VĂN THƠ NHẠC
Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2024
Xin làm gió thổi lại đôi
Về thăm nhánh cỏ bên đường/ thuở chân em dẫm vô thường mà say/ nhành hoa trên áo lung lay/ chỉ thương sợi chỉ còn gây hương nồng…
Thuyền giấy - Chùm thơ của Tịnh Bình
Thuyền giấy
Chùm thơ của Tịnh Bình
Lặng thầm mây ngang phố cũ/ Thuyền giấy ai thả bên thềm/ Phập phồng bóng mưa hư ảo/ Chở mùa thơ ấu trôi êm…
Thuyền giấy
Ai bảo trời mưa không dứt
Nhớ trưa ngọn gió mát lòng
Ai làm giọt mưa rơi mãi
Biết có hờn dỗi gì không?
Ai hát mênh mang câu hát
Giọt cà phê nghe đắng lòng
Quán vắng buồn chăng ghế trống
Người xưa còn nhớ ta không?
Áo trắng một thời hạ đỏ
Mắt biếc một trời thương mong
Bầy ve chỉ yêu mùa hạ
Phượng chín mấy tầng thinh không
Lặng thầm mây ngang phố cũ
Thuyền giấy ai thả bên thềm
Phập phồng bóng mưa hư ảo
Chở mùa thơ ấu trôi êm…
Quê nhà vọng tiếng lời ru
Đợi người… người đã về chưa?
Cánh đồng năm nắng mười mưa niềm gì
Hoàng hôn hoe mắt chim di
Sông quê thao thiết ở đi dùng dằng
Vàng ươm thóc trải đầy sân
Ngày mùa sợi nắng trong ngần reo vui
Bay lên đời khói ngậm ngùi
Rạ rơm ấm áp ngủ vùi giấc đông
Đợi người… chín nhớ mười mong
Giọt mưa gieo xuống cánh đồng hoang vu
Quê nhà tiếng vọng lời ru
Đường xa cỏ ướt sương thu lối về
Bao năm gác lại bộn bề
Đò đưa bến hẹn chân quê lạc lầm
Trăng vàng cuối nẻo trầm ngâm
Người đi, kẻ ở tím bầm gió sương…
22/6/2023
Tịnh Bình
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Nhà văn Nguyễn Bình Phương: Palestine - Khi biển bị rào
Nhà văn Nguyễn Bình Phương:
Palestine - Khi biển bị rào…
Trong chuyến đi mười ngày đến nước Palestine, dải đất kỳ bí và cũng lắm thương đau, tôi quyết định chọn bốn ngày để ghi lại những gì mình thấy, mình cảm nhận. Các ngày còn lại không phải khoảng trắng, chỉ là tôi giữ cho riêng mình, như vuông đất riêng tư dành ươm những mầm cây riêng tư.
Chủ tịch Hội Nhà văn Palestine Murad Sudani (thứ hai từ phải
qua) và các nhà văn Việt Nam trên đường đến Bethlehem ở Palestine
Con la nhẫn nại
Ngày thứ nhất.
Ấn tượng đầu tiên là con đường từ biên giới Jordan xộc thẳng
vào nội địa Palestine. Một dải nhựa xám phẳng lừ chạy vượt lên địa hình lấp lửng
giữa núi với đồi, giữa đang khởi tạo với bắt đầu tàn lụi.
Khô cằn, rạn vỡ, quằn quại trong gam màu óng vàng. Thế giới
là thế giới của nhịp điệu, của các dạng kết cấu đầy ngẫu hứng, tuyệt không hơi
hướm con người. Ý nghĩ đang chảy trôi lan man thì bị chặn lại khi ven đường khởi
lên dãy núi chất ngất khiến tôi nhổm dậy.
Một nhà văn Palestine tinh ý chỉ vào ngọn cao nhất và bảo đó
là Núi Cám dỗ. Hóa ra vậy, ngọn núi danh tiếng với thử thách cuối cùng đầy cân
não trước khi Chúa Jesus hoàn thành sứ mạng cứu chuộc của mình.
Bên sườn núi, con la hiện ra, im phắc như tượng. Con la đầu
tiên vùng Trung Đông tôi nhìn thấy. Nó đứng cô đơn giữa những vết rạn nứt với vẻ
nhẫn nại khó tả. Một con la nào đó đã từng chờ đợi đưa Chúa Jesus đến với các
vùng đất.
Con la này, hẳn còn các con la khác nữa, đứng rải rác như tiếp
tục chờ đợi ai đó, bất chấp cả ngàn năm phía trước. Xa bên kia, một trạm gác của
Israel với nòng súng vươn ra cũng im phắc.
Không khí ồn ào, háo hức trong xe tự dưng trầm xuống thây kệ
bên ngoài không ngừng bung ra những đường nét biến ảo đầy mãnh lực. Càng lên
cao càng thấy vời vợi một nỗi niềm thật khó cắt nghĩa rạch ròi.
Cuối cùng thì cũng tới Ramallah, thủ phủ của Palestine.
Thành phố của những thăng giáng, những ngã rẽ đầy diệu vợi.
Đàn ông ở đây vạm vỡ, râu ria, mạnh mẽ mà hết sức khoan hòa. Họ phóng xe tốc độ
cao nhưng lại rất biết nhường đường nhau. Họ hùng hổ nhưng luôn chào hỏi không
biết mệt mỏi và tuồng như thường quên bẵng mất sự chuyển vận của thời gian.
Chủ tịch Hội Nhà văn Palestine, Murad Sudani, một người
khoáng hoạt và mạnh mẽ, kéo chúng tôi đi băng băng từ sự kiện này qua sự kiện
khác, gặp hết nhân vật này đến nhân vật khác với thái độ thân mật đậm không khí
người anh em.
Tôi thích tính cách Murad dù kiên định lối ứng xử của mình.
Trong các cuộc đi, bao giờ tôi cũng giữ một khoảng cách với xung quanh, chẳng
phải dè chừng mà để quan sát. Chỉ khi làm thừa mình ra, ta mới có cơ hội nhìn mọi
thứ trong tổng thể của nó.
Những hàng rào nhức nhối
Ngày thứ năm. Sau các cuộc tiếp xúc dày đặc mệt nhoài, có khoảng
buông lơi để đến Biển Chết. Khi đổ từ trên cao xuống Jericho, thành phố nằm thấp
nhất thế giới, tôi nhìn thấy biển. Đó chỉ là một dải phẳng lặng màu bạc.
Giữa Biển Chết với chúng tôi là tầm nhìn chới với bị phân
cách bởi hàng rào thép gai công phu, hiện đại. Mọi nhức nhối của vùng đất này
có lẽ nằm ở các hàng rào. Chúng tăm tắp, óng nuột và vững chắc.
Hàng rào bảo vệ khu định cư của người Do Thái trên đất
Palestine. Hàng rào phân giới hạn với dân Palestine trên các rẻo đất chưa có một
bóng người. Hàng rào khuôn nắn thành một dòng eo hẹp hạn chế tín đồ Palestine
vào các khu thánh tích của chính họ.
Dĩ nhiên, kẻ dám vượt qua các hàng rào đó sẽ nhận được cái chết.
Đầy bất lực và uất ức, các nhà văn Palestine chỉ tay về phía mà họ gọi là Biển
Chết.
Lòng tôi nhói lên, chẳng biết vì vẻ mặt thất thần của những đồng
nghiệp Palestine hay vì tiếng quạ khàn khàn bên các sợi hàng rào sắc lẹm. Quạ ở
đây kẻ cả, ương gàn, vẻ kẻ cả của loài đã từng lượn lờ trên đồi Golgotha khi
Chúa Jesus bị đóng đinh, và giờ đang đặc quyền lượn lờ trên xác những người dân
vô tội của dải đất nhộn nhạo máu lửa này.
Biển bị rào thì đành tìm tới con sông đổ vào biển. Nhưng cũng
phải trầy trật giải thích, những người đồng nghiệp Palestine mới cùng chúng tôi
ra tới được đoạn sông Jordan chảy qua quê hương của chính họ.
Chẳng biết thời Chúa Jesus được nhúng mình rửa tội, nước sông
Jordan có trong hơn bây giờ, dòng khi ấy rộng hơn hay vẫn nhỏ bé khiêm nhường
như hiện nay. Tôi thấy sự sùng kính của những đoàn khách hành hương từ khắp mọi
nơi trên thế giới tới đây qua cách họ chạm vào dòng chảy màu rêu non kia.
Nước cùng thời gian biền biệt chảy, nhưng tính thiêng thì đọng
lại, để cho những người đàn bà, với sự ái mộ công khai giữa ánh mặt trời, thả
mình vào sông một cách rối rít, tự nguyện, đầy đê mê.
Đàn ông, nếu chịu khó quan sát phụ nữ vào lúc ấy, chắc chắn sẽ
chua chát nhận ra họ chưa bao giờ chinh phục được tuyệt đối một người phụ nữ.
Có lẽ đàn bà mới chính là người sinh ra và nuôi dưỡng tôn giáo, còn đàn ông chỉ
được mượn làm biểu tượng mà thôi.
Sự thật không phải là điều chúng ta nhìn thấy
Ngày thứ bảy.
Trên đường từ Ramallah đến Bethlehem, có một chỗ dừng, không
phải để nghỉ, mà để người Palestine đứng ở đó ngóng về Jerusalem vời vợi của họ.
“Hơn mười năm nay, chúng tôi không được đến đó – Murad mở to
mắt nói với đoàn nhà văn Việt Nam – Nhưng chúng tôi tin sẽ có ngày mình quay về,
vì đấy là thủ đô của chúng tôi. Từ lúc ấy cho đến Bethlehem, không ai trong
đoàn nói câu gì nữa.
Ở Palestine có hai thứ dẳng dai: sự hiện diện của các con vật
và niềm phẫn uất bị chiếm đóng.
Bất cứ lúc nào cũng có thể thấy đoạn này đàn dê nhốn nháo, chỗ
kia một đám cừu nhung nhúc xô động như vạt cỏ khô, trên dây điện lũ chim đậu
thành nốt nhạc chênh chao, còn bên ta luy dương cằn cỗi, nứt nẻ luôn đơn độc một
con la, một con la nhẫn nại đến mức bất động.
Và tương tự, trên xe, ngoài quán ăn, trong phòng làm việc, giữa
bàn cà phê luôn dẳng dai vang lên câu chuyện về sự bất công. Súng đang nổ ở đâu
đó, sau tiếng súng là máu chảy, chảy hằng ngày, cả về hai dân tộc… Đắng cay này
khó nuốt, nhưng nó sẽ hun ý chí thép cho các nhà văn.
Người dẫn đường cho tôi xem bức ảnh chụp một cậu bé cỡ 7, 8
tuổi nằm với dây nhợ chằng chịt trên giường bệnh, bảo đó là cháu anh ta, vừa
hôm qua bị bắn vào đầu và đã mất.
Một đứa trẻ Palestine bị bắn chết, dù là vô tình, thì tương
lai của loài người vẫn bị méo đi, dị dạng đi rất nhiều. Ở đây, súng có thể bắn
bất cứ lúc nào, vào bất cứ đâu. Đó là điều tôi đọc được từ vẻ mặt rầu rầu của
những anh bạn nhà văn Palestine và đôi lúc tôi tận mắt chứng kiến.
Tuy nhiên, sự thật không phải là điều chúng ta nhìn thấy, mà ở
điều chúng ta cảm thấy. Vùng đất này đang chịu phép thử đầy lạnh lùng của thánh
thần thông qua hình ảnh những trạm kiểm soát, với người lính kè kè khẩu súng
đen óng, thanh mảnh, tinh xảo.
Lịch sử luôn loạng choạng
Ngày thứ tám.
Không hình dung, để bước vào ngôi đền Ibrahimi thiêng liêng lại
phải qua trạm kiểm soát soi chiếu kỹ càng đến thế. Bị kẹt bởi những đối đáp
căng thẳng giữa lính gác và người dẫn đường, tôi lúng túng ngước nhìn lên.
Và lại thấy con la, trong dáng hình một đám mây xốp bồng bềnh,
quẩn quanh trên nóc đền. Đối lập với vẻ tư lự xa xăm của con la là thái độ hằm
hè giữa cánh đàn ông hai phía và vẻ âm thầm bí ẩn của những người phụ nữ đi từ
đền thờ ra.
Rồi cũng vào được bên trong, nơi các nhân vật thời Cựu ước ngự
trị: Abraham, Isaac, Jaccop cùng những bà vợ của họ.
Tôi ngắm mãi phiến đá tương truyền in vết chân của Adam khi bị
đuổi khỏi vườn Địa đàng, thầm nghĩ liệu mai kia cũng sẽ có một phiến đá trưng
bày vết chân của người Palestine hoặc người Israel cuối cùng bị đuổi khỏi đền
thờ này?
Lịch sử luôn loạng choạng vì động lực của nó là vô thức, chẳng
ai biết trước điều gì sẽ xảy ra. Tuy nhiên, ta chắc chắn một điều: vết chân cuối
cùng nào cũng nhuốm màu cay đắng.
Một chuyến đi không là gì cả trong dằng dặc đời người. Nhưng
mỗi chuyến đi lại là duy nhất với các cảm giác duy nhất. Chuyến này, tôi cảm nhận
rõ nét hơn bao giờ hết về nỗi phấp phỏng, niềm phẫn uất, và cao hơn, một khát vọng
tự do. Những nỗi niềm ấy thuộc về một dân tộc đang nổi trôi bấp bênh ngay trên
mảnh đất của chính họ.
23/6/2023
Nguyễn Bình Phương
Nguồn: Báo Tuổi Trẻ
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Trò chuyện với Nhà nghiên cứu văn học Nguyên An về một cuốn sách mới xuất bản
Trò chuyện với Nhà nghiên cứu văn học
Nguyên An về một cuốn
sách mới xuất bản
Nhân đọc: Văn học thiếu nhi Việt Nam – Khảo luận và chân dung – NXB Hội Nhà văn, 2023
Có người bảo với chúng tôi rằng nhà nghiên cứu văn học Nguyên
An là một trong những người thạo tin, dịch giả văn học Nguyễn Chí Hoan có vẻ
xác nhận thế. Nhưng gặp Nguyên An, ông lại nói: Không hẳn thế đâu, trong số những
anh chị em hay viết bình luận và giới thiệu văn học – văn chương, thì các vị
như Bùi Việt Thắng, Vũ Nho, Khuất Bình Nguyên, Nguyễn Đăng Điệp… mới là người
thạo tin.
Nói đi nói lại, e mất thì giờ, tôi hỏi Nhà NCVH Nguyên An:
– Ông vừa xuất bản cuốn chuyên khảo – chân dung Văn học thiếu
nhi Việt Nam. Nghe nói vừa ra lò, đã có lắm người đọc, đã bán được cả trăm cuốn,
được chứ?
– Tin này thì đúng, nhưng cũng phải “nói thêm cho rõ” là biếu,
tặng, xin, cho… cũng có. Tại sao ư? Đồng nghiệp và các giáo viên, học sinh nữa.
Người ta tìm đọc cho là quý rồi chị ạ.
– Gần đây nhiều nhà NCVH và cả người sáng tác văn nghệ hay
nói đến văn học phong trào…, như hàm nghĩa là chất lượng chưa được cao lắm, họ
còn dẫn chứng rằng văn học thiếu nhi nước ta là văn học phong trào, trong sách
mới của ông có đề cập đến vấn đề này không? Ý của ông là…
– Có chứ! Hơn nhiều dòng văn chương khác, như văn chương chiến
tranh – cách mạng, sáng tác về nông dân – nông nghiệp – nông thôn… thì văn
chương – văn học thiếu nhi Việt Nam ta có tính chất phong trào rất rõ. Và tôi
xin nói ngay rằng: Nếu không có, rồi thiếu đi những đợt vận động sáng tác theo
chủ đề, nếu không có phong trào Nghìn việc tốt, Kế hoạch nhỏ,… thời những năm
1960, 1970… thì ta không có được dòng (có người gọi là nền) văn học thiếu nhi
Việt Nam ngày nay đâu!
– Nhưng sáng tác văn chương là công việc của những lao động
cá nhân, của những cá tính sáng tạo cơ mà. Không ai viết hộ cho ai cả. Nhà biên
tập có thể nhắc ông/ bà tác giả là nên viết rõ viết thêm thế này, trang này, hoặc
bỏ bớt chi tiết kia, mấy dòng/ đoạn kia… nhưng tác giả người ta đâu đã dễ làm
theo!
– Ấy là nói chung thôi, còn với văn học thiếu nhi, nhất là ở
nhóm tác giả là các cháu đang học phổ thông, thì người lớn đã và còn nên gợi ý
cho các cháu dùng từ ngữ – chi tiết, hình ảnh… nữa ấy chứ.
– Chả có nhẽ thế? Văn chương trẻ con thì phải hồn nhiên mới
hay chứ.
– Đồng ý. Văn chương hay, đẹp… thường là, phải là những áng
thơ, dòng văn được viết ra từ cảm xúc hồn nhiên, từ những ý tưởng trong sáng, dẫu
có giận hờn, dẫu có buồn thương…
– Vậy phong trào trong sáng tác có ý nghĩa gì? Ai tham gia
vào phong trào văn học thiếu nhi ấy?
– Câu chuyện này có tính lịch sử đấy nhé. Vắn tắt là thế này:
Từ xưa, ông bà cha mẹ rồi anh chị em trong một số gia đình đã khuyến khích trẻ
thơ sáng tác đấy. Bé Lê Quý Đôn sáng tác bài thơ về các loài rắn ngụ ý từ nay
con sẽ chăm ngoan, hàng nghìn cháu đã múa hát dung dăng dung dẻ, tập tầm vông…
nữa. Còn vào thời ta, ở buổi đầu của văn học thiếu nhi đương đại, các tổ chức
Đoàn, Đội, các Hội phụ nữ, Hội Nhà văn, các trường phổ thông… đã động viên,
khuyến khích các cháu, các em viết báo tường. Ông Trần Đăng Khoa là một ví dụ
điển hình cho phong trào văn học thiếu nhi Việt Nam, tôi có ông bạn là Nguyễn
Xuân Khang, vốn là tay báo tường cự phách, nay làm Hiệu trưởng Trường Liên cấp
lừng danh vẫn động viên các cháu học trò vừa học vừa sáng tác. Các cháu ở trường
ông Khang viết cho nhau đọc, nếu tuyển mà in ra, có lẽ các nhà “sáng tác chuyên
nghiệp” cũng giật mình.
– Cứ như ông nói, thì văn học thiếu nhi Việt Nam ngày nay nếu
thiếu đi yếu tố phong trào vận động thì gay quá ư?
– Đúng vậy. Văn học thiếu nhi rất cần được đặt trong một quá
trình tuyên truyền – vận động, tổ chức với sự phối hợp của nhà trường và cả xã
hội thì mới có nền tảng trực tiếp, từ đó mới xuất hiện các nhà thơ nhà văn có
thành tựu được. Rất may là hiện nay Hội Nhà văn Việt Nam đang xốc lại phong
trào này bằng các cách như mở Trại Sáng tác, tái lập Hội đồng, xét duyệt tác phẩm
hay để trao giải văn học thiếu nhi…
– Trong tập chuyên khảo này ông có đưa ra một số ý mới chứ?
– Vâng, rất hào hứng, rất hồi hộp và băn khoăn khi viết đi viết
lại các ý mới này.
Ví dụ: Lâu nay các nhà nghiên cứu văn chương của ta nói đến
văn học thiếu nhi Việt Nam, là hầu như chỉ cho rằng bộ phận văn chương – văn học
này có từ 1945, hoặc trước đó, là từ 1930; các vị này cũng thường giới thiệu và
bình luận văn học thiếu nhi Việt Nam ở miền Bắc Tổ quốc ta. Tôi có bổ sung thêm
rằng: VHTN VN có từ thời thượng cổ, qua cả thời phong kiến tự chủ, thời Pháp
thuộc cho đến nay… và muốn khẳng định: Văn chương khác (của người lớn, cho người
lớn) thì có thời đối kháng – tất nhiên; nhưng văn chương cho thiếu nhi, suốt cả
nghìn năm nay, nhất là ngay giữa thế kỉ XX cũng không đối kháng, mà đều gieo mầm
yêu thương anh em bè bạn, làng quê phố thị… mà nuôi dưỡng nguyện ước và ý chí tự
cường, hòa hợp dân tộc.
– Tại sao vậy, thưa ông?
– Qua khảo sát và phân tích, tổng hợp thực tiễn phát triển
VHTN VN thì cho phép nhà nghiên cứu viết được như vậy. Và cũng vì căn nguyên
này nữa: Xưa nay, các tác giả VHTN nước ta khi đặt bút viết cho con trẻ, đều rất
tự nhiên, đã dồn cả tâm hồn sáng trong cho con cháu của mình, từ khối tình cao
cả ấy, họ có thêm sự minh tường, sự sâu sắc với ý tứ sâu xa để hạ bút nữa.
– Ông có thể nói rõ hơn không? Ví như: nhân vật trung tâm
trong văn học thiếu nhi Việt Nam như thế nào? Chúng ta đều biết rằng nhân vật
trung tâm, hình tượng trung tâm của sáng tác văn học là chuyện có vẻ dễ thấy
nhưng lại khó bàn. Có phải là một dòng văn học nào đó, phải phát triển đến mức
nào đó với sự ra đời của những tác phẩm, tác giả lớn thì mới xuất hiện nhân vật
trung tâm?
– Cảm ơn chị đã dẫn gợi.
Theo tìm hiểu của tôi, thì trải qua cả ngàn năm ra đời và
phát triển, dần dần, VHTN VN ta đã xây dựng được ba kiểu/ dạng nhân vật chính
là: người hồn nhiên, thơ ngây, cả tin – người để/ được gửi gắm ý tưởng, khát vọng
– người trẻ mà có tốt chất anh hùng. Ba kiểu/ dạng nhân vật chính này vừa có sự
đan cài, đồng hiện.
– Nhân vật thiếu nhi có tính chân thực lịch sử ra sao?
– Có chứ. Thánh Gióng, hai anh em nhà kia trong truyện Cây khế,
Thạch Sanh và Lý Thông, rồi Tân và Lang trong truyện Trầu Cau… đều có tính chân
thực lịch sử theo cách riêng của VHTN. Nghiên cứu các khúc hát đồng dao của trẻ,
ta cũng thấy như vậy.
Thời xưa, nhân vật của VHTN thường có tính biểu trưng, ẩn dụ
và siêu thực, từ truyện Người thiếu phụ ở Nam Xương, với nhân vật chú bé Đản,
thì sự chân thực ở phần oái oăm của cuộc đời đã xen vào, Đản ngây thơ thật thà
(như đời) rồi thành nạn nhân rồi! Cuối thế kỉ XIX, trẻ em trong thơ Cụ Đồ Chiểu
“bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy”, cũng là nạn nhân của một hoàn cảnh khác… Đến cuối
thế kỉ XX, nhân vật trẻ em trong VHTN nước ta mới thực hơn, đa dạng hơn. Có
nhân vật đã trở thành biểu tượng của cả dân tộc, từ trang văn thơ, các em bước
thẳng vào đời thường, thành bạn bầu thân mến, được yêu quý tôn vinh.
– Gần đây nhiều người kêu là VHTN chưa hay lắm, thậm chí là
nhạt… nhưng nghe ông nói thì không hẳn là thế?
– Thói quen và cảm quan thiếu đồng nhất thì nhận xét khác
nhau là bình thường thôi. Nhưng nhà nghiên cứu thì phải kỹ lưỡng mới mong nói/
viết được một cái gì cho phải. Nếu có thì giờ, tôi đề nghị ta hãy đọc thêm thơ
văn của một số vị như Vương Trọng, Cao Xuân Sơn, Nguyễn Nhật Ánh, Phong Điệp,
Nguyễn Quang Thiều, Đỗ Toàn Diện, Bảo Ngọc… và thơ của một số tác giả trẻ nữa,
ta sẽ thấy là không nhạt đâu. Thơ văn của mấy nhà này đã có phong vị và giọng
điệu khác nhiên tươi mởn của tuổi thiếu thời, mà cũng trầm tư cả nghĩ nữa. Ấy
là chưa kể đến những tác giả sớm thành danh với VHTN gần đây như Nguyễn Ngọc
Thuần…
– Có người cho rằng một số thành công của VHTN nước ta có thể
đại diện cho cả nền văn học đương đại, ông có thấy như vậy không?
– Có, nhưng chưa có tỉ lệ cao. Mong là sau thành công, các
tác giả trẻ này tiếp tục sáng tác nữa.
VHTN là ánh xạ đời sống của trẻ thơ và của cả cha mẹ, ông bà
các cháu. Đời đang tấp nập nhiều dòng lắm nỗi hơn, thì văn chương cũng vừa
“theo đời”, vừa “đi trước” một chút đấy… Đã có vẻ trầm tư trước tuổi bên cạnh
cái rộn ràng tươi trẻ vốn có trong VHTN ta những ngày này rồi.
24/6/2023
Tuyết Mai
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Ngôi nhà lợp gỗ Pơmu
Ngôi nhà lợp gỗ Pơmu
Sương đã buông xuống con đường ngược núi dốc mặt ngựa Tà Nhì Chù mà ông Mùa A Ly còn ngồi trên phiến đá cuối rẫy ngô. Hai bàn tay đen đúa cấu vào nhau gỡ hết những dự định đã đóng đinh vào đầu bây giờ rơi lở tở như đất giắt kẽ móng.
Việc gì ông cũng cố làm cho bằng được, kể cả tự mình dựng lại
ngôi nhà lợp gỗ pơ mu đã phủ lớp rêu phong nhưng việc đưa người đàn bà thứ hai
bước qua bậc cửa để làm chủ cái bếp lửa sao mà khó lắm thay. Tiếng vạc gọi nhau
vang thung sâu. Đấy, ngay cả chúng đi kiếm mồi cũng có bầy có bạn, còn ông cứ
lùi lũi một mình. Nắng mưa phả lên dáng hình, lên quần áo người đàn ông hơn năm
mươi tuổi nhàu nhĩ hơn quả sơn tra khô, nếu như đứng nép vào tảng đá, người qua
đường khó phát hiện được. Khi còn trẻ, ông Ly là tay thợ săn giỏi nhất Tà Nhì
Chù, phát súng kíp nhắm con nai ở xa nấp trong cây lá rậm, các dây thòng lọng tết
bằng lông đuôi ngựa bẫy chim dính liên tiếp. Bữa mèn mén thường xuyên có thịt
gà rừng, gà gô, tu bát rượu ngô khé cổ, làm nổi cục yết hầu ương ngạnh, bộ ngực
đỏ vâm rắn chắc. Cánh tay của chàng trai Ly khi đó gân nổi cuồn cuộn đã nhấc bổng
cô gái Mẩy vắt lên vai, tủm tỉm trong chiến thắng, rẽ đám con trai túm tụm ở chợ
tình tiếc ngẩn ngơ, phăm phăm ngược lên con đèo dốc mặt ngựa về nhà. Đêm đó, lửa
đỏ rực bếp, men tình chếnh choáng say. Ông sang tận Phiêng Chải thưa chuyện với
bố mẹ bà Mẩy khi hai người đã ngủ với nhau được bảy ngày. Dẫn cưới hai cặp bò,
bế cô vợ xinh đẹp lên ngựa, ông Ly vui sướng thúc ngựa ngược gió qua suối vượt
đèo, vòng tay xiết chặt người yêu thầm hứa với trăng sao cả đời sống với nhau
không xa rời. Dắt vợ qua bậc cửa vào trình ma họ Mùa, căn nhà lợp gỗ pơ mu rộn
ràng tiếng chúc phúc, bát rượu va lách cách. Cả bản đêm đó chất một đống lửa
to, già trẻ gái trai say cùng rượu thịt, tiếng khèn bè chiết từng lời yêu
thương, váy hoa xòe quay tít dưới ánh trăng. Lần lượt, sáu đứa con ra đời, lăn
lóc cùng bí đỏ, củ sắn lớn lên, có chân chạy nhảy khắp khe suối, vạt nương. Bà
Mẩy vẫn mặt tròn căng, má ửng vỏ quả đào, cặp vú nẩy trong lần áo thêu viền
theo gót ông sớm tối ngoài nương. Cho đến một ngày, bà bỏ ông mà đi.
Mùa đông năm ấy, băng giá phủ xuống Tà Nhì Chù. Bếp thúc củi
từ sáng đến tối, sân không một bóng người. Nước ngoài chum đóng từng khối tê buốt.
Đàn bò nhốt trong chuồng, khua chuông leng keng, ậm ò đòi ăn. Bà Mẩy cùng cô
con út gùi quẩy tấu cỏ già về vứt vào cho chúng rồi quay ra dặn chồng:
– Lát nữa ông xách cho bò xô nước nhé. Mưa rét nên bọn nó
khát nước hơn.
Bà bảo con gái vào nhà sưởi lửa và giắt con dao vào thắt
lưng, hai tay xuýt xoa, gạt nước sương trên đôi má đỏ, thở làn khói trắng, một
mình chống gậy đi xuống dốc trơn trượt. Ông Ly hớp ngụm rượu ngô, nhìn theo
dáng đẫy đà của vợ nghĩ bụng. Hai tuần đi dựng nhà giúp em chú, tối nay mà được
ôm bà ấy ngủ thì không lo rét nữa. Ở Tà Nhì Chù, nhà nào cũng dự trữ củi mới chống
chọi được qua mùa đông. Bản ở trên đỉnh núi, quanh năm gió lộng, mây trắng bao
quanh. Trước nhà ai cũng vậy, củi cành xếp trên củi bổ, đống từng đống to, cao
ngang người. Rừng còn nhiều cây già, lắm củi khô, chỉ sợ không có sức mà gùi. Vậy
nhưng, đến tối, ông Ly chẳng thấy vợ về, ánh đèn dầu leo lét buồn thiu. Mưa mỗi
lúc một nặng hạt. Giá mà, chiều nay, ông nhanh chân theo váy bà thì đâu đến nỗi.
Mâm cơm nguội ngắt, mấy đứa con co cụm trên chiếc phản kê sát bếp lửa. Cả bản
Tà Nhì Chù đốt đuốc đi tìm bà Mẩy. Tiếng gọi, tiếng hú vang rừng núi. Đáp lại
chỉ là tiếng vọng dội trong thung sâu. Khi trời tang tảng sáng, ông Ly thấy cuộn
dây lanh của vợ ở trên vách núi, đầu kia trùng theo một vết trượt dài. Bà Mẩy
ngã vực. Người ông Ly như trên mây, hồn vía lạc trôi theo tiếng khóc não nề của
các con, tiếng cười khùng khục của các ông già khi có rượu ngấm. Ngày đưa bà Mẩy
ra đồng, trời mưa rả rích. Mặt ai nấy đỏ lên vì rượu bốc, vì gió quất. Tiếng trống
thúc vào ngực ông buốt nhói. Người ta rải những tấm vải lanh vào quan tài, đặt
bà Mẩy nằm xuống đó, lại phủ nhiều lớp vải lên trên, đậy tấm ván lại và lấp đất.
Thế là từ đó, ông không được ngắm vợ thêu váy nữa. Đêm không được thủ thỉ nhỏ
to, rúc vào bộ ngực tròn căng ấy mà mơ mùa khèn, ngắm váy thêu sặc sỡ phơi trên
bờ rào ngập tràn hoa cải. Nhìn đứa con gái út nằm mơ quờ tay nấc ưng ức, mũi
ông Ly cay xè. Trong đầu ông, bà đang cười tươi tắn, tay thoăn thoắt se lanh.
Mười năm trôi qua, các con lần lượt lấy vợ, gả chồng, ra ở riêng, mình ông
trong căn nhà lợp gỗ pơ mu ấy trống hoang hoải. Ông lầm lì cuốc nương trồng
ngô, vào rừng lấy củi, hôm không nghĩ ra được việc gì thì ngồi thần ở phiến đá
cuối rẫy đến tối mịt mới đứng dậy. Những hôm đi chợ phiên bán lợn, bạn bè giới
thiệu cho người bà con xa mong ông có đôi có cặp nhưng ông bặm môi, lắc đầu. Hớp
rượu nghẹn trong cổ, đắng nghét.
***
Cánh hoa đào lắc rắc rơi trên những mỏm đá xám, đứa bé nằm
trong địu thích thú nhoẻn miệng cười ê ô nói chuyện với các ngón tay xinh. Tia
nắng hiếm hoi xiên qua khe núi, hắt lên khuôn mặt người mẹ trẻ đang gập người
chọc lỗ tra ngô trên sườn dốc. Tiếng chuông bò leng keng trong thung sâu. Ông
Ly đi qua đầu rẫy đưa mắt nhìn một lượt rồi thả hồn theo đám mây trắng xốp trườn
dần lên đỉnh núi. Dưới khúc cua vắt lên đèo, đôi nam nữ mới lớn đang kéo co
nhau. Họ diện bộ quần áo mới, tươi như mầm cỏ mới nhú còn đọng hạt sương đêm. Ô
kìa, anh con trai đã ôm được cô gái, họ nhìn trước nhìn sau rồi dắt nhau rẽ xuống
rừng hoa đào. Bây giờ, bọn trẻ ưng bụng nhau nhanh lắm. Hồi của ông, bao nhiêu
bài khèn môi mới có người chịu lắng nghe và thổi câu trả lời. Nhưng còn phải
khoe tài lẻ cho bọn con gái thích, nhắm ai má ửng hồng, bụm miệng e thẹn mà thừa
cơ bắt đi. Ông Ly rẽ sang con đường mòn ra mỏm đá trông về hướng Phiêng Chải. Đằng
trước, có một người đàn bà đang thất thểu bước. Ông tò mò bám theo sau cả một
đoạn dài cũng không bị phát hiện. Bà ta ngồi vắt vẻo trên mỏm đá, bưng mặt khóc
rưng rức. Hai vai gầy rung lên. Dưới chân là vực sâu hun hút. Trên này, đá
chênh vênh như cái u ở lưng con bò, sương mù quẩn kín chân. Người đâu mà lười
thế, khăn vấn lệch cả sang một bên. Tóc rối xổ ra không khác nào tổ chim đã ra
ràng. Ngồi ở đó không cẩn thận khi đứng lên sây sẩm mặt mày thì lộn cổ chết mất
xác. Nhưng lại gần mới lên tiếng thì bà ta bay hết hồn vía mất. Sẵn có cái cây
gậy trong tay. Ông Ly gõ xuống đá. Bà ta thấy động, quay đầu lại, đưa tay áo
chùi mặt. Tay kia len lén giấu đi nắm lá xanh.
– Ngồi ở đấy muốn chết à.
Bà ta không đáp, vội vàng đứng dậy, toan đi. Ông Ly đã nhìn
thấy nắm lá ngón trong tay bà ta liền lao vào giành lấy, ném mạnh ra xa. Nắm lá
rơi lả tả. Bà ta òa khóc nức nở. Ông quát:
– Có chết thì đi về nhà mà chết. Chồng con khỏi mất công đi
tìm. Tưởng chết rồi thì người còn sống sung sướng lắm à. Hồn không về Giàng được
đâu.
Bà ta khóc to hơn. Khuôn mặt méo xệch sang một bên, rám đen,
trông thật thảm hại. Ông Ly run rẩy nhớ lại cái ngày mẹ ông ngã vật trên tấm phản,
mắt trợn trừng trừng, nắm lá ngón còn ở trên tay. Giàng ơi! Những cuộc cãi vã
ào đến nhanh như cơn lũ quét dưới thung sâu, bao nhiêu tốt tươi tan tác xuống tận
hang cùng ngõ hẻm, chỉ để lại xác xơ và nước mắt. Bố ông đâu có độc ác gì? Chỉ
là bệnh tật làm bà đau đớn quá. Nhà đông con. Đường tương lai thì trông thăm thẳm.
Bà không muốn mình là cơn lũ cuốn trôi đi miếng cơm manh áo, cuốn sạch đàn bò,
đàn lợn và cả căn nhà lợp gỗ pơ mu ấy của họ Mùa. Nhưng bà đâu biết rằng, con
trai bà khi nhìn thấy đôi mắt mở trừng hướng về phía mặt trời ấy luôn ám ảnh cảnh
chia lìa đột ngột. Cơn ác mộng bủa vây ông Ly hằng đêm. Vậy mà, số phận còn cướp
cả người vợ thân thương. Tiếng quạ kêu ngang trên đầu ba tiếng. Lúc này, ông mới
để ý những vết bầm tím trên cổ bà ta, cả đuôi mắt còn nguyên một vết xước dài.
Ông muốn bỏ đi, nhưng đôi chân cứ mắc vào tiếng khóc như những sợi lanh vô hình
vướng víu, càng gỡ càng rối. Tiếng khóc của người đàn bà dội vào ngực ông tức tối
như tiếng trống lệnh ngày đưa bà Mẩy ra rìa núi. Ông thấy mình cục cằn quá mới
dịu giọng dỗ dành:
– Ai chả khổ? Bước đường cùng thì vào hang đá ở.
Rồi ông kéo tay người đàn bà, xăm xăm đi xuống dốc. Đến ngã
ba đường, lúc nhìn thấy những mái nhà ở phía xa xa, bà ta khựng lại, ông Ly kéo
thế nào cũng không được. Bà kể một hơi về thằng con trai nghiện hút bán hết mọi
thứ đáng tiền trong nhà, cả tấm lợp nó cũng cậy đinh vác đi xuống chợ cho người
ta mua lại lợp chuồng bò. Thân xác của mẹ nó gầy hơn cây ngô trên mỏm đá mà róc
ra làm thịt hay nấu cao bán được thì nó cũng tống nốt. Nó lên cơn vật thuốc, đã
bao lần cầm cây gậy giáng lên lưng bà cho rơi tiền ra. Hôm qua, sau khi đã tẩn
một trận đòn lên thân thể người đứt ruột đẻ ra mình vẫn không có nổi một đồng,
nó vớ con dao sáng quắc, bà vùng chạy ra khỏi nhà. Dù gì, cô con dâu sớm đã kịp
ôm cháu của bà theo người đàn ông khác. Bà cũng yên lòng theo người chồng đi sớm
theo cánh tiên nâu.
***
– Ông Ly à, đón bà ấy về còn có cái gác chân, còn có người
bưng thau nước giúp rửa mặt. Giờ người ta là cái cây bị bật gốc, phải dựa vách
đá may ra cố thêm vài mùa trăng nữa chứ?
– Ầy dà, bốn mươi rồi, khô đét dưới nắng ở chợ. Tao chỉ sợ
đem về lại phải dọn đống xương khô. Vải lanh không đủ trải chỗ nằm à.
Hai ông bạn già vỗ vỗ vào vai ông Ly như thế khi buông bát thắng
cố xuống phản, đứng dậy kẹp mớ bao tải vào nách rồi dật dệu bước đi vào chợ.
Nhìn người đàn bà dúm dó bên vệ đường bán mấy nắm lá khuối và vài nhánh phong
lan, lòng ông quặn thắt. Ông không dám xuất hiện trước mặt bà khi chưa đưa ra
được lựa chọn. Bà Dí- Người đàn bà được ông cứu trên mỏm đá hình u bò nghe được
những lời sóng sánh men cay ấy thì ngoảnh đi nơi khác. Ông Ly để bà ấy ở trong
hang núi đá về lâu về dài không ổn. Bữa no bữa đói, hang lạnh, tối tăm. Thân là
đàn bà, một mái nhà che nắng che mưa không có, còn chẳng bằng con bò, ngày ăn cỏ
no, tối về nằm nệm rơm trải phản. Ông Ly chọn mua miếng thịt lợn, cuộn
tròn trong bao tải dứa rồi xăm xăm đi về. Thằng Dí- con trai cả của ông từ đâu
lù lù đứng chắn trước mặt.
– Bố à. Vào đây con hỏi cái này.
Đôi mắt ông Ly chùng xuống. Nó chẳng bao giờ hỏi ý ông.
Nhưng hôm nay, nó đón đường gọi bố ra góc chợ ngồi thì biết là có việc to lắm:
– Bố đón bà ấy về nhà ở cùng đi. Người ta đi theo bố đưa cơm
vào hang đã mách đến tai vợ chồng cái Dinh, nó hầm hầm sang nhắc con tìm cách
đuổi bà ấy đi khỏi Tà Nhì Chù. Nó làm thế cũng vì sợ bố mang tiếng với mọi người
thôi. Nhưng con nghĩ bố cũng cần người nấu cơm, giặt giũ, bà ấy cần chỗ ở.
Ông Ly ngẩn người ra một lúc rồi gật đầu, vỗ vỗ vào vai thằng
con trai. Nó đã lớn thật rồi. Cơ ngơi của nó ở trong thung lũng đủ rộng rãi và
thoáng đãng để đón khách dưới xuôi lên nghỉ ngơi trong mùa du lịch. Thỉnh thoảng
nó mới lên thăm ông trên đỉnh Tà Nhì Chù. Được đi học, con chữ làm người ta
khôn ra, biết trồng hoa ra tiền, biết biến đá thành cơm no áo ấm, biết dựa vào
quê hương của người Mông bao đời mà sống tốt. Nó cũng hiểu nỗi khổ của người
già, cái bụng của những người khốn khổ. Cái Dinh đã làm mẹ, trải qua nỗi đau thấu
tận gan trời thì sao có thể để một người đàn bà xa lạ vào thế chỗ của người đã
sinh ra nó dễ dàng như thế? Bà ta lại còn có đứa con không ra gì. Bố nó già nua
chưa đủ khổ hay sao?
Ông Ly leo hết con đèo thì thở cả ra đằng tai. Ôi, đôi chân
say mèm bao năm trong men rượu gân guốc nhanh nhão thế này! Mặt trời bây giờ
gay gắt hơn trước hay sao ấy, nắng cứ cắn trên đầu ông, bỏng rẫy. Mồ hôi túa ra
chảy xuống mắt cay xè. Ông rẽ sang mộ vợ, tán cây pơ mu ở phía trên vách đá
không đủ che nắm đất đã phủ cỏ lơ thơ. Xung quanh, đá xám xịt lổn nhổn. Ông xin
phép bà cho ông làm một việc là phá bỏ lời thề năm năm nào. Người Mông bấy lâu
nay đã hứa là làm. Nhưng chuyện này chắc vợ ông cũng hiểu. Đàn bà với nhau thì
càng dễ mủi lòng. Lỡ túm tóc lôi người ta lên giữa dòng nước mà không cho người
ta cây gỗ để bám vào thì buông tay ra hóa bằng không. Ông đổ hết chai rượu trước
mộ vợ rồi lên phiến đá cuối rẫy ngô ngồi, nhìn về căn nhà lợp gỗ pơ mu nghĩ ngợi
đến khi tối mịt.
***
Từ ngày có bà Dí về ở cùng. Củi khô xếp khối từng khối ở góc
sân. Trẻ con đến đánh quay, nô đùa bên bờ rào phơi những chiếc váy hoa sặc sỡ.
Ông Ly mua thêm bò về nhốt trong chuồng. Cỏ voi trồng rìa nương ngập lối, non
mơn mởn. Bà Dí lấy cỏ trộn với cám, bột ngô và muối cho bò ăn chóng béo. Bếp lửa
đỏ rực đêm ngày. Bà Dí ăn được, ngủ được nên đổi da thịt trông thấy. Hôm nay,
cái Dinh đem con từ Phiêng Mường sang chơi. Ông Ly đi nương cắt cỏ. Áng chừng vợ
chồng cái Dinh sắp đến, bà Dí vội vàng thu dọn váy áo vào lù cờ, lập cập
ngó trước nghiêng sau đi náu mình trong hang đá. Bà sắp sẵn rượu thịt trên mâm,
đậy lồng bàn lại, vừa nhón chân ra cửa thì một cánh tay lẳng khẳng túm luôn cổ
áo bà, bộ răng vàng khè cười hềnh hệch:
– Trốn kĩ thế nhỉ? Vượt năm quả núi đến tận đây ăn ngon mặc đẹp
tưởng thằng này không biết ơ! Giàng có mắt đấy. Chà chà, cơm rượu thơm phức thế
này chốc phải làm bữa mới được. Tiền đâu, đưa đây cho tao!
Cơn ác mộng tưởng như đã bị trôi theo mùa lũ vừa rồi dưới
thung sâu kia ấy vậy mà giờ lại hiện ra trước mặt người đàn bà tội nghiệp. Hắn
dùng đôi tay dài ngoẵng túm lấy tóc mẹ mình lôi đi xềnh xệch, ép sát vào bức tường
đá. Mấy đứa trẻ con đang chơi vội vàng bỏ chạy tan tác. Bà Dí ú ớ kêu. Cái thằng
con của bà đã lần mò được đến tận đây. Nó không còn là con người nữa. Bà đẻ ra
con hổ rồi. Nó lấy hai tay bóp cổ người mẹ khốn khổ, bà lắp bắp mãi, cuối cùng
cũng bật được thành tiếng:
– Mày… thích tao chết thì đẩy tao… xuống kia là xong. Mày
đánh người ta… thì họ…. không tha cho mày… đâu.
Bà Dí nhắm mắt lại chờ đợi. Chết đường chết chợ chẳng cần mời
thầy làm ma, chẳng cần trai bản phải mất công đào mấy thước đất đặt tấm ván lót
chỗ nằm. Bà cứ rơi xuống dưới vực sâu thăm thẳm ấy, nắng sẽ hong xác bà cho đủ
bảy ngày bảy đêm, cơn mưa rừng sẽ cuốn trôi tất cả xuống dòng suối đổ về sông rộng,
hồn bà sẽ bay về chỗ Giàng. Bà chỉ sợ nó giết mình xong là châm lửa đốt căn nhà
lợp gỗ pơ mu này mất. Cái tính của nó bà, nó lạ gì.
– Gô cổ nó lại, đem nó xuống nộp cho cán bộ xã.
Bà Dí bị đẩy ngã ra nền đất, xây xẩm mặt mũi. Khi hoàn hồn lại,
đã thấy mấy thanh niên lực lưỡng trong bản trói trật cánh khuỷu thằng con không
có tính người ấy dẫn xuống con dốc mù bụi. Ông Ly lật đật chạy lại đỡ bà.
Miệng không ngừng an ủi:
– Không sao, không sao rồi. Tay va vào đá chảy nhiều máu thế.
Dinh ơi, lấy cho tao một nắm thuốc nào.
Cái Dinh răm rắp làm theo. Cũng may hai vợ chồng nó đến kịp
lúc. Thằng cháu của ông đang chơi cù nhanh trí lẻn ra nương gọi ông về. Hú hồn.
Tí nữa thì…
Mọi người vào cả trong nhà, ông Ly sau khi ôm hôn hai đứa
cháu, rót rượu mời con rể thì không thấy con gái đâu. Ông ra cửa nhìn
tìm, thấy cái Dinh đi nhặt lù cờ lăn long lóc ở bên bờ rào đá, nhặt cả cái túi
bóng buộc nắm váy áo của bà Dí. Bà Dí ngồi nép mình bên góc bếp. Khi thấy cô
gái cầm túi đồ của mình vào trả thì lắp bắp đến đỡ lấy, run rẩy ôm bọc váy áo,
thanh minh:
– Tôi… định đi rồi nhưng bị….
Cái Dinh ôm lấy bà Dí, ghé tai nói thì thầm câu gì đó rồi rủ
bà vào buồng. Ông Ly không nghe rõ, chỉ biết rằng, căn nhà lợp gỗ pơ mu từ hôm ấy
trở đi luôn có một người đàn bà nhóm lửa.
25/6/2023
Hoàng Thị Hiền
Nguồn: QĐND cuối tuần
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Áo choàng của Chúa
Áo choàng của Chúa
1. Bác tôi về thị trấn sống vào một ngày cuối tháng Tư nóng đến sớm, nóng nung người, những con chó ghẻ thè lè lưỡi uể oải nhìn nhau lúc bác đi qua chẳng buồn sủa. Bác đi tự tin, bác biết nơi mình đang đến – như cuộc đời bác vẫn vậy – luôn luôn biết điều mình cần.
Phúc em tôi luôn nói bác về vào buổi trưa, quãng mười một rưỡi,
tôi thì khác, tôi nghĩ bác về vào quãng chiều, ba bốn giờ gì đó, lúc ấy tôi
đang trèo trên cây ổi đầu ngõ, nhấm nháp những búp non chát xít chấm với súp mì
tôm.
Tôi nhìn thấy bác mở cổng vào nhà, trên vai khoác bao tải đựng
quần áo, sau nữa tôi biết trong ấy chẳng có mấy quần áo mà là album ảnh, hai bức
ảnh lính mặc quân phục rằn ri, ôm súng M116, đội mũ nồi đỏ có hình con đại bàng
ở góc trái – hai bức ảnh tươi cười viền đen, bát hương, vài cuốn sổ da bìa
vàng. Toàn những thứ chẳng ăn được.
“Chị tha lôi bát hương về làm gì? Ngoài này thiếu đâu…”.
Bố tôi nói khi thấy bác lần lượt bày những thứ trong bao ra đất.
Bác về không thư từ đánh tin báo trước. Bố tôi nghĩ bác chết
rồi, trên ban thờ còn bức tranh truyền thần của bác đặt cạnh ảnh thờ ông bà nội.
Trong tranh tóc bác đen nhánh, mắt to tròn dõi thẳng ra trước, má lúm đồng tiền,
răng trắng cười tươi. Ngoài đời tóc bác lưa thưa lốm đốm bạc buộc chét nhỏ sau
gáy, mắt lờ đờ đục lúc nào cũng như nhìn xuống, má đồi mồi mọc loang lổ nốt bé
như đầu tăm, nốt nhỡ đầu đũa, nốt to nhất gần bằng đồng xu, nếp nhăn chằng chịt
đuổi nhau ăn từ cằm lên trán, chỉ có răng là vẫn trắng thế, nhìn vào tôi thấy sợ,
răng bác không thuộc về hiện tại mà trôi sâu vào quá vãng âm u nào đó.
Nên nhìn bác cười, tôi và thằng Phúc chẳng dám lại gần, cũng
không giống như nhà mỗi lần có dì ở Hải Hưng ra hay cậu ở Hòn Gai về – chúng
tôi đều sán lại đòi quà, trong bao buộc sau gác baga xe đạp bao giờ cũng có bắp
ngô, vải, nhãn, xoài, củ ấu, hai ba quả trứng ngỗng đã luộc vì ông ngoại tôi
nuôi ngỗng, mấy cái bánh mì mỏ hoặc bánh ông sao đầy vừng trên mặt… Ngồi nhìn
bác chán, chúng tôi rủ nhau đi bắt bọ xít dán nhựa đường làm xe đua. Từ lúc vào
nhà đến khi ra bác không nói với chúng tôi câu nào; bác cũng không nói với bố mẹ
tôi
đang ngồi đối diện; chén nước chè vàng ệch rót ra không còn bốc
khói; ai cũng ngờ ngợ những câu hỏi; ai cũng muốn là người nói sau.
Cho đến sau này mỗi khi gặp người phụ nữ vác bao đội nón tôi
đều giật mình nghĩ đến bác. Tôi đều ngờ ngợ trong bao kia là bát hương, ảnh thờ
và lỉnh kỉnh những thứ không tên lẫn có tên, có thể gọi ra lẫn không thể gọi của
quá khứ…
2.
Căn buồng xưa của ông bà, sau khi ông bà mất chuyển làm kho,
giờ dọn dẹp lại để bác ở. Tôi và thằng Phúc được phân công phụ bác dọn đồ vì bố
đi làm ca một trong mỏ than, mẹ đợi tàu từ Bắc Giang về lấy hàng chuyển tiếp xuống
Hòn Gai chiều muộn mới về, bố mẹ đều bận rộn, sâu thẳm hơn bố mẹ trốn bác.
Chăn màn mùa đông đóng trong bao chuyển từ buồng bác sang buồng
bố mẹ và buồng hai anh em tôi. Chai lọ xoong nồi hỏng nhét vào bao mang để góc
vườn – mẹ dặn trước khi đi: cái gì bán đồng nát được để gọn, cấm sớ rớ. Giường
tháo khiêng ra ngoài sân rửa. Bơm “Unicef” kẽo kẹt liên hồi, tôi bơm, thằng
Phúc xách nước từ giếng vào, bác dội, lau. Lau xong giường vào quét mạng nhện,
cọ sàn. Hai thằng bở hơi tai, nắng hiên ngang từ đình đầu dội xuống, ước gì có
mấy cái kem túi xanh đỏ ăn cho đỡ háo. Một trăm hai cái thôi. Xin bác một nghìn
ăn no. Nhưng ai xin? Tôi thì không rồi, thằng Phúc cũng sợ bác. Cái khát nhằng
nhẵng bám lấy cổ họng khô khốc. Nhịp bơm của tôi uể oải giảm dần, thằng Phúc bậm
bạch bước, xô nước chao bên trái nghiêng bên phải, mắt ngân ngấn, mồ hôi theo
quai mũ tai bèo nhỏ tong tong xuống chân.
Mặc, bác vẫn chẳng để ý gì đến hai anh em tôi. Môi bác mím lại,
mắt nhìn vào từng hốc xem còn con nhện chân dài nào sống sót trong ngày tận diệt.
Dọn xong bác tất bật ra chợ mua về cái ban thờ gỗ, đèn dầu, nậm rượu, mấy cái
chén con, lọ hoa, dăm bông huệ trắng, ba quả cam sành. Bác tự đóng ban thờ vào
tường, xong đặt bát hương lên, tôi nhớ lúc ông bà còn sống có cái ban thờ nhỏ,
nhưng khi ông bà mất bố đem tất tật lên phòng khách. Lúc rửa cam mới nhớ thiếu
đĩa, bác lộn ra chợ lần nữa – tôi và thằng Phúc hy vọng lần ra sau bác sẽ để ý
đến ánh mắt chúng tôi, sẽ thấy tôi tay phải bơm nước, tay trái nhoài ra trước bịt
vòi, ấn lấy ấn để rồi ngồi thụp xuống uống như chết khát. Nước bơm lên từ giếng
không thể nào lạnh bằng nước đá, hai trăm đá pha quất, đường cũng rất tuyệt
trong tình cảnh này.
Nhưng bác mua đĩa về, rồi đi thêm lần nữa mua hương, diêm, rượu
mà vẫn quên hai thằng cháu ngồi buồn hiu dưới gốc sấu. Sấu xanh có vài quả non
chúng tôi đã ăn từ tuần trước, phải tháng nữa mới có thêm đợt quả mới ăn được.
Mì tôm còn hai gói để dành bữa trưa, chúng tôi không muốn phung phí vào giờ giấc
lỡ cỡ này. Nếu ăn bây giờ khi ngồi trong lớp học bụng sẽ réo òn ọt, đói đúng
nghĩa đen, chữ trôi tai này sang tai kia, đầu óc chỉ còn mơ màng thứ nhét vào
miệng. Cơm nguội cũng thế, phải ăn đúng lúc, khi đã vét hết mì, nước vẫn còn âm
ấm: thả vào, xúc từng muỗng nhỏ, nếu có thêm quả trứng gà nước mì sẽ ngọt hơn,
tất nhiên, song: “trứng chứ có phải đá đường tàu đéo đâu mà chúng mày ăn lắm thế”,
mẹ phạt chúng tôi nửa tháng nữa không được ăn trứng bởi hai anh em trót xơi mười
quả một bữa – số trứng để ăn cả ngày.
“Bác làm sao ấy anh nhỉ!”
“Kẹt xỉ chứ làm sao! Hỏi gì lắm thế?”
Thằng Phúc hỏi, tôi cấm cẳn trả lời, nắng vẫn hầm hập táp lửa
xuống. Qua nghe đài dự báo thời tiết đợt nắng nóng còn kéo dài đến giữa tháng
năm mới kết thúc, trẻ em và người già chú ý uống đủ nước, hạn chế ra ngoài, nếu
ra phải có ô hoặc mũ nón, chọn chỗ mát mẻ nghỉ ngơi, ăn thêm hoa quả… Trong lịch
sử miền Bắc chưa bao giờ có đợt nắng nóng nào kéo dài thế. Chúng tôi lờ mờ hiểu
mình được tham dự vào lịch sử dù muốn hay không – thứ lịch sử vô bổ của thời tiết,
sẽ có số ít người chết vì nắng nóng, số nhiều người sống quên nó ngay trong mùa
hè này vì nắng đâu chỉ có một đợt đơn giản thế. Lịch sử chồng lấp lịch sử; ngày
tháng chồng ngày tháng, cuồn cuộn đẩy hiện tại vào sâu trong căn hầm tối quá khứ
không đáy tham lam vô tận.
Lịch sử thuộc về tất cả mọi người, còn ký ức dành riêng một
người.
Việc bác đột ngột về cũng là lịch sử; thứ lịch sử nhỏ của
thân phận người sau nhiều năm trôi nổi. Năm 54, bác vào Nam, năm 94 ra Bắc. Bốn
mươi năm gia tài vỏn vẹn hai cái ảnh thờ, mớ tóc xác xơ bạc và kỷ niệm mờ nhạt
về bố mẹ, anh em nơi đất Bắc. “Không có bất cứ giấc mơ nào trong bốn mươi năm ấy”,
bác nói, nắm tay tôi rất lâu, những ngón gầy rút hết thịt chỉ còn nhăn nheo
xương xẩu. Bác nằm trên chiếc giường ngày cuối đời bà nội, rồi ông nội nằm – bốn
chín ngày bà nội vừa xong đến ông nội đi chẳng trăn trối – vì điều trăn trối
luôn luôn được diễn tả bằng lời nói, ánh mắt mấy chục năm: cả hai đều canh cánh
về bác, đứa con đầu lưu lạc chẳng rõ sống chết.
Vĩ tuyến 17 chia đôi đất nước ngày nào đã xóa bỏ, nhưng lòng
người khó xóa nhòa ký ức hữu hình lẫn vô hình về nó; từ khi về thị trấn bác chỉ
ước giá được quay lại Sài Gòn một lần, nếu có tiền bắt xe ngược ra Quảng Trị,
thắp hương trên những quãng đất trải rộng vô danh hai bên bờ Thạch Hãn. Sông vẫn
lững lờ chảy, đò bải hoải qua lại đôi bờ: “năm bảy hai anh con chết bên sông,
không lấy được xác, chẳng biết sau dấp trên bờ, dưới lòng sông hay bom đạn xóa
trắng”.
Tôi bỗng nhớ lời bố kể một ngày cuối tháng Bảy năm nào, lúc nắng
cũng đủ luộc trứng và đun nước – bố đi liên hoan về, mặt đỏ phừng phừng thở
toàn hơi rượu, đưa mẹ cân đường hộp sữa, gói mì chính, đưa tôi và thằng Phúc mỗi
đứa mấy cái kẹo cam xong bắt ngồi xuống nghe chuyện: “năm bảy hai đơn vị bố mày
xóa phiên hiệu ở những trận đánh giữ thành cuối cùng, quân bổ sung không kịp, tử
sĩ lúc đầu còn đưa ngược qua sông Thạch Hãn về Vĩnh Linh, sau thì vùi xuống xáo
lên chẳng kịp chôn, bom đạn xóa trắng…”.
3.
Sắm sửa ban thờ, đồ cúng tế xong bác thắp hương, hết hai đợt
hương mới mang vàng mã đi hóa. Vàng mã đốt giữa trưa nắng là vàng mã cho người
chết chẳng lấy ra tiêu được. Nhìn bác qua làn khói lờ mờ bốc lên tôi nghĩ bác
là người chết rồi. Con chó đen nhà hàng xóm đuổi guồng theo nhúm tàn tro còn
dính lửa, vồ mấy lần vẫn hụt. Tôi và thằng Phúc xuống bếp nhóm lửa đun nước nấu
mì. Gỗ ẩm, bao nhiêu săm xe đạp châm vào không bén, khói um, khét lẹt. Hôm trước
có trận mưa to, bếp dột, bố dặn anh em tôi ở nhà phơi củi mà mải dọn buồng cho
bác nên quên đi, sợ chiều bố đi làm về đánh lại cuống cuồng ôm củi ra sân. Thằng
Phúc vừa làm vừa nghiến răng trèo trẹo, lẩm nhẩm chửi…
Hóa vàng xong bác vào buồng ngồi nhìn trân trân hai bức ảnh
trên bàn thờ rồi nhìn ra ngoài, như chờ đợi…
Hai người trong bức ảnh vẫn ôm súng cười, họ trẻ mãi, chỉ có
bác tôi già đi theo năm tháng. Hai người trong ảnh: một người chết ở Quảng Trị;
người còn lại mất tích giữa tháng Tư, ở Xuân Lộc, cánh cửa thép phía Đông Sài
Gòn. Bác hy vọng bác trai còn sống, kịp di tản trong chuyến tàu vét nào đó cuối
tháng Tư sang nước Mỹ xa xôi rồi sẽ về đón cùng đi. Vì điều đó bác đã đợi ở Sài
Gòn thêm gần hai mươi năm mới quay ngược ra Bắc. Đồng thời, bác cũng hy vọng
bác trai chết đi để dưới kia anh con trai đỡ cô đơn. Dù gì hai bố con cũng cùng
chiến tuyến…
Bác khư khư ôm quá khứ sống như con nhện ôm bọc trứng.
Tối qua thức muộn nghe đọc truyện đêm khuya tôi biết bố to tiếng
với bác.
“Chị cất kĩ mấy cái ảnh đi, người ngoài nhìn vào chướng lắm.”
“Người ngoài hay chú?”
Bác gằn từng tiếng. Lạ, bao nhiêu năm sống trong Nam mà bác vẫn
giữ giọng Bắc. Tôi chờ đợi sự tức giận sôi sục trào lên nơi bố. Chiều, trong bữa
cơm sum họp, khi thằng Phúc hỏi hai người trong ảnh cầm súng gì lạ thế. Bố tợp
nốt ngụm rượu trong chén hoa hồng, mở chai rót chén nữa đặt xuống mâm, gắp miếng
đầu gà, khoan khoái trả lời: “M116 của… ngụy”. Nghe chữ “ngụy” bác giật mình, mặt
tái dại buông đũa, nhìn ngơ ngác ra ngoài. Mặt trời xuống từ lâu, trăng lên cao
rồi mà sao vẫn oi thế. Hai cái quạt con cóc è è chạy chỉ phả thêm hơi nóng. Bát
cơm vừa chan bỏ mứa, bác như một giáo dân đột ngột bị rút phép thông công về thứ
tội lỗi không thuộc về mình…
“Chị ăn thêm đi”, mẹ giục, bác lắc đầu. Tôi và thằng Phúc
khoan khoái nhìn đĩa thịt gà, giá có thêm gấp ba chỗ ấy hai anh em cũng đánh
bay. Bố vẫn tỉ mẩn moi mắt trong đầu gà ra, chấm tí muối ớt, nhấp ngụm rượu,
hai chén là hai mắt, xong đến óc, đến mào. Lâu rồi tôi mới thấy bố uống nhiều
thế. Bố là người chiến thắng. Có thể bố vui và hả hê khi gặp bác…
Năm 54 bác vào Nam bố còn chưa thôi nôi, tính ra bố chỉ hơn
con trai bác một hai tuổi là cùng. Bác lấy chồng khi chưa tròn mười tám, con
trai bác chưa tròn mười tám đi lính, bố tôi cũng đi lính khi mới mười bảy.
Khi bước vào nhà bố có nhận ra bác ngay không?
Bức tranh truyền thần trên ban thờ và người thật chẳng mấy giống
nhau. Sợi dây máu mủ ruột già níu qua cuộc chiến đứt làm mấy đoạn? Bố và bác nối
lại thế nào? Tôi còn quá nhỏ để hiểu chuyện người lớn, mà nắng thì vẫn thế, miền
Bắc năm nào cũng nắng, miền Nam nắng quanh năm. Bác quanh quẩn xa lạ trong căn
nhà ấu thơ với khoảng trời quá vãn của mình. Bác đợi bố trả lời. Xin nhắc lại,
bố là người chiến thắng, tôi và thằng Phúc là con của người chiến thắng, mẹ là
vợ người chiến thắng. Bác là vợ và mẹ của hai người chiến bại.
Bố tôi vẫn im lặng. Im lặng chuẩn bị như khi ông cùng đồng đội
chuẩn bị đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột một đêm mưa rả rích giữa tháng ba 75.
Ông vẫn tiếc đoàn quân tiến chậm quá, khi ông vào đến nơi Sài Gòn đã giải
phóng. Xe tăng đã húc đổ cổng Dinh Độc Lập; cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng nửa
xanh nửa đỏ đã tung bay. Ông hân hoan đi tìm bạn thân: Nguyễn Văn Ninh, nguyên
quán: Mạo Khê, Đông Triều, Quảng Ninh; được biết: hy sinh ngày 12 tháng 4 năm
1975, tại Xuân Lộc; lúc ấy: không tìm thấy xác; sau này: ai hay biết phần mộ liệt
sĩ ở đâu xin báo về…
Cả thị trấn có năm đứa nhập ngũ cùng ngày, hai chết ở cánh đồng
Chum, một Tây Ninh, một Xuân Lộc, rải rác từ 71 đến 75. Tháng Tư nào bố cũng
lai chúng tôi lên nghĩa trang liệt sĩ huyện thắp hương trước những ngôi mộ gió.
Bạt ngàn mộ, trắng đến rợn người… và cả im lặng nữa…
4.
Bố không trả lời câu hỏi của bác, ý của ai, ta hay ngụy thì bố
và bác vẫn phải sống cùng nhau dưới một mái nhà; hai bức ảnh vẫn nằm trên ban
thờ, chỉ khác ban ngày bác đậy lên tấm vải đen, mờ mờ tối mới kéo ra. Bác cũng
xin bố cho bác bức tranh truyền thần chính mình mang xuống dưới buồng – không
phải cất đi mà để thờ, bác thờ sống bác cùng chồng con. Bác là người chết rồi.
Bác vẫn cười nói đấy nhưng đã là người ở cõi khác. Người quen của bác, người
quen chồng con bác khi còn sống cũng thế: chết hết rồi, hải lục không quân,
chính thể, đảo chính, tổng thống, sụp đổ, ám sát hay đàn áp chỉ còn trong mồ ma
ký ức.
Ký ức rất khó diễn tả rõ ràng.
Chỉ có một điều rõ ràng nhất trong những ngày này: tôi, thằng
Phúc sợ và ghét bác. Bác ra giếng chúng tôi vào nhà. Bác vào nhà chúng tôi ra
giếng. Nói chúng tôi tránh bác, nhưng ngược lại mới đúng, là người chết rồi bác
tránh cả nhà chúng tôi lẫn người trong thị trấn. Mò mẫm sống trong căn buồng
lúc nào cũng thiếu sáng bởi cửa chính và cửa sổ luôn đóng. Bác cũng hạn chế ra
ngoài, bác sợ ánh mắt soi mói, gièm pha của hàng xóm láng giềng; sợ những câu
nói như dao cứa vào tâm khảm; sợ người chết rồi chẳng yên.
Tôi để ý răng bác bớt trắng hơn khi mới về thị trấn, nó xỉn
đi từng ngày. Bố tôi cũng quan tâm điều ấy, lúc mẹ và thằng Phúc không có nhà bố
gọi tôi vào hỏi “răng bác mày làm sao ấy nhỉ?”, “con chẳng biết”. Những điều
chúng tôi biết về bác ít quá, chỉ là những cái nổi lên trên bề mặt nhìn thấy,
còn tận sâu thì sao. “Nơi tầng đáy chỉ có xương cốt, những con cá voi chết
không dạt được vào bờ đành gửi xương nơi đại dương sâu thẳm.” “Mày lẩm bẩm gì
như thằng thần kinh thế con?”, giật mình, tôi đang nhẩm lại đoạn truyện đọc tối
qua về cá voi, vội nói lảng: “con để ý tóc bác bạc hết rồi”. Thuốc lào đã nhồi
vào nõ, lửa đóm cháy gần hết rồi bố vẫn lặng đi không châm hút. Bác về thị trấn
mới chưa đầy một tháng…
5.
Thêm hai tháng nữa ở lì cố thủ trong nhà rồi bác mở hàng bánh
gối. Ban đầu bác định ra chợ, nhưng tiền thuê địa điểm đắt quá lại trở ngược về
đầu ngõ, giăng bạt nổi lửa, pha mắm trộn nhân, đặt mấy cái ghế nhựa quanh gốc ổi
làm quán. Khi nghe tin bác mở hàng bánh mẹ bĩu môi “vẽ chuyện, có mà bán cho ma
Tây”, dù trước đó mẹ luôn than phiền, lườm nguýt bác chẳng chịu làm ăn gì, của
núi cũng lở. Mẹ còn trách bác mang tiếng đi Nam đi Bắc mấy chục năm về mà các
cháu chẳng được gói bánh gói kẹo, các em chẳng được chỉ hào, tấm áo manh quần
gì, chỉ ăn sẵn là giỏi.
Tôi nghĩ thầm bác có ăn sẵn nhà mình đâu, xoong nồi gạo nước
mắm muối tự sắm tự nấu, củi đun cũng mua ngoài chợ. Có hôm bố đi làm ca ba về,
mặt mũi đen nhẻm gặp bác ì ạch vác củi, liền dựng phắt xe gắt lên: “chị làm thế
này xấu mặt tôi, hàng xóm biết người ta cười cho, củi chất đầy bếp mà chị phải
ra chợ mua còn ra thể thống gì”. Bác đặt bó củi xuống, nhỏ nhẹ: “tôi ngại cô ấy…”,
bố nghe, chẳng nói chẳng rằng hầm hầm vác bó củi đi vào như sợ ai nhìn thấy.
Cả hôm ấy, bố loay hoay mua gạch ba banh, mấy tấm fibro xi
măng về dựng cho bác cái bếp ở góc vườn, chẻ củi chất đầy bên trong. Bố nói: “hết
củi chị cứ bảo cháu lấy, dây phơi quần áo căng trước cửa buồng rồi”. “Để tôi gửi
tiền gạch”, bác dúi tiền vào tay. Bố gạt phắt đi: “chị phải bả của bọn tư bản
giãy chết rồi, cái gì cũng tiền… tiền…”. Mắt bác ngân ngấn nước. Bố đi mấy bước
quay lại vu vơ nói: “em ra công an thị trấn đăng kí tạm trú tạm vắng cho chị rồi,
giá kể chị cắt khẩu trong ấy chuyển ra ngoài này luôn, hay chị còn tính đi…”.
Bác mở quán, tức muốn ở lại thị trấn.
Ngày ngày, tôi và thằng Phúc theo lệnh bố ra phụ bác bán
hàng. Bóc tỏi, gọt cà rốt làm nước chấm, cắt miến, mộc nhĩ, bóc trứng cút luộc
làm nhân, rửa bát, thu tiền khi khách ăn xong. Ban đầu, mẹ cũng lườm nguýt việc
nhà thì nhác việc chú bác thì siêng, nhưng sau thấy chúng tôi phụ bán hàng bớt
lêu lổng đánh đấm, ngoan, dễ bảo hơn, cơm cháo buổi chiều không còn phải hò hét
thét lác nấu nướng, buổi trưa ăn cùng bác nên chẳng ý kiến gì thêm.
Từ bánh gối bác làm thêm bánh khoai, bánh chuối, bánh ngô.
Công việc tôi và thằng Phúc tăng thêm: gọt khoai, bóc vỏ chuối, nạo ngô. Quán
quen, giá rẻ chỉ ba trăm một cái, khách biết tiếng kéo đến ngày một đông, nhiều
hôm chẳng còn chỗ người đến sau phải mua về. Chúng tôi không còn sợ bác nữa,
bánh bác cho ăn thả cửa, thỉnh thoảng sẵn dầu bác mua gà về rán tẩm bổ cho cả
nhà. Và cứ dăm bữa nửa tháng, bác lại cho hai thằng theo cùng ra chợ mua quần
áo, đồ dùng học tập, đồ chơi xanh đỏ.
Đến mức bố tôi mang bánh mì mỏ, mấy hộp sữa đặc ăn ca sang gặp
thằng Phúc đang thử áo mới hình vịt Donald cáu: “chị bán thế lời lãi mấy mà suốt
ngày mua sắm cho chúng nó”, “tôi trả công hai đứa đấy chứ”, “công xá gì, chiều
nó hư đi”. Tối trước khi ngủ, bố gọi hai đứa tỉ tê, bác một thân một mình khổ
hai đứa phải thương, bác có dẫn ra chợ mua đồ cũng chọn thứ rẻ thôi, phải lấy
cho bác vui, nhưng lấy sao cho khéo…
Tôi khéo gợi bác kể những chuyện xưa trong Sài Gòn những lúc
vắng khách và chưa đến giờ đi học. Nhìn mắt tôi, bác bảo cháu giữ ký ức hộ bác,
sợ sau này già lẫn cẫn quên kể lại bác nghe. Mọi chuyện bắt đầu từ tháng Tư năm
54, bác không tự nguyện theo Chúa vào Nam mà bị bắt đi. Hôm ấy, bác trốn ông bà
từ bến Đụn qua sông Đá Bạc sang Thủy Nguyên, Hải Phòng chơi với bạn. Chơi chán,
ăn bánh đa cua ở chợ Giá xong rủ nhau sang đền cạnh chợ ngồi nghỉ đợi vãn nắng
rồi về. Ai ngờ có toán lính Pháp xì xồ ập vào, súng ống lăm lăm đẩy tất cả lên
xe tải.
Chúng bắt cả người bên chợ, bỏ hàng giằng ra nhảy xuống sông
hoặc chạy ngược vào núi thì thoát, tiếc của chậm chân là bị ủn đi. “Giá lúc ấy
cứ liều chạy thì thoát, súng để dọa chẳng bắn ai”. Bác cứ tiếc điều ấy mãi, tiếc
đã không liều. Cho đến khi say sóng giữa biển Đông, ngập ngừng giữa những cơn
nôn ọe mật xanh mật vàng, nước mắt chảy mặn chát bác vẫn tiếc. Khi đặt chân lên
đất Sài Gòn, chếnh choáng vì say đất bác cũng tiếc. Giữa những người có đức tin
bác không có đức tin. Giữa nhiều lớp người có Chúa bác không có Chúa. Bác chẳng
chuẩn bị gì cho chuyến đi, hành lí tiền bạc không, người bạn gái bị bắt cùng lạc
nhau khi vừa xuống tàu, ngay cả một lời nhắn cho bố mẹ ở quê cũng đành xa ngái.
Sau này, khi bác và bố mẹ mất rồi tôi có dịp sang đền Chợ
Giá, hỏi, mấy người trông đền bảy tám mươi tuổi bảo chẳng biết chuyện năm 54
lính Pháp bắt người di cư thế nào. Cạnh đền, chợ giáp sông lệch phiên không mở.
Tôi đâm ngờ vực, liệu trí nhớ bác có đúng không. Lịch sử của trí nhớ có tin tưởng
được? Hay tôi nghe nhầm, không, bác còn kể tên chính xác con tàu đưa bác đi
trong đêm từ cảng Hải Phòng: USS Montague của Mỹ.
Những ngày đầu bác sống trong trại Hà Nội, do Chính phủ Quốc
gia Việt Nam lập cho người di cư Bắc ở tạm trước khi chia đi định cư các nơi.
Cũng tại đây bác gặp bác trai, một trong hai người cười trên bàn thờ kia, tên
Lê Xuân Giang, quê mạn ngược Hà Giang, mồ côi từ nhỏ, được một giám mục người
Huế đi truyền đạo nhận nuôi, sau ông về Hưng Yên cho về cùng ăn học. Năm 51,
Giám mục nhận lệnh vào Nam cai quản giáo hạt Bạc Liêu, năm 54 nhờ người nhắn ra
bảo vào cùng; vừa xuống tàu nhận thư viết cứ vào trại Hà Nội ở, liên lạc sau để
cha con gặp nhau.
Rồi những đoàn di cư lần lượt chia đi Gia Kiệm, Đà Lạt, Cái Sắn,
Xuân Lộc, Biên Hòa…, bác định cư tại chỗ, tổ chức đám cưới với khách mời là
hàng xóm cùng ngõ, nhờ số tiền mừng của người cha Giám mục mở hàng tạp hóa nhỏ.
Trại Hà Nội lúc này hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình chuyển thành ấp Hàng Dầu,
nhưng chẳng mấy người gọi theo tên ấp gợi nhớ Hà Nội quá vãng thế, người ta hay
gọi là khu Ông Tạ: một thầy thuốc quê Mỹ Tho – Tiền Giang. Trong ấp có hai xứ đạo
lớn là Nam Thái và An Lạc nhưng bác không theo, bác trai biết hoàn cảnh không
ép, con trai bác tên Lê Xuân Bắc, theo mẹ, bên lương.
6.
“Sao bao nhiêu năm bác không nhắn gì về cho ông bà?”
Tôi định hỏi bác câu ấy bao lần mà không dám hỏi. Bác cũng
không nói, tuồng như sợ, mà cũng tuồng như ân hận. Ông bà giờ nằm cạnh nhau
trong nghĩa địa thị trấn, năm vài ba lần dọn cỏ vào dịp tết nhất, giỗ chạp. Giờ
bác đã về, ông bà chẳng còn gì để mong ngóng, mà người chết rồi thì còn mong
ngóng được ai. Bác cũng là người sống mà như chết. Lần cuối tôi gặp răng bác xỉn
hết, khác xa với lần về vào cuối tháng Tư. Bác run run nói về Giám mục, cha
nuôi chồng mình: cuối năm 63, khi anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu
bị giết sau đảo chính thì người cha nuôi cũng đồng thời biến mất không một dấu
vết lẫn liên lạc về sau. Bác cùng chồng tìm đến giáo hạt Bạc Liêu, đến nhà thờ
nơi ông ở, hỏi, người ta bảo đây chẳng có Giám mục nào tên thế, người Huế càng
không. Thậm chí còn mang danh sách Giám mục giáo hạt từ khi mới thành lập đến
nay ra cho hai người xem, rất hồ hởi dễ chịu, và cả nguy hiểm nữa.
Hai người ra xe về trong những ước đoán; có thể.
a: ông là cánh tay đắc lực của Nhu – bị thủ tiêu bởi chính phủ
mới.
b: ông làm việc cho CIA – bị người chính phủ cũ trả thù.
c: ông là người cộng sản miền Bắc cài vào – bị phát hiện, đưa
đi khai thác và thủ tiêu.
d: không có vị Giám mục nào thế, trí nhớ hai người sai.
e…
Hai người nơm nớp sống, mỗi ánh mắt nhìn, mỗi câu hỏi, mỗi
người ra vào tiệm tạp hóa đều gieo rắc những nghi ngờ. Có hay không một người
cha Giám mục từng hiện hữu trên cõi đời này? Có hay không việc trả thù giữa các
phe phái? Có hay không ký ức dệt nên rất khéo từ năm 54 kéo dài đến mãi sau
này? Nhiều lúc, bác nghi ngờ chính mình lẫn chồng con. Liệu hiện thực đang diễn
ra có đúng hiện thực bình thường, không phải trong một bộ phim, một giấc mơ. Chồng
con có đúng chồng con mình, họ không diễn hay lừa phỉnh. Và quan trọng nhất
mình có đang là mình, chứ không phải loài ốc mượn hồn vỏ một đằng, thân một nẻo.
7.
Các câu hỏi của mình – bác phải tự trả lời lấy, không ai làm
thay được.
Còn tôi và thằng Phúc lần lượt nối nhau bỏ thị trấn đi. Nhớ
nhà, nhớ bố mẹ cũng chỉ là nhớ những ký ức cũ đã chết, thứ ký ức chẳng giúp gì
được nơi thành phố chộn rộn lừa lọc. Thỉnh thoảng có về cũng chỉ cho có rồi vội
vã tất tả đi ngay. Bác đọc được trong mắt anh em tôi điều ấy. Tôi biết bác
không trách, biết bác còn hy vọng lắm nơi tôi, người giữ ký ức cho bác. Nhưng để
làm gì bác ơi, mấy chục năm qua rồi, bố tôi cũng chẳng cằn nhằn bác thờ hai tấm
ảnh người lính phía bên kia trong nhà. Tôi biết, thi thoảng tối ông vẫn xuống
thắp hương cho họ, rồi ngồi cùng bác trên chiếc giường năm xưa ông bà đã nằm,
nhìn ra sân, nói chuyện bằng im lặng.
Chỉ có bức tranh truyền thần bác thờ chính mình là bố nổi
cáu. Ông lấy xuống mang ra sân đốt, nhờ thợ chụp ảnh vào chụp cho bác bức ảnh mới
mặc áo dài xanh. “Ảnh thờ nó phải đàng hoàng, mày thấy tao nói đúng không”, bố
nói khi hai bố con cùng nhau cạn chén, rượu nếp cái hoa vàng thơm lựng, bác tự
tay ngâm cho bố, “chú cứ vẽ, mà mả mẹ cái thằng chụp ảnh, nó cứ bắt tôi đánh phấn
ngứa ngứa là”, bố cười, bác cũng cười, mẹ tôi gắp miếng thịt lườn vào bát bác.
Tôi giật mình, bán hàng bao năm giờ bác cũng biết nói bậy, cũng đèo xíu, cũng
buôn chuyện nhà nọ, nói xấu nhà kia. Bác vui vẻ, hoạt bát hơn trong nhịp quay
vòng đến cái chết của thời gian.
Đêm ấy ngủ với bác, tôi nói ý nghĩ của mình cho bác nghe, với
tôi bác chết rồi.
Bác cười, bảo đúng là lúc mới đầu ở Sài Gòn ra bác tính tự tử
ngay, nhưng rồi lần lữa lại thôi. Bác cứ thế sống, sống để thấy Chúa lần thứ ba
dù không theo đạo. Lần thấy Chúa đầu tiên vào sáng một ngày tháng Tư năm 54,
sau một đêm say sóng, ra boong tàu nhìn ngược về đất Bắc bác thấy Chúa hiện lên
ở cuối đường chân trời, khoác áo choàng đen, khuôn mặt băn khoăn trách móc. Lần
thứ hai vào chiều một ngày cuối tháng Tư năm 76, ở cảng Sài Gòn, Chúa ngay trước
mặt, là là trên nước. Chúa khoác áo choàng đỏ tươi như máu. Chúa im lặng đau khổ.
Chúa nhìn bác rồi nhìn ra phía biển, mặt trời đỏ ối, nắng cũng đỏ. Bác sợ, tức
thở, cuống cuồng dụi mắt, nhìn lại Chúa đã biến mất. Bác không biết Chúa có thật
hay không?
Tôi cũng không biết Chúa có thật hay không?
Lần thứ ba hiện lên với bác Chúa khoác áo choàng màu gì…
26/6/2023
Đinh Phương
Nguồn: Văn nghệ Thái Nguyên
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Xin làm gió thổi lại đôi
Xin làm gió thổi lại đôi Về thăm nhánh cỏ bên đường/ thuở chân em dẫm vô thường mà say/ nhành hoa trên áo lung lay/ chỉ thương ...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...