Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2025

Hư vô phản kháng

Hư vô phản kháng

Hư vô phản kháng là gì? Là niềm đau vô tận số: ngậm ngùi bi thương, đoạn trường ai oán. Trong trạng huống đó người ta tạm thời nhìn hư vô là cõi vắng lặng. một chịu đựng khắc khỏi giữa cuộc tồn-lại nhân thế mà nơi đây chỉ là cuộc tao nhã trong cảnh đăm chiêu ở một tinh thần bất ngoặt, yếm thế để thực hiện một hành động thế nào thích ứng hài hòa giữa con người với con người; không vướng lụy trần gian mà vượt thoát để đi tới một tư duy hữu hạn. Ở giai đoạn cuối này là giai đoạn mạt pháp, mạt lộ, thiếu đi giá trị siêu việt để dìu dắt ta đi tới một như nhiên vi diệu và lấy đó làm cứu cánh. Nhưng; mọi sự thế cuộc đời là bất toại, chẳng có gì là chân lý, thiện ác (good or evil) đều coi ngang hàng, ngang lứa tất cả đều phiêu bồng nhập cuộc ta bà, tử sinh; từ đó không còn phân biệt: chính, tà, hắc, bạch. Để rồi tự gầm thét bằng những lời ai oán ẩn mật, như lời thốt chối từ, phủ định tuyệt đối để đi vào với hư vô, bởi; hư vô vốn là KHÔNG mà chỉ tuyệt đối đồng tình (absolute assent) để dự cuộc vào tiếng vọng; đó là hư vô phản kháng (nihilist rebellion) là đứng ngoài vòng cương tỏa của mọi chủ nghĩa, là những thứ chủ nghĩa sàm sở, ê chề, hỗn mang, thuồng luồng gieo tai hại cho chủ nghĩa tư tưởng phản kháng tồn-lại, cái sự cớ của nhiễu nhương nhân thế vẫn lộng hành, vẫn nắm điạ vị chủ quan dù cho điạ vị ngu xuẩn, mất tính đặc thù tư tưởng lý luận mà cứ duy trì thứ tư tưởng ủ dột, chết chìm, lụn bại, trôi lềnh bềnh mấy thập niên qua không một thái độ phát tiết chủ thể thơ văn: bao gồm sáng tạo ngay cả những hình thức khác của thi ca; bế tắc không vượt thoát để có một phản kháng thi ca mới hơn; thời làm sao nói đến siêu hình hay hư vô phản kháng. Ác thay; chưa lãnh hội thấu đáo cho nên còn là đà trên giòng thủy tử mà chẳng tìm thấy cái ý nghĩa thâm hậu của hư vô phản kháng dành cho văn và thơ. Nhưng trong lúc này hư vô phản kháng chỉ là khái niệm mà thôi, một khái niệm tổng thể của phi lý luôn luôn quấn quít trong ta với những gì mâu thuẩn liên can đến đời sống con người, một tư duy gần như bất khả thi nếu chẳng có gì là hệ trọng cả. Sự cớ phi lý luôn luôn đầy đặc ở giữa vũ trụ này, nó trở nên luật tắc tồn-lại nhân thế. Mà thật; nó có một cái gì mâu thuẩn bên trong, thời không có chi để mà ngạc nhiên, ngược lại nó duy trì một xúc cảm đặc biệt. Xúc cảm phi lý là một cảm xúc giữa những cảm xúc khác –thí dụ : cảm xúc tế bào da mặt là thuộc hữu cơ, tế bào phi lý là tế bào của tồn-lại. Trong bản chất đặc thù của hư vô phản kháng là vận chuyển cái gì của nó như một biến động vượt thoát. Cái phi lý cũ xưa chính là thảm trạng của hoài nghi tuyệt đối (absolute doubting); nó đưa ta vào ngẫn ngơ, ngậm bồ hòn trong ngõ cụt, nín thở, chính vì cái bế tắc đó dẫn độ ta tới một tư duy mới mẻ hơn; không rào cản, không ước lệ, không thoái trào. Vì cái phi lý đó mà phải thốt, cái thốt đi vào hư vô :’je crie que je ne crois à rien et que tout est absurde, mais je ne puis douter de moncri et il me fault au moins croire ma protestation (trong L’Homme Révolte của A.Camus) Là tiếng thét thảnh thốt như chối từ không tin vào cái gì cả, thốt lên vì mọi sự cớ là phi lý nhưng tôi không thể hoài nghi tiếng than, tiếng thốt của mình mà ít ra phải tin tưởng sự chống chế của nơi tôi.Thời cảnh tượng hư vô phản kháng là nảy sinh từ cảnh phi lý trần gian trước một trạng huống bất công và bất khả lĩnh giải. Hư vô phản kháng là cơn dấy động âm thầm, một bản chất tự tại vốn đã gào thét và đành lòng như tự mình kiểm soát lại để đưa tới lối thoát – Il fault qu’ell consentie à s’examiner pour apprendre à se conduire. Bởi; trong sa mạc hoang vu mọi thứ bắt đầu nở nhụy đơm hoa một lần nữa (là tiếng thốt hoang vu và trầm lắng): ‘một ý nghĩa kinh hoàng của một cái gì ngậm đắng than khóc âm thầm cõi thế để hân hoan mà không hiểu chi trong một đêm dài của lòng tin và một lý do đau đớn muộn phiền’ –In this desert everything begins to flower again. ‘The terrifying significance of an unpremeditated cry of joy cannot be understood while the long night of faith and reason endures’(trong Metaphysical Rebellion của A. Camus). Nhưng ít ra cũng giải thích và lãnh hội phần nào cái phương hướng của con đường hư vô phản kháng. Cái tắc nghẽn giờ đây được giải thoát để tìm tới đỉnh cao trí tuệ của siêu hình là con đường khai phóng chủ nghĩa hư vô. Hư vô chính là mật thể tồn-lại trong nhân gian. Không khước từ mà duy trì như một thống lĩnh của hư vô phản kháng tồn-lại!
Sao gọi là tồn-lại? là vì nó tồn lưu muôn thuở, tồn loạt muôn đời thời không còn ai hỏi ‘có’ hỏi ‘không’ mà tước bỏ từ nan để đi vào cõi thế. Nó bao hàm một ý nghĩa là hư vô, là phản kháng được tập trung trong một ý hướng ‘có, có, không, không’. Nói rộng ra; đó là hướng quyết định một cái gì hiện hữu và cái gì có giới hạn; là mằm trong cảm xúc của kẻ phản kháng, đó là cõi khắc khỏi hư vô (Néant de l’Angoisse). Cái bàng hoàng do từ cảm thức phản kháng qua một ý thức bùng dậy trong thân phận làm người, hạnh phúc, đau khổ đều chất chứa một tinh thần hư vô phản kháng, nghĩa rằng trong thâm tâm đã có một chối bỏ tuyệt đối để đi tới cái phi lý tuyệt đối và tìm thấy cái quyền lợi tuyệt đối ở chính mình. Rứa cho nên chi ta không lấy làm lạ tiếng thốt hư vô của Nietzsche, tiếng rên dưới hầm của Doestevsky và tiếng kêu cứu thất thanh của Camus đều đồng hóa trong tinh thần phản kháng tư tưởng. Nỗi niềm di hận tràn bừa trong một thứ chủ nghĩa duy lý đã tác hại và xuyên tạc tôn giáo, một thứ ma đầu lũng đoạn tâm thức siêu việt, muốn biến hóa thần thông để cách hóa vấn đề; những gì hiện hữu của Thượng đế trở nên không thực vì; ‘thiên điạ vô tư’ giữa thời mạt pháp. Thượng đế đã chết hay sống còn chẳng ăn nhập vào đâu cả mà chỉ có tồn-lại với tinh thần phản kháng, dù hư vô nhưng là tiếng nói của con người, gào lên để chống lại bi thương thân phận làm người. Họ chứng minh nhân đạo chủ nghĩa không làm sáng tỏ nhân thế mà ngược lại tạo nên chủ nghĩa hận thù –thí dụ: như lý luận được hóa thân trong hình hài nhân vật Ivan Karamazov là dấy động phản kháng của Dostoevsky; một dấy động siêu hình trong cơn dấy động hư vô. Thật ra nỗi khắc khỏi đoạn trường của Ivan đã phát khởi từ tiếng vọng tình yêu, trong lúc đó Thượng đế thờ ơ, chối bỏ để rồi mệnh hệ trút lên đầu thế gian gánh chịu như chuộc tội. Đứng trước hoàn cảnh này; ta có thể minh định tinh thần hư vô của con người là hai cảnh giới tuyệt đối: vũ trụ phản kháng bừng dậy và phản kháng hư vô chịu đựng. Nói chung hai trạng huống nêu trên đều nằm trong vị trí khổ sai của nhân loại. Gào chỉ là tiếng kêu của đá, hành động là vực thẳm. Ở đây chúng ta chỉ tìm thấy cái hư-không tuyệt đối dù chúng ta đấu tranh cách mấy chỉ tồn-lại một thứ hư vô mà thôi. Nói thế chúng ta đã liệt nhược để đánh mất phản kháng? Đó là lý luận luân lý bồi bổ cho một phản kháng có tính vô hình mà quay về với như nhiên tuyệt đối. Song le; muốn có tồn-lại con người phải phản kháng! Bởi; đoạn trường là một dự cuộc vừa thử thách vừa đấu tranh, mà phải ý thức nó như nghĩa vụ để cùng nhau vượt thoát ra khỏi ngục tù trần gian, thời may ra cánh cửa thiên đường có thể chờ đợi ‘heaven can wait’đón chúng ta đi vào với hư-vô-chủ-nghĩa.
Từ một phút chốc nào đó con người tuân phục Thượng đế như một mệnh lênh phán xét. Con người giết Thượng đế trong cái lương tâm chính mình –he kill HIM in his own heart. Và rồi những gì xẩy ra là cơ bản của nền luân lý đạo đức? Thượng đế từ chối trong cái danh xưng của công lý nhưng đó là tư duy của công lý, là luật định đã đội lên đầu bằng gai nhọn mà hiểu ngầm rằng không có tư duy của Thượng đế? Ở điểm này chúng ta không ở khiá cạnh hay lãnh vực của tồn-lại vô lý? Ba câu hỏi trên đưa ta về cái phủ nhận vô chứng cớ qua ý niệm của Nietzsche; nghĩa là con người đối mặt với Thượng đế trong một tư duy phản kháng hư vô. Trong đặc định đó như cách chức vai trò của Thượng đế, trong khi Người đẩy giáo lý vào cực điểm: luân lý là yếu tố cơ bản cấu thành bộ mặt của Thượng đế, là một tuyệt đối khẳng định (absolute affirmation). Mà muốn chối bỏ là phải tàn phá ngay từ bây giờ trước khi tái thiết cho việc bắt đầu. Thượng đế không còn tồn-lại và cũng không còn mấy trách nhiệm cho những gì tồn-lại nhân gian, con người phải biết phân định hành động, luật tắc trong mệnh lệnh đặc trách tồn-lại – The God no longer exists and is no longer responsible for our existence; man must resolve to act, in order to exist. Nếu quán triệt được như thế tất chúng ta nhập cuộc với phản kháng hư vô như lời thốt của đôi bên; hư vô trở thành tiếng vọng khát khao, tuy không cầu chứng tại tòa nhưng tại ngoại hầu tra cho một chứng cớ của Nietzsche và Hư vô chủ nghĩa (Nietzsche and Nihilism). Trước Nietzsche có một Stimer muốn bức gốc tư duy của Thượng đế vốn nằm lịm trong trí con người; sau khi triệt tiêu vai trò tự có của Thượng đế. Nhưng; không giống những gì của Nietzsche, hư vô của Nietzsche đã là một thỏa đáng, hứng khởi. Stirmer cười rộ trong cái vực thẳm mù lòa của Nietzsche. Nietzsche đập đầu để chống lại bủa vây. Năm 1845 là năm độc nhất vô tiền khoáng hậu và là năm có nhiều đặc điểm của nó (The Unique and Its haracteristics / Der Einziger und sein Eigentum) đã xuất hiện và sau đó Stirmer bắt đầu xác nhận vị trí của mình đã đi xa với hiện hữu hư vô; ấy là điều trước đây ông hô hào phải có một xã hội tự do con người ‘society of Free-Men’. Hơn thế nữa Stirmer vẫn không đủ can đảm để kết tội, mà chỉ vỏn vẹn bằng câu nói như chỉ rõ lòng xót thương: ‘Giết chúng đi chớ đừng phong chúng thánh tử đạo / Kill them; do not martyr them’. Câu nói nầy chưa hẳn đã giải thoát cho một tư tưởng phản kháng mà còn chất chứa một nghi vấn giữa Thượng đế với con người; giữa hiện thực và hư vô. Đó là mấu chốt để Nietzsche có một dự phóng tương lại cho hư vô. Con đường đi tới sa mạc đã phơi bày tất cả sự thật của hư vô. Để chuẩn bị cho bước đi kế tiếp. Nietzsche đã ra sức tìm kiếm cái sự cớ bắt đầu của nó trong hư vô chủ nghĩa.
‘Chúng ta chối bỏ Thượng đế, chúng ta từ khước trách nhiệm của Thượng đế, cái nớ như rứa thôi; đó là những gì chúng ta sẽ giải thoát thế giới’ “We deny God, we deny the responsibility of God; it is only thus that we will deliver the world”. (Nietzsche). Đối với Nietzsche hư vô chủ nghĩa tuồng như trở nên những gì thuộc tiên tri. Nhưng ở đây chúng ta có thể du di không có đoạn kết từ những gì mà Nietzsche đã loại ra ở những việc tầm thường để có một cơ bản lý luận; đó là những gì đã làm cho ông ghét bỏ với sự căn thẳng tâm hồn. Vì thế du di là để chúng ta hòa âm cùng Nietzche để tìm thấy chân lý tội thượng trong hư vô phản kháng, như bước đầu dự phóng của nhà tiên tri. Chính nơi đây là vai trò của người chẩn bệnh (diagnostician). Với Nietzsche hư vô chủ nghĩa là dấy động nội tại, kết tinh trong một trạng thái của tâm thức dù là một thụ động tuyệt đối đều cùng một ý thức bừng dậy, đòi hỏi, yêu cầu; nhược bằng ôm hận trăm năm mà lặng lẽ đi vào hư vô không một lời tha oán. Nietzsche cho hoàn cảnh đó là tâm tư liệt nhược đã đánh đổ lý siêu nhiên trước vũ trụ mà phải mổ xẻ để tìm thấy dự phóng của tiên đoán. Nietzsche không bao giờ nghĩ tới điều này ngoại trừ trong thời kỳ của điạ ngục trần gian đang lần đến –Nietzsche never thought except in terms of an apocalypse to come; cũng không một lời thệ nguyện để tán tụng hay ngợi ca –not in order to extol it . Nietzsche cho rằng có cái gì vướng đục và có một cái gì toan tính thiệt hơn trong tinh thần phản kháng hư vô, diện mạo đó chính là mặt thật của ‘điạ-ngục-môn’ ở cõi trần này; nhưng cuối cùng cũng nhận ra. Nietzsche thừa nhận hư vô chủ nghĩa qua những gì đã giảo nghiệm, nó tợ như một dữ kiện ở chẩn y viện. Ông tự nhận biết về đường lối phản kháng trong hư vô như một tham luận hoàn tất thời kỳ đầu ở Âu châu. Ý cho rằng: không bởi chọn lựa, nhưng bởi điều kiện cách; bởi vì thế mà Nietzsche mạnh dạn khước từ những gì là truyền thống cố cựu. Trong hoàn cảnh khác; ông tự chẩn đoán lấy mình trước niềm tinh thánh hóa bất lực và đó chính là nỗi tuyệt vọng từ những cơ bản thiết lập nguyên sơ cho việc tôn thờ -nhân danh- là niềm tin cứu rỗi cuộc đời. Rứa thì ta thử hỏi: ‘con người có thể sống như một nổi loạn?’ “can one live as a rebel?” Nietzsche trả lời một cách quả quyết;’Vâng; nếu Người tạo nên một phương cách ngoài sự vắng bóng và nếu Người chấp nhận cuối cùng như hậu quả của hư vô –the final consequences of nihilism . Chính cái hữu duyên thiên lý ngộ giữa Nietzsche và đấng-tối-thượng không còn bất ngoặt mà đả thông tư tưởng cái gì là hư vô và cái gì là phản kháng .Thượng đế cũng có cái phản kháng của Thượng đế; tuy không nói nên lời nhưng đã ngấm ngầm trong tư duy của hư vô chủ nghĩa. Zarathustra tiên tri trước cuộc đời bởi một trí óc thông tuệ mà hàm hổ, hàm hô khước từ, tước đoạt quyền năng Thượng đế. Đó là cái gào hư vô! Nỗi bi thương cùng cực được nói đến trong ‘hồi ký viết dưới hầm’ của Dostoevsky hay ‘nỗi buồn sa mạc’ của Camus; vì cả hai đồng thanh nhất trí, đồng ý tương cầu làm nên sự vụ cho một khẳng định tuyệt đối. Nguồn cơn đó do từ Nietzsche. Lấy Zarathustra như một biểu thị phản kháng như nhiên và cũng là một nhân cách hóa vai trò tiên tri để đối diện với Thượng đế như lời phán xét. Nietzsche lui về với Trung Thổ để mượn cái tên Zarathustra như minh định sự phủ nhận vốn đã tiềm tàng trong hư vô tiền sử. Triết học của Nietzsche không còn chi để chất vấn, mà xoáy quanh vấn đề phản kháng. Một vấn đề chính xác được bắt đầu bằng một tồn-lại của phản kháng. Nhưng; cảm thức đó Nietzsche đã điều độ qua những đổi thay tình huống mà ông đã nỗ lực tìm hiểu từ mình cũng như từ người. Cảm thức đó như một xác quyết ‘Thượng đế chết rồi /God is dead’ thời mình kêu cứu ai đây, Chúa đã bỏ ta để đi vào với hư không, tiếng gầm đó giờ đây chỉ là ảo vọng; thôi thì thôi bỏ ta thời ta thắp đuốc mà đi kêu ai bi chừ hay chờ mạ đi chợ về? Đừng chờ mà bước vào hư vô chủ nghĩa. Đó là con đường hoằng viễn , tất cả lời lẽ thống thiết kia chỉ là sự kiện để rồi quay trở lại mà ai oán, cái sự cố đó chính là sự sai lầm trầm trọng, khó bề gở gạt để thay thế vào đó những gì không thể thánh hóa mà chỉ còn lại cái chẳng đặng đừng mà chỉ tạo ra những lý thuyết mới mẻ hơn đối với đấng thờ.-the only proving-ground of the gods. Nietzsche hư vô ở chỗ ông không gây ở đây hình thái phản Chúa hay giết Chúa. Ông đã tìm thấy cái chết của Người trong một linh hồn hợp lý .-He found Him dead in the soul of his contemporaries. Nói vòng vo tam quốc chơi cho vui thôi: thì ra Nietzsche không diễn đạt trọn vẹn cái nghĩa chết của Thượng đế và cái việc phục hưng của con người (to be a renaissance) về triết thuyết phản kháng nhưng được cái kiến trúc cho một triết lý nói về phản kháng. Bởi vì trong cảm thức của Nietzsche là tự do. Nietzsche nhận ra được thứ tự do từ trí tuệ chớ không dính chi lợi ích khác, nhưng đạt được thành quả trong những gì mà con người thiết tha mong mỏi và một chiếm cứ lâu dài sau một thời gian cạn kiệt đấu tranh, đòi hỏi, yêu cầu; tất cả đều rơi vào hư vô. Nếu không có gì để chứng minh sự thật, nếu thế giới không có luật tắc thời chẳng có chi để gọi là cấm-tử-thành (forbidden wall) cản ngăn chỉ là hành động thời đó là điều phải làm, là tiêu chuẩn của giá trị và là cứu cánh. Một tuyệt đối thống trị bởi một luật định thời không thay mặt đại diện cho giài phóng tự do, nhưng nhớ cho; hoàn toàn không có cái thứ tuyệt đối loạn trào – Absolute domination by the law does not represent liberty; but no more does absolute anarchy. Trong một nghĩa khác, với Nietzsche; cuối cùng của phản kháng là nằm trong lý thuyết của khổ hạnh. Dựa qua tinh thần của Karamazov: ‘Nếu không có chi là thật, thời tất không có chi là phép tắc / If nothing is true, nothing is permitted’.Ta thay vào đây một chiêu thâm hậu hơn để thấy đời tung hoành con cào cào: ‘nếu không có chi là thật, thời mọi thứ đều được phép / if nothing is true, everything is permitted’. Rứa thì chối bỏ bởi một lý do đơn phương là ‘cấm-thành’ trong cái thế giới vô số chối từ để mọi thứ được phép là hậu quả đưa tới nhũng loạn tư tưởng; đẩy tư duy vào hố thắm tội lỗi. Cho nên Karamazov đoài đoạn là thế đấy. Cái đoài đoạn đó nằm trong tư thế phản kháng hư vô dù là thứ hư vô cào cào châu chấu đá voi!
Rứa cho nên chi trong mọi biến chuyển từ trong con người, từ trong nhân vật đều tích lũy một phản kháng chối bỏ, từ nan; đối diện thực thể là cõi hư vô tức gián tiếp tuyệt đối phủ nhận sự hiện diện của Thượng đế ở cõi trần gian này. Người ta hô hào tự do nghĩa là không có luật điều, là ngoại vi của tự do tuyệt đối. Karamazov, Zarathustra đứng về cánh loài người để tố cáo xã hội trầm luân, để nói lên tình huống vô tội của con người với một khát khao tự do: tự do không giáo điều, không sách lược. Đó là lý do đưa tới tuyệt đối phủ nhận (absolute negation), Nietzsche tuyệt đối chối bỏ (absolute denies). Họ chỉ nêu một luân lý công chính, công minh, đừng vin vào công lý thánh thần bằng một đức lý lấy vải thưa che mắt thánh: để cáo buộc, mạt sát con người; mà đồng đẳng dâng Người một cuộc đối thoại để dứt khoát có một thể chế cho hư vô chủ nghĩa:Thượng đế không còn khống lĩnh vũ trụ mà vũ trụ như nhiên khống lĩnh Thượng đế. Đấng bao trùm, rộng mở với lòng nhân ái, không còn bản ngã độc tôn mà bình đẳng thế giới có tôn tri; đó là nguyên lý của tình yêu, thứ tình yêu tối thượng không vị nể mà vị tha ‘Dieu en tant que principe d’amour’. Phản kháng lãng mạn triệt thoái mọi quan hệ với Thượng đế. Tự thân vốn đã có một sự căm hận chính đáng:’The Romantic rebels broke with God; Himself on the principle of hatred’. Cho nên chi hư vô chủ nghĩa không phải đưa tới tuyệt vọng hay phủ nhận chi mô răng rứa mà ý muốn nói đến tuyệt vọng cùng độ và phủ nhận tới cùng –le nihilisme n’est par seulement desssespoir et negation, mais surtout de désespérer et denier. Đó là một đau xót triền miên, một di hận cho thân phận con người, một cái gì như là tha oán để vượt thoát cái luật tắc giết người, do con người đẻ ra luật tắc để kết tội, tất thứ công lý đó là kẻ sát nhân; phạm tội được bao che và khăng khắng cho là công pháp. Nhưng đó là sự thật phủ phàng của con người phải gánh chịu. Vì công pháp đẻ ra luật tắc để rồi Thượng đế cũng là kẻ phạm tội. Theo tư duy của Nietzsche sự thế đó là chấp thuận tại thế và Dionysos là chấp nhận nỗi đau đớn của tự nó. Nietzsche có nói trăng, nói cuội cuối cùng chỉ đồng ý trả một giá rất đắc cho lãnh điạ của ông mà thôi –that to accept this earth and Donysos was to accept his own sufferings and Nietzsche agreed to pay the price for his kingdom. Nietzsche đã đưa ra những kiến nghị cho rằng con người phải được phép tự chính nó là những gì đã nhận chìm trong vũ trụ hư vô như một đặc định tuyệt đối bằng sự lùng kiếm của con người cho cái thần thánh tôn thờ bất tận (enternal divinity). Con người chưa hẳn phải là một chiếm cứ tuyệt đối nhưng chỉ là một điều mong muốn cho lời tiên đoán quả quyết; mà là không phải tất cả những gì đều là thế. Nietzsche ngập ngừng thốt ra:’Đó là những gì không thể tha thứ trong ta. Ta có thẩm quyền và ta có quyền từ nan để ký xuống’ “That is what is unforgivable in you. You have the authority and you refuse to sign” (Zarathustra của F. Nietzsche) Nhưng rồi cũng phải ký nhận và tên tuổi của Dionysos trở nên miên viễn vào cõi cực lạc của hư vô huyền nhiệm. Đây là một cảm thức rõ mực trắng đen cho một phản kháng tư tưởng, phản kháng hư vô; với Nietzsche đó là chặn cuối để vạch trần thói hư tật xấu mà thôi. Khác biệt ở chỗ cái xấu xa, bẩn thỉu là không còn kéo dài cho việc trả đũa con người từ khước Thượng đế. Đó là một chấp nhận mỗi khi con người mong đợi cái gì có thiện tâm với những gì chứng minh được như một phần trong định mệnh. Với trí tuệ ngữ ngôn của Nietzsche, chỉ có vấn đề là thấy được những gì; thời đó là tinh thần cố hữu mà con người coi như là niềm tự hào đứng trước một tuyệt đối hư vô (absolute nihilism).
Rút lại; sự cố đưa tới một cách chính xác là những gì Nietzsche đã thừa nhận tự chính ông như một hiện hữu: một cảm thức nhạy bén, một minh định rõ nét, một tận tụy hết lòng dẫn đến hư vô chủ nghiã để có một phản kháng hư vô khước từ giữa Thượng đế với con người. Bước quyết định đó Nietzsche cho là nỗi bức xúc của phản kháng để có những gì đáng kể trong việc làm; tức nhảy từ nghi vấn duy lý để đến trần tục hóa của ý tưởng. Khởi từ khi có cuộc khởi nghĩa cứu rỗi của con người chớ không phải có từ thành quả của Thượng đế mà ra. Mà đó là một thành quả tiến trình cũa vũ trụ nó bao trùm trong chủ nghĩa hư vô mà ngay chuyện phản kháng nó nằm trong hình thái, trạng huống tâm tư bùng dậy của phản kháng hư vô. Con đường hư vô thế giới không còn dẫn lối đưa đường, con người; từ một phút chốc bất chợt của trạng huống là lúc hư vô bùng dậy, chấp nhận ở đây là phải đối đầu trước vũ trụ là những gì sẽ đưa tới cái tuyệt hảo đúng thể thức của con người (a superior type of humanity). Cái thời chủ nghĩa đã đến gần, trong khi đó chúng ta sẽ phải đấu tranh để khống chế vũ trụ và đây cũng là đấu tranh để tìm thấy một triết thuyết chính đáng. Trong vũ trụ ngày nay Nietzsche muốn tuyên bố như một chứng thực của con người đối diện với hư vô, đấng như-nhiên hiện hữu, bởi; ông báo động bằng một lý luận bên trong của hư vô chủ nghiã và biết rằng phản kháng hư vô là cứu cánh của con người như một quyền lực tối thượng.Và; Nietzsche đã chuẩn bị một lối về như nâng lên một quyền lực thăng tiến. Đó là tự do cho con người không Thượng đế ‘There is freedom for man without God’ (Nietzsche) Là hình ảnh mà ông hướng tới, Nietzsche diễn tả qua một ngữ ngôn khác; ý nói Thượng đế lui về cái của mình, chỉ còn lại ‘nỗi u buồn và đau đớn’ là thế giới của sự thật -thế giới của thánh hóa mà thôi –Only the ‘sad and suffering’ world is true -the world is the only divinity. Nhưng cái gì là / what is trở nên cái gì sẽ là / what will be và không ngừng thay đổi những gì mà chúng ta phải nhận lấy. Cuối cùng ánh sáng cuối hầm mờ dần và vừng ánh dương rồi cũng tàn tạ. Để rồi lịch sữ bắt đầu lại và tự do sẽ tìm thấy trong lịch sử mà lịch sử phải chấp thuận.
Nói cho cùng mâu thuẩn nội tại vẫn quẩn quanh như một nhu cầu đòi hỏi phải có phản kháng để vượt thoát một đoán định giá trị phản kháng hư vô là mong muốn giữ vững nền tự do cho cuộc sống. Thở vào đó một khí hậu bùng dậy, đạp đổ những miệt thị để có một phản định giá trị. Quan điểm này nọ, thế kia chỉ là tư thế của phi lý chủ nghĩa muốn hoành phá hư vô chủ nghĩa bằng một tuyệt đối xác thực. Quả thật điều này không thể hình dung được. Mọi thứ triết học về lẽ vô nghĩa, về lẽ vô lý đều tồn-lại trên mối mâu thuẩn giữa có tồn-lại và không có tồn-lại là nghĩa của phi lý chủ nghĩa đề ra ; tồn-lại của phản kháng hư vô là thực chứng của đòi hỏi, yêu cầu là sự sống cần có cho tự do.Vậy thì; một lần nữa Phản Kháng Hư Vô ít ra đem lại một tối thiểu mạch lạc liên hệ của con người với con người. Phản kháng hư vô xô chúng ta vào trùng trùng duyên khởi, trùng phùng duyên ngộ để hàn gắn những đổ vỡ nội tại và xác định thái độ cho một đoạn trường ngấm ngầm trước gò đống, hỗn mang của một chế độ thoái trào. Hiểu được, nhận được thì phản kháng vô hình không còn chi là tuyệt đối phi lý,vì; phá vỡ để có một thực tại hiện hữu cho phản kháng hư vô.
30/11/2014
Võ Công Liêm
Theo https://vietvanmoi.fr/

Krishnamurti tâm thức vô sư

Krishnamurti tâm thức vô sư

Tâm thức vô sư không đơn thuần như ta định nghĩa; đó là thuật ngữ nhà Phật nói lên cái tâm như vô lượng, vi diệu pháp, không chấp trược, vô ngại để đạt tới Chân Không.
Jiddu Krishnamurti* nhận ra được cái tâm thức thoát ly tri kiến giữa trí tuệ và tâm thức, một trí tuệ Bát Nhã và một tâm tĩnh lặng để chống lại mọi ngụy trá giữa cuộc đời này mà con người là nạn nhân của sự hủy diệt cũng nhờ vào đó mà phát hiện ra được một tình yêu chân chính, một sự khai ngộ vượt thoát với thực tại trong mọi hoàn cảnh. Những kinh nghiệm và tu tập của Krishnamurti là tương ứng kinh nghiệm toàn mãn mà con người có thể đạt được.
Trên đường thuyết giảng của Krishnamurti là thiết lập một hệ thống tư tưởng quay quanh trong một tiêu đề ”vạn vật đều vô thường” cho nên cần có một tinh thần vô sư giữa con người với vũ trụ trong trạng thái an nhiên tự tại của thiền định(meditation). Krishnamurti nói: “…thiền định là một trong những nghệ thuật cao qúi nhất của cuộc sống”.
Bản thân của Krishnamurti là truyền đạt tâm thức vô sư giữa người với người và mọi thay đổi của xã hội, chỉ có thể xẩy ra khi có sự chuyển hóa ý thức. Chân lý sâu sắc của ông là không dựa vào bất cứ tôn giáo, triết lý hay một tông phái nào mà trong đó có tính chất hình thức. Ông xây dựng lý thuyết trên căn bản của vạn vật đồng nhất đều nằm trong “cõi không” đó là chân lý mà Krishnamurti truyền giảng cho nhân loại. Ông phủ nhận mọi giáo điều, tôn vinh hay nhận một tước vị nào cho cá nhân ông và cũng không bao giờ dựa trên một quyền lực nào để hình thành một triết lý siêu việt như thế! Cái nhất tâm của ông là đưa thính chúng đến gần với tình yêu, một tình yêu vô biên, vị tha để cảm thông giữa người với người. Điều quan trọng trong những lần thuyết giảng, ông hướng tới một minh triết trong đời sống và nhìn nhận sự thật của cuộc sống đó là sống thực với chính mình kể cả hai bề mặt ngoại vi và nội tại. Hai mảng nầy đã tạo nên sự đối kháng bởi vì không một học thuyết hay một hệ thống nào dẫn đến chân lý tuyệt đối…
Krishnamurti đã phân tích tâm thức nầy giữa ý thức và tiềm thức, trong và ngoài của con người vì mỗi khi mình cảm nhận được mọi hoạt động thì đó là hữu thức còn tiềm thức là một cái gì sâu lắng trong tâm hồn mà không bắt nắm được thì đó là vô thức mà chỉ gây nên bởi trực giác của ý thức mà thôi. Do đó tâm thức vô sư của Krishnamurti là một tổng hợp giữa trí tuệ, cảm giác và hành động. Để tránh mọi đau khổ, phiền não con người cần phải vượt qua những siêu lý, siêu nhiên trong đời sống thường ngày, phải thừa nhận một điều là vạn-vật-vô-thường, tạm bợ, có không, khôngcó, bởi vạn vật không có tự tính vì tự tính được định nghĩa như là “sự có” làm ra cho một vật nào đó; chính tự nó và cũng chẳng giải thích được thế nào là đau khổ, thất vọng mà chúng sinh phải gánh chịu liên tục hằng ngày.
Krishnamurti xuất thân từ Ấn độ, tất phải ảnh hưởng đôi phần những giáo phái và đa diện màu sắc tôn giáo của xứ ấy; ông phủ nhận mọi giáo điều của tín ngưỡng mà chỉ qui về với nguyên thủy như cái ngã-siêu-nghiệm mà tôn giáo đối với ông như cái ngã-kinh-nghiệm được dựng nên.
Triết lý của Krishnamurti không chấp nhận sự khác biệt giữa bản chất và hiện tượng vì hai đối tượng nầy chính là một, vô hình chung nó trở thành thuyết nhị nguyên ngược lại tự nó đồng nhất là một; nghĩa là không có cái nầy mà cũng không có cái kia. Ông nhấn mạnh nhiều lần mỗi khi thuyết giảng là mang lại cho thính chúng cái tâm vô lượng chúng sinh một tâm thức về Thiền định như là chuỗi hiện tượng vượt thoát ra khỏi con người để làm sao con người đạt đến chân tâm. Triệt tiêu bản ngã tự tại để đi tới chứng ngộ của trí tuệ (prajna) như giáo lý nhà Phật. Ông xoáy quanh về vấn đề thiền định để đưa con người đến toàn thiện toàn mỹ và làm quen với chính mình, tìm hiểu được cái ngã và tìm thấy ta là ai và cái gì cấu thành cái Tôi (le moi/self) khi vượt thoát ra khỏi mọi chiều kích, hình tướng đó là mức độ kinh nghiệm trực tiếp mà không qua một sự nẩy nở nào mà ngoại giới đứng ra làm trung gian. Đó là ngoại vi giữa đối tượng quan sát và đối tượng được quan sát. Hai đối tượng nêu trên nằm trong trục: hiện tại, qúa khứ và vị lai. Vậy để được giải thoát mọi đau khổ, phiền não, cô độc…chúng ta có thể tìm thấy chân lý rõ ràng chỉ khi tâm hồn trầm lắng để nhận thức và chỉ có thiền định mới có khả năng sáng suốt soi rọi cái tâm thức vô sư ấy. Mục đích của thiền định là giải thoát mọi ưu tư,trút bỏ mọi gánh nặng thì lúc đó mới thực sự yên tĩnh. Thiền định theo quan niệm của Krishnamurti là không phải sự tập trung mà cần đến một tâm thức hoàn toàn thức tỉnh và cũng không phải sự kềm nén suy nghĩ vì bị kềm nén sẽ sinh ra xung đột với tâm linh. Chính sự thấu hiểu đó là kết cấu bởi tâm niệm, ấy là thiền định. Nó còn có tính chất ý thức trí tuệ đại giác và cảm xúc từ hai trạng thái đó thì tĩnh lặng sẽ xuất hiện. Khi đó tâm hồn hoàn toàn tự do và thiền định thoát ra khỏi mọi vọng niệm khác (meditation is the ending of thought).
Thiền theo ý nghĩa của Krishnamurti vẫn được coi là một thứ nghệ thuật vĩ đại mà chính mình không học hỏi từ bất cứ của ai; nó tự có. Đó chính là cái tuyệt hảo của thiền (meditation is one of the greatest arts in life; perhaps, the greatest, and one cannot possibly learn it from anybody. That is the beauty of it…)
Jiddu cho rằng thiền được thực hiện trong mọi hoàn cảnh dưới mọi hình thức chứ không nhất thiết cố hữu; thì lúc đó tình yêu thực sự bộc phát và mất đi tánh-tự-tại của cái ”tôi”. Tâm hồn tĩnh lặng khi thấu triệt được sự vận động của chính nó dưới dạng thức của tri giác và cảm giác.
Trong hơn bốn thập niên đi rao giảng chủ thuyết đại giác khắp thế giới. Krishnamurti chỉ nêu lên một chân lý tối thượng về tánh không giữa sự sống và chết, chỉ có một nguyên lý duy nhất là KHÔNG; bởi không còn gì ngoài chữ VÔ, vô khứ vô lai, vô có nghĩa là không sinh khởi bất cứ điều gì. Chỉ còn lại sự im lặng tuyệt đối của tánh không và ý thức là nơi mà mọi suy nghĩ được vận hành, cảm nhận…và hoạt động hằng ngày đều thuộc về hữu thức.
Sự khai mở nầy hiện diện bên trong đồng thời được giả định bởi mọi hình tướng cụ thể. Ông cho rằng khi tâm thức ở vào trạng thái có thể nhận biết được sự khai mở của hiện thể, mọi hành động sẽ phù hợp với sự khai mở vì thực thể được lưu tâm đến. Krishnamurti xóa bỏ mọi vọng niệm, mọi học thuyết, tất cả đi vào cõi không; chỉ còn lại cái tâm là chính, tâm nằm trong niềm tĩnh lặng và nhờ đó nhận thức được lẽ sống đó là kinh nghiệm mang đến cảm thức về sự độc lập, tự do, về con đường sinh tử giải thoát toàn bộ chức năng của tâm thức vô sư. Bởi kinh nghiệm đó là phó sản của qúa trình buông xả. Từ đó quán xuyến được trạng thái vô úy không còn sợ hãi nào cả. Chính nhờ vào sự vô úy mà ta có thể bao dung rộng lượng và thừa hưởng được bầu không khí của yêu thương vô-lượng-chúng-sinh, không xung đột giữa cái nầy với cái kia.Trạng thái nầy Krishnamurti cho đó là một sự tự do vô biên. Mà đây là một kinh nghiệm phóng vượt, phóng vượt ở đây không có nghĩa vượt qua thế giới hiện tại đến một thế giới xa xăm nào khác mà có thể nói như ta vừa ”ở đây” nhưng ta đã “ở cõi kia” rồi.
Năm 34 tuổi Krishnamurti chối bỏ mọi tôn vinh, từ chối mọi vọng niệm bởi ông cho rằng tất cả mọi chân lý đều đi tới hư vô. Ông khước từ mọi qui luật cố hữu, không đệ tử, không cư trú mà chỉ mang một tâm hồn tĩnh lặng và trực diện với thực tại.Ông cho rằng con người sở dĩ đau khổ, phiền não đó là dục vọng không ngừng xẩy ra giữa chúng ta; để thoát khỏi tình huống đó điều còn lại là giữ được cái tâm tĩnh tức gạt bỏ mọi vọng niệm, vì sự tĩnh lặng ở đây không phải là sản phẩm của tâm hồn im lặng, không phải là sản phẩm của tế bào não, khi đó các tế bào não tạo ra sự im lặng và sự im lặng đó không phải là sự tĩnh lặng thực sự.
Trong suốt cuộc hành trình thuyết giảng, Krishnamurti đã nhiều lần từ chối chức phẩm đạo sư vì ông cho rằng bậc đạo sư có thể qua nhiều lãnh vực ngoại tại hay nội tại. Chúng ta có thể thấy đạo sư hiện ra dưới mọi hình thức khác nhau. Nếu quan niệm đạo sư một cách rộng rãi như thế ta mới biết rằng bao giờ cũng có một người nào đó chỉ lối đưa đường hoặc thách thức tâm thức ta. Và đó chính là tâm thức vô sư mà Jiddu Krishnamurti nhận ra được trong ý thức siêu việt của nó. Thì lúc đó sự phân biệt giữa người và người không còn nữa, đồng thời cảm thức về một sức mạnh vô biên. Người Ấn độ nói “cái biết” và “cái được biết” vốn như nằm trong cùng một bình diện, cả hai cùng một tiến trình mà qua đó sự phân cách sơ thủy giữa bản ngã siêu nghiệm và bản ngã thường nghiệm…
Từ đó biến Krishnamurti trở thành khách thể của đối tượng thính chúng và qui vào cái gọi là hiện tượng Krishnamurti thời bấy giờ. Bởi vì lý thuyết về tri thức của ông đã đưa chúng ta tới với hiện hữu và biến thành tâm thức vô sư giữa chủ thể và tha thể. Tâm thức đó là một trạng thái hiện hữu, trực tiếp hướng đến một đối tượng ước vọng mà Krishnamurti luôn luôn mong cầu trong dạng thức tĩnh lặng của việc thiền định.
Tóm lại; quan niệm triết lý tư tưởng của Krishnamurti là nói lên lẽ vô thường, một tâm hồn thanh tịnh vị tha và nhân ái trong qui trình vượt thoát khỏi mọi ràng buộc, đau khổ và phiền não , thoát ra khỏi những định kiến cố hữu mà xưa nay nằm trong cõi vô minh. Ông cho rằng: nếu thế giới nầy vỡ vụn thì mối quan hệ của chúng ta với thế giới cũng vỡ vụn. Nhưng nếu chúng ta hành động trọn vẹn và hoàn hảo thì mối quan hệ giữa ta với thế giới trở nên thế giới đại đồng của nhân loại.
Krishnamurti đánh giá những bài thuyết giảng của ông đưa thế giới loài người nhận thức được ý niệm VÔ tức cõi không trong một tâm thức tĩnh lặng của thiền định thì mới mong giải thoát được những gánh nặng khổ đau sinh tử dù trong hoàn cảnh nào của mọi lứa tuổi. Từ việc thay đổi bản thân, người ta cũng có thể thay đổi được cuộc đời và vượt qua mọi quẩn bách của hiện tại, qúa khứ, và vị lai để có một tâm thức vô sư đồng thời chứng nhân cho cuộc đời này có được một hạnh phúc vĩnh cửu; đó là đấng thượng đế hằng sống.
Chú thích:
*Jiddu Krishnamurti (1895-1986) sanh ở Ấn Độ và chết tại Mỹ (USA). Để lại 60 bộ sách về đạo làm người.
3/12/2023
Võ Công Liêm
Theo https://vietvanmoi.fr/

Heidegger (IV) - Nguồn gốc của tác phẩm nghệ thuật

Heidegger (IV)Nguồn gốc
của tác phẩm nghệ thuật

Ngỏ: Đây là một trong những luận đề triết học của Martin Heidegger (1889-1976). Một trong hai tiểu luận đáng chú ý: Hiện Hữu và Thời gian (Being and Time -1927) và Nhiệm vụ của Suy nghĩ (The Task of Thinking-1964). Trong đó: ‘Nguồn gốc của Tác phẩm Nghệ thuật/ The Origin of The Work of Art ’ (1956) được xem là tiêu biểu nhất trong bộ môn văn học nghệ thuật thuộc triết học. Dựa trên cơ sở lý luận của M. Heidegger để thành hình bài đọc hôm nay với một cảm thức về tất cả tác phẩm nghệ thuật và trong tất cả cảm thức mà Heidegger đã đưa ra như một thứ ngữ ngôn của nghệ thuật (the language of art) với một tư tưởng hào phóng và tràn ngập ánh sáng… (vcl)
Gọi là nguồn gốc cho có chứng cớ chớ kỳ thực hiện hữu của điều này là những gì nó là (it is) và coi như nó là (as it is). Vậy thì như nó là/ as it is là nghĩa gì? Cái sự đó gọi là thực chất/ essence là điều cốt yếu mà trong nghệ thuật làm được mới là cần thiết. Nói chung là chú ý tới gốc ngọn của tác phẩm nghệ thuật, nó như là nó có từ đâu và đến từ đâu mới thành hình cái nguồn thực chất của nó (its essential source) trong tác phẩm; chớ khơi khơi gọi là tác phẩm nghệ thuật (the work of art) là tự cho mình làm nên nhưng nó là vô nghĩa, bởi; cái vô nghĩa ở tự nó (itself) và lộ cái bản chất tự tại của người nghệ sĩ. Nhưng; phải biết rằng người nghệ sĩ là ngọn nguồn của tác phẩm –The artist is the origin of the work và tác phẩm chính là gốc của người nghệ sĩ –The work is the origin of the artist. Điều ấy không những chẳng phải mà cho những thứ khác. Tuy nhiên; không phải thế mà đưa vào đó cái việc duy nhất muốn nói đến. Tự thân trong sự tương quan của người nghệ sĩ và tác phẩm đã chứa ở đó một nhân phẩm cao qúy là vai trò đóng góp vật thể hạng ba; chính ba nhân tố này đem lại một giá trị tuyệt đối giữa tác giả và tác phẩm. –each of them by virtue of a third thing, là bề mặt của những gì nơi người nghệ sĩ và tác phẩm mới được gọi là nghệ thuật –that which also gives artist and work of art their nanes – art. Thời tất tác giả và tác phẩm là đúng nghĩa cho một thứ nghệ thuật chân chính. Là vì; trong vai trò sáng tác của người nghệ sĩ qua những ký hiệu biểu tượng là đưa vào đó một dàn dựng cơ cấu (framework) với tất cả luồng tư tưởng trong tác phẩm là những gì cảm nhận rõ ràng bằng cách khác, là những gì có vấn đề của vật thể đầy ấn tượng (thingly) trong tác phẩm nghệ thuật (artwork). Và; chưa hẳn phải là nét đặc trưng trong tác phẩm, cái sự đó người nghệ sĩ phải làm nên một cách thích đáng bởi đi qua bút mực hay khéo léo mà làm nên? Đấy là điều dự tưởng mà thôi; tác phẩm nghệ thuật thành hình từ trong trí tuệ của người nghệ sĩ, họ thách đố với vận mệnh để tác phẩm có một giá trị riêng biệt. Mục đích của chúng ta là đạt tới ngay tức khắc và chứng thực một cách đầy đủ của tác phẩm nghệ thuật, chỉ có cách đó sẽ đem lại cho chúng ta một khám phá mới tức thời trong nghệ thuật và cũng là những gì có trong đó –Our aim is to arrive at the immediate and full actually of the work of art, for only us this way shall we discoer actual art also within it. Đấy là điều chúng ta muốn nói đến cứu cánh đem lại mục đích cho việc sáng tạo nghệ thuật, điều mà chúng ta không ra khỏi ‘qui ước’ của nghệ thuật. Nghệ thuật nói chung kể cả thi văn hay điêu khắc là bộ môn đầy ấn tượng để làm nên tác giả, tác phẩm. Một vị trí nhất thể để thực hiện ngọn nguồn thực chất của nó trong tác phẩm là định vị được vai trò người ‘làm’ thơ, làm văn, cũng như điêu khắc hay hội họa là trút bỏ thế giới bên ngoài mà lồng vào đó thực chất của sự kiên (in-fact) mới đúng nghĩa cho một tác phẩm mang tính chất sáng tạo của nghệ thuật. Thí dụ: nhà văn H.H. chuyên viết về nhận định thi/văn của mỗi tác giả. Văn nhân H.H thường mang nặng tính chất kể lể hơn là bình giải giá trị đích thực của tác giả và đi ngoài những gì được bày tỏ trong thơ hay truyện. Suốt hành trình viết văn chỉ viết lên cái vu vơ, cái không cần viết làm hư hại một thứ văn chương viết và đọc. Thành ra vai trò người viết hay làm thơ nói chung là người nghệ sĩ phải biết mình là ngọn nguồn của tác phẩm và tác phẩm là gốc ngọn của người nghệ sĩ thời mới được gọi là nghệ thuật/art còn bằng không đó chỉ là một sự bày vẽ mà thôi; nó chẳng có một giá trị đích thực nào cả. Làm thơ cũng thế nó đòi hỏi cái ‘chân như’của thi ca mới là sáng tạo, chớ in ấn thơ thời gọi đó là tác phẩm thơ. Dzỗm!
Vì thế việc đầu tiên chúng ta mang lại cái nhìn là vật thể, yếu tính đặc trưg của tác phẩm; mà trong Basic Writing của Heidegger đả nói đến –Hence we must first bring to view the thingly element of the work. To the end it is necessary that we should know with sufficient clarity what a thing is; đấy là việc cuối cùng là sự cần thiết, là những gì chúng ta biết tới và nói rõ vấn đề điều gì muốn nói tới. Không còn gì hơn những gì chúng ta muốn nói đến trong tác phẩm nghệ thuật và những gì tuân thủ để chúng ta đạt tới mục đích, có thể cho chúng ta một quyết định đích thực của vấn đề là chứa đầy đủ yếu tố để thành hình tác phẩm. Heidegger dùng chữ ‘thing/ sự vật’ có nghĩa rằng những gì người ta làm (viết) và suy nghĩ là hành động, là tình huống, là thứ cần biết tới giữa vật thể tác phẩm (Thing Work). Vậy thì cái gì chân như là vật thể coi như sự đó là vật thể? –What in truth is the thing, so far as it is a thing? Cứu cánh tức mục đích của chúng ta là tìm tới để biết cái nghĩa lý hiện hữu vật thể / thing-being tức hiện hữu vật thể là vật thể (thingness). Chủ đích là khám phá cái vật thể đặc trung (thingly) đó là vai trò, chức năng của vật thể. Cuối cùng chúng ta phải biết tới ở chính mình với cái không thuộc về mình mà tất cả những gì ở đây là một thực thể thuộc về những gì trong đó mà chúng ta quen gọi là sự vật – to this end have to be acquainted with the sphere to which all those entities belong which we have long called by the name of thing. Quả vậy; cuộc đời chúng ta đang sống dưới ‘sự vật/thing’ là một hiện diện đích thực. Dẫn một vài ví dụ: Đát , sạn, cát trên đường là sự vật tợ như cục đất trong cánh đồng. Nhưng; những gì nói về sửa uống đựng trong chai hay trong hộp giấy và nước trong đáy giếng có gì khác không? Những thứ đó là vật thể. Lá mùa thu, con diều hâu bay qua cánh rừng đều gọi là sự vật. Nói chung tất cả đều là những thứ vật. cho dù những thứ đó không phải, nhưng; đó là chứng cứ cho vật thể đã được liệt kê ở tự nó, dù rằng những thứ đó không hiện ra thời chúng ta gọi nó vật-thể-ở-tự-nó / thing-in-itself. Trong ngữ ngôn triết học cả hai thứ sự-vật-trong-chính-nó / things-in-themselves và sự-vật-hiện-ra / things-that-appear; cả hai là hiện hữu, nói chung là vật thể. Cho một ví dụ khác: Tàu bay, máy truyền thanh (radio) là hiện vật ngày nay gần với chúng ta, nhưng; khi chúng ta nghĩ trong đầu thì đó là vật thể, nhưng; cái này khác cái kia. Ngay cả cái chết cũng được coi là sự thể (thing) chớ không khác gì hơn giữa sự thể và vật thể. Ở đây được xem là chỉ định từ bất luận là gì, ấy là điều không phải giản đơn, nó có một liên đới lẫn nhau trong hiện thể của sự vật, Trong cảm thức tác phẩm nghệ thuật cũng gọi là vật thể, nói xa, nói gần vật thể có nhiều loại của hiện hữu (sort of being) những gì nêu ra đây là phân ranh một cách thực thể, sự đó gọi là mô thức hiện hữu của sự vật (the mode of being of a thing) là ngược lại những gì cho là mô thức hiện hữu của tác phẩm (the mode of being of a work). Vạn vật trên cõi đời này là vật thể. Nhưng nhớ cho: Con người không phải là vật thể / A man is not a thing. Nói chung, tất cả mọi hiện vật là vật thể; ngay cả vật thể thuộc thiên nhiên được coi như vật thể được đặt tên. Thế thôi! Nhưng; phải hiểu sâu sắc cái từ ngữ ‘thing / vật thể’ là mang lại cho chúng ta một lãnh hội có từ một phạm vi rộng lớn trong tất cả những gì đều là vật thể hiện hữu (thing=res=ens=a thing) bao gồm những vật thể trội hơn hay ít hơn. Ngoài ra trong cái nghĩa hạn hẹp của hai chữ ‘mere things’ mà Heidegger nêu ra mang khía cạnh gì? Tác giả muốn nói rằng ‘nó chỉ là vật thể / mere thing’ không có gì khác hơn. Nó chỉ là ở đây có nghĩa trước hết/first là vật thể nguyên trạng, một vật thể giản đơn của sự vật mà trong đó chỉ nói lên sự vật mà thôi chớ chẳng phải là chi cho thêm rườm rà. Cái sự đó chúng ta có thể cho là cảm thức thích đáng, hợp lý (proper sense) một cảm thức về sự vật là cảm thức từ trí tuệ mà ra.
Vật thể? Sao gọi nó là vật thể, bởi ở chính nó là ‘vật thể/thingness’ mà ngay trong đầu của chúng ta đã thừa nhận nó là vật thể. Hẳn nhiên; điều đó không giản đơn bởi những gì nêu ra là một tổng thể phát hiện. Vật thể như người ta đã biết đến là những gì vây quanh trong một vị trí đã được sắp xếp và định vị cho vật thể này, vật thể nọ trong một cảm thức khác nhau, Tuy nhiên điều chúng ta nói là một nối kết vào nhau giữa sự vật và vật thể, tựu chung nó là cốt tủy của nó. Hy Lạp cho rằng sự thể như thế được gọi là hypokeimenon / hypotasia /thực thể là một sự đặt tên. Đối với sự kiện thì đây là cốt tủy của vật thể đã đặc nó dưới dạng thức của cái này, cái nọ hay còn gọi chung trong một từ ngữ khác của symbebêkota / symbolize / đặc trưng hay còn gọi là biểu tượng của vật thể (thingly) là những gì liên đới vào nhau hoặc dựa vào hình tượng để đặt tên. Qua kinh nghiệm cơ bản của Hy Lạp (Greek) hiên hữu của hiện hữu nằm trong cảm thức của hiện tại –the Being of being in the sense of presence. Thế nhưng điều đó được diễn giải về vật thể một cách rõ ràng không còn chi để ngờ vực về những gì đã thành lập và hiện diện từ rày cho tới về sau như một tiêu chuẩn cố định. Hiểu được nó tức lãnh hội vật thể một cách rõ ràng và cho ta một phân định vật thể ở trong vị tri nào và ngoài vị trí nào. Tựu chung dưới dạng thức việc đặt tên là đúng hiện thể của sự việc. ‘Thing’ không còn là vấn đề mà điều kiện ắt có và đủ như một định hệ cố hữa giữa sự sống và sự chết, giữa Thượng đế và Con người đều nằm trong vật thể sinh ra; không thể chủ quan về điều này mà hiểu cho hiện hữu của hiện hữu là nằm trong cảm thức của hiện tại, là sự cố như đã định. Chúng ta không còn hoài nghi mà thừa nhận sự hiện diện của thượng đế và con người là dây chuyền kết nối giữa có và không giữa hư và thật là một hiện diện thực thể. Cho nên chi khi gọi vật thể để xác định sự việc là chính ta có mặt trong đó như một hiện vật. Một qui trình lớn dần trong tư tưởng để cho tư tưởng phát tiết; nó cô đọng trong cốt tủy tự nhiên để thành hình vật thể Vậy gọi tác phẩm là gì? Nó là vật thể đã được sáng tạo trong một tâm thức bừng dậy. Hai chữ ‘khơi khơi’ được dung ở đây là ý niệm của vô thừa nhận, vì nó mang nặng hình tượng cá thể hơn hình tượng vật thể. Giá trị vật thể biến mất là hành động phá hủy một tư duy muốn nói tới. Vậy thì điều gì cho là hiển nhiên, minh bạch, sáng tỏ hơn hẳn những gì mà con người hoán chuyển hay thay ngôi đổi vị để đề xuất hướng đi của người khác ? Để hiểu rõ thế nào là những sự vật trong cùng một cấu trúc thiết kế về vật thể ở chính nó –What could be more obvious than that man transposes his propositional way of understanding things into the structure of the thing itself? Đó là câu hỏi đưa ra. Chúng ta phải xác quyết vấn đề thực hư, chúng ta không tự-đối-thoại mà bày tỏ là sự thể hiển nhiên (obviousness) là chứng cớ muốn nói tới giữa vật thể và con người như một vai trò xác quyết. Vấn đề như đã nói là trong những gì đến đầu tiên và chức năng của vật thể được coi như tiêu chuẩn.
Cấu trúc định vị (proposition-structure) hay cấu trúc vật thể (thing-structure) là hai vị trí cho ta một xác quyết vấn đề giữa cấu trúc định vị và cấu trúc vật thể Cho dù để lại đó một sự nghi ngờ liệu trong thể thức vấn đề là nằm trong tất cà có thể quyết định được –It even remains doubtful whether in this form the question is at all decidable. Thực ra vị trí của vật thể là nguồn gốc xuất phát từ trải nghiệm trong cuộc đời, nó được úng dụng trong nhân gian để được đặt tên cho vật thể dưới những gì mà con người nhận ra. Con mèo mun là con mèo đen. Con quạ là đen như một thực thể vì rằng không có con quạ trắng, mỗi hiện thể là một quyết định chớ không thể ‘khơi khơi’ ví von ‘cá gáy hóa rồng’ ngay cả việc nhân cách hóa cũng phải ở trong một cảm thức thích đáng của ‘proper sense’ mới hợp lý. Còn đặc điều nói tầm bậy là sai trái.
Heidegger nói đến những gì có thể nhận thức hay cảm thụ được, bởi; cảm nhận được (perceptible) trong cảm thức (sensation) là tùy thuộc vào một sự nhạy cảm của nó (sensibility). Heidegger cho đó là aisthéton là sự vật cố định (The thing) trong vấn đề ông nêu ra, cho dù lý luận triết học, nhung, đó là một cảm nhận thực thể giữa [thingness] và [thing] để cho ta phân biệt giữa thực hư trong một hiện thể thực tại.
Giờ đây diễn giải thực thể của sự vật cố định là được xem như việc làm đúng đắng và có thể chứng minh trong mọi trường hợp như thời gian trước đây. Thực ra đây là chứng cứ làm thỏa mãn để nhìn vào sự thật của nó về những gì thuộc thực thể và những gì thuộc vật thể; trong hai cơ bản lý luận nó mang tính chất bao hàm của hiện vật được sắp xếp theo thời gian, nó có một định hướng nhất thể trong vai trò sống thực và giả tưởng là điều có thể nghĩ ra một cách khác gần như một liên kết để cấu tạo của material và forma để rồi đặc niềm tin vào đó qua lý thuyết triết học mà tất cả sự thật nằm trong một nơi không mấy quan tâm của những gì hiện hữu mà người ta đang đặc niềm tin. Nó rơi vào thế chẳng đặng đừng. Để đả thông tư tưởng một cách sáng tỏ và chí lý về nguồn gốc của tác phẩm nghệ thuật, nó cô đọng trong cốt tủy ‘thực chất’ một thực chất sống thực mới làm nên lịch sử, một tác phẩm lịch sử là tác phẩm có tính nghệ thuật, là ‘thingness’ là vật thể được lưu truyền, chớ ‘dựa hơi’ hay ‘cốp-pi-cat’ để thành hình cho một tác phẩm thì việc đó không thể cho ‘the origin of the work of art’ bởi; nó không phải là gốc ngọn của sáng tạo. Thí du: Gần đây một số văn nhân viết và đọc chuyện xưa, chuyện đã đi qua mấy tkỷ hoặc những năm gần đây, lập lại hoặc thêm mắm thêm muối tợ như dựng chuyện qua nhiều kỳ (1,2,3…), cái đó là ‘feuilleton/serial’tạo một thứ quảng cáo không tiền; vô bổ. Việc đó tợ như ‘khổ quá nói mãi’ là bệnh lý trong thể thức viết và đọc cho một tác phẩm. Đòi hỏi duy nhất của thingness và thing là điều đặc biệt để làm nên Tác phẩm Nghệ thuật / the Work of Art; ấy là cơ sở có luận đề. Ở kỷ nguyên này lấy văn chương khoa học làm cốt tủy, đáng được đề cao, trao giải là thực chất của vật thể / thing, nhưng; liệu có thực hiện được hay không ?
Tuy nhiên; bằng một sự giới thiệu vừa đủ ở tự nó thời tác phẩm nghệ thuật là đơn giản hóa vấn đề hơn những gì cho là ’nó chỉ là vật thể/mere-thing’, nó chỉ là phát triển tốt cho chính nó và tự chất chứa lấy nó –However; by its self-sufficient presencing the work of art is similar rather to the mere-thing which has taken shape by itself and is self-contained. Thế nhưng; chúng ta không thể thừa nhận tác phẩm được gọi là ‘mere-thing’, bởi; nó không đáng ‘chỉ là /mere’ chớ đừng nói nó là vật thể của tác phẩm. là vì; nó thiếu đi cái lợi ích tối thiểu ở tự nó của tác phẩm nghệ thuật (artwork) nghĩa là tác phẩm nghệ thuật trở nên thực trong trí của người nghệ sĩ và nó nằm trong trí người nghệ sĩ –The work of art becomes real in the mind of the artist and it stays in the mind of the artist. Đó là sự thật ‘chân như’ của người làm văn nghệ. Công Tôn Long triết gia Trung Quốc nói:‘Ngựa trắng không phải là ngựa’.Ông phủ nhận một hiện thể sống thực? Hiện thể sống thực là sự vật (thing) của vật thể (thingness). Vậy thì vật thể chưa phải là hiện vật như ta nhận ra. Công Tôn Long đưa chúng ta vào thế giới hoài nghi, thế giới không có thực. Heidegger đưa chúng ta vào thế giới mù tăm giữa vật thể và sự vật. Bởi; cả hai cho ta một xác quyết thực hư giữa có và không, giữa không và có để nhận ra thực trạng hay đây là một ‘negativeness’ một khước từ tương xứng (negative equity). Quả vậy; những gì lý giải về ‘sự vật/thing’ với cái nghĩa ‘vật liệu/matter’ và ‘hình thành/form’ là hiện vật để thực hiện tác phẩm (hội họa) hay xem đây là lời lẽ ví von gián tiếp vào hiện vật giữa vật thể và sự vật. Hay nó để lại cái gì xưa ngàn kiếp (medieval) mà truyền lưu cho tới bây giờ hay coi đây là dự tưởng theo lý thuyết ‘Kantian’ hay nó trở nên chiều hướng và tự chứng cứ (self-evident). Nhưng; cho dù dưới lý do gì đi nữa, không có gì là ít lợi ích để chúng ta chú ý tới vật thể và sự vật, nó xâm lấn vào những gì về hiện hữu vật thể (thing-being) đấy là điều chúng ta đặc vấn đề cho hôm nay.
Vậy cho nên chi mô thức được xếp vào hạng ba trong vật thể đã được diễn giải cụ thể vai tró và chức năng với hai điều kiện hiện thể của vật thể và sự vật, tưởng như gần nhau nhưng hoàn toàn khác biệt, những gì có ở đó là dẫn đến vấn đề hình thức cấu trúc, vô hình chung là một sự công kích vào vật thể. –Thus; the third mode of interpretation of the thing, that which follows the lead of the matter-form structure, also; turn out to be an assault upon the thing . Định kiến là phản ảnh cái buộc miệng, buộc mổm những gì là Hiện hữu’ của bất cứ những gì đã thừa nhận là hiện hữu. Những gì đến lúc này cho một ý niệm vật thể là điều mà người ta nghĩ để hướng tới việc làm có tính cách ấn tượng (thing) của hiện vật, và; chính tất cả điều đó là nhìn tới công việc trong vai trò xây dựng tác phẩm, ngoài ra đây là công việc tợ như sự cố diễn ra một cách rõ ràng. Chúng ta phải quay về phía hiện hữu, nghĩ về nó trong cái quan tâm đến Hiện hữu của nó, nhưng; nghĩa lý của việc nghĩ đến ở cùng một lúc là đem lại một sự nương tựa ở chính nó trong cái gọi là phẩm chất của chính mình –We ought to turn toward the being, think about it in regard to it Being, but; by means of the thinking at the same time let it rest upon itself in its very own essence. Cái quan trọng để lãnh hội là chúng ta phải hiểu lấy nó như một thực thể đã có mà đồng điệu vào với Hiện hữu như một thực chất cần có trong tác phẩm nghệ thuật, bao hàm giữa vật thể (thingness) và hiện vật (thing) Cả hai đóng vai trò hết sức đặc thù và ấn tượng để hoàn thành sứ mệnh văn nghệ trong tác phẩm nghệ thuật. Những gì của vật thể của hiện vật là một suy tư hết sức đặc biệt, điều đó khó khăn để bày tỏ và rất ít khi diễn cảm sai lầm cho một chứng từ bởi lịch sử, sự diễn giải về nó như đã trình bày. Ghi nhận lịch sử chép lại một cách trùng phùng (coincides) hợp với tư tưởng Phương Tây mà cho đến nay vẫn nghĩ Hiện hữu là của hiện hữu. Ấy là điều khó lý giải vật thể (thingness) và sự vật (thing) trong lúc này. mà; Hiện hữu (Being) là sự thể tự nhiên giữa thượng đế và con người. Còn hiện hữu ở đây là trực diện với sự vật như đã có. Giữa hai sự kiện đầy ấn tượng của vật thể và sự vật đã làm xáo động tư tưởng qua từng thời kỳ trước đây. Tuy nhiên; không những chỉ coi đây là việc làm để thiết lập một điều gì nhứt quán mà coi đây là mục đích chính đáng trong việc nhận thức về sự vật hay vật thể. Ngược lại chúng ta khám phá đầu mối trong tiến trình lịch sử ngày nay. Đây là điều chắc chắn rõ ràng của sự vật và vật thể là nguồn gốc có từ diễn giải của những gì thuộc trang bị, một thứ trang bị hiện hữu –the equipmental is being of equipment. Chính sự trang bị nó đến trong hiện hữu xuyên qua những gì con người làm nên., cái xích mắc, cái giây chuyền đó là hệ gia đình trong tư duy con người (human thinking) Thế nhưng, diễn giải cho ‘trọn gói’ là một công phu, huống là tác phẩm nghệ thuật có gì trong đó (?). May ra nhờ Jacob bắt thang lên hỏi ông trời mới mong sáng tỏ. Đó là chuyện hôm nay. Điều cần lưu ý giữa cái từ mà Heidegger gọi as it is / như nó là không giống như cái từ thường dung as is , bởi; hai nghĩa khác nhau hoàn toàn. ‘as it is’ như đã dẫn ở trên còn ‘as is’ nghĩa: như-thế-đó, có sao chịu vậy, nó đông cứng trong trạng thái thừa nhận sự cố, ‘như-nó-là’ thể hiện điều đã có như sự kiện, là chuyện thường hằng giữa vật thể và sự vật, một xác định rõ ràng, một sự thể quyết định cho tác phẩm nghệ thuật. Ví dụ: tác phẩm nghệ thuật đem ra bày bán hay đấu giá thì sự thể của tác phẩm trở nên ‘as is’ một cách rõ ràng, nó không đòi hỏi hay lý giải mà chấp nhận như sự đã rồi. Giá trị tác phẩm nghệ thuật nó khởi từ khi bắt đầu và sống động trong tâm hồn của người nghệ sĩ; đó là cốt tủy của sáng tạo để được gọi là sự việc (thing). Đấy là sự thật như là / as is. Là thế đấy !
Có lẽ chúng ta sẽ gợi ý một đôi điều để chúng ta nghĩ về vai trò của sự vật một cách đặc trưng về sự vật và sự vận hành chức năng của việc làm –Perhaps; this will suggest something to us about the thingly character of the thing and the workly character of the work Với mục đích là tạo hình ảnh như giới thiệu cái sự vừa đủ không dư không thiếu. Thí dụ: Chúng ta chọn một trong những tranh nổi danh của Van Gogh, ông ta vẽ đôi giày như thường gặp. Nhưng; cái gì có nơi đây để thấy? Mọi người đều biết những gì bao gồm nơi đôi giày. Nếu đôi giày không phải bằng gỗ hoặc là thứ da thô loài thú mà đó là lớp da thú vấn quanh ở đó băng những sọi dây da và đinh… Cho nên chi xem tranh Van Gogh có những diễn tả lạ mắt nhưng đó là thực chất khi lên màu, không còn nghi ngờ đúng sai và vẽ lên một cách rõ ràng những gì sẳn sàng cho ta nhận biết đến nó, để không còn nghi ngờ thực hư trong diễn cảm của tác giả mà hoạch định một đường lối riêng tư cho chính mình và hòa nhập vào đó như một hiện thể sống thực, Van Gogh đả thực thi và hoàn thành sứ mệnh văn nghệ từ trước cho đến nay. Xem tranh Van Gogh không còn lạ lẫm mà hòa nhập vào tranh và người nghệ sĩ chớ không thể xem tranh ‘khơi khơi’ thừa nhận với tư thế vô trách nhiệm, nó đan kết trong một kỷ thuật tạo hình để hình thành tác phẩm là những gì thuộc dụng cụ máy móc được cung cấp là bao gồm những gì đầy đủ để dùng. Đòi hỏi của Van Gogh không cần phải chính xác hay hiện thực, bởi vật thể đã chính xác như ông đã thấy trong bầy quạ đen ập đến trong cánh đồng; ông đã phá màu để trở nên hình tượng là một kỷ thuật ‘sáng tạo’. Van Gogh không để trong tranh một sự hoài nghi nào cả hay tàn tích một sự gì trong tranh. Tranh ông đẹp và sáng tỏ nhờ nói lên cái gốc ngọn chân-như (essential source) là cốt tủy của trường phái hôi họa.Vì vậy dụng cụ là thiết bị cho phương tiện để hoàn thành tác phẩm; việc quan trọng trong hội họa là ‘matter/matière’ chính chất liệu là ‘vật thể /thingness’ mới dựng nên tác phẩm. Nói cách khác là phương tiện ở dụng cụ. –The equipmental quality of equipment consist in its usefulness. Đời Van Gogh hẩm hiu nhưng tranh ông vẽ hoàn toàn thoát tục như một sự giải thoát giữa đời. Ông lao đầu vào họa như lao đầu vào đời.Họa phải như thế mới gọi là vẽ! Chớ vẽ thì ai vẽ cũng được. Trong tác phẩm của nghệ thuật sự thật của hiện hữu được sắp xếp ở chính nó để thực hiện, Sắp xết/To set nghĩa ở đây là mang lại thế đứng (to bring to stand). Đấy là một hiện hữu đặc biệt, trong tác phẩm hội họa là đứng trong ánh sáng. Nhưng mãi tới bây giờ, điều đó có thể đã phải làm từ lâu với những gì làm đẹp cho nghệ thuật. Nghệ tuật đó phát sinh ra cái gọi ‘mỹ thuật/fine arts’. Mỹ thuật ỡ sáng tạo cái đẹp chớ không tạo cái đẹp (beautiful); nhưng đôi khi được gọi như thế cho đồng điệu với ‘văn chương’. Nhưng ở đây coi như là một đối kháng; bởi cái đẹp rất ‘logic’.Tuy nhiên; đẹp (beauty) là dành cho thẩm mỹ mà thôi chớ không phải đẹp /beautiful dành cho mỹ thuật hội họa.Mà nhận đó là vật thể / thingness của mỷ thuật.
Sớm muộn gì chúng ta tìm kiếm những gì như là đặc thù sự vật ở cái mức thấp nhứt trong tác phẩm, chúng ta không cần phải viết ra lời bằng cách đưa vào tác phẩm như phương tiện dụng cụ, để rồi mọi thứ đó chúng ta cũng có thể gán cho sự việc với một cấu trúc siêu tưởng, thiết nghĩ nó chứa những gì đạt tới của thẩm mỹ –As soon as we look for such a thingly substructure in the work, we have unwrittingly taken the work as equipment, to which we then, also; ascribe a superstructure supposed to contain its artistic quality. Nói ra đây hay viết ra đây không cho đó là dẫn chứng mà nêu ra một cái gì sáng tỏ của nghĩa lý, cốt để lãnh hội sự thật của ngữ ngôn, cho dù ngữ ngôn nào đều mang tính chất đả thông giữa vật thể và sự vật. Phát ngôn cũng là sự vật qua lời nói, là một dụng cụ đầu môi, trước lưỡi như một ‘chứng từ’; nó trở nên ‘thing/ sự thể’ chớ không coi đó là ‘thingness/ vật thể’. Cho nên chi chúng ta thấy được những gì trong tác phẩm. Nhưng; nhớ cho tác phẩm không phải là thành phần của dụng cụ làm nên mà ở đó đã trang bị theo yêu cầu cho cái sự thêm vô, bớt ra để có một giá trị thẩm mỹ dính liền vào đó –But the work is not a piece of equipment that is fitted out in addition with aesthetic value that adheres to it. Tác phẩm không còn chi để thêm mắm thêm muối cho mặn nhạt ‘không vừa’ mà đơn phương những thứ làm nên là nồi niêu soong chảo (equipmental) là những thứ làm nên tác phẩm (ăn uống). Đấy là đường lối chủ trương cho vật thể và sự vật có một xác định cụ thể trong tác phẩm nghệ thuật. Tác phẩm không mang vào đó nhiều thứ vô bổ, tạp nhạp hoặc những gì vô cớ để rồi nhào nặn những ngữ ngôn gọi là văn chương, nhưng; đưa văn chương viết và đọc trở thành hàng ‘tạp hóa’ không phân định được hàng thiệt hay hàng giả mà cần có nhựng gì thuộc dụng cụ là xác định được vị trí xử dụng một cách đầy đủ và một hiện hữu đã dựng nên –the specific equipmental characteristic of usefulness and being made. Thời tất chúng ta sẳn sàng thực hiện; mà nó là một sự trình bày tự nhiên để đạt tới thẩm mỹ -It is the formulation nature to aesthetics. Vẫn trình bày ở đây một sự việc rõ ràng minh bạch của vấn đề trước cho việc đầu tiên mở ra đây bởi chúng ta –still this formulation of the question was not first developed by us. Cả hai điều nói trên là nhìn thấy vật thể thẩm mỹ ở tác phẩm nghệ thuật bằng một truyền thống cố hữu nhưng đổi mới tư duy bằng một thể thức giảng giải về hiện hữu vật thể và sự vật trong sáng tác.Đó là những gì chúng ta quan tâm tới việc làm.
Nói rút lại; tác phẩm nghệ thuật mở ra ở đây là cách thức làm chủ lấy nó, là một Hiện hữu của những gì hiện hữu (Being of beings). Đưa vào đó những ví dụ, thí dụ khác nhau, là bộc lộ bằng dẫn chứng để nói lên sự thật của hiện hữu (the truth of beings) và những gì xẫy đến trong tác phẩm nghệ thuật để có những ngoặc đơn, ngoặc kép là một nhấn mạnh vào vấn đề hoặc pha trộn vào đó ngữ ngôn khác nhau là tợ như vai trò người nghệ sĩ chấm phá ‘sắc màu’ để thành hình tác phẩm, Chúng ta hãy điều nghiêng vấn đề trước sự thật, tất chúng ta đang hiện hữu trước những hiện hữu khác. Nghệ thuật là sự thật được sắp xếp ở tự nó để thực hiện. Cái gì cho đó là sự thật ở tự nó? Hay đôi khi coi đó là độc quyền sở hữu của nghệ thuật?. Vậy thì; cái sự gì để tự sắp xếp nó vào trong tác phẩm? Tất cả bao hàm trong một hiện hữu sống động để làm nên tác phẩm như vật thể của muôn vàn thứ vật thể khác. Đấy là sự thật cố hữu. Một sự thật không pha chế, không tha hóa, không đưa vào đó những thứ tạp nham hay cốp-pi-két là phá hoại nghệ thuật.Vậy cái gì gọi là nghệ thuật? Nói cho ngay nghệ thuật nằm trong tác phẩm nghệ thuật –Art is actual in the artwork chớ có đi đâu xa mà tìm; tác phẩm nghệ thuật là thực chất ờ tự nó, còn lấy cái này bồi lên cái kia gọi đó là tác phẩm là nghịch lý mà mang tiếng sao chép cái của người ta đã nói tới. Giờ đây một số văn nhân làm cái việc ‘khổ quá nói mãi’ mất tính sáng tạo nghệ thuật do chính tự nó dựng lên. Thí dụ: chuyện thi sĩ Bùi Giáng, chuyện nhà văn/thơ Phạm Công Thiện, có cần nhắc lại nhiều lần hay tự chúng ta tìm thấy cái thật, hay cái không thật của từng nhân vật để thực sự cho chúng ta ngợi ca? Chớ ‘bồi ẩu’ là phá đi sự thật của nó. Cho dù là vật thể qua cách nói khác, bởi; nhị vị nằm trong một Hiện hữu ‘chờ đợi’ như họ đã thực hiện; ấy là hiện hữu của sự kiện chớ không mong ca bài ca ‘con cá’ hay cho rằng ‘cá gáy hóa rồng’. Nguồn gốc của tác phẩm nghệ thuật nó đòi hỏi cái gọi là thực chất là cốt tủy của nghệ thuật. Thực vậy; sự vật tức vật thể của tác phẩm nhất là tác phẩm nghệ thuật là việc làm bất khả phân; đấy là điều không thể chối bỏ hay từ nan, sở dĩ đặc nó trong môi trường sự vật là vì trở nên ‘thingly’ là nét đặc thù sáng tạo trong tác phẩm đó là sắc tố (elemently) đặc trưng đi vào trong tác phẩm.Nó vẫn để lại đó như một vấn đề nêu ra. Là; hiện hữu của sáng tạo, một sáng tạo thuộc về người nghệ sĩ –belong to the artists; Sáng tạo ở đây là luôn luôn nghĩ đến cái việc ‘dự phần’ để làm nên –Creation is here always thought in reference to the work đó là đặc chất của việc làm (văn.thơ/họa/khắc/chạm) là phản ảnh một cách trung thực, quan hệ này dẫn đến thực chất của sự thật như coi đây là điều không thể che đậy được của hiện hữu. Vấn đề của chân lý sự thật và thực chất được qui về một mối vừa là chứng tỏ chiều sâu cho một hiện hữu, vừa chứng minh được trí tuệ phát tiết một cách sáng tỏ. Chung qui việc làm đó là đặc ưu cho chân lý sự thật (truth) và nghệ thuật. Là như thế này: nghệ thuật là gốc ngọn của tác phẩm và của người nghệ sĩ, bởi; gốc ngọn đó là cốt tủy của thực chất mà trong đó là một Hiện hữu của thực chất hiện hữu, điều không thể giải bày được. Vậy thì nghệ thuật là gì? Chúng ta tìm kiếm thực chất trong sáng tạo mà chính việc làm đó đã khai mở bằng tất cả những gì có trong tác phẩm mà trong tác phẩm là những gì của sự thật. Đúng ra cái tự tâm, cái trầm tỉnh của tác phẩm là nói lên cơ sở hoạt động ở đây–The self-composure of the work is grounded here.
Như vậy; chúng ta nghĩ đến sáng tạo là thực chất đem đến cho tác phẩm là mang lại những gì đi trước, nhưng; tạo dụng cụ cũng mang đến việc làm đi trước –But; the making of equipment, too ; is a bringing forth. Một sự thật rõ ràng cho những phương thức (modes) đưa ra là chứng cớ cho những gì thuộc sáng tạo, cho những gì có tính chất xử dụng dụng cụ là một liên hợp giữa sản xuất vật thể và phát hành sự vật, nếu; nó là nguồn vốn cung cấp cho tất cả. Thế nhưng; trong tác phẩm nghệ thuật, sáng tạo là một bày tỏ trung thực có từ trí tuệ tạo ra trong đó như một hiện hữu sáng tạo để thấy được ở đó một sự nổi bậc. Cái sự đó được xem là thực chất của sự thật và cũng là nền móng ở chính nó, nó xuất hiện như thể là đối kháng hay xung khắc giữa một sự gì sáng tỏ và một sự gì ẩn tàng trong sự bất đồng của thế giới loài người.
9/10/2023
Võ Công Liêm
Theo https://vietvanmoi.fr/

Hiện hữu và hư không

Hiện hữu và hư không

(L’ÊTRE et NÉANT/ BEING and NOTHINGNESS) 
To: Ms. Katherine Jenkins (University of Calgary Ab.Ca)
Trong số những tác phẩm của Jean-Paul Sartre* để lại; Hiện Hữu Và Hư Không cho ra đời 1953 được xem là một luận đề (essay) quan trọng nhất đối với thuyết hiện sinh ( existentialism) của Sartre mà được ông chủ xướng như một lý luận hiện thể và đích thực về tư tưởng nhân bản. Một tiến trình về tư duy đáng kể nhất để giảm thiểu sự hiện diện của tồn lưu và đồng loạt xuất hiện những học thuyết mà điều ấy được coi như một xác quyết minh bạch cho bộ phận triết học của ông. Đó là cứu cánh vượt qua một cách chắc chắn giữa vô số dạng thức của những yếu tố như sự kết hợp của tồn lưu trong vũ trụ, cụ thể nhất về mặt tinh thần để phân chia giữa tốt và xấu như một ngăn cách về trạng thái nghi ngờ của hiện hữu. Chính cái lưỡng tính giữa hai bề mặt đó tạo nên sự bối rối về triết học và được thay vào đó một học thuyết triết học khác, hầu tìm ra một giải pháp thích hợp hơn của khoa hiện tượng dù là những đơn phương chính yếu nào đi nữa.
Dù rằng sự xuất hiện chủ thuyết là rõ ràng minh bạch cho sự hiện hữu; không những ở nội tại hay ngoại tại đều được xem như đồng thể ngang nhau, sự hiện diện đó không còn tính cách độc quyền.
Ở đây Sartre hệ thống hóa để giới thiệu phần cốt tủy của triết học hiện hữu (philosophy of Being) . Ông nói đến cái gọi là tri thức của con người và tri thức của thế-giới-như-nhiên mà hai vị trí đó được gắn liền vào nhau. Để giới thiệu đầy đủ về nhãn quang của Sartre như một tương quan giữa xã hội và con người.
Chủ thuyết hiện sinh của Jean-Paul Sartre là giải phóng con người ra khỏi những ràng buộc cố hữu để tìm đến với tự do và khai phá những tồn tại bức xúc, bày tỏ sự hiện hữu của con người trên mặt đất nầy và được xem như khoa phân tâm học chủ lực. Một “ sine qua non” để lãnh hội về chủ nghĩa hiện sinh và đó cũng là điều quan trọng được coi như kẻ đưa đường về khoa triết học hiện đại của thế kỷ XX.
L’Être et le Néant là một tuyển tập luận đề triết học về hiện tượng thuộc khoa siêu hình học ( A Essay On Phenomenological Ontology) ; bao gồm 5 phần chính :
- Vấn đề của Hư Không (The Problem of Nothingness)
- Hiện-Hữu-Cho-Tự-Nó (Being-For-Itself)
- Hiện-Hữu-Cho-Cõi-Khác (Being-For-Others)
- Nhận Có, Thực Hành Và Hiện Hữu (Having, Doing And Being)
- Kết Thúc (Conclusion)
Ở đây chúng ta chỉ đưa lên một vài khiá cạnh đặc biệt trong Being And Nothingness/L’Être et Neant với cái nhìn riêng tư về thuyết hiện sinh của Sartre. Trong bài viết được nêu ra ‘ la transcendence de l’Ego. Esquisse d’une description phénoménologique ‘ 1936. Sartre vẫn cho toàn vùng của hiện tượng học chuyển thể từ Ego/Self và được miêu tả một cách khái quát về hiện tượng mà Ego chính là bản ngã tự tại, đưa tới cái vị lợi ‘Selfishness’ của con người, một ý niệm như thách đố của Husserl về sự chuyển hóa của Ego.
Sartre đối kháng thể thức của Descartes. – “ Tôi suy nghĩ ; do đó tôi hiện hữu “ (I think ; therefore I am). Ý thức nói ở đây “I am” (Tôi là; tức tôi hiện hữu) chưa hẳn là một ý thức tuyệt đối mà đó chỉ là suy tư mà thôi.
(The consciousness which says “I am” is not actually the consciousness which thinks) (P.92).
Descartes từ chối về cái đột khởi của ý thức mà phải do chính từ ý thức mà ra với một phương pháp hết sức nghi ngờ mà vẫn được coi như một đạo luật. Trong lúc đó chúng ta chỉ mới bắt chụp cái thoáng nhìn của sự phản đối đó, có thể là do nghi ngờ của ý thức, như thể là một hành động không mấy vững chắc. Nhưng cái gọi là ‘Descartes Cogito’ như một tư thế riêng biệt dành cho ý thức tự nó và được xem như một đối kháng, nhưng ở đây là một đối kháng khách quan. Trong những lời lẽ của ‘Cogito’ không phải là điều đưa Descartes nghi ngờ; đó là sự phản ảnh của Descartes lên sự nghi ngờ “ Tôi nghi ngờ; do đó tôi hiện hữu “ (I doubt; therefore I am) Thật ra là: “ Tôi ý thức điều mà làm tôi nghi ngờ; do đó tôi hiện hữu” (I am aware that I doubt; therefore I am).
Thuyết gia Cartsian Cogito (Descartes) phản ảnh là chính sự thể đó không còn tự nó nhưng nguyên thủy sự cớ ấy là ý thức do từ sự nghi ngờ mà ra. Chính sự khai phá đó giữa tư tưởng của Descartes về sau nầy Sartre đã tìm ra được những bước khởi đầu trong học thuyết của ông…
Sartre thường hay xử dụng ngôn ngữ ‘nhận thức’ như một lý trí riêng tư “non-positionelle (de) soi”; chữ ‘de’ được nằm trong dấu ngoặc đơn, để chứng tỏ rằng không có sự phân chia đẳng cấp hay ngôi vị, không phân biệt vị trí của bản ngã như một đối tượng của ý thức. Sartre đề cập đến một thứ ý thức trong sáng (néant/nothingness) một trạng từ chưa tỏ rõ bằng một sự nhấn mạnh rõ ràng trong cái không, cõi không trống rỗng, không dính dáng vào cái không của không. Sartre đưa cái ý thức trong sáng của hiện hữu cũng như hư không; có thể là một luận án có tính cách võ đoán (non-thetic) cho tự-thức (self-consciousness) hoặc đưa vào một vị trí của tự-thức cái đó là tâm-thức của ‘soi’ tức là ‘tự’ cái tự-có (soi-même/one-self) trong ý thức mà ý thức đó như một ý thức suy xét phản ảnh được sự nhìn nhận về hành động và trạng thái của ý thức trong sáng đó và hầu như dành cho một vị trí tự-nó. Cùng một trạng huống đó Sartre đặc ra hai nền móng chính yếu cho vấn đề ý thức như quan tâm tới sự phản ảnh của ý thức; điều ấy chính là cơ bản trong những tác phẩm sau nầy của Sartre.
Trước hết theo quan niệm của Husserl là nắm được toàn bộ ý thức có nghĩa là ý thức từ mọi hướng, từ mọi sự vật thì điều đó như một ý thức có chủ đích và trực diện, chủ điểm đưa tới một chủ thể siêu nhiên khác hơn tự-nó. Nơi đây chính là mầm thai nghén của Sartre về cái nhìn sau nầy giữa hiện-hữu-con-người và hiện- hữu-thế-giới-như-nhiên ngày nay là bằng chứng của Sartre về khoa siêu hình học và sự tồn lưu của hiện sinh, gọi là hiện-hữu-tự-nó mà sự cố chính là cõi-ngoài-kia của ý thức.
Thứ hai về phản ảnh ‘cogito’ là không cá tính. Ấy là điều không thực vì đó là điều chúng ta có thể bắt đầu với một vài vấn đề như “tôi nhận thức được cái ghế” Những yếu tố đó cho chúng ta một cảm nhận đích thực của ý thức ( il y a / there is / Cái đó là) tức là nhận thức về cái ghế một cách cụ thể trong ý thức trong sáng.
Theo ý Sartre; tự-nó của Ego là không phải ý thức mà đó chỉ là lời lẽ phát biểu một cách mơ hồ. Dĩ nhiên đây không phải là điều để nói rằng Ego là chất liệu của ý thức; bởi Ego theo Descartes là ‘tự’ tức ngã, tự nhận của ý thức mà ở đây không còn đề mục đưa ra mà là khả năng phán đoán do từ sự vận dụng của ý thức lương tri hoặc ý thức trực tiếp xẩy ra.
Sartre nói: “ Sự dâng trào của ý thức trong sáng là sự xếp đặt kiên cố tự-nó một liên hiệp nhất trí tự-nó”
(Plux of consciousnesss constituting itself as the unity of itself ).(P.100)
Ông nói tiếp: “ Như thế thì Ego/Tự-nó là một tổng hợp nội quan và có tính cách siêu lý trừu tượng”.
(Thus the Ego is a sythesis of interiority and transcendence) (p.101).
Năm 1940 sau khi cho ra đời luận án Tâm Lý Và Hình Tượng (The Psychology Of The Imagination) như một hiện tượng tâm lý; chính vì thế mà Sartre dựa vào đó như thử dựa trên căn bản để giới thiệu về Hư-Không (Nothingness); trọng tâm của luận án là nhìn thấy những khác biệt giữa trí tưởng và tri giác đó là ý thức của nhận thức.
Sartre đưa ra hai vấn đề :
1- Chức năng của trí tưởng do từ sự tình cờ xẩy ra và thể hiện được tính siêu hình của thể chất ý thức hoặc có thể đó là điều được mô tả như một cơ cấu thiết yếu của thể chất ?
2- Điều kiện nầy là một sự cần thiết cho sự nhận thức về hình tượng của ý thức. Hay là điều kiện được xem là có thể giống nhau hay khác nhau trong cùng một ý thức ?
Ý thức trong sáng phải được tôi luyện, bồi đắp với một cá tính riêng biệt của ý thức đó là tiềm năng của Hư-Vô (Nihilation / Néantisation). Sartre nhấn mạnh ở đây Hư-Vô và Hư-Không nghe gần gũi nhưng là khác biệt của trí năng và ý thức. Ở đây Sartre nhìn Hư-Không là sự trống không, trống không một cách hoàn toàn (emptiness) của Hư-Không (Nothingness) rõ ràng như xác định vị trí của nó chứ không có tính mơ hồ của Hư-Vô (Nil (d.từ)). Sartre đi xa về điều nầy và cho rằng trong mọi hành động của hình tượng thì điều đó không còn nghi ngờ gì cả giữa Hư-Vô và Hư-Không. Nếu sự thể của vấn đề đặc ra ở đây như sự vắng mặt hoặc không hiện hữu tồn lưu hoặc như là mất khả năng trung hòa (neutralized) ở đây được coi như khả năng do từ một cơ cấu tạo thành. Có nghĩa rằng ý thức là điều không thể tránh được mà tương quan với thế giới quan; bởi chúng ta có thân xác hữu thể là một xác quyết rõ ràng giữa ý thức và ý thức trong sáng của vấn đề siêu nhiên. Vì ý thức nằm trong qui thức đầu tiên là không có tính không-sắp-đặt-tự-thức. Đó là lý lẽ cho ý thức mà ý thức đó được coi như ý thức trong sáng (ness). Ở đây ý thức có thể không còn là hình tượng của ý thức cũng có thể thiếu đi năng lực phủ nhận và triệt thoái nó ra khỏi ý thức mà Sartre gọi là “Hư-Vô” đó là kết quả tìm thấy cái KHÔNG nó nằm trong sự chìm lắng của ý thức của thế giới quan mà đó là ý thức sâu lắng trong ý thức tồn lưu; đó cũng không phải là một khả năng chiếm cứ bất luận từ một hướng nào, nhưng phải hiện hữu của sinh tồn.
It would have to be conceived as completely engulfed in the exsisten and without the possibility of grasping anything but the existent (P.271)
Trong Hiện Hữu và Hư Không Sartre thật sự nối liền lý tưởng của Hư-Không và Tự-Do. Có nghĩa rằng ý thức là điều có thể có hiệu năng như một sự xuất hiện của cái gọi là không thực (unreal) không thực để sản sinh ra từ thế giới bên ngoài; bởi vì tự-do hết sức siêu nhiên điều mà nhân loại có thể hình dung ra được nghĩa lý của nó.
Hiện Hữu và Hư Không là tiếng vọng, là thông điệp mà Sartre miêu tả như một hiện-hữu-tự-nó (Being-in-itself) không những có thể hoặc không thể. Mà ‘nó-đã-là’ như một nhấn mạnh của ý thức trong tính nhân bản.
Quan trọng khác; luận cứ của tiểu thuyết là ý niệm về sự ‘buồn-nôn-tự-nó’. Buồn Nôn là điều quan tâm tiên khởi của Sartre với xúc cảm triền miên trong con người của Roquentin là một tri thức mà tri thức đó như một chiếm cứ, một sự chia xẻ có dự phần của những sự vật hiện hữu (existence of things). Giữa Hiện Hữu và Hư Không Sartre mở rộng tư tưởng về bản năng ý thức, một biểu lộ cơ chế như thể một hiện hữu chối bỏ, bắt nguồn từ nội giới, nhưng chối bỏ ngoại giới thì giản đơn như một sự khác biệt rõ rệt giữa hai sự thể cùng một cảm giới không hơn không kém. Thí dụ nói rằng: - “ cái chén là không có ở trên cái bàn” Thì đó là một chối bỏ trên bình diện nội giới; mà điều đó chỉ có thể hữu thể trong ý thức. Hiện hữu tạo sự chối từ ảnh hưởng trong hiện hữu.
Sartre tóm lược lại vị trí của ý thức như sau: “đối với ý thức là không có hiện hữu ngoại trừ có một điều kiện bắt buộc để được phát hiện bằng trực giác của sự vật”
For consciousness there is no being except for this precise obligation to be a revealing in intuition of something. (P.618).
Chỉ có cách làm cho ta có thể hiện hữu như một ý thức khác của một hiện hữu khác mà thôi. Hẳn nhiên Sartre đã nắm chắt cho-cái-tự-nó (For-itself) là tính chất phiêu lưu mà ông đã nói lên lời cứng chắc về hiện hữu và một đời sống có ý thức.
Sartre thường phát biểu về Hư Không như một sự hiện diện, như một chi tiết trung thực, thẳng thắn để phê nhận cả hai ý niệm của Hegel và Heidegger. Đối với lời phê nhận của Hegel cho rằng; “ Không bao giờ có cái cõi ngoài mà đó chỉ là hình thức luân lý của cái gọi là không-hiện-hữu (non-being). Như vậy sự tương quan của con người là hiện thực. Sartre cho sự thể đó làm cho quan niệm của Hegel về hiện-hữu và không-hiện-hữu là một điều đúng lúc, đúng thì thay vào một nhãn quang không-hiện-hữu như một tùy thuộc vào luân lý của hiện hữu. Ông cho sự thể đó mà Hegel hết sức thờ ơ một cách vô tình giữa hiện-hữu với không-hiện-hữu.
Heidegger phù hợp với Sartre coi đó là một sự cân nhắc đúng đắn đưa tới một tiến trình bởi sự hoán chuyển từ Hiện-hữu đến Hư-không và nhận ra cả hai bề mặt của hiện-hữu và không-hiện-hữu là dấu hiệu căng thẳng cho việc chống đối. Heidegger cũng ca ngợi lời phát biểu của Sartre về Hư-không như một dự phần của con người đầy đủ kinh nghiệm, ở đây không phải việc làm đơn thuần như một việc trừu tượng. Sartre cảm nhận được ý thức của Heidegger; bởi những nguyên nhân bên ngoài đã làm đình trệ trong cái duy lý về Hư-không mà lấy đi tất cả những khả tính có thể tính toán, chọn lọc một nguyên lý của sự Hư-Vô (nihilations). Đây là điều mà Sartre đã nói; không còn cách gì hơn để giải thích cái vô cùng trong ‘đáy giếng’ của Hư-không mà những điều đó dự phần trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
Cả hai Hegel và Heidegger đưa ra vấn đề giữa hiện-hữu và không-hiện-hữu đó là vấn đề mà Sartre đã nói đến về Hư-không mà không phải qua Hiện-hữu. Hư- Không đã tìm thấy và có thể thiết lập được để rồi chối bỏ cái thực thi đi vào Hư-Vô. Nói chung hai ông đã thờ ơ sự cấu trúc và trí tuệ của con người hoặc là ý thức của con người. Sartre tránh những đối tượng đó mà ông cảm thấy cần phải mạnh dạn đứng lên chống lại những chủ thuyết của Plato, Hegel và Heidegger, sự cảm nhận đó có thể nói rằng đó là một phương án trị liệu của tri giác, trí tưởng và nhận thức, tất cả như dính chùm vào nhau trong một luân lý cổ hủ giữa một xác định cụ thể và sự chối từ. Cái đó gọi là chối bỏ nội tại; tự-nó như một luân lý khác biệt.
Sartre hoàn toàn không hạn chế mà thường coi Hư-Không như một ý niệm có tương quan. Ông dùng nó như để phát biểu về một nỗi đau, để lột trần những gì đáng kể nhất và như thể có mắc phải vào những lo âu mà Heidegger đã đề ra.
Hư-Không là nằm giữa cái lý sự vô cớ và hành động. Đó là nguyên cớ để trở nên cái sự lý vô cớ; chỉ khi nào thật sự tự do. Bởi tự do của Hư-Không thực sự từ ý thức. Cuối cùng Sartre chỉ dùng nó như là tiếng nói của tự do. Ý thức tự do là cái tự-nó vẫn ‘chưa đủ’ để nhận ra sự hiện hữu.
Như vậy ; cái gì Cho-tự-nó (For-itself) là được phơi bày một cách rõ ràng về Hiện-hữu, một nội tại Hư-Không của Hiện-hữu, một tương quan với Hiện-hữu, một mong muốn của Hiện-hữu và một chọn lựa của Hiện-hữu.
Trong phần thuyết trình về Hư-Không, đặc biệt về phần tiếp nối của tri giác và trí tưởng. Sartre đã thận trọng dùng khoa tâm lý học của Gestalt như một tương quan bổ sung cho trí năng về ‘hình tướng’ (figure) và ‘cứ điạ’ (ground).
Chúng ta nhận thấy rằng Hư-Không là Cho-tự-nó, không những chỉ vào sự chối bỏ nội tại và lột trần Hiện-Hữu. Nhưng đó cũng là dục vọng của Hiện-Hữu và chọn lựa của Hiện-Hữu.
Cái nhìn của Sartre là từ khi khởi ra cái Cho-tự-nó (For-itself) trong sự tương quan với chạm trán Trong-cái-tự-nó (In-itself). Có nghĩa là sự ao ước, lòng ham muốn thì sự ham muốn dục vọng đó được thích hợp Trong-cái-tự-nó. Trái lại lòng ham muốn dục vọng đưa cảm giác như để đồng hóa hay đã đồng hóa với Hiện Hữu và rồi trở thành một trong hai cái Cho-tự-nó và Trong-tự-nó hoặc gián tiếp bởi lần chiếm cứ đầu tiên. Hiện Hữu là thể thức của thế giới quan.
Trong cùng một phương cách đó; những điều mà nhận ra được là những điều không tương hợp hoặc đột nhiên ‘biến dạng’ đúng lúc để đi tới một ý thức chọn lựa, đó là một chọn lựa phù hợp với những điều mà trước đây hầu như người ta đã phớt lờ về phần tâm lý hoặc xem đó như một tổng thể của siêu nhiên về Ego (It-self) và nhờ đó tạo nên được sự chọn lựa của hiện hữu. Điều mà rất hiếm thấy về sau nầy; nhưng với danh nhân lịch sử hay bộ môn tiểu thuyết thì lại xem như một thứ văn chương đích thực, một xác quyết về mặt bí truyền xẩy ra như sự cố.
Có hai vị trí khác biệt của khoa tâm lý học; đối với Sartre là một tiếp nối quan trọng qua lăng kính của ông đó là Cho-tự-nó chính vị trí đó là mạch liên đới với con người. Đấy là ý tưởng của Sartre nói về như nhiên của thân tâm, của dục tính xác thịt. Lẽ đương nhiên cảm giác đó là thể chất đứng ra như một sự kiện của con người.
Chúng ta suy xét về một phần của ý thức mà ý thức đó chính là Cho-tự-nó (For-itself) được coi như Hư Không là mãi mãi mâu thuẩn nội tại. Thực tế sự ấy nằm trong lãnh vực của Cái-trong-tự-nó (In-itself) như đã được tồn lưu (existed) bởi cái gọi là Cho-tự-nó (For-itself) thì đó là vấn đề tâm lý. Trên thực tế chúng ta phải có nhiều xác quyết cụ thể về cái Cho-tự-nó là chính thân tâm của mình. Vì Cho-tự-nó là ý thức của vật thể như đã thấy. Cho-tự-nó không có ý thức phán đoán mà chỉ hiện diện để xuyên qua cảm thức của Trong-tự-nó.
Chúng ta đã thấy điều quan trọng ấy trong “ La transcendence de l’Ego “ Sartre tin là Ego chỉ một phần tâm lý và từ đó được xem như vật thể của thế giới quan. Sartre bắt bẻ sự sai lệch đó về Hiện Hữu và Hư Không mà Sartre đã bày tỏ trước đây và ông rất vững tâm và lạc quan về điều đó. Sartre đã phân tích kỷ năng về thể xác của con người mà ông đã chia ra làm hai phần : -Thể-xác-cho-một-cõi-khác (Body-for-the-Other) và Thể-xác-thấy-bởi-một-cõi-khác (Body-seen-by-the-Other). Đó là dây chuyền kết nối của tâm-thân. Mỗi khi Hiện Hữu với tâm-thân trong cùng một tiến trình của thành quả thì đó là Thân-xác-thuộc-về-tôi (Body-for-me) thuộc về Hiện Hữu dù hiện diện trong cõi Hư-Không để ý thức về những điều ‘tự-nó’ như hiện thể với thế giới quan.
Với bài viết nầy còn thiếu những dữ kiện để xác minh cái đích thực phản ảnh sự trong sáng của J.P. Sartre. Ở đây chúng ta chỉ có cái nhìn thẩm quan về những gì Sartre đã làm ra trong phần kết thúc luận án triết học trong tư thế phân tích văn chương (Literary analyses) . Sartre đã vẽ lên ở đây một cuộc Cách Mạng Mới đặt xuống một đề cương cho xã hội mà trong đó cho phép chúng ta một tiếp nối tồn tại với cái tự vươn lên ‘self-trascendence’ một cách siêu đẳng trên con đường đi tới tự do thật sự và được coi như bước tiến dẫn đến con đường hiện sinh của ông. Đó là những gì Sartre đã làm ra trong phần kết thúc tập tiểu luận triết học nầy.
Jean-Paul Sartre muốn khởi hành một mình để tìm đến một lối rẽ mới, một lối rẽ đi tới hành động cho nhân loại. Có lẽ; không còn bao lâu để khám phá hướng đi của ông với cái nhìn riêng tư của ông như một phần hoạch định tự nhiên.
Cuối cùng Sartre chấp nhận mọi sự căng thẳng về tự do cũng như mọi trách nhiệm và bổn phận mà Sartre đã thực hiện. Những điều nhận định ở đây cũng giống như Sartre đã miêu tả là một đúc cứng dự án của con người, như một tổng thể liên hợp từ ngoại giới đến nội giới của ý thức nhân bản và được coi như chúng ta ‘phải là’.
Tóm lại Hiện Hữu là điều kiện giản đơn như vạch trần hết thảy. Hiện-Hữu-vạch-trần (Being-for-revealing / Être-pour-dévoiler) thì cũng như lột-trần-hiện-hữu (revealed-being / être dévoilé) giữa hai dạng thức đó không có gì khác biệt giữa Hiện Hữu; nói cách khác giữa CÓ và KHÔNG là RỖNG, tất cả đều nằm trong qui trình vũ trụ giới với con người. Sartre giải phóng toàn bộ tính không trong ý thức Hiện Hữu và Hư Không như một gạch nối cho lý thuyết hiện sinh mà Sartre đã bày tỏ và hết lòng nâng cao giá trị nhân bản một cách trọng yếu trong triết thuyết của Sartre đề ra.
Nếu hiện hữu của hiện tượng thì nó không còn phân tích về hiện tượng của hiện hữu. Cụ thể hơn hết từ khi xuất bản tiểu luận Hiện Hữu và Hư Không Sartre luôn luôn quan tâm hạnh phúc hay bất hạnh của con người, đó là vấn đề luân thường đạo lý (Ethical) mà mục đích và tính nết đã được biểu lộ một cách sâu đậm trong những tác phẩm của ông để lại; nhất là những tác phẩm triết học phong phú và hiệu năng, một luận án đầy đủ , là phạm trù triết học mang tính triết thuyết hơn là triết học. Dẫu sao; dù dưới lý luận nào chống đối hay phủ nhận chân lý hiện sinh là một đánh dấu vô cùng qua mọi thời đại mà con người đang trực diện với hiện hữu trong hay ngoài của cái ‘tự-nó’ mà chúng ta đương đầu hằng ngày với thế giới quan và sự sống còn giữa cõi tồn lưu.
Tất cả những vấn đề đã được đề cập với chúng ta hôm nay là một điều hết sức trong sáng, không một phản ảnh phụ thuộc nào; điều đó chỉ tìm thấy câu trả lời trên mặt phẳng của cái gì thuộc về tâm lý và ý thức mà thôi.
Chúng ta đang nhìn tới một thế giới mới trong tương lai.
Chú thích:
* Jean-Paul Satre (1905-1980) Sinh và chết tại Pháp quốc.
30/8/2023
Võ Công Liêm
Theo https://vietvanmoi.fr/

Hư vô phản kháng

Hư vô phản kháng Hư vô phản kháng là gì? Là niềm đau vô tận số: ngậm ngùi bi thương, đoạn trường ai oán. Trong trạng huống đó người ta tạm...