luận rất hay”. Thực
tế đó giúp thêm cho lý lẽ của bất kỳ nhóm nào – họ luôn có thể chỉ
ra rằng nhóm khác cũng đang được tài trợ kia mà, tại sao lại phân
biệt đối xử với họ? Càng đông càng vui. Suy cho cùng, sẽ dễ hơn
trong việc xin được một khoản miễn thuế đặc biệt cho mình nếu ta
cổ suý việc đó cho tất cả các nhóm khác nữa. Kết quả là, chính sách
công đã trở thành, không phải là tổng của các nhóm lợi ích trung
hòa lẫn nhau và đạt tới một kết quả hợp lý, như Madison tưởng là
đúng, mà là tích lũy những khoản tiền cho không của chính phủ,
hết khoản này tới khoản kia, trong một con đường xuống dốc.
Bài đọc
CÁI GÌ QUYẾT ĐỊNH SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHE NHÓM LỢI ÍCH? 1
Vai trò và tầm quan trọng của các nhóm lợi ích trong xã hội khác
nhau tùy từng chế độ, tùy từng nhà nước, và tùy thời gian, thời đại.
Những thành tố chính quyết định ảnh hưởng của nhóm lợi ích bao
gồm:
- Văn hóa chính trị;
- Cơ cấu thể chế;
- Tính chất của hệ thống đảng;
- Tính chất của chính sách công.
Văn hóa chính trị mang tính ảnh hưởng quyết định đối với vai
trò của nhóm lợi ích, bởi hai lý do. Thứ nhất, nó quyết định liệu các
nhóm sẽ được coi là có tính chính danh hay không có tính chính
danh, sự hình thành và ảnh hưởng của các nhóm là hợp pháp và
được khuyến khích, hay ngược lại. Thứ hai, nó ảnh hưởng tới việc
người dân có sẵn sàng thành lập và/hoặc tham gia các nhóm lợi
ích, để qua đó tham gia vào chính trị không.
Một mặt, các chế độ có thể thực hành nhất nguyên luận, tức là
đàn áp tất cả các hình thức tụ tập, lập hội tự nguyện, nhằm bảo đảm
1. Dịch từ “Politics”, Andrew Heywood, 3rd edition, Palgrave Foundations, 2007, trang
301-304.
chỉ có một trung tâm quyền lực nhà nước duy nhất và không thể bị
thách thức trong xã hội. Hiện tượng này đặc biệt hay xảy ra trong
các chế độ độc tài quân sự, các nhà nước độc đảng. Mặc dù không
có nhà nước nào - hiện nay cũng như trong lịch sử - thành công
trong việc dập tắt kỳ hết mọi hình thức hội nhóm và hoạt động hội
nhóm, nhưng các thể chế nhất nguyên ít nhất cũng đã khiến hoạt
động tụ tập, lập hội trở thành bất hợp pháp hoặc chỉ có thể được
thể hiện thông qua bộ máy đảng-nhà nước và do đó bị cản trở, kìm
hãm bởi các mục tiêu chính trị và ý thức hệ của chính quyền.
Mặt khác, các chế độ đa nguyên không chỉ cho phép các nhóm
hội được tồn tại, mà còn khuyến khích và thậm chí đòi hỏi điều đó.
Các nhóm có thể được mời tham gia vào việc xây dựng chính sách.
Một trong những lý do khiến cho hoạt động nhóm nói chung rất
mạnh ở Mỹ, là việc văn hóa chính trị Mỹ thừa nhận các nhóm tư có
quyền được lên tiếng và được lắng nghe. Điều này được thể hiện rõ
trong hiến pháp và được hiến pháp bảo vệ - đó là các quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tự do tụ tập, vân vân.
Ở Nhật Bản, không có sự phân biệt rõ ràng giữa không gian
công và không gian tư, cho nên đã tạo ra một thứ văn hóa chính trị
mà ở đó, trong cả giai đoạn dân chủ lẫn tiền dân chủ, người dân
cho rằng chính quyền và giới doanh nghiệp có quan hệ thân thiết
với nhau là lẽ đương nhiên.
Ngược lại, ở một số nước Âu châu, các nhóm lợi ích bị nhìn
bằng con mắt nghi ngờ. Hiện tượng này đặc biệt đúng ở Pháp, nơi
chịu ảnh hưởng của ý thức hệ Jacobin, do đó các nhóm bị coi là phá
hoại “ý chí chung” của nhân dân, phá hoại sức mạnh và sự đoàn kết
của nhà nước. Ở cao điểm vào năm 1975 chẳng hạn, chỉ có 24% lực
lượng lao động Pháp gia nhập công đoàn - con số đó tới năm 1989
chỉ còn 13%. Tuy vậy, văn hóa chính trị Pháp vẫn đại diện cho một
truyền thống hành động trực tiếp, như khi những người nông dân
Pháp chặn đường sá, cướp xe tải để biểu tình, hay khi sinh viên và
công đoàn nổi dậy trong các vụ bê bối chính trị tháng 5/1968.
Cơ cấu thể chế của chính quyền rõ ràng rất có ảnh hưởng đối
với các nhóm lợi ích, theo nghĩa là nó thiết lập nên những cửa để
người dân tiếp xúc với tiến trình chính sách. Hệ thống chính trị tập
trung và thống nhất, như ở Anh, có xu hướng hạn chế ảnh hưởng
của nhóm lợi ích và tập trung mọi việc vào tay nhánh hành pháp.
Điều này không làm cho nhóm lợi ích trở nên khó tồn tại, nhưng
sức nặng vẫn ở trong tay người bên trong chính quyền, và chính
quyền có thể đáp ứng hoặc không đáp ứng trước áp lực của nhóm
lợi ích.
Tương tự, ở Pháp, hoạt động của nhóm lợi ích cũng tập trung
vào tham vấn trực tiếp chính quyền, đặc biệt với sự mạnh lên của
vai trò tổng thống và sự suy yếu của Quốc hội trong nền Cộng hòa
thứ năm (1958).
Ở Mỹ thì ngược lại, chính quyền phân tán và phi tập trung.
Điều đó được phản ánh trong hệ thống quốc hội lưỡng viện, tam
quyền phân lập, cơ cấu liên bang và cơ chế bảo hiến. Hệ thống
chính trị Mỹ đặc biệt nhạy cảm với áp lực của phe nhóm lợi ích.
Chẳng hạn, các nhóm đều biết rằng nếu đánh nhau thua ở Quốc
hội thì có thể lôi nhau ra đánh tiếp ở tòa án, ở cấp liên bang hay cấp
bang hay cấp địa phương, vân vân. Mặc dù hiện tượng đó chắc
chắn là một chất kích thích cho việc hình thành các nhóm phái, và
làm tăng số lượng các nhóm có ảnh hưởng, nhưng nó cũng có thể
mang tính phá hoại, theo cái nghĩa là hoạt động của các nhóm cuối
cùng lại đi đến loại trừ và hủy diệt lẫn nhau (trung hòa lẫn nhau).
Có nhiều nhóm lợi ích có khi chỉ làm mỗi việc “phủ quyết” các
nhóm khác.
Quan hệ giữa đảng phái và các nhóm lợi ích luôn luôn phức tạp.
Nhiều khi, đảng và nhóm còn là đối thủ cạnh tranh của nhau.
Trong khi đảng tìm cách tăng cường lợi ích và hoạch định nên các
chương trình, chính sách, chủ yếu căn cứ vào các mục tiêu ý thức
hệ, thì nhóm lợi ích chỉ quan tâm đến những vấn đề nhỏ hẹp hơn
nhiều, những mục tiêu rất cụ thể. Tuy nhiên, nhóm lợi ích lại
thường tìm cách gây ảnh hưởng trong đảng và thông qua đảng, đôi
khi còn tạo ra đảng nhằm tham gia tranh giành quyền lực. Nhiều
đảng xã hội, như Công đảng Anh, là do công đoàn lập ra, và những
mối liên hệ tài chính, cơ cấu... giữa họ vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Phe nhóm lợi ích có ảnh hưởng tới mức nào cũng còn tùy hệ
thống đảng. Chế độ độc đảng, hoặc đa đảng mà một đảng chi phối
tất cả, cũng có xu hướng thu hẹp ảnh hưởng của phe nhóm lợi ích,
một cách tự nhiên, để mọi việc tập trung cả vào tay đảng cầm
quyền. Do đó, những nhóm lợi ích trong các ngành sản xuất, kinh
doanh, thương mại ở Ý và Nhật đều cố gây áp lực thông qua đảng
cầm quyền - như đảng Dân chủ Thiên chúa Giáo, đảng Tự do-Dân
chủ. Mặc khác, chế độ đa đảng là miếng đất màu mỡ cho hoạt động
của các phe nhóm lợi ích, bởi vì đa đảng sẽ giúp cho các phe nhóm
lợi ích có nhiều cửa để tiếp xúc với chính quyền hơn. Ảnh hưởng
của giới lập pháp lên phe nhóm có lẽ là mạnh nhất ở Mỹ, nơi các
đảng yếu cả về tổ chức lẫn kỷ luật. Điều đó thể hiện rõ vào cuối
những năm 1970, khi các nhóm lợi ích phá hoại chương trình năng
lượng của Tổng thống Jimmy Carter, bất chấp việc đảng Dân chủ
có đa số trong cả Thượng viện và Nghị viện.
Cuối cùng, mức độ phát triển của phe nhóm lợi ích còn có quan
hệ với những thay đổi trong chính sách công, đặc biệt là trong mức
độ nhà nước can thiệp vào đời sống kinh tế và xã hội. Quy luật
chung là, chủ nghĩa can thiệp (việc nhà nước ra các chính sách để
điều tiết hay quản lý đời sống kinh tế, hay nói rộng ra là chính sách
can dự, can thiệp nói chung của nhà nước) luôn đi cùng, tồn tại
cùng, tay trong tay, với chủ nghĩa tập đoàn (việc các tập đoàn lớn,
các nhóm lợi ích lớn kiểm soát, chi phối cả nhà nước), mặc dù
người ta vẫn còn tranh cãi xem cái nào là nguyên nhân, cái nào là
kết quả. Liệu các chính sách can thiệp có khiến chính quyền dấn
sâu hơn vào quan hệ thân thiết với các nhóm lợi ích có tổ chức,
nhằm thu được thông tin, sự tư vấn, lời khuyên và sự hợp tác? Hay
liệu các nhóm có tận dụng khả năng tiếp cận với chính quyền để
xin bao cấp, viện trợ nhà nước, hay các khoản lợi khác, cho thành
viên của nhóm mình? Cho dù câu trả lời là gì đi nữa thì cũng rõ
ràng là, trong các nước phương Tây, sự thâm nhập của các nhóm
lợi ích có tổ chức vào đời sống công cộng đã đi quá xa.
Hệ thống chính trị Thụy Điển là một ví dụ điển hình của hiện
tượng này. Các nhóm lợi ích đã cấu thành một phần không thể
thiếu trong sân khấu chính trị Thụy Điển, ở mọi cấp. Có những
mối liên hệ, chưa nói là thân thiết, giữa công đoàn và Công đảng
Dân chủ Xã hội (SAP). Tiến trình lập pháp ở Riksdag phải gắn với
tham vấn rộng rãi các nhóm lợi ích có ảnh hưởng, quan chức nhà
nước thì xem những tổ chức/hiệp hội “đỉnh” như là Liên đoàn Lao
động Thụy Điển và Liên đoàn Các chủ lao động là “đối tác xã hội”.
Một mô hình tương tự, trong đó giới doanh thương có đại diện
rất đáng kể, đã hình thành trong hệ thống chính trị Áo, nơi các
nhóm lợi ích lớn trong thương mại, nông nghiệp và lao động đều
có tiếng nói mạnh trong vấn đề lập pháp. Ở Đức, các nhóm lợi ích
lớn như Liên đoàn Các Hiệp hội Chủ Lao động Đức, Liên đoàn
Công nghiệp Đức, Liên đoàn Công đoàn Đức, đều tham gia rất sâu
vào việc hình thành chính sách.
Chương VI
XÃ HỘI DÂN SỰ
Xã hội dân sự đã tồn tại từ rất lâu trong lịch sử loài người. Chẳng
hạn, học giả Pháp Alexis de Toqueville từng đề cập tới những “hội
nhóm chính trị” mà ông chứng kiến ở Hoa Kỳ trong chuyến thăm
đất nước này vào năm 1831; chuyến thăm đó là khởi nguồn cho tác
phẩm nổi tiếng “Nền dân trị Mỹ” của ông. Ở Việt Nam, xã hội dân
sự cũng tồn tại từ xa xưa dưới hình thức những phường hội, họ
tộc...
Tuy nhiên, cùng với sự nở rộ các NGO và INGO sau hai cuộc
Thế chiến, khái niệm xã hội dân sự bỗng nhiên nổi lên trên chính
trường quốc tế, và đặc biệt trở nên thời thượng ở Việt Nam từ
khoảng giữa những năm 2000-2010, gắn với sự phát triển của
Internet và toàn cầu hóa. Đặc biệt, từ năm 2011 – năm đánh dấu
những cuộc biểu tình chống Trung Quốc đầu tiên được tập hợp
thông qua facebook – khái niệm xã hội dân sự lại được gắn với dân
chủ, nhân quyền. Các tổ chức xã hội dân sự, dĩ nhiên kể cả các
NGO, được coi như các tổ chức đấu tranh vì sự thay đổi và dân chủ
hóa Việt Nam; đồng thời, bị an ninh và tuyên giáo coi như thế lực
thù địch, chống nhà nước.
Vậy, xã hội dân sự là gì?
ĐỊNH NGHĨA
Có rất nhiều định nghĩa về xã hội dân sự.
Học viện Công dân (ICEVN) đưa ra diễn giải và định nghĩa
như sau: 1
“Khái niệm xã hội dân sự đã được các triết gia về chính trị thuộc
thời kỳ Khai Sáng ở Âu châu sử dụng, và khái niệm này đã theo
thời gian mà thay đổi cho đến ngày hôm nay. Các tư tưởng gia như
Hobbes, Locke, Rousseau dùng xã hội dân sự để chỉ một trạng thái
xã hội khi con người đã bắt đầu sống quần tụ với nhau, khác với
trạng thái thiên nhiên. Xã hội càng phát triển thì lại càng nẩy nở
thêm nhiều sắc thái và bộ phận khác nhau; do đó, các nhà tư tưởng
thuộc thế kỷ 19 và thế kỷ 20 như Hegel, Marx, Gramsci, Diamond,
v.v... đều có những khái niệm không giống nhau, và không thể
thống nhất về một định nghĩa cho xã hội dân sự. Tuy nhiên, các
học giả thuộc thế kỷ 20 đều đồng ý trên mẫu số chung sau đây của
xã hội dân sự. Đó là sự hiện hữu của một lãnh vực công nằm giữa
nhà nước, thị trường, và cá nhân. Chính trong lãnh vực công này
mà các công dân hoạt động “nhằm biểu tỏ các mối quan tâm, tư
tưởng, trao đổi thông tin, thực hiện các mục tiêu chung có tính
chất hỗ tương, kiến nghị với nhà nước và buộc các viên chức nhà
nước phải chịu trách nhiệm trong công vụ” (Diamond, 1994).
Theo Brian O’Connell, chủ tịch sáng lập của Independent
Sector, lãnh vực công là miền hội tụ của 5 thành tố sau: Thành tố
đầu tiên là các cá nhân, tiêu biểu cho quyền lợi riêng tư. Thành tố
thứ hai là cộng đồng bao gồm gia đình, làng xóm, chùa chiền, các
hội đoàn, v.v. Cộng đồng là nơi các cá nhân sinh hoạt và phát triển
và cũng là nơi đại diện cho các quyền lợi tập thể. Cộng đồng chưa
phải là xã hội dân sự; tuy nhiên cộng đồng và gia đình tạo nên một
hệ thống giá trị căn bản về đạo lý và văn minh chung cần thiết cho
đời sống của xã hội. Thành tố thứ ba là chính quyền. Thành tố này,
thật đáng ngạc nhiên thay, lại thường bị bỏ sót trong các định nghĩa
về xã hội dân sự. Chính quyền là một thành tố thiết yếu của xã hội
nói chung và của xã hội dân sự nói riêng, vì chính quyền có thể
1. Bài đăng trên trang mạng của Học viện Công dân: http://icevn.org/vi/XaHoiDanSu
giúp phát triển hay làm cản trở sự phát triển của xã hội dân sự.
Thành tố thứ tư là sự tham gia tự nguyện; thành tố này chính là cốt
lõi cho hoạt động của xã hội dân sự và thường hay bị lẫn lộn với xã
hội dân sự. Thành tố cuối cùng là lãnh vực thương mại. Thành tố
này có vẻ trái ngược với xã hội dân sự, vì chúng ta thường nghĩ đến
các hoạt động vô vị lợi của các tổ chức thiện nguyện, trong khi nói
đến thương mại là nói đến các hoạt động sinh lợi. Tuy vậy để có thể
hoạt động được hữu hiệu mọi tổ chức thiện nguyện đều cần một
số các phương tiện để hoạt động mà không tùy thuộc vào nhà
nước, và từ đâu các tổ chức này có được phương tiện tài chính, nếu
không từ lãnh vực thương mại? O’Connell nhận xét thêm: “Có rất
nhiều công ty thương mại không có tí lương tâm xã hội gì cả,
nhưng những công ty nào đã chấp nhận và chu toàn trách nhiệm
xã hội đều có những đóng góp quý báu cho phẩm chất của cộng
đồng và xã hội dân sự””.
No-U giúp xây dựng và tu bổ trường học ở Háng Đề Sủa
(Lao Chải, Yên Bái), tháng 9/2015.
Một học giả danh tiếng về chính trị, Giáo sư Larry Diamond,
định nghĩa trong một tiểu luận xuất bản tháng 6/1997 1
để làm rõ
xã hội dân sự là gì và không là gì:
1. “Civil Society and the Development of Democracy” (“Xã hội dân sự và sự phát triển của
dân chủ”), Larry Diamond, 1997.
“Xã hội dân sự là lĩnh vực đời sống xã hội có tổ chức, mở (hướng
ngoại), tự nguyện, tự sinh sôi, ít nhất cũng tự nuôi sống được mình
một phần nào, tự trị trước nhà nước, và bị ràng buộc bởi một trật
tự pháp lý hoặc một tập hợp các quy tắc chung. Nó khác với khái
niệm “xã hội” nói chung ở chỗ nó có sự tham gia hoạt động tập thể
trong môi trường công cộng của công dân để biểu đạt những sự
quan tâm, say mê, nguyện vọng, ý tưởng, quan điểm, để chia sẻ
thông tin, để đạt các mục tiêu tập thể, để ra yêu cầu đối với nhà
nước, để cải thiện cấu trúc và chức năng của nhà nước, và để làm
cho các quan chức nhà nước phải có trách nhiệm giải trình.
Xã hội dân sự là một hiện tượng có tính trung gian, đứng ở giữa
khối tư nhân và khối nhà nước. Do đó, nó không bao gồm đời sống
cá nhân và gia đình, không bao gồm các hoạt động nhóm hướng
nội (ví dụ, để thư giãn, giải trí, thờ cúng hoặc các hoạt động tâm
linh), và không bao gồm các cơ sở tìm kiếm lợi nhuận mà các công
ty kinh doanh mở ra. Đây là tất cả những chiều kích của một “hội
hướng nội” (hay là, trong lĩnh vực thương mại, tìm kiếm lợi nhuận,
đó là các “tổ chức kinh tế”) không liên quan đến đời sống dân sự và
lĩnh vực công cộng. Tuy thế, như chúng ta sẽ thấy, chúng có thể góp
phần tạo ra các thông lệ về văn hóa và các mô thức tham gia có ảnh
hưởng lan tỏa vào lĩnh vực dân sự. Tương tự, xã hội dân sự khác
với “tổ chức chính trị”, vốn bao gồm tất cả các tác nhân có tổ chức
(trong một nền dân chủ thì chủ yếu đó là các đảng phái và các tổ
chức vận động), mà mục tiêu chính là giành quyền kiểm soát nhà
nước hay ít nhất là một vài vị trí cho họ trong bộ máy nhà nước.
Các tổ chức và mạng lưới trong xã hội dân sự có thể hình thành
liên minh với đảng phái, nhưng nếu họ bị cầm tù bởi đảng phái,
hoặc bị chi phối bên trong đảng phái, thì họ sẽ chuyển lĩnh vực
hoạt động của họ sang thành tổ chức chính trị và mất phần lớn khả
năng thực hiện các chức năng trung gian và xây dựng dân chủ mà
chỉ họ có”.
Cho đến nay, có nhiều định nghĩa về xã hội dân sự được các nhà khoa
học, viện nghiên cứu, trung tâm xã hội công dân đưa ra, và trên cơ sở
nghiên cứu các định nghĩa trên có thể thấy rằng xã hội dân sự bao gồm
mọi nhóm và mọi hoạt động không bị “ràng buộc” bởi chính quyền: tổ
chức chính trị, các hội kinh doanh, các tổ chức tôn giáo, hiệp hội truyền
thông, tổ chức từ thiện, công dân, tổ chức phi chính phủ...
Xã hội dân sự, vì thế, không phải điều gì đó hay ai xa lạ. Xã hội dân sự là
bạn, là tôi, là bất cứ ai mong muốn làm một điều gì để cuộc sống này tốt
đẹp hơn. Chúng ta có thể giống hoặc khác nhau về nghề nghiệp, tính
cách, hay hoàn cảnh sống, nhưng chỉ cần chúng ta chung tay vì cùng một
lý tưởng, một niềm tin, cùng nhau hướng tới sự thay đổi mà mình mong
muốn, chúng ta đã là một phần của xã hội dân sự.
iSEE tin rằng, một xã hội dân sự lành mạnh, minh bạch, hiệu quả và có
tính trách nhiệm cao sẽ đóng góp tốt hơn cho sự phát triển chung của đất
nước. Một xã hội dân sự phát triển sẽ tạo nhiều không gian tự do cho
người dân thể hiện ý chí và nguyện vọng của mình, trao đổi ý tưởng và
kiến thức để sáng tạo, hợp tác và thúc đẩy cho mục đích chung. Một xã
hội dân sự phát triển tốt cũng sẽ giúp cho việc thúc đẩy và bảo vệ quyền
của những đối tượng yếu thế và thiệt thòi hơn như người dân tộc thiểu số,
người đồng tính, song tính và chuyển giới.
Vậy bạn đã là một phần của xã hội dân sự chưa?
(Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường – iSEE)*
* https://www.facebook.com/iseevn/videos/364849933671237/
Sau khi chịu khó đọc hết các diễn giải và định nghĩa trên thì các
bạn có thể thấy rằng xã hội dân sự được đặc trưng bởi những liên
kết xã hội (giữa người với người) tự nguyện và phi lợi nhuận, nhằm
chia sẻ và thúc đẩy những lợi ích chung. Có rất nhiều việc xã hội
dân sự làm để chia sẻ và thúc đẩy lợi ích chung: phản biện chính
sách; kiềm chế quyền lực nhà nước; bảo vệ nhân quyền và dân chủ;
đào tạo, nâng cao năng lực; bảo vệ môi trường.
NGƯỜI HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI DÂN SỰ LÀ NHỮNG AI?
Sổ tay hướng dẫn hoạt động xã hội dân sự do Văn phòng Cao ủy
Nhân quyền Liên Hợp Quốc (OHCHR) ấn hành định nghĩa chủ
thể hoạt động dân sự là “những cá nhân và nhóm tự nguyện tham
gia các hình thức tham gia và hành động vì việc chung, xoay quanh
các lợi ích, mục đích và giá trị được chia sẻ chung, phù hợp với các
mục tiêu của Liên Hợp Quốc: bảo vệ hòa bình và an ninh, phát
triển, và thúc đẩy cũng như tôn trọng nhân quyền”. 1
OHCHR cung cấp một số ví dụ như sau về người hoạt động xã
hội dân sự:
- Những người bảo vệ nhân quyền, bao gồm cả các nhà hoạt
động trên mạng;
- Các tổ chức nhân quyền (NGO, hội, hiệp hội, nhóm, các nhóm
bảo vệ hoặc hỗ trợ nạn nhân);
- Các liên minh, liên hiệp, các mạng lưới (ví dụ để bảo vệ quyền
phụ nữ, quyền trẻ em, môi trường, quyền đất đai, quyền của LGBT,
v.v);
- Người khuyết tật và các tổ chức đại diện cho họ;
- Các tổ chức cộng đồng – tức là các nhóm được thành lập ở
một cộng đồng dân cư (ví dụ nhóm thổ dân, người dân tộc thiểu
số, người nông thôn, v.v.);
- Các nhóm tôn giáo, tín ngưỡng (ví dụ nhà thờ);
- Các nghiệp đoàn (các hội nghề cũng như hội chuyên môn,
như hội nhà báo, hội thẩm phán, hội luật gia, đoàn luật sư, hội sinh
viên, v.v.);
- Các phong trào xã hội (phong trào vì hòa bình, phong trào
sinh viên, phong trào dân chủ, v.v.);
- Các chuyên gia có đóng góp trực tiếp cho việc thụ hưởng
quyền con người (nhân viên cứu trợ nhân đạo, luật sư, y bác sĩ, v.v.);
- Thân nhân của những nạn nhân trong các vụ vi phạm nhân
quyền;
- Hội các nạn nhân trong các vụ vi phạm nhân quyền;
- Các thiết chế công cộng có chức năng thực hiện những hoạt
1. “A Practical Guide for Civil Society: Civil Society Space and the United Nations Human
Rights System”, Office of the UN High Commissioner for Human Rights, 2014.
động nhằm thúc đẩy nhân quyền (trường học, đại học, các viện
nghiên cứu, v.v.);
- v.v.
HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI DÂN SỰ LÀ LÀM GÌ?
Chức năng chính của các chủ thể hoạt động xã hội dân sự, theo
OHCHR, là nâng cao nhận thức về nhân quyền, hỗ trợ các cộng
đồng trong việc giải quyết các vấn đề chung của cộng đồng, xây
dựng chiến lược, tác động đến chính sách và pháp luật (vận động),
và thúc đẩy trách nhiệm giải trình của nhà nước.
Có thể phân chia hoạt động của xã hội dân sự ra làm ba mảng
chính: phát triển, dân chủ và nhân quyền.
Các chủ thể hoạt động xã hội dân sự có thể hoạt động ở mọi
phạm vi, mọi cấp: địa phương, quốc gia, khu vực, quốc tế.
Cụ thể hơn, các hoạt động đó bao gồm, chẳng hạn:
- Chống nghèo đói (Việt Nam gọi là “xóa đói giảm nghèo”);
- Chống tham nhũng;
- Thu hẹp bất bình đẳng kinh tế;
- Ứng phó với các thảm họa, các khủng hoảng nhân đạo, gồm
cả xung đột vũ trang;
- Thúc đẩy nhà nước pháp trị và trách nhiệm giải trình của nhà
nước;
- Thúc đẩy các quyền tự do công cộng – tức là các quyền tự do
của tất cả các cá nhân trong một cộng đồng, như một toàn thể, ví
dụ các quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do tụ tập...;
- Cổ súy minh bạch ngân sách nhà nước;
- Bảo vệ môi trường;
- Thực hiện quyền phát triển;
- Nâng cao năng lực cho người thiểu số hoặc các nhóm người bị
rủi ro khác;
- Nâng cao năng lực cho phụ nữ;
- Nâng cao năng lực cho thanh niên;
- Chống mọi hình thức phân biệt đối xử;
- Hỗ trợ hoạt động phòng chống tội phạm;
- Thúc đẩy trách nhiệm xã hội và trách nhiệm giải trình của
doanh nghiệp;
- Chống buôn người;
- Chống ngôn luận thù hận, bôi nhọ, xúc phạm nhân phẩm;
- Thúc đẩy công lý;
- Bảo vệ người tiêu dùng;
- Cung cấp các dịch vụ xã hội;
- v.v.
“Nếu các lãnh đạo không lắng nghe dân, thì họ sẽ phải nghe dân – trên
đường phố, trên quảng trường, hay là, như chúng ta vẫn thường thấy rất
nhiều lần, trên chiến trường. Có một cách tốt hơn thế. Tham gia nhiều
hơn. Dân chủ hơn. Tham gia sâu hơn và cởi mở hơn. Điều đó có nghĩa là
mở rộng tối đa không gian cho xã hội dân sự”.
(Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon phát biểu, ngày 23/9/2013).
XÃ HỘI DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
Như đã nói trong phần đầu Chương V này, ở Việt Nam, xã hội dân
sự cũng tồn tại từ xa xưa dưới hình thức những phường hội, dòng
tộc thời phong kiến. Sau đó, dưới thời Pháp thuộc, những tổ chức
xã hội dân sự theo nghĩa hiện đại lần đầu tiên đã xuất hiện tại Việt
Nam, như Hội Khai Trí Tiến Đức, Phong trào Duy Tân, Phong trào
Đông Kinh Nghĩa Thục, Hướng Đạo Sinh, Hội Ánh Sáng (của Tự
Lực Văn Đoàn). Tuy nhiên, sự thống trị của đảng Cộng sản ở miền
Bắc, đi liền với các cuộc cải cách ruộng đất ở nông thôn, sau đó là
ép dân vào hợp tác xã và khuyến khích theo dõi, chấm công điểm,
tố giác lẫn nhau, đã khiến xã hội dân sự kiểu truyền thống vỡ ra
từng mảng. Việc theo đuổi mô hình xã hội kiểu xô viết của đảng
Cộng sản Việt Nam cũng đưa đến sự chấm dứt đối với các tổ chức
dân sự hiện đại mới nhen nhóm hoạt động thời Pháp thuộc.
Ở miền Nam, sau ngày 30/4/1975, đảng Cộng sản chính thức
cầm quyền. Trong những năm sau đó, đảng thực hiện đường lối
toàn trị trên cả nước: xóa bỏ xã hội dân sự, kiểm soát toàn bộ đời
sống kinh tế... (xem phần “hội chứng 6 điểm của chế độ toàn trị”
ở Phần III, “Dân chủ”).
“Trong những năm sau khi thống nhất đất nước (năm 1975),
Việt Nam không công nhận xã hội dân sự là một thành phần độc
lập với nhà nước.Nhà nước thực hiện công tác huy động nhân dân
thông qua các “tổ chức quần chúng” lớn kết nối với nhà nước từ
trung ương đến cấp làng xã”. 1
1. Xã hội dân sự “chính thống”
“Sự kiện đổi mới vào năm 1986 là một bước ngoặt ở Việt Nam và
đánh dấu một giai đoạn mới của sự cởi mở tương đối, bao gồm cả
xã hội dân sự. Trong những năm 1990 cùng với đầu tư nước ngoài
gia tăng, một số lượng đáng kể các tổ chức phi chính phủ (NGO)
quốc tế bắt đầu hoạt động trong nước. Các tổ chức phi chính phủ
Việt Nam trong nước cũng đã hiện diện từ những năm 1990, mặc
dù các tổ chức được công nhận là phi chính phủ chỉ là một phần
nhỏ của xã hội dân sự ở Việt Nam”. 2
CIVICUS (Liên minh Thế giới về Sự Tham gia của Công dân)
cho rằng ở Việt Nam có bốn loại tổ chức xã hội dân sự chính: 3
y Các tổ chức cộng đồng;
y Các tổ chức quần chúng;
y Các hội nghề nghiệp;
y Các tổ chức phi chính phủ Việt Nam.
1. “Báo cáo tóm tắt về xã hội dân sự Việt Nam”, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), tháng
10/2011.
2. Như trên.
3. Như trên.
Các tổ chức cộng đồng
Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), “các tổ chức cộng
đồng (CBO) có thể là phi chính thức hoặc liên kết với các tổ chức
chính thức, nhưng, cũng tương tự như các phong trào cơ sở, nói
chung là được các cấp chính quyền địa phương chấp nhận. CBO
thường được khởi đầu bằng một mục tiêu phát triển địa phương
– chẳng hạn như sử dụng nước, tín dụng, hoặc hỗ trợ cho một
nhóm bên lề xã hội như người khuyết tật – và có thể kết hợp các
thành viên của chính quyền địa phương và/hoặc các tổ chức đoàn
thể. Các hoạt động cốt lõi của các CBO này là các lĩnh vực xóa đói
giảm nghèo, cứu trợ nhân đạo, tự tổ chức, và phát triển chuyên
môn. Tuy nhiên, chỉ từ những năm 2000, các CBO ở Việt Nam mới
bắt đầu nhận được tiền từ các nguồn quốc tế”.
Các tổ chức quần chúng
Cũng theo ADB, “các tổ chức quần chúng được tài trợ một phần
và do đó, không phù hợp trong một số định nghĩa của xã hội dân
sự, nhất là khi tư cách thành viên không nhất thiết phải do sự hoạt
động hoặc tham gia. Tư cách thành viên của một tổ chức quần
chúng có thể đến thông qua việc làm ở khu vực công chẳng hạn.
Tuy nhiên, các tổ chức quần chúng có liên kết ở cấp cơ sở rất mạnh
và đông hội viên, đồng thời đang trở nên ngày càng độc lập kể từ
giai đoạn đổi mới. Đây chính là trường hợp của Hội Nông dân, Hội
Phụ nữ, và Đoàn Thanh niên”.
Ta có thể thấy sự khéo léo diễn đạt “cho nhẹ vấn đề” của ADB ở
đây. Thực tế là ở Việt Nam, có 5 tổ chức quần chúng lớn: Hội Cựu
chiến binh, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân,
Hội Phụ nữ, và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
5 tổ chức này được đảng Cộng sản Việt Nam thu xếp để “đại
diện” cho 5 lực lượng nòng cốt trong xã hội là cựu chiến binh, công
nhân, nông dân, phụ nữ, và thanh niên. 5 tổ chức này cũng là
những cánh tay nối dài của đảng Cộng sản, khi mà lãnh đạo của
chúng luôn là ủy viên Trung ương Đảng, nhận lương từ ngân sách
Nhà nước, kinh phí hoạt động cũng nhận từ ngân sách Nhà nước,
và chức năng của chúng là tuyên truyền, giải thích đường lối chính
sách của “Đảng và Nhà nước” đến người dân thay vì bảo vệ quyền
lợi của các thành viên hay thúc đẩy lợi ích chung.
Bao trùm lên tất cả là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức quần
chúng lớn nhất, “liên minh chính trị và liên hiệp tự nguyện của các
tổ chức chính trị, tổ chức xã hội và các cá nhân đại diện cho các giai
cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định
cư ở nước ngoài”.
Không phải là chúng “được tài trợ một phần và do đó, không
phù hợp trong một số định nghĩa của xã hội dân sự”, mà chúng
đích thực là các tổ chức do chính quyền lập nên để phục vụ lợi ích
của “Đảng và Nhà nước”, tức đảng và nhà nước cộng sản. Ta có thể
gọi chúng là các GONGO – tổ chức phi chính phủ do chính phủ
điều hành, tức là xã hội dân sự giả, do chính quyền lập nên để phục
vụ lợi ích của mình và diễn trò dân chủ với cộng đồng quốc tế.
Các hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ
Bên cạnh CBO và các tổ chức quần chúng, hai loại tổ chức xã
hội dân sự còn lại, theo CIVICUS, là các hội nghề nghiệp và các tổ
chức phi chính phủ Việt Nam.
Các hội nghề nghiệp chịu sự kiểm soát chặt chẽ của đảng Cộng
sản, nhất là hội của các nghề được xã hội chú ý, như hội nhà báo,
hội nhà văn, hội luật gia, đoàn luật sư.
Đại đa số các tổ chức phi chính phủ tập trung vào những hoạt
động như đào tạo nâng cao năng lực, cung cấp dịch vụ, và phát
triển. Nguồn kinh phí của họ chủ yếu đến từ các dự án hợp tác với
nước ngoài. Tất cả cũng đều chịu sự kiểm soát chặt chẽ của đảng
Cộng sản, đặc biệt thông qua lực lượng an ninh với những bộ phận
chuyên về “quản lý” các tổ chức có yếu tố nước ngoài.
Hầu như không có tổ chức nào trong khối xã hội dân sự “chính
thống” ở Việt Nam thật sự độc lập và hoạt động để thúc đẩy dân
chủ-nhân quyền, nhà nước pháp trị, hoặc để bảo vệ các nhân quyền
bị coi là “nhạy cảm” như các quyền dân sự và chính trị (tự do ngôn
luận, tự do tụ tập, tự do biểu tình, tự do lập hội...).
2. Xã hội dân sự “ngoài luồng”
Trong những năm sau khi đảng Cộng sản bắt đầu công cuộc
Đổi Mới (1986), lác đác đã có vài tổ chức chính trị tuyên bố thành
lập với mục tiêu thúc đẩy dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam.
Sớm nhất có lẽ là Câu lạc bộ Những người Kháng chiến cũ, một tổ
chức dân sự mà thành viên nòng cốt là những người cộng sản có
tinh thần phản tỉnh, như Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng... Câu lạc bộ
chính thức ra đời (được cấp giấy phép) vào tháng 5/1986. Về sau,
trong cơn lốc dân chủ hóa ở Đông Âu, nó đã bị chính quyền cộng
sản thẳng tay đàn áp. Các thành viên tích cực đều bị bắt giam hoặc
quản thúc tại gia. Tới năm 1990, nó bị đảng Cộng sản kiểm soát
hoàn toàn.
Dĩ nhiên, các tổ chức cổ súy cho dân chủ, nhân quyền sau đó
đều bị đặt ra ngoài vòng pháp luật; thành viên bị truy bức, đàn áp.
Không rõ có tổ chức nào có giấy phép (đăng ký thành lập) không.
Ngày 08/4/2006, Khối 8406 ra đời với bản Tuyên ngôn Tự do
Dân chủ 2006. Một lần nữa, những người đi tiên phong trong công
cuộc đấu tranh cho dân chủ lại bị đàn áp. Một loạt người bị bắt vào
năm 2007: Linh mục Nguyễn Văn Lý, luật sư Nguyễn Văn Đài, luật
sư Lê Thị Công Nhân...
Ngày 09/9/2007, blogger Ba Sàm (tên thật Nguyễn Hữu Vinh)
mở trang blog “Thông Tấn Xã Vỉa Hè”. Ngày 19/9/2007, blogger
Điếu Cày (Nguyễn Văn Hải) thành lập Câu lạc bộ Nhà báo Tự do.
Có thể xem đây là những nhóm đấu tranh cho dân chủ-nhân
quyền đầu tiên trên nền tảng Internet. Hai người sáng lập này về
sau đều phải trả giá bằng những án tù nhiều năm.
Sáng chủ nhật 05/6/2011, cuộc biểu tình chống Trung Quốc
đầu tiên được tập hợp thông qua facebook nổ ra tại cả Hà Nội và
Sài Gòn. Trước đó, vào tháng 12/2007, blogger ở hai thành phố này
cũng từng biểu tình, nhưng lời kêu gọi khi ấy xuất phát trên mạng
Yahoo! 360°, và khác biệt quan trọng nhất giữa hai kỳ biểu tình là:
Năm 2011 đánh dấu sự ra đời những tổ chức xã hội dân sự “không
giấy phép”, bắt đầu tham gia vào cuộc chiến chống độc tài và bảo vệ
nhân quyền, thúc đẩy dân chủ. Không giấy phép, bởi họ không có
trụ sở, không có vốn điều lệ, không đăng ký thành lập, và chắc chắn
là có “xin” đăng ký thì cũng chẳng được cấp giấy phép.
Ngày 10/8/2011, nhóm facebook đầu tiên tập hợp “100 bạn trẻ
yêu nước xuống đường ngày chủ nhật” được thành lập, sử dụng
tính năng tạo nhóm kín của facebook. Vài tháng sau, một số thành
viên của nó đã có sáng kiến lập đội bóng No-U (có nghĩa là “nói
không với đường chữ U”, hay là đường lưỡi bò của Trung Quốc,
vốn ôm lấy 85% diện tích Biển Đông). Sinh nhật No-U được xác
định là ngày 30/10/2011.
“Cùng chung tinh thần yêu nước, phẫn nộ trước hành vi xâm
lấn của Trung Quốc, cùng cảnh ngộ bị đe dọa, bị đàn áp khi xuống
đường, những người biểu tình đã gắn kết lại với nhau. Bóng đá
cũng là môn thể thao làm cho con người dễ gần nhau, dễ gắn kết
lại với nhau hơn cả. Đội bóng NO-U ra đời trong hoàn cảnh ấy”.
“Với tinh thần xóa đường lưỡi bò phi lý của Trung Quốc; Hoàng
Sa, Trường Sa là của Việt Nam, đội bóng còn làm nhiều việc có ý
nghĩa khác, trong đó có tổ chức một số chuyến thiện nguyện vì
đồng bào nghèo, vì trẻ em ở nơi vùng sâu vùng xa” (blogger Nguyễn
Tường Thụy).
No-U cũng ra mắt tại Sài Gòn vào ngày 27/11/2011.
Kể từ đó, khái niệm xã hội dân sự được gắn với dân chủ, nhân
quyền và càng trở nên nhạy cảm trong mắt chính quyền. Các tổ
chức xã hội dân sự không giấy phép bị an ninh và tuyên giáo coi
như thế lực thù địch, chống nhà nước. Mục “Bình luận - Phê phán”
trên báo Nhân Dân, ngày 31/8/2012, còn đăng một bài xã luận
nhan đề “Xã hội dân sự - một thủ đoạn của diễn biến hòa bình” của
tác giả Dương Văn Cừ.
“Ðáng chú ý là một số đối tượng cơ hội chính trị có quan điểm
chống đối cực đoan đã lợi dụng một số tổ chức quần chúng hợp
pháp để tổ chức các hội thảo, tọa đàm, diễn đàn có nội dung đòi hỏi
đưa Hiến pháp 1992 trở về Hiến pháp năm 1946, trưng cầu ý dân
về Ðiều 4 cũng như toàn bộ Hiến pháp, lập Tòa án Hiến pháp, thúc
đẩy XHDS và thực hiện các quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận,
báo chí, lập hội theo tiêu chí phương Tây, tư hữu hóa đất đai... Nếu
thực hiện các nội dung này theo ý đồ của họ thì chế độ XHCN thực
tế sẽ không còn tồn tại ở Việt Nam. Ðây là phương thức đấu tranh
công khai rất nguy hiểm, nếu không cảnh giác có thể sẽ giúp các
thế lực thù địch lợi dụng các tổ chức XHDS để đưa ra những kiến
nghị nhằm thay đổi thể chế, thay đổi hệ thống luật pháp XHCN
bằng luật pháp dân chủ, tư sản”. 1
Ngoài việc đàn áp công khai, lực lượng an ninh cũng phối hợp
với dư luận viên theo dõi sát sao và đăng tải nhiều bài viết, video
clip... đánh phá các tổ chức xã hội dân sự “ngoài luồng”, ghép cho
họ các tội lỗi xấu xa như “ăn bám”, “ăn tiền ngoại bang”, “gây rối
trật tự”, “gây bất ổn xã hội”, thậm chí “bán nước”, “phản bội Tổ
quốc”. Tất cả các sản phẩm truyền thông này đều đánh đồng đảng
Cộng sản với Tổ quốc, và đánh đồng sự tồn vong của chế độ với
an ninh quốc gia, từ đó kết tội các tổ chức dân chủ-nhân quyền là
chống phá đất nước.
Từ vị thể kẻ bị đàn áp, đánh phá và bôi nhọ như vậy, con đường
để các tổ chức xã hội dân sự “ngoài luồng” đi tới chỗ được thừa
nhận và hoạt động tự do ở Việt Nam còn rất dài.
1. ““Xã hội dân sự” - một thủ đoạn của diễn biến hòa bình”, Dương Văn Cừ/ Nhân Dân,
31/8/2012. Có trên mạng tại địa chỉ: http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item
/1252402-.html
XÃ HỘI DÂN SỰ CÓ THỂ THAM GIA CHÍNH TRỊ KHÔNG?
Nhiều nhà hoạt động xã hội dân sự ở Việt Nam thường khẳng định
rằng họ chỉ hoạt động xã hội dân sự để làm cho đất nước tốt đẹp
lên, họ không mưu đồ lật đổ đảng Cộng sản cầm quyền và không
định làm chính trị.
Nói như vậy có nghĩa họ hiểu chính trị là “việc giành, giữ và
thực thi quyền lực nhà nước, do các đảng phái, tổ chức chính trị, và
các cá nhân là chính trị gia thực hiện”, như cách định nghĩa thứ hai
về chính trị mà chúng ta đã biết trong Chương I, Phần I.
Nói như vậy không sai. Tuy nhiên, nếu ta hiểu chính trị là “việc
gây ảnh hưởng lên những người khác, chẳng hạn và rõ rệt nhất là
tác động lên chính sách” như cách định nghĩa thứ tư ở Chương I,
Phần I, thì xã hội dân sự tất nhiên là những thực thể có khả năng
gây ảnh hưởng trong xã hội và tác động đến chính sách công.
Và, như đã nói ở phần đầu Phần V này, trong mục “Những kịch
bản thay đổi ở Việt Nam theo hướng dân chủ hóa”, có một khả
năng là xã hội dân sự phát triển mạnh, kéo theo các phong trào xã
hội rộng lớn, đủ sức mạnh gây sức ép buộc đảng cầm quyền phải
nhượng bộ. Ngoài ra, những nhà hoạt động xã hội dân sự nổi tiếng
và được nhiều người yêu mến rất có thể trở thành những ứng viên
tiềm năng để tranh cử vào các cương vị quản lý nhà nước trong
một chế độ dân chủ, hậu cộng sản.
Vậy thì, với câu hỏi “xã hội dân sự có thể tham gia chính trị
không?”, câu trả lời là có. Nỗi lo lắng và sự căm ghét của đảng Cộng
sản Việt Nam đối với xã hội dân sự là không thừa.
Bài đọc
XÂY DỰNG KHÔNG GIAN CHO XÃ HỘI DÂN SỰ 1
5 thành tố căn bản để tạo ra và duy trì một môi trường an toàn,
tạo điều kiện cho xã hội dân sự là:
- Một khuôn khổ pháp lý vững chắc phù hợp với các tiêu chuẩn
quốc tế bảo vệ các quyền tự do chung và bảo vệ việc thực thi công
lý một cách hữu hiệu;
- Một môi trường chính trị có lợi cho công việc của xã hội dân
sự;
- Khả năng tiếp cận thông tin;
- Không gian cho khối xã hội dân sự tham gia vào tiến trình ra
quyết định;
- Sự hỗ trợ cũng như nguồn lực dài hạn cho xã hội dân sự.
Bằng việc tạo ra những điều kiện đó, chính phủ, cộng đồng
quốc tế và những bên có liên quan khác sẽ ở cương vị tốt hơn để
nuôi dưỡng một bầu không khí tin cậy và hợp tác vì lợi ích của tất
cả mọi người, ở cấp độ địa phương, quốc gia và toàn cầu.
KHUYẾN NGHỊ
Để có một khuôn khổ pháp lý mang tính hỗ trợ và tiếp cận công lý,
các nước thành viên cần phải:
1. “Practical recommendations for the creation and maintenance of a safe and enabling
environment for civil society, based on good practices and lessons learned”, báo cáo của
Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc, ra ngày 11/4/2016.
(a) Bảo vệ, trong luật pháp và trên thực tế, những quyền cần
thiết cho những người làm xã hội dân sự hoạt động, kể cả quyền tự
do quan điểm và biểu đạt và tụ tập ôn hòa và hiệp hội, lẫn quyền
tham gia vào các vấn đề công cộng, kể cả trên mạng;
(b) Xem xét lại và hủy bỏ hoặc sửa đổi tất cả những quy định
của pháp luật mà ngăn chặn hoạt động tự do và độc lập của những
người làm xã hội dân sự; đảm bảo rằng tất cả các đạo luật có ảnh
hưởng đến khả năng hoạt động của họ đều tuân thủ luật pháp và
chuẩn mực quốc tế về nhân quyền và Tuyên bố về Những người
bảo vệ nhân quyền; và sử dụng các công cụ, trong đó có những chỉ
dấu về việc thực thi các quyền tự do nơi công cộng do OHCHR xây
dựng;
(c) Để cho các tổ chức không đăng ký được vận hành, và đưa ra
những quy định pháp lý và hành chính tối giản nhằm hỗ trợ việc
thông báo đơn giản đến một cơ quan hành chính độc lập và khả
năng tiếp cận với chi phí thấp hoặc miễn phí;
(d) Đảm bảo việc tiếp cận công lý thông qua một hệ thống tư
pháp độc lập và hiệu quả, cũng như việc tiếp cận đến các định chế
nhân quyền quốc gia phù hợp với Công ước Paris và các cơ chế
nhân quyền khu vực và quốc tế;
(e) Đưa ra các cơ chế để phối hợp điều tiết hoặc tự điều tiết ở
những lĩnh vực nơi các vấn đề về không gian dân sự có thể được xử
lý bởi các tổ chức xã hội dân sự;
(f) Đảm bảo rằng tất cả các biện pháp chống khủng bố có ảnh
hưởng tới xã hội dân sự đều tuân thủ tất cả luật pháp và chuẩn mực
quốc tế về nhân quyền có liên quan.
Để có một môi trường chính trị và công cộng thuận lợi, các
nước thành viên cần phải:
(a) Thể hiện sự ủng hộ chính trị ở cấp cao đối với sự độc lập và
đa dạng của các hoạt động dân sự thông qua những tuyên bố công
khai và những chiến dịch thông tin công khai;
(b) Xây dựng và thực hiện các chương trình hành động quốc gia
để thực hiện Các Nguyên tắc Hướng dẫn Kinh doanh và Nhân
quyền của Liên Hợp Quốc: Thực hiện khuôn khổ “Bảo vệ, Tôn
trọng và Giải quyết” của Liên Hợp Quốc, gồm cả những cam kết
nhằm thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng và ủng hộ của khối
kinh doanh dành cho những người hoạt động xã hội dân sự, trong
nước và nước ngoài;
(c) Đảm bảo trách nhiệm giải trình về bất kỳ một hành vi đe dọa
hay trả thù nào nhằm vào những người hoạt động xã hội dân sự,
bằng cách bảo đảm điều tra nhanh chóng, toàn diện, không thiên
vị, và đưa thủ phạm ra trước công lý;
(d) Phát triển hoặc cập nhật một khuôn khổ chính sách quốc
gia và chương trình hành động quốc gia để hướng dẫn việc thực thi
các khuyến nghị được trình bày trong báo cáo này và thực thi tất cả
các luật và tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền liên quan đến không
gian xã hội dân sự.
Để đảm bảo tiếp cận thông tin, các nước thành viên cần phải:
(a) Thông qua những đạo luật, quy định và chính sách rõ ràng,
bảo đảm việc công bố thông tin chủ động từ các cơ quan nhà nước,
kể cả những cơ quan thực hiện các chức năng công vụ, và trao
quyền phổ quát được đề nghị và tiếp nhận những thông tin đó, chỉ
chịu sự hạn chế của những ngoại lệ được quy định rõ ràng và rất
hẹp, theo luật pháp và các chuẩn mực nhân quyền quốc tế; đảm
bảo quyền tiếp cận thông tin của các cơ quan tư nhân, khi mà
thông tin đó là thiết yếu đối với việc thực thi hoặc việc bảo vệ nhân
quyền; và trao quyền khiếu nại đến một cơ quan độc lập, trong bất
kỳ trường hợp nào bị từ chối cung cấp thông tin;
(b) Đào tạo cho các quan chức nhà nước về việc thực hiện quyền
tiếp cận thông tin và truyền bá thông tin tới cộng đồng về quyền
tiếp cận cũng như các tiến trình để đạt được nó.
Để thực hiện sự tham gia của người dân vào triển khai chính
sách, lên kế hoạch và ra quyết định, các nước thành viên cần phải:
(a) Công nhận quyền tham gia vào các tiến trình ra quyết định
công cộng trong luật pháp. Điều này phải bao gồm thông tin kịp
thời, rõ ràng, chính xác và phù hợp, với thông điệp và vấn đề dễ
hiểu; tuyên truyền rộng rãi về đầu ra, cùng với sự mô tả tiến trình;
lý do để chấp nhận hoặc bác bỏ các đề xuất hoặc thông tin đầu vào
của khối xã hội dân sự; các cơ hội để phản hồi và sửa chữa; và cung
cấp ngân sách thích đáng để có sự tham gia đó;
(b) Triển khai các chương trình hành động quốc gia về thu hút
sự tham gia của những người làm xã hội dân sự, theo đó, tất cả các
cơ quan nhà nước phải tham vấn xã hội dân sự trong việc xây dựng
và triển khai thực hiện chính sách;
(c) Tích hợp các hình thức tham gia mới thông qua việc sử dụng
ICT (công nghệ thông tin-truyền thông) và truyền thông xã hội
như là phương tiện để tạo sự tiếp cận bình đẳng với thông tin và
tham vấn rộng khắp;
(d) Đánh giá một cách có hệ thống xem liệu các cải cách về luật
pháp và chính sách được đề xuất có ảnh hưởng tiêu cực đến phụ nữ
hay không, hoặc có chứa đựng các yếu tố giới cụ thể hay không,
hoặc có ảnh hưởng đến những bộ phận cụ thể trong dân số hay
không;
(e) Đào tạo và hướng dẫn cho quan chức nhà nước hỗ trợ các
tiến trình tham vấn kịp thời và hiệu quả.
Để tạo sự hỗ trợ và nguồn lực dài hạn cho các tổ chức xã hội dân
sự, các nước thành viên cần phải:
(a) Thừa nhận rằng hạn chế một cách vô lý việc tài trợ là một sự
vi phạm quyền tự do hiệp hội, đảm bảo rằng những người làm xã
hội dân sự có thể tìm kiếm, tiếp nhận và sử dụng tiền tài trợ và các
nguồn lực khác, dù là trong nước hay nước ngoài, mà không cần
được sự cho phép trước và không có các cản trở vô lý khác; nếu
không có những hạn chế đối với việc tiếp nhận tài trợ nước ngoài
ở các cơ quan nhà nước hay cơ sở kinh doanh, thì cũng không
được có hạn chế ở các tổ chức xã hội dân sự;
(b) Tài trợ một cách linh hoạt cho các tổ chức xã hội dân sự, với
thủ tục đơn giản, và luân chuyển mọi nguồn quỹ cho các hoạt động
xã hội dân sự thông qua những tiến trình công khai, minh bạch;
(c) Trong khuôn khổ các hoạt động tài chính thích hợp, áp dụng
miễn thuế cho các tổ chức xã hội dân sự và khuyến khích bằng thuế
cho những nhà tài trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân
hàng cho phép chuyển tiền xuyên biên giới;
(d) Tích hợp giáo dục nhân quyền và dân sự vào tài liệu giảng
dạy và các chương trình đào tạo ở mọi cấp.
Khuyến nghị đến các thực thể khu vực và quốc tế
Các thực thể khu vực và quốc tế cần phải:
(a) Đảm bảo các cơ sở tiền đề an toàn cho xã hội dân sự và tư vấn trong trường hợp có hiểm nguy, đe dọa hay hành động trả thù;
(b) Thông qua các hoạt động và tiến trình của mình, tạo sự tham gia hiệu quả của xã hội dân sự, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về không phân biệt đối xử, tự do biểu đạt, tự do lập hội, tụ tập ôn hòa và quyền tham gia vào các vấn đề cộng đồng;
(c) Tăng cường minh bạch, thông qua các hình thức như webcasting, tổ chức các cuộc họp công khai, chẳng hạn, các cuộc họp của Ủy ban Các Tổ chức Phi Chính phủ của Hội đồng Kinh tế và Xã hội;
(d) Duy trì giám sát thường xuyên, xem xét lại và báo cáo về các vấn đề về không gian dân sự và những khó khăn thách thức ở tất cả các thực thể.
29/8/2018
Phạm Đoan Trang
Theo https://luatkhoa.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét