VĂN THƠ NHẠC
Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2025
Hư vô phản kháng
Hư vô phản kháng là gì? Là niềm đau vô tận số: ngậm ngùi bi thương, đoạn trường ai oán. Trong trạng huống đó người ta tạm thời nhìn hư vô là cõi vắng lặng. một chịu đựng khắc khỏi giữa cuộc tồn-lại nhân thế mà nơi đây chỉ là cuộc tao nhã trong cảnh đăm chiêu ở một tinh thần bất ngoặt, yếm thế để thực hiện một hành động thế nào thích ứng hài hòa giữa con người với con người; không vướng lụy trần gian mà vượt thoát để đi tới một tư duy hữu hạn. Ở giai đoạn cuối này là giai đoạn mạt pháp, mạt lộ, thiếu đi giá trị siêu việt để dìu dắt ta đi tới một như nhiên vi diệu và lấy đó làm cứu cánh. Nhưng; mọi sự thế cuộc đời là bất toại, chẳng có gì là chân lý, thiện ác (good or evil) đều coi ngang hàng, ngang lứa tất cả đều phiêu bồng nhập cuộc ta bà, tử sinh; từ đó không còn phân biệt: chính, tà, hắc, bạch. Để rồi tự gầm thét bằng những lời ai oán ẩn mật, như lời thốt chối từ, phủ định tuyệt đối để đi vào với hư vô, bởi; hư vô vốn là KHÔNG mà chỉ tuyệt đối đồng tình (absolute assent) để dự cuộc vào tiếng vọng; đó là hư vô phản kháng (nihilist rebellion) là đứng ngoài vòng cương tỏa của mọi chủ nghĩa, là những thứ chủ nghĩa sàm sở, ê chề, hỗn mang, thuồng luồng gieo tai hại cho chủ nghĩa tư tưởng phản kháng tồn-lại, cái sự cớ của nhiễu nhương nhân thế vẫn lộng hành, vẫn nắm điạ vị chủ quan dù cho điạ vị ngu xuẩn, mất tính đặc thù tư tưởng lý luận mà cứ duy trì thứ tư tưởng ủ dột, chết chìm, lụn bại, trôi lềnh bềnh mấy thập niên qua không một thái độ phát tiết chủ thể thơ văn: bao gồm sáng tạo ngay cả những hình thức khác của thi ca; bế tắc không vượt thoát để có một phản kháng thi ca mới hơn; thời làm sao nói đến siêu hình hay hư vô phản kháng. Ác thay; chưa lãnh hội thấu đáo cho nên còn là đà trên giòng thủy tử mà chẳng tìm thấy cái ý nghĩa thâm hậu của hư vô phản kháng dành cho văn và thơ. Nhưng trong lúc này hư vô phản kháng chỉ là khái niệm mà thôi, một khái niệm tổng thể của phi lý luôn luôn quấn quít trong ta với những gì mâu thuẩn liên can đến đời sống con người, một tư duy gần như bất khả thi nếu chẳng có gì là hệ trọng cả. Sự cớ phi lý luôn luôn đầy đặc ở giữa vũ trụ này, nó trở nên luật tắc tồn-lại nhân thế. Mà thật; nó có một cái gì mâu thuẩn bên trong, thời không có chi để mà ngạc nhiên, ngược lại nó duy trì một xúc cảm đặc biệt. Xúc cảm phi lý là một cảm xúc giữa những cảm xúc khác –thí dụ : cảm xúc tế bào da mặt là thuộc hữu cơ, tế bào phi lý là tế bào của tồn-lại. Trong bản chất đặc thù của hư vô phản kháng là vận chuyển cái gì của nó như một biến động vượt thoát. Cái phi lý cũ xưa chính là thảm trạng của hoài nghi tuyệt đối (absolute doubting); nó đưa ta vào ngẫn ngơ, ngậm bồ hòn trong ngõ cụt, nín thở, chính vì cái bế tắc đó dẫn độ ta tới một tư duy mới mẻ hơn; không rào cản, không ước lệ, không thoái trào. Vì cái phi lý đó mà phải thốt, cái thốt đi vào hư vô :’je crie que je ne crois à rien et que tout est absurde, mais je ne puis douter de moncri et il me fault au moins croire ma protestation (trong L’Homme Révolte của A.Camus) Là tiếng thét thảnh thốt như chối từ không tin vào cái gì cả, thốt lên vì mọi sự cớ là phi lý nhưng tôi không thể hoài nghi tiếng than, tiếng thốt của mình mà ít ra phải tin tưởng sự chống chế của nơi tôi.Thời cảnh tượng hư vô phản kháng là nảy sinh từ cảnh phi lý trần gian trước một trạng huống bất công và bất khả lĩnh giải. Hư vô phản kháng là cơn dấy động âm thầm, một bản chất tự tại vốn đã gào thét và đành lòng như tự mình kiểm soát lại để đưa tới lối thoát – Il fault qu’ell consentie à s’examiner pour apprendre à se conduire. Bởi; trong sa mạc hoang vu mọi thứ bắt đầu nở nhụy đơm hoa một lần nữa (là tiếng thốt hoang vu và trầm lắng): ‘một ý nghĩa kinh hoàng của một cái gì ngậm đắng than khóc âm thầm cõi thế để hân hoan mà không hiểu chi trong một đêm dài của lòng tin và một lý do đau đớn muộn phiền’ –In this desert everything begins to flower again. ‘The terrifying significance of an unpremeditated cry of joy cannot be understood while the long night of faith and reason endures’(trong Metaphysical Rebellion của A. Camus). Nhưng ít ra cũng giải thích và lãnh hội phần nào cái phương hướng của con đường hư vô phản kháng. Cái tắc nghẽn giờ đây được giải thoát để tìm tới đỉnh cao trí tuệ của siêu hình là con đường khai phóng chủ nghĩa hư vô. Hư vô chính là mật thể tồn-lại trong nhân gian. Không khước từ mà duy trì như một thống lĩnh của hư vô phản kháng tồn-lại!
Krishnamurti tâm thức vô sư
Krishnamurti tâm thức vô sư
Tâm thức vô sư không đơn thuần như ta định nghĩa; đó là
thuật ngữ nhà Phật nói lên cái tâm như vô lượng, vi diệu pháp, không chấp trược,
vô ngại để đạt tới Chân Không.
Jiddu Krishnamurti* nhận ra được cái tâm thức thoát ly tri kiến
giữa trí tuệ và tâm thức, một trí tuệ Bát Nhã và một tâm tĩnh lặng để chống lại
mọi ngụy trá giữa cuộc đời này mà con người là nạn nhân của sự hủy diệt cũng nhờ
vào đó mà phát hiện ra được một tình yêu chân chính, một sự khai ngộ vượt thoát
với thực tại trong mọi hoàn cảnh. Những kinh nghiệm và tu tập của Krishnamurti
là tương ứng kinh nghiệm toàn mãn mà con người có thể đạt được.
Trên đường thuyết giảng của Krishnamurti là thiết lập một hệ
thống tư tưởng quay quanh trong một tiêu đề ”vạn vật đều vô thường” cho nên cần
có một tinh thần vô sư giữa con người với vũ trụ trong trạng thái an nhiên tự tại
của thiền định(meditation). Krishnamurti nói: “…thiền định là một trong những
nghệ thuật cao qúi nhất của cuộc sống”.
Bản thân của Krishnamurti là truyền đạt tâm thức vô sư giữa
người với người và mọi thay đổi của xã hội, chỉ có thể xẩy ra khi có sự chuyển
hóa ý thức. Chân lý sâu sắc của ông là không dựa vào bất cứ tôn giáo, triết lý
hay một tông phái nào mà trong đó có tính chất hình thức. Ông xây dựng lý thuyết
trên căn bản của vạn vật đồng nhất đều nằm trong “cõi không” đó là chân lý mà
Krishnamurti truyền giảng cho nhân loại. Ông phủ nhận mọi giáo điều, tôn vinh
hay nhận một tước vị nào cho cá nhân ông và cũng không bao giờ dựa trên một quyền
lực nào để hình thành một triết lý siêu việt như thế! Cái nhất tâm của ông là
đưa thính chúng đến gần với tình yêu, một tình yêu vô biên, vị tha để cảm thông
giữa người với người. Điều quan trọng trong những lần thuyết giảng, ông hướng tới
một minh triết trong đời sống và nhìn nhận sự thật của cuộc sống đó là sống thực
với chính mình kể cả hai bề mặt ngoại vi và nội tại. Hai mảng nầy đã tạo nên sự
đối kháng bởi vì không một học thuyết hay một hệ thống nào dẫn đến chân lý tuyệt
đối…
Krishnamurti đã phân tích tâm thức nầy giữa ý thức và tiềm thức,
trong và ngoài của con người vì mỗi khi mình cảm nhận được mọi hoạt động thì đó
là hữu thức còn tiềm thức là một cái gì sâu lắng trong tâm hồn mà không bắt nắm
được thì đó là vô thức mà chỉ gây nên bởi trực giác của ý thức mà thôi. Do đó
tâm thức vô sư của Krishnamurti là một tổng hợp giữa trí tuệ, cảm giác và hành
động. Để tránh mọi đau khổ, phiền não con người cần phải vượt qua những siêu
lý, siêu nhiên trong đời sống thường ngày, phải thừa nhận một điều là vạn-vật-vô-thường,
tạm bợ, có không, khôngcó, bởi vạn vật không có tự tính vì tự tính được định
nghĩa như là “sự có” làm ra cho một vật nào đó; chính tự nó và cũng chẳng giải
thích được thế nào là đau khổ, thất vọng mà chúng sinh phải gánh chịu liên tục
hằng ngày.
Krishnamurti xuất thân từ Ấn độ, tất phải ảnh hưởng đôi phần
những giáo phái và đa diện màu sắc tôn giáo của xứ ấy; ông phủ nhận mọi giáo điều
của tín ngưỡng mà chỉ qui về với nguyên thủy như cái ngã-siêu-nghiệm mà tôn
giáo đối với ông như cái ngã-kinh-nghiệm được dựng nên.
Triết lý của Krishnamurti không chấp nhận sự khác biệt giữa bản
chất và hiện tượng vì hai đối tượng nầy chính là một, vô hình chung nó trở
thành thuyết nhị nguyên ngược lại tự nó đồng nhất là một; nghĩa là không có cái
nầy mà cũng không có cái kia. Ông nhấn mạnh nhiều lần mỗi khi thuyết giảng là
mang lại cho thính chúng cái tâm vô lượng chúng sinh một tâm thức về Thiền định
như là chuỗi hiện tượng vượt thoát ra khỏi con người để làm sao con người đạt đến
chân tâm. Triệt tiêu bản ngã tự tại để đi tới chứng ngộ của trí tuệ (prajna)
như giáo lý nhà Phật. Ông xoáy quanh về vấn đề thiền định để đưa con người đến
toàn thiện toàn mỹ và làm quen với chính mình, tìm hiểu được cái ngã và tìm thấy
ta là ai và cái gì cấu thành cái Tôi (le moi/self) khi vượt thoát ra khỏi mọi
chiều kích, hình tướng đó là mức độ kinh nghiệm trực tiếp mà không qua một sự nẩy
nở nào mà ngoại giới đứng ra làm trung gian. Đó là ngoại vi giữa đối tượng quan
sát và đối tượng được quan sát. Hai đối tượng nêu trên nằm trong trục: hiện tại,
qúa khứ và vị lai. Vậy để được giải thoát mọi đau khổ, phiền não, cô độc…chúng
ta có thể tìm thấy chân lý rõ ràng chỉ khi tâm hồn trầm lắng để nhận thức và chỉ
có thiền định mới có khả năng sáng suốt soi rọi cái tâm thức vô sư ấy. Mục đích
của thiền định là giải thoát mọi ưu tư,trút bỏ mọi gánh nặng thì lúc đó mới thực
sự yên tĩnh. Thiền định theo quan niệm của Krishnamurti là không phải sự tập
trung mà cần đến một tâm thức hoàn toàn thức tỉnh và cũng không phải sự kềm nén
suy nghĩ vì bị kềm nén sẽ sinh ra xung đột với tâm linh. Chính sự thấu hiểu đó
là kết cấu bởi tâm niệm, ấy là thiền định. Nó còn có tính chất ý thức trí tuệ đại
giác và cảm xúc từ hai trạng thái đó thì tĩnh lặng sẽ xuất hiện. Khi đó tâm hồn
hoàn toàn tự do và thiền định thoát ra khỏi mọi vọng niệm khác (meditation is
the ending of thought).
Thiền theo ý nghĩa của Krishnamurti vẫn được coi là một thứ
nghệ thuật vĩ đại mà chính mình không học hỏi từ bất cứ của ai; nó tự có. Đó
chính là cái tuyệt hảo của thiền (meditation is one of the greatest arts in
life; perhaps, the greatest, and one cannot possibly learn it from anybody.
That is the beauty of it…)
Jiddu cho rằng thiền được thực hiện trong mọi hoàn cảnh dưới
mọi hình thức chứ không nhất thiết cố hữu; thì lúc đó tình yêu thực sự bộc phát
và mất đi tánh-tự-tại của cái ”tôi”. Tâm hồn tĩnh lặng khi thấu triệt được sự vận
động của chính nó dưới dạng thức của tri giác và cảm giác.
Trong hơn bốn thập niên đi rao giảng chủ thuyết đại giác khắp
thế giới. Krishnamurti chỉ nêu lên một chân lý tối thượng về tánh không giữa sự
sống và chết, chỉ có một nguyên lý duy nhất là KHÔNG; bởi không còn gì ngoài chữ
VÔ, vô khứ vô lai, vô có nghĩa là không sinh khởi bất cứ điều gì. Chỉ còn lại sự
im lặng tuyệt đối của tánh không và ý thức là nơi mà mọi suy nghĩ được vận
hành, cảm nhận…và hoạt động hằng ngày đều thuộc về hữu thức.
Sự khai mở nầy hiện diện bên trong đồng thời được giả định bởi
mọi hình tướng cụ thể. Ông cho rằng khi tâm thức ở vào trạng thái có thể nhận
biết được sự khai mở của hiện thể, mọi hành động sẽ phù hợp với sự khai mở vì
thực thể được lưu tâm đến. Krishnamurti xóa bỏ mọi vọng niệm, mọi học thuyết, tất
cả đi vào cõi không; chỉ còn lại cái tâm là chính, tâm nằm trong niềm tĩnh lặng
và nhờ đó nhận thức được lẽ sống đó là kinh nghiệm mang đến cảm thức về sự độc
lập, tự do, về con đường sinh tử giải thoát toàn bộ chức năng của tâm thức vô
sư. Bởi kinh nghiệm đó là phó sản của qúa trình buông xả. Từ đó quán xuyến được
trạng thái vô úy không còn sợ hãi nào cả. Chính nhờ vào sự vô úy mà ta có thể
bao dung rộng lượng và thừa hưởng được bầu không khí của yêu thương vô-lượng-chúng-sinh,
không xung đột giữa cái nầy với cái kia.Trạng thái nầy Krishnamurti cho đó là một
sự tự do vô biên. Mà đây là một kinh nghiệm phóng vượt, phóng vượt ở đây không
có nghĩa vượt qua thế giới hiện tại đến một thế giới xa xăm nào khác mà có thể
nói như ta vừa ”ở đây” nhưng ta đã “ở cõi kia” rồi.
Năm 34 tuổi Krishnamurti chối bỏ mọi tôn vinh, từ chối mọi vọng
niệm bởi ông cho rằng tất cả mọi chân lý đều đi tới hư vô. Ông khước từ mọi qui
luật cố hữu, không đệ tử, không cư trú mà chỉ mang một tâm hồn tĩnh lặng và trực
diện với thực tại.Ông cho rằng con người sở dĩ đau khổ, phiền não đó là dục vọng
không ngừng xẩy ra giữa chúng ta; để thoát khỏi tình huống đó điều còn lại là
giữ được cái tâm tĩnh tức gạt bỏ mọi vọng niệm, vì sự tĩnh lặng ở đây không phải
là sản phẩm của tâm hồn im lặng, không phải là sản phẩm của tế bào não, khi đó
các tế bào não tạo ra sự im lặng và sự im lặng đó không phải là sự tĩnh lặng thực
sự.
Trong suốt cuộc hành trình thuyết giảng, Krishnamurti đã nhiều
lần từ chối chức phẩm đạo sư vì ông cho rằng bậc đạo sư có thể qua nhiều lãnh vực
ngoại tại hay nội tại. Chúng ta có thể thấy đạo sư hiện ra dưới mọi hình thức
khác nhau. Nếu quan niệm đạo sư một cách rộng rãi như thế ta mới biết rằng bao
giờ cũng có một người nào đó chỉ lối đưa đường hoặc thách thức tâm thức ta. Và
đó chính là tâm thức vô sư mà Jiddu Krishnamurti nhận ra được trong ý thức siêu
việt của nó. Thì lúc đó sự phân biệt giữa người và người không còn nữa, đồng thời
cảm thức về một sức mạnh vô biên. Người Ấn độ nói “cái biết” và “cái được biết”
vốn như nằm trong cùng một bình diện, cả hai cùng một tiến trình mà qua đó sự
phân cách sơ thủy giữa bản ngã siêu nghiệm và bản ngã thường nghiệm…
Từ đó biến Krishnamurti trở thành khách thể của đối tượng
thính chúng và qui vào cái gọi là hiện tượng Krishnamurti thời bấy giờ. Bởi vì
lý thuyết về tri thức của ông đã đưa chúng ta tới với hiện hữu và biến thành
tâm thức vô sư giữa chủ thể và tha thể. Tâm thức đó là một trạng thái hiện hữu,
trực tiếp hướng đến một đối tượng ước vọng mà Krishnamurti luôn luôn mong cầu
trong dạng thức tĩnh lặng của việc thiền định.
Tóm lại; quan niệm triết lý tư tưởng của Krishnamurti là nói
lên lẽ vô thường, một tâm hồn thanh tịnh vị tha và nhân ái trong qui trình vượt
thoát khỏi mọi ràng buộc, đau khổ và phiền não , thoát ra khỏi những định kiến
cố hữu mà xưa nay nằm trong cõi vô minh. Ông cho rằng: nếu thế giới nầy vỡ vụn
thì mối quan hệ của chúng ta với thế giới cũng vỡ vụn. Nhưng nếu chúng ta hành
động trọn vẹn và hoàn hảo thì mối quan hệ giữa ta với thế giới trở nên thế giới
đại đồng của nhân loại.
Krishnamurti đánh giá những bài thuyết giảng của ông đưa thế
giới loài người nhận thức được ý niệm VÔ tức cõi không trong một tâm thức tĩnh
lặng của thiền định thì mới mong giải thoát được những gánh nặng khổ đau sinh tử
dù trong hoàn cảnh nào của mọi lứa tuổi. Từ việc thay đổi bản thân, người ta
cũng có thể thay đổi được cuộc đời và vượt qua mọi quẩn bách của hiện tại, qúa
khứ, và vị lai để có một tâm thức vô sư đồng thời chứng nhân cho cuộc đời này
có được một hạnh phúc vĩnh cửu; đó là đấng thượng đế hằng sống.
Chú thích:
*Jiddu Krishnamurti (1895-1986) sanh ở Ấn Độ và chết tại Mỹ (USA). Để lại 60 bộ
sách về đạo làm người.
3/12/2023
Võ Công Liêm
Theo https://vietvanmoi.fr/
Heidegger (IV) - Nguồn gốc của tác phẩm nghệ thuật
Heidegger (IV) - Nguồn gốc
của tác phẩm nghệ thuật
Ngỏ: Đây là một trong những luận đề triết học của Martin
Heidegger (1889-1976). Một trong hai tiểu luận đáng chú ý: Hiện Hữu và Thời
gian (Being and Time -1927) và Nhiệm vụ của Suy nghĩ (The Task of
Thinking-1964). Trong đó: ‘Nguồn gốc của Tác phẩm Nghệ thuật/ The Origin of
The Work of Art ’ (1956) được xem là tiêu biểu nhất trong bộ môn văn học nghệ
thuật thuộc triết học. Dựa trên cơ sở lý luận của M. Heidegger để thành hình
bài đọc hôm nay với một cảm thức về tất cả tác phẩm nghệ thuật và trong tất cả
cảm thức mà Heidegger đã đưa ra như một thứ ngữ ngôn của nghệ thuật (the
language of art) với một tư tưởng hào phóng và tràn ngập ánh sáng… (vcl)
Gọi là nguồn gốc cho có chứng cớ chớ kỳ thực hiện hữu của
điều này là những gì nó là (it is) và coi như nó là (as it is). Vậy thì như
nó là/ as it is là nghĩa gì? Cái sự đó gọi là thực chất/ essence là điều
cốt yếu mà trong nghệ thuật làm được mới là cần thiết. Nói chung là chú ý tới gốc
ngọn của tác phẩm nghệ thuật, nó như là nó có từ đâu và đến từ đâu mới thành
hình cái nguồn thực chất của nó (its essential source) trong tác phẩm; chớ khơi
khơi gọi là tác phẩm nghệ thuật (the work of art) là tự cho mình làm nên nhưng
nó là vô nghĩa, bởi; cái vô nghĩa ở tự nó (itself) và lộ cái bản chất tự tại của
người nghệ sĩ. Nhưng; phải biết rằng người nghệ sĩ là ngọn nguồn của tác phẩm
–The artist is the origin of the work và tác phẩm chính là gốc của người nghệ
sĩ –The work is the origin of the artist. Điều ấy không những chẳng phải mà cho
những thứ khác. Tuy nhiên; không phải thế mà đưa vào đó cái việc duy nhất muốn
nói đến. Tự thân trong sự tương quan của người nghệ sĩ và tác phẩm đã chứa ở đó
một nhân phẩm cao qúy là vai trò đóng góp vật thể hạng ba; chính ba nhân tố này
đem lại một giá trị tuyệt đối giữa tác giả và tác phẩm. –each of them by virtue
of a third thing, là bề mặt của những gì nơi người nghệ sĩ và tác phẩm mới được
gọi là nghệ thuật –that which also gives artist and work of art their
nanes – art. Thời tất tác giả và tác phẩm là đúng nghĩa cho một thứ
nghệ thuật chân chính. Là vì; trong vai trò sáng tác của người nghệ sĩ qua những
ký hiệu biểu tượng là đưa vào đó một dàn dựng cơ cấu (framework) với tất cả luồng
tư tưởng trong tác phẩm là những gì cảm nhận rõ ràng bằng cách khác, là những
gì có vấn đề của vật thể đầy ấn tượng (thingly) trong tác phẩm nghệ thuật
(artwork). Và; chưa hẳn phải là nét đặc trưng trong tác phẩm, cái sự đó người
nghệ sĩ phải làm nên một cách thích đáng bởi đi qua bút mực hay khéo léo mà làm
nên? Đấy là điều dự tưởng mà thôi; tác phẩm nghệ thuật thành hình từ trong trí
tuệ của người nghệ sĩ, họ thách đố với vận mệnh để tác phẩm có một giá trị
riêng biệt. Mục đích của chúng ta là đạt tới ngay tức khắc và chứng thực một
cách đầy đủ của tác phẩm nghệ thuật, chỉ có cách đó sẽ đem lại cho chúng ta một
khám phá mới tức thời trong nghệ thuật và cũng là những gì có trong đó –Our aim
is to arrive at the immediate and full actually of the work of art, for only us
this way shall we discoer actual art also within it. Đấy là điều chúng ta muốn
nói đến cứu cánh đem lại mục đích cho việc sáng tạo nghệ thuật, điều mà chúng
ta không ra khỏi ‘qui ước’ của nghệ thuật. Nghệ thuật nói chung kể cả thi văn hay
điêu khắc là bộ môn đầy ấn tượng để làm nên tác giả, tác phẩm. Một vị trí nhất
thể để thực hiện ngọn nguồn thực chất của nó trong tác phẩm là định vị được vai
trò người ‘làm’ thơ, làm văn, cũng như điêu khắc hay hội họa là trút bỏ thế giới
bên ngoài mà lồng vào đó thực chất của sự kiên (in-fact) mới đúng nghĩa cho một
tác phẩm mang tính chất sáng tạo của nghệ thuật. Thí dụ: nhà văn H.H. chuyên viết
về nhận định thi/văn của mỗi tác giả. Văn nhân H.H thường mang nặng tính chất kể
lể hơn là bình giải giá trị đích thực của tác giả và đi ngoài những gì được bày
tỏ trong thơ hay truyện. Suốt hành trình viết văn chỉ viết lên cái vu vơ, cái
không cần viết làm hư hại một thứ văn chương viết và đọc. Thành ra vai trò người
viết hay làm thơ nói chung là người nghệ sĩ phải biết mình là ngọn nguồn của
tác phẩm và tác phẩm là gốc ngọn của người nghệ sĩ thời mới được gọi là nghệ
thuật/art còn bằng không đó chỉ là một sự bày vẽ mà thôi; nó chẳng có một
giá trị đích thực nào cả. Làm thơ cũng thế nó đòi hỏi cái ‘chân như’của thi ca
mới là sáng tạo, chớ in ấn thơ thời gọi đó là tác phẩm thơ. Dzỗm!
Vì thế việc đầu tiên chúng ta mang lại cái nhìn là vật thể, yếu
tính đặc trưg của tác phẩm; mà trong Basic Writing của Heidegger đả nói đến
–Hence we must first bring to view the thingly element of the work. To the end
it is necessary that we should know with sufficient clarity what a thing is; đấy
là việc cuối cùng là sự cần thiết, là những gì chúng ta biết tới và nói rõ vấn
đề điều gì muốn nói tới. Không còn gì hơn những gì chúng ta muốn nói đến trong
tác phẩm nghệ thuật và những gì tuân thủ để chúng ta đạt tới mục đích, có thể
cho chúng ta một quyết định đích thực của vấn đề là chứa đầy đủ yếu tố để thành
hình tác phẩm. Heidegger dùng chữ ‘thing/ sự vật’ có nghĩa rằng những gì người
ta làm (viết) và suy nghĩ là hành động, là tình huống, là thứ cần biết tới giữa
vật thể tác phẩm (Thing Work). Vậy thì cái gì chân như là vật thể coi như sự đó
là vật thể? –What in truth is the thing, so far as it is a thing? Cứu cánh tức
mục đích của chúng ta là tìm tới để biết cái nghĩa lý hiện hữu vật thể /
thing-being tức hiện hữu vật thể là vật thể (thingness). Chủ đích là khám
phá cái vật thể đặc trung (thingly) đó là vai trò, chức năng của vật thể. Cuối
cùng chúng ta phải biết tới ở chính mình với cái không thuộc về mình mà tất cả
những gì ở đây là một thực thể thuộc về những gì trong đó mà chúng ta quen gọi
là sự vật – to this end have to be acquainted with the sphere to which all
those entities belong which we have long called by the name of thing. Quả vậy;
cuộc đời chúng ta đang sống dưới ‘sự vật/thing’ là một hiện diện đích thực. Dẫn
một vài ví dụ: Đát , sạn, cát trên đường là sự vật tợ như cục đất trong cánh đồng.
Nhưng; những gì nói về sửa uống đựng trong chai hay trong hộp giấy và nước
trong đáy giếng có gì khác không? Những thứ đó là vật thể. Lá mùa thu, con diều
hâu bay qua cánh rừng đều gọi là sự vật. Nói chung tất cả đều là những thứ vật.
cho dù những thứ đó không phải, nhưng; đó là chứng cứ cho vật thể đã được liệt
kê ở tự nó, dù rằng những thứ đó không hiện ra thời chúng ta gọi nó vật-thể-ở-tự-nó
/ thing-in-itself. Trong ngữ ngôn triết học cả hai thứ sự-vật-trong-chính-nó /
things-in-themselves và sự-vật-hiện-ra / things-that-appear; cả hai là hiện hữu,
nói chung là vật thể. Cho một ví dụ khác: Tàu bay, máy truyền thanh (radio) là
hiện vật ngày nay gần với chúng ta, nhưng; khi chúng ta nghĩ trong đầu thì đó
là vật thể, nhưng; cái này khác cái kia. Ngay cả cái chết cũng được coi là sự
thể (thing) chớ không khác gì hơn giữa sự thể và vật thể. Ở đây được xem là chỉ
định từ bất luận là gì, ấy là điều không phải giản đơn, nó có một liên đới lẫn
nhau trong hiện thể của sự vật, Trong cảm thức tác phẩm nghệ thuật cũng gọi là
vật thể, nói xa, nói gần vật thể có nhiều loại của hiện hữu (sort of being) những
gì nêu ra đây là phân ranh một cách thực thể, sự đó gọi là mô thức hiện hữu của
sự vật (the mode of being of a thing) là ngược lại những gì cho là mô thức hiện
hữu của tác phẩm (the mode of being of a work). Vạn vật trên cõi đời này
là vật thể. Nhưng nhớ cho: Con người không phải là vật thể / A man is
not a thing. Nói chung, tất cả mọi hiện vật là vật thể; ngay cả vật thể thuộc
thiên nhiên được coi như vật thể được đặt tên. Thế thôi! Nhưng; phải hiểu sâu sắc
cái từ ngữ ‘thing / vật thể’ là mang lại cho chúng ta một lãnh hội có từ một phạm
vi rộng lớn trong tất cả những gì đều là vật thể hiện hữu (thing=res=ens=a
thing) bao gồm những vật thể trội hơn hay ít hơn. Ngoài ra trong cái nghĩa hạn
hẹp của hai chữ ‘mere things’ mà Heidegger nêu ra mang khía cạnh gì? Tác giả muốn
nói rằng ‘nó chỉ là vật thể / mere thing’ không có gì khác hơn. Nó chỉ
là ở đây có nghĩa trước hết/first là vật thể nguyên trạng, một vật thể
giản đơn của sự vật mà trong đó chỉ nói lên sự vật mà thôi chớ chẳng phải là
chi cho thêm rườm rà. Cái sự đó chúng ta có thể cho là cảm thức thích đáng, hợp
lý (proper sense) một cảm thức về sự vật là cảm thức từ trí tuệ mà ra.
Vật thể? Sao gọi nó là vật thể, bởi ở chính nó là ‘vật thể/thingness’
mà ngay trong đầu của chúng ta đã thừa nhận nó là vật thể. Hẳn
nhiên; điều đó không giản đơn bởi những gì nêu ra là một tổng thể phát hiện. Vật
thể như người ta đã biết đến là những gì vây quanh trong một vị trí đã được sắp
xếp và định vị cho vật thể này, vật thể nọ trong một cảm thức khác nhau, Tuy
nhiên điều chúng ta nói là một nối kết vào nhau giữa sự vật và vật thể, tựu
chung nó là cốt tủy của nó. Hy Lạp cho rằng sự thể như thế được gọi là hypokeimenon
/ hypotasia /thực thể là một sự đặt tên. Đối với sự kiện thì đây là cốt tủy
của vật thể đã đặc nó dưới dạng thức của cái này, cái nọ hay còn gọi chung
trong một từ ngữ khác của symbebêkota / symbolize / đặc trưng hay còn
gọi là biểu tượng của vật thể (thingly) là những gì liên đới vào nhau hoặc dựa
vào hình tượng để đặt tên. Qua kinh nghiệm cơ bản của Hy Lạp (Greek) hiên hữu của
hiện hữu nằm trong cảm thức của hiện tại –the Being of being in the sense of
presence. Thế nhưng điều đó được diễn giải về vật thể một cách rõ ràng không
còn chi để ngờ vực về những gì đã thành lập và hiện diện từ rày cho tới về sau
như một tiêu chuẩn cố định. Hiểu được nó tức lãnh hội vật thể một cách rõ ràng
và cho ta một phân định vật thể ở trong vị tri nào và ngoài vị trí nào. Tựu
chung dưới dạng thức việc đặt tên là đúng hiện thể của sự việc. ‘Thing’ không
còn là vấn đề mà điều kiện ắt có và đủ như một định hệ cố hữa giữa sự sống và sự
chết, giữa Thượng đế và Con người đều nằm trong vật thể sinh ra; không thể chủ
quan về điều này mà hiểu cho hiện hữu của hiện hữu là nằm trong cảm thức của hiện
tại, là sự cố như đã định. Chúng ta không còn hoài nghi mà thừa nhận sự hiện diện
của thượng đế và con người là dây chuyền kết nối giữa có và không giữa
hư và thật là một hiện diện thực thể. Cho nên chi khi gọi vật thể để xác định sự
việc là chính ta có mặt trong đó như một hiện vật. Một qui trình lớn dần trong
tư tưởng để cho tư tưởng phát tiết; nó cô đọng trong cốt tủy tự nhiên để thành
hình vật thể Vậy gọi tác phẩm là gì? Nó là vật thể đã được sáng tạo trong một
tâm thức bừng dậy. Hai chữ ‘khơi khơi’ được dung ở đây là ý niệm của vô thừa nhận,
vì nó mang nặng hình tượng cá thể hơn hình tượng vật thể. Giá trị vật thể biến
mất là hành động phá hủy một tư duy muốn nói tới. Vậy thì điều gì cho là hiển
nhiên, minh bạch, sáng tỏ hơn hẳn những gì mà con người hoán chuyển hay thay
ngôi đổi vị để đề xuất hướng đi của người khác ? Để hiểu rõ thế nào là những sự
vật trong cùng một cấu trúc thiết kế về vật thể ở chính nó –What could be more
obvious than that man transposes his propositional way of understanding things
into the structure of the thing itself? Đó là câu hỏi đưa ra. Chúng ta phải xác
quyết vấn đề thực hư, chúng ta không tự-đối-thoại mà bày tỏ là sự thể hiển
nhiên (obviousness) là chứng cớ muốn nói tới giữa vật thể và con người như một
vai trò xác quyết. Vấn đề như đã nói là trong những gì đến đầu tiên và chức
năng của vật thể được coi như tiêu chuẩn.
Cấu trúc định vị (proposition-structure) hay cấu trúc vật thể
(thing-structure) là hai vị trí cho ta một xác quyết vấn đề giữa cấu trúc định
vị và cấu trúc vật thể Cho dù để lại đó một sự nghi ngờ liệu trong thể thức vấn
đề là nằm trong tất cà có thể quyết định được –It even remains doubtful whether
in this form the question is at all decidable. Thực ra vị trí của vật thể là
nguồn gốc xuất phát từ trải nghiệm trong cuộc đời, nó được úng dụng trong nhân
gian để được đặt tên cho vật thể dưới những gì mà con người nhận ra. Con mèo
mun là con mèo đen. Con quạ là đen như một thực thể vì rằng không có con quạ trắng,
mỗi hiện thể là một quyết định chớ không thể ‘khơi khơi’ ví von ‘cá gáy hóa rồng’
ngay cả việc nhân cách hóa cũng phải ở trong một cảm thức thích đáng của
‘proper sense’ mới hợp lý. Còn đặc điều nói tầm bậy là sai trái.
Heidegger nói đến những gì có thể nhận thức hay cảm thụ được,
bởi; cảm nhận được (perceptible) trong cảm thức (sensation) là tùy thuộc vào một
sự nhạy cảm của nó (sensibility). Heidegger cho đó là aisthéton là sự
vật cố định (The thing) trong vấn đề ông nêu ra, cho dù lý luận triết học,
nhung, đó là một cảm nhận thực thể giữa [thingness] và [thing] để cho ta phân
biệt giữa thực hư trong một hiện thể thực tại.
Giờ đây diễn giải thực thể của sự vật cố định là được xem như
việc làm đúng đắng và có thể chứng minh trong mọi trường hợp như thời gian trước
đây. Thực ra đây là chứng cứ làm thỏa mãn để nhìn vào sự thật của nó về những
gì thuộc thực thể và những gì thuộc vật thể; trong hai cơ bản lý luận nó mang
tính chất bao hàm của hiện vật được sắp xếp theo thời gian, nó có một định hướng
nhất thể trong vai trò sống thực và giả tưởng là điều có thể nghĩ ra một cách
khác gần như một liên kết để cấu tạo của material và forma để
rồi đặc niềm tin vào đó qua lý thuyết triết học mà tất cả sự thật nằm trong một
nơi không mấy quan tâm của những gì hiện hữu mà người ta đang đặc niềm tin. Nó
rơi vào thế chẳng đặng đừng. Để đả thông tư tưởng một cách sáng tỏ và chí lý về
nguồn gốc của tác phẩm nghệ thuật, nó cô đọng trong cốt tủy ‘thực chất’ một thực
chất sống thực mới làm nên lịch sử, một tác phẩm lịch sử là tác phẩm có tính
nghệ thuật, là ‘thingness’ là vật thể được lưu truyền, chớ ‘dựa hơi’ hay ‘cốp-pi-cat’
để thành hình cho một tác phẩm thì việc đó không thể cho ‘the origin of the
work of art’ bởi; nó không phải là gốc ngọn của sáng tạo. Thí du: Gần đây một số
văn nhân viết và đọc chuyện xưa, chuyện đã đi qua mấy tkỷ hoặc những năm gần
đây, lập lại hoặc thêm mắm thêm muối tợ như dựng chuyện qua nhiều kỳ (1,2,3…),
cái đó là ‘feuilleton/serial’tạo một thứ quảng cáo không tiền; vô bổ. Việc đó tợ
như ‘khổ quá nói mãi’ là bệnh lý trong thể thức viết và đọc cho một tác phẩm.
Đòi hỏi duy nhất của thingness và thing là điều đặc biệt để
làm nên Tác phẩm Nghệ thuật / the Work of Art; ấy là cơ sở có luận đề.
Ở kỷ nguyên này lấy văn chương khoa học làm cốt tủy, đáng được đề cao, trao giải
là thực chất của vật thể / thing, nhưng; liệu có thực hiện được hay không ?
Tuy nhiên; bằng một sự giới thiệu vừa đủ ở tự nó thời tác phẩm
nghệ thuật là đơn giản hóa vấn đề hơn những gì cho là ’nó chỉ là vật thể/mere-thing’,
nó chỉ là phát triển tốt cho chính nó và tự chất chứa lấy nó –However; by its
self-sufficient presencing the work of art is similar rather to the mere-thing
which has taken shape by itself and is self-contained. Thế nhưng; chúng ta
không thể thừa nhận tác phẩm được gọi là ‘mere-thing’, bởi; nó không đáng ‘chỉ
là /mere’ chớ đừng nói nó là vật thể của tác phẩm. là vì; nó thiếu đi cái lợi
ích tối thiểu ở tự nó của tác phẩm nghệ thuật (artwork) nghĩa là tác phẩm nghệ
thuật trở nên thực trong trí của người nghệ sĩ và nó nằm trong trí người nghệ
sĩ –The work of art becomes real in the mind of the artist and it stays in the
mind of the artist. Đó là sự thật ‘chân như’ của người làm văn nghệ. Công Tôn
Long triết gia Trung Quốc nói:‘Ngựa trắng không phải là ngựa’.Ông phủ nhận một
hiện thể sống thực? Hiện thể sống thực là sự vật (thing) của vật thể
(thingness). Vậy thì vật thể chưa phải là hiện vật như ta nhận ra. Công Tôn
Long đưa chúng ta vào thế giới hoài nghi, thế giới không có thực. Heidegger đưa
chúng ta vào thế giới mù tăm giữa vật thể và sự vật. Bởi; cả hai cho ta một xác
quyết thực hư giữa có và không, giữa không và có để nhận ra thực trạng hay đây
là một ‘negativeness’ một khước từ tương xứng (negative equity). Quả vậy; những
gì lý giải về ‘sự vật/thing’ với cái nghĩa ‘vật liệu/matter’ và ‘hình
thành/form’ là hiện vật để thực hiện tác phẩm (hội họa) hay xem đây là lời lẽ
ví von gián tiếp vào hiện vật giữa vật thể và sự vật. Hay nó để lại cái gì xưa
ngàn kiếp (medieval) mà truyền lưu cho tới bây giờ hay coi đây là dự tưởng theo
lý thuyết ‘Kantian’ hay nó trở nên chiều hướng và tự chứng cứ (self-evident).
Nhưng; cho dù dưới lý do gì đi nữa, không có gì là ít lợi ích để chúng ta chú ý
tới vật thể và sự vật, nó xâm lấn vào những gì về hiện hữu vật thể
(thing-being) đấy là điều chúng ta đặc vấn đề cho hôm nay.
Vậy cho nên chi mô thức được xếp vào hạng ba trong vật thể đã
được diễn giải cụ thể vai tró và chức năng với hai điều kiện hiện thể của vật
thể và sự vật, tưởng như gần nhau nhưng hoàn toàn khác biệt, những gì có ở đó
là dẫn đến vấn đề hình thức cấu trúc, vô hình chung là một sự công kích vào vật
thể. –Thus; the third mode of interpretation of the thing, that which follows
the lead of the matter-form structure, also; turn out to be an assault upon the
thing . Định kiến là phản ảnh cái buộc miệng, buộc mổm những gì là Hiện hữu’ của
bất cứ những gì đã thừa nhận là hiện hữu. Những gì đến lúc này cho một ý niệm vật
thể là điều mà người ta nghĩ để hướng tới việc làm có tính cách ấn tượng
(thing) của hiện vật, và; chính tất cả điều đó là nhìn tới công việc trong vai
trò xây dựng tác phẩm, ngoài ra đây là công việc tợ như sự cố diễn ra một cách
rõ ràng. Chúng ta phải quay về phía hiện hữu, nghĩ về nó trong cái quan tâm đến
Hiện hữu của nó, nhưng; nghĩa lý của việc nghĩ đến ở cùng một lúc là đem lại một
sự nương tựa ở chính nó trong cái gọi là phẩm chất của chính mình –We ought to
turn toward the being, think about it in regard to it Being, but; by means of
the thinking at the same time let it rest upon itself in its very own essence.
Cái quan trọng để lãnh hội là chúng ta phải hiểu lấy nó như một thực thể đã có
mà đồng điệu vào với Hiện hữu như một thực chất cần có trong tác phẩm nghệ thuật,
bao hàm giữa vật thể (thingness) và hiện vật (thing) Cả hai đóng vai trò hết sức
đặc thù và ấn tượng để hoàn thành sứ mệnh văn nghệ trong tác phẩm nghệ thuật.
Những gì của vật thể của hiện vật là một suy tư hết sức đặc biệt, điều đó khó
khăn để bày tỏ và rất ít khi diễn cảm sai lầm cho một chứng từ bởi lịch sử, sự
diễn giải về nó như đã trình bày. Ghi nhận lịch sử chép lại một cách trùng
phùng (coincides) hợp với tư tưởng Phương Tây mà cho đến nay vẫn nghĩ Hiện hữu
là của hiện hữu. Ấy là điều khó lý giải vật thể (thingness) và sự vật (thing)
trong lúc này. mà; Hiện hữu (Being) là sự thể tự nhiên giữa thượng đế và con
người. Còn hiện hữu ở đây là trực diện với sự vật như đã có. Giữa hai sự kiện đầy
ấn tượng của vật thể và sự vật đã làm xáo động tư tưởng qua từng thời kỳ trước
đây. Tuy nhiên; không những chỉ coi đây là việc làm để thiết lập một điều gì nhứt
quán mà coi đây là mục đích chính đáng trong việc nhận thức về sự vật hay vật
thể. Ngược lại chúng ta khám phá đầu mối trong tiến trình lịch sử ngày nay. Đây
là điều chắc chắn rõ ràng của sự vật và vật thể là nguồn gốc có từ diễn giải của
những gì thuộc trang bị, một thứ trang bị hiện hữu –the equipmental is being of
equipment. Chính sự trang bị nó đến trong hiện hữu xuyên qua những gì con người
làm nên., cái xích mắc, cái giây chuyền đó là hệ gia đình trong tư duy con người
(human thinking) Thế nhưng, diễn giải cho ‘trọn gói’ là một công phu, huống là
tác phẩm nghệ thuật có gì trong đó (?). May ra nhờ Jacob bắt thang lên hỏi ông
trời mới mong sáng tỏ. Đó là chuyện hôm nay. Điều cần lưu ý giữa cái từ mà
Heidegger gọi as it is / như nó là không giống như cái từ thường dung
as is , bởi; hai nghĩa khác nhau hoàn toàn. ‘as it is’ như đã dẫn ở trên còn
‘as is’ nghĩa: như-thế-đó, có sao chịu vậy, nó đông cứng trong trạng thái thừa
nhận sự cố, ‘như-nó-là’ thể hiện điều đã có như sự kiện, là chuyện thường hằng
giữa vật thể và sự vật, một xác định rõ ràng, một sự thể quyết định cho tác phẩm
nghệ thuật. Ví dụ: tác phẩm nghệ thuật đem ra bày bán hay đấu giá thì sự thể của
tác phẩm trở nên ‘as is’ một cách rõ ràng, nó không đòi hỏi hay lý giải mà chấp
nhận như sự đã rồi. Giá trị tác phẩm nghệ thuật nó khởi từ khi bắt đầu và sống
động trong tâm hồn của người nghệ sĩ; đó là cốt tủy của sáng tạo để được gọi là
sự việc (thing). Đấy là sự thật như là / as is. Là thế đấy !
Có lẽ chúng ta sẽ gợi ý một đôi điều để chúng ta nghĩ về vai
trò của sự vật một cách đặc trưng về sự vật và sự vận hành chức năng của việc
làm –Perhaps; this will suggest something to us about the thingly character of
the thing and the workly character of the work Với mục đích là tạo hình ảnh như
giới thiệu cái sự vừa đủ không dư không thiếu. Thí dụ: Chúng ta chọn một trong
những tranh nổi danh của Van Gogh, ông ta vẽ đôi giày như thường gặp. Nhưng;
cái gì có nơi đây để thấy? Mọi người đều biết những gì bao gồm nơi đôi giày. Nếu
đôi giày không phải bằng gỗ hoặc là thứ da thô loài thú mà đó là lớp da thú vấn
quanh ở đó băng những sọi dây da và đinh… Cho nên chi xem tranh Van Gogh có những
diễn tả lạ mắt nhưng đó là thực chất khi lên màu, không còn nghi ngờ đúng sai
và vẽ lên một cách rõ ràng những gì sẳn sàng cho ta nhận biết đến nó, để không
còn nghi ngờ thực hư trong diễn cảm của tác giả mà hoạch định một đường lối
riêng tư cho chính mình và hòa nhập vào đó như một hiện thể sống thực, Van Gogh
đả thực thi và hoàn thành sứ mệnh văn nghệ từ trước cho đến nay. Xem tranh Van
Gogh không còn lạ lẫm mà hòa nhập vào tranh và người nghệ sĩ chớ không thể xem
tranh ‘khơi khơi’ thừa nhận với tư thế vô trách nhiệm, nó đan kết trong một kỷ
thuật tạo hình để hình thành tác phẩm là những gì thuộc dụng cụ máy móc được
cung cấp là bao gồm những gì đầy đủ để dùng. Đòi hỏi của Van Gogh không cần phải
chính xác hay hiện thực, bởi vật thể đã chính xác như ông đã thấy trong bầy quạ
đen ập đến trong cánh đồng; ông đã phá màu để trở nên hình tượng là một kỷ thuật
‘sáng tạo’. Van Gogh không để trong tranh một sự hoài nghi nào cả hay tàn tích
một sự gì trong tranh. Tranh ông đẹp và sáng tỏ nhờ nói lên cái gốc ngọn
chân-như (essential source) là cốt tủy của trường phái hôi họa.Vì vậy dụng cụ
là thiết bị cho phương tiện để hoàn thành tác phẩm; việc quan trọng trong hội họa
là ‘matter/matière’ chính chất liệu là ‘vật thể /thingness’ mới dựng nên tác phẩm.
Nói cách khác là phương tiện ở dụng cụ. –The equipmental quality of equipment
consist in its usefulness. Đời Van Gogh hẩm hiu nhưng tranh ông vẽ hoàn toàn
thoát tục như một sự giải thoát giữa đời. Ông lao đầu vào họa như lao đầu vào đời.Họa
phải như thế mới gọi là vẽ! Chớ vẽ thì ai vẽ cũng được. Trong tác phẩm của nghệ
thuật sự thật của hiện hữu được sắp xếp ở chính nó để thực hiện, Sắp xết/To set
nghĩa ở đây là mang lại thế đứng (to bring to stand). Đấy là một hiện hữu đặc
biệt, trong tác phẩm hội họa là đứng trong ánh sáng. Nhưng mãi tới bây giờ, điều
đó có thể đã phải làm từ lâu với những gì làm đẹp cho nghệ thuật. Nghệ tuật đó
phát sinh ra cái gọi ‘mỹ thuật/fine arts’. Mỹ thuật ỡ sáng tạo cái đẹp chớ
không tạo cái đẹp (beautiful); nhưng đôi khi được gọi như thế cho đồng điệu với
‘văn chương’. Nhưng ở đây coi như là một đối kháng; bởi cái đẹp rất ‘logic’.Tuy
nhiên; đẹp (beauty) là dành cho thẩm mỹ mà thôi chớ không phải đẹp /beautiful
dành cho mỹ thuật hội họa.Mà nhận đó là vật thể / thingness của mỷ thuật.
Sớm muộn gì chúng ta tìm kiếm những gì như là đặc thù sự vật ở
cái mức thấp nhứt trong tác phẩm, chúng ta không cần phải viết ra lời bằng cách
đưa vào tác phẩm như phương tiện dụng cụ, để rồi mọi thứ đó chúng ta cũng có thể
gán cho sự việc với một cấu trúc siêu tưởng, thiết nghĩ nó chứa những gì đạt tới
của thẩm mỹ –As soon as we look for such a thingly substructure in the work, we
have unwrittingly taken the work as equipment, to which we then, also; ascribe
a superstructure supposed to contain its artistic quality. Nói ra đây hay viết
ra đây không cho đó là dẫn chứng mà nêu ra một cái gì sáng tỏ của nghĩa lý, cốt
để lãnh hội sự thật của ngữ ngôn, cho dù ngữ ngôn nào đều mang tính chất đả
thông giữa vật thể và sự vật. Phát ngôn cũng là sự vật qua lời nói, là một dụng
cụ đầu môi, trước lưỡi như một ‘chứng từ’; nó trở nên ‘thing/ sự thể’ chớ không
coi đó là ‘thingness/ vật thể’. Cho nên chi chúng ta thấy được những gì trong
tác phẩm. Nhưng; nhớ cho tác phẩm không phải là thành phần của dụng cụ làm nên
mà ở đó đã trang bị theo yêu cầu cho cái sự thêm vô, bớt ra để có một giá trị
thẩm mỹ dính liền vào đó –But the work is not a piece of equipment that is
fitted out in addition with aesthetic value that adheres to it. Tác phẩm không
còn chi để thêm mắm thêm muối cho mặn nhạt ‘không vừa’ mà đơn phương những thứ
làm nên là nồi niêu soong chảo (equipmental) là những thứ làm nên tác phẩm (ăn
uống). Đấy là đường lối chủ trương cho vật thể và sự vật có một xác định cụ thể
trong tác phẩm nghệ thuật. Tác phẩm không mang vào đó nhiều thứ vô bổ, tạp nhạp
hoặc những gì vô cớ để rồi nhào nặn những ngữ ngôn gọi là văn chương, nhưng;
đưa văn chương viết và đọc trở thành hàng ‘tạp hóa’ không phân định được hàng
thiệt hay hàng giả mà cần có nhựng gì thuộc dụng cụ là xác định được vị trí xử
dụng một cách đầy đủ và một hiện hữu đã dựng nên –the specific equipmental
characteristic of usefulness and being made. Thời tất chúng ta sẳn sàng thực hiện;
mà nó là một sự trình bày tự nhiên để đạt tới thẩm mỹ -It is the formulation
nature to aesthetics. Vẫn trình bày ở đây một sự việc rõ ràng minh bạch của vấn
đề trước cho việc đầu tiên mở ra đây bởi chúng ta –still this formulation of
the question was not first developed by us. Cả hai điều nói trên là nhìn thấy vật
thể thẩm mỹ ở tác phẩm nghệ thuật bằng một truyền thống cố hữu nhưng đổi mới tư
duy bằng một thể thức giảng giải về hiện hữu vật thể và sự vật trong sáng
tác.Đó là những gì chúng ta quan tâm tới việc làm.
Nói rút lại; tác phẩm nghệ thuật mở ra ở đây là cách thức làm
chủ lấy nó, là một Hiện hữu của những gì hiện hữu (Being of beings). Đưa vào đó
những ví dụ, thí dụ khác nhau, là bộc lộ bằng dẫn chứng để nói lên sự thật của
hiện hữu (the truth of beings) và những gì xẫy đến trong tác phẩm nghệ thuật để
có những ngoặc đơn, ngoặc kép là một nhấn mạnh vào vấn đề hoặc pha trộn vào đó
ngữ ngôn khác nhau là tợ như vai trò người nghệ sĩ chấm phá ‘sắc màu’ để thành
hình tác phẩm, Chúng ta hãy điều nghiêng vấn đề trước sự thật, tất chúng ta
đang hiện hữu trước những hiện hữu khác. Nghệ thuật là sự thật được sắp xếp ở tự
nó để thực hiện. Cái gì cho đó là sự thật ở tự nó? Hay đôi khi coi đó là độc
quyền sở hữu của nghệ thuật?. Vậy thì; cái sự gì để tự sắp xếp nó vào trong tác
phẩm? Tất cả bao hàm trong một hiện hữu sống động để làm nên tác phẩm như vật
thể của muôn vàn thứ vật thể khác. Đấy là sự thật cố hữu. Một sự thật không pha
chế, không tha hóa, không đưa vào đó những thứ tạp nham hay cốp-pi-két là phá
hoại nghệ thuật.Vậy cái gì gọi là nghệ thuật? Nói cho ngay nghệ thuật nằm trong
tác phẩm nghệ thuật –Art is actual in the artwork chớ có đi đâu xa mà tìm; tác
phẩm nghệ thuật là thực chất ờ tự nó, còn lấy cái này bồi lên cái kia gọi đó là
tác phẩm là nghịch lý mà mang tiếng sao chép cái của người ta đã nói tới. Giờ
đây một số văn nhân làm cái việc ‘khổ quá nói mãi’ mất tính sáng tạo nghệ thuật
do chính tự nó dựng lên. Thí dụ: chuyện thi sĩ Bùi Giáng, chuyện nhà văn/thơ Phạm
Công Thiện, có cần nhắc lại nhiều lần hay tự chúng ta tìm thấy cái thật, hay
cái không thật của từng nhân vật để thực sự cho chúng ta ngợi ca? Chớ ‘bồi ẩu’
là phá đi sự thật của nó. Cho dù là vật thể qua cách nói khác, bởi; nhị vị nằm
trong một Hiện hữu ‘chờ đợi’ như họ đã thực hiện; ấy là hiện hữu của sự kiện chớ
không mong ca bài ca ‘con cá’ hay cho rằng ‘cá gáy hóa rồng’. Nguồn gốc của tác
phẩm nghệ thuật nó đòi hỏi cái gọi là thực chất là cốt tủy của nghệ thuật. Thực
vậy; sự vật tức vật thể của tác phẩm nhất là tác phẩm nghệ thuật là việc làm bất
khả phân; đấy là điều không thể chối bỏ hay từ nan, sở dĩ đặc nó trong môi trường
sự vật là vì trở nên ‘thingly’ là nét đặc thù sáng tạo trong tác phẩm đó là sắc
tố (elemently) đặc trưng đi vào trong tác phẩm.Nó vẫn để lại đó như một vấn đề
nêu ra. Là; hiện hữu của sáng tạo, một sáng tạo thuộc về người nghệ sĩ –belong
to the artists; Sáng tạo ở đây là luôn luôn nghĩ đến cái việc ‘dự phần’ để làm
nên –Creation is here always thought in reference to the work đó là đặc chất của
việc làm (văn.thơ/họa/khắc/chạm) là phản ảnh một cách trung thực, quan hệ này dẫn
đến thực chất của sự thật như coi đây là điều không thể che đậy được của hiện hữu.
Vấn đề của chân lý sự thật và thực chất được qui về một mối vừa là chứng tỏ chiều
sâu cho một hiện hữu, vừa chứng minh được trí tuệ phát tiết một cách sáng tỏ.
Chung qui việc làm đó là đặc ưu cho chân lý sự thật (truth) và nghệ thuật. Là
như thế này: nghệ thuật là gốc ngọn của tác phẩm và của người nghệ sĩ, bởi; gốc
ngọn đó là cốt tủy của thực chất mà trong đó là một Hiện hữu của thực chất hiện
hữu, điều không thể giải bày được. Vậy thì nghệ thuật là gì? Chúng ta tìm kiếm
thực chất trong sáng tạo mà chính việc làm đó đã khai mở bằng tất cả những gì
có trong tác phẩm mà trong tác phẩm là những gì của sự thật. Đúng ra cái tự
tâm, cái trầm tỉnh của tác phẩm là nói lên cơ sở hoạt động ở đây–The
self-composure of the work is grounded here.
Như vậy; chúng ta nghĩ đến sáng tạo là thực chất đem đến cho
tác phẩm là mang lại những gì đi trước, nhưng; tạo dụng cụ cũng mang đến việc
làm đi trước –But; the making of equipment, too ; is a bringing forth. Một sự
thật rõ ràng cho những phương thức (modes) đưa ra là chứng cớ cho những gì thuộc
sáng tạo, cho những gì có tính chất xử dụng dụng cụ là một liên hợp giữa sản xuất
vật thể và phát hành sự vật, nếu; nó là nguồn vốn cung cấp cho tất cả. Thế
nhưng; trong tác phẩm nghệ thuật, sáng tạo là một bày tỏ trung thực có từ trí
tuệ tạo ra trong đó như một hiện hữu sáng tạo để thấy được ở đó một sự nổi bậc.
Cái sự đó được xem là thực chất của sự thật và cũng là nền móng ở chính nó, nó
xuất hiện như thể là đối kháng hay xung khắc giữa một sự gì sáng tỏ và một sự
gì ẩn tàng trong sự bất đồng của thế giới loài người.
9/10/2023
Võ Công Liêm
Theo https://vietvanmoi.fr/
Hiện hữu và hư không
Hiện hữu và hư không
(L’ÊTRE et NÉANT/ BEING and NOTHINGNESS)
To: Ms. Katherine Jenkins (University of Calgary Ab.Ca)
Trong số những tác phẩm của Jean-Paul Sartre* để lại;
Hiện Hữu Và Hư Không cho ra đời 1953 được xem là một luận đề (essay) quan trọng
nhất đối với thuyết hiện sinh ( existentialism) của Sartre mà được ông chủ xướng
như một lý luận hiện thể và đích thực về tư tưởng nhân bản. Một tiến trình về
tư duy đáng kể nhất để giảm thiểu sự hiện diện của tồn lưu và đồng loạt xuất hiện
những học thuyết mà điều ấy được coi như một xác quyết minh bạch cho bộ phận
triết học của ông. Đó là cứu cánh vượt qua một cách chắc chắn giữa vô số dạng
thức của những yếu tố như sự kết hợp của tồn lưu trong vũ trụ, cụ thể nhất về mặt
tinh thần để phân chia giữa tốt và xấu như một ngăn cách về trạng thái nghi ngờ
của hiện hữu. Chính cái lưỡng tính giữa hai bề mặt đó tạo nên sự bối rối về triết
học và được thay vào đó một học thuyết triết học khác, hầu tìm ra một giải pháp
thích hợp hơn của khoa hiện tượng dù là những đơn phương chính yếu nào đi nữa.
Dù rằng sự xuất hiện chủ thuyết là rõ ràng minh bạch cho sự
hiện hữu; không những ở nội tại hay ngoại tại đều được xem như đồng thể ngang
nhau, sự hiện diện đó không còn tính cách độc quyền.
Ở đây Sartre hệ thống hóa để giới thiệu phần cốt tủy của triết
học hiện hữu (philosophy of Being) . Ông nói đến cái gọi là tri thức của con
người và tri thức của thế-giới-như-nhiên mà hai vị trí đó được gắn liền vào
nhau. Để giới thiệu đầy đủ về nhãn quang của Sartre như một tương quan giữa xã
hội và con người.
Chủ thuyết hiện sinh của Jean-Paul Sartre là giải phóng con
người ra khỏi những ràng buộc cố hữu để tìm đến với tự do và khai phá những tồn
tại bức xúc, bày tỏ sự hiện hữu của con người trên mặt đất nầy và được xem như
khoa phân tâm học chủ lực. Một “ sine qua non” để lãnh hội về chủ nghĩa hiện
sinh và đó cũng là điều quan trọng được coi như kẻ đưa đường về khoa triết học
hiện đại của thế kỷ XX.
L’Être et le Néant là một tuyển tập luận đề triết học về hiện
tượng thuộc khoa siêu hình học ( A Essay On Phenomenological Ontology) ; bao gồm
5 phần chính :
- Vấn đề của Hư Không (The Problem of Nothingness)
- Hiện-Hữu-Cho-Tự-Nó (Being-For-Itself)
- Hiện-Hữu-Cho-Cõi-Khác (Being-For-Others)
- Nhận Có, Thực Hành Và Hiện Hữu (Having, Doing And Being)
- Kết Thúc (Conclusion)
Ở đây chúng ta chỉ đưa lên một vài khiá cạnh đặc biệt trong
Being And Nothingness/L’Être et Neant với cái nhìn riêng tư về thuyết hiện sinh
của Sartre. Trong bài viết được nêu ra ‘ la transcendence de l’Ego. Esquisse
d’une description phénoménologique ‘ 1936. Sartre vẫn cho toàn vùng của hiện tượng
học chuyển thể từ Ego/Self và được miêu tả một cách khái quát về hiện tượng mà
Ego chính là bản ngã tự tại, đưa tới cái vị lợi ‘Selfishness’ của con người, một
ý niệm như thách đố của Husserl về sự chuyển hóa của Ego.
Sartre đối kháng thể thức của Descartes. – “ Tôi suy nghĩ ;
do đó tôi hiện hữu “ (I think ; therefore I am). Ý thức nói ở đây “I am” (Tôi
là; tức tôi hiện hữu) chưa hẳn là một ý thức tuyệt đối mà đó chỉ là suy tư mà
thôi.
(The consciousness which says “I am” is not actually the
consciousness which thinks) (P.92).
Descartes từ chối về cái đột khởi của ý thức mà phải do chính
từ ý thức mà ra với một phương pháp hết sức nghi ngờ mà vẫn được coi như một đạo
luật. Trong lúc đó chúng ta chỉ mới bắt chụp cái thoáng nhìn của sự phản đối
đó, có thể là do nghi ngờ của ý thức, như thể là một hành động không mấy vững
chắc. Nhưng cái gọi là ‘Descartes Cogito’ như một tư thế riêng biệt dành cho ý
thức tự nó và được xem như một đối kháng, nhưng ở đây là một đối kháng khách
quan. Trong những lời lẽ của ‘Cogito’ không phải là điều đưa Descartes nghi ngờ;
đó là sự phản ảnh của Descartes lên sự nghi ngờ “ Tôi nghi ngờ; do đó tôi hiện
hữu “ (I doubt; therefore I am) Thật ra là: “ Tôi ý thức điều mà làm tôi nghi
ngờ; do đó tôi hiện hữu” (I am aware that I doubt; therefore I am).
Thuyết gia Cartsian Cogito (Descartes) phản ảnh là chính sự
thể đó không còn tự nó nhưng nguyên thủy sự cớ ấy là ý thức do từ sự nghi ngờ
mà ra. Chính sự khai phá đó giữa tư tưởng của Descartes về sau nầy Sartre đã
tìm ra được những bước khởi đầu trong học thuyết của ông…
Sartre thường hay xử dụng ngôn ngữ ‘nhận thức’ như một lý trí
riêng tư “non-positionelle (de) soi”; chữ ‘de’ được nằm trong dấu ngoặc đơn, để
chứng tỏ rằng không có sự phân chia đẳng cấp hay ngôi vị, không phân biệt vị
trí của bản ngã như một đối tượng của ý thức. Sartre đề cập đến một thứ ý thức
trong sáng (néant/nothingness) một trạng từ chưa tỏ rõ bằng một sự nhấn mạnh rõ
ràng trong cái không, cõi không trống rỗng, không dính dáng vào cái không của
không. Sartre đưa cái ý thức trong sáng của hiện hữu cũng như hư không; có thể
là một luận án có tính cách võ đoán (non-thetic) cho tự-thức
(self-consciousness) hoặc đưa vào một vị trí của tự-thức cái đó là tâm-thức của
‘soi’ tức là ‘tự’ cái tự-có (soi-même/one-self) trong ý thức mà ý thức đó như một
ý thức suy xét phản ảnh được sự nhìn nhận về hành động và trạng thái của ý thức
trong sáng đó và hầu như dành cho một vị trí tự-nó. Cùng một trạng huống đó
Sartre đặc ra hai nền móng chính yếu cho vấn đề ý thức như quan tâm tới sự phản
ảnh của ý thức; điều ấy chính là cơ bản trong những tác phẩm sau nầy của
Sartre.
Trước hết theo quan niệm của Husserl là nắm được toàn bộ ý thức
có nghĩa là ý thức từ mọi hướng, từ mọi sự vật thì điều đó như một ý thức có chủ
đích và trực diện, chủ điểm đưa tới một chủ thể siêu nhiên khác hơn tự-nó. Nơi
đây chính là mầm thai nghén của Sartre về cái nhìn sau nầy giữa hiện-hữu-con-người
và hiện- hữu-thế-giới-như-nhiên ngày nay là bằng chứng của Sartre về khoa siêu
hình học và sự tồn lưu của hiện sinh, gọi là hiện-hữu-tự-nó mà sự cố chính là
cõi-ngoài-kia của ý thức.
Thứ hai về phản ảnh ‘cogito’ là không cá tính. Ấy là điều
không thực vì đó là điều chúng ta có thể bắt đầu với một vài vấn đề như “tôi nhận
thức được cái ghế” Những yếu tố đó cho chúng ta một cảm nhận đích thực của ý thức
( il y a / there is / Cái đó là) tức là nhận thức về cái ghế một cách cụ thể
trong ý thức trong sáng.
Theo ý Sartre; tự-nó của Ego là không phải ý thức mà đó chỉ
là lời lẽ phát biểu một cách mơ hồ. Dĩ nhiên đây không phải là điều để nói rằng
Ego là chất liệu của ý thức; bởi Ego theo Descartes là ‘tự’ tức ngã, tự nhận của
ý thức mà ở đây không còn đề mục đưa ra mà là khả năng phán đoán do từ sự vận dụng
của ý thức lương tri hoặc ý thức trực tiếp xẩy ra.
Sartre nói: “ Sự dâng trào của ý thức trong sáng là sự xếp đặt
kiên cố tự-nó một liên hiệp nhất trí tự-nó”
(Plux of consciousnesss constituting itself as the unity of
itself ).(P.100)
Ông nói tiếp: “ Như thế thì Ego/Tự-nó là một tổng hợp nội
quan và có tính cách siêu lý trừu tượng”.
(Thus the Ego is a sythesis of interiority and transcendence)
(p.101).
Năm 1940 sau khi cho ra đời luận án Tâm Lý Và Hình Tượng (The
Psychology Of The Imagination) như một hiện tượng tâm lý; chính vì thế mà
Sartre dựa vào đó như thử dựa trên căn bản để giới thiệu về Hư-Không
(Nothingness); trọng tâm của luận án là nhìn thấy những khác biệt giữa trí tưởng
và tri giác đó là ý thức của nhận thức.
Sartre đưa ra hai vấn đề :
1- Chức năng của trí tưởng do từ sự tình cờ xẩy ra và thể hiện
được tính siêu hình của thể chất ý thức hoặc có thể đó là điều được mô tả như một
cơ cấu thiết yếu của thể chất ?
2- Điều kiện nầy là một sự cần thiết cho sự nhận thức về hình
tượng của ý thức. Hay là điều kiện được xem là có thể giống nhau hay khác nhau
trong cùng một ý thức ?
Ý thức trong sáng phải được tôi luyện, bồi đắp với một cá
tính riêng biệt của ý thức đó là tiềm năng của Hư-Vô (Nihilation /
Néantisation). Sartre nhấn mạnh ở đây Hư-Vô và Hư-Không nghe gần gũi nhưng là
khác biệt của trí năng và ý thức. Ở đây Sartre nhìn Hư-Không là sự trống không,
trống không một cách hoàn toàn (emptiness) của Hư-Không (Nothingness) rõ ràng
như xác định vị trí của nó chứ không có tính mơ hồ của Hư-Vô (Nil (d.từ)).
Sartre đi xa về điều nầy và cho rằng trong mọi hành động của hình tượng thì điều
đó không còn nghi ngờ gì cả giữa Hư-Vô và Hư-Không. Nếu sự thể của vấn đề đặc
ra ở đây như sự vắng mặt hoặc không hiện hữu tồn lưu hoặc như là mất khả năng
trung hòa (neutralized) ở đây được coi như khả năng do từ một cơ cấu tạo thành.
Có nghĩa rằng ý thức là điều không thể tránh được mà tương quan với thế giới
quan; bởi chúng ta có thân xác hữu thể là một xác quyết rõ ràng giữa ý thức và
ý thức trong sáng của vấn đề siêu nhiên. Vì ý thức nằm trong qui thức đầu tiên
là không có tính không-sắp-đặt-tự-thức. Đó là lý lẽ cho ý thức mà ý thức đó được
coi như ý thức trong sáng (ness). Ở đây ý thức có thể không còn là hình tượng của
ý thức cũng có thể thiếu đi năng lực phủ nhận và triệt thoái nó ra khỏi ý thức
mà Sartre gọi là “Hư-Vô” đó là kết quả tìm thấy cái KHÔNG nó nằm trong sự chìm
lắng của ý thức của thế giới quan mà đó là ý thức sâu lắng trong ý thức tồn
lưu; đó cũng không phải là một khả năng chiếm cứ bất luận từ một hướng nào,
nhưng phải hiện hữu của sinh tồn.
It would have to be conceived as completely engulfed in the
exsisten and without the possibility of grasping anything but the existent
(P.271)
Trong Hiện Hữu và Hư Không Sartre thật sự nối liền lý tưởng của
Hư-Không và Tự-Do. Có nghĩa rằng ý thức là điều có thể có hiệu năng như một sự
xuất hiện của cái gọi là không thực (unreal) không thực để sản sinh ra từ thế
giới bên ngoài; bởi vì tự-do hết sức siêu nhiên điều mà nhân loại có thể hình
dung ra được nghĩa lý của nó.
Hiện Hữu và Hư Không là tiếng vọng, là thông điệp mà Sartre
miêu tả như một hiện-hữu-tự-nó (Being-in-itself) không những có thể hoặc không
thể. Mà ‘nó-đã-là’ như một nhấn mạnh của ý thức trong tính nhân bản.
Quan trọng khác; luận cứ của tiểu thuyết là ý niệm về sự ‘buồn-nôn-tự-nó’.
Buồn Nôn là điều quan tâm tiên khởi của Sartre với xúc cảm triền miên trong con
người của Roquentin là một tri thức mà tri thức đó như một chiếm cứ, một sự
chia xẻ có dự phần của những sự vật hiện hữu (existence of things). Giữa Hiện Hữu
và Hư Không Sartre mở rộng tư tưởng về bản năng ý thức, một biểu lộ cơ chế như
thể một hiện hữu chối bỏ, bắt nguồn từ nội giới, nhưng chối bỏ ngoại giới thì
giản đơn như một sự khác biệt rõ rệt giữa hai sự thể cùng một cảm giới không
hơn không kém. Thí dụ nói rằng: - “ cái chén là không có ở trên cái bàn” Thì đó
là một chối bỏ trên bình diện nội giới; mà điều đó chỉ có thể hữu thể trong ý
thức. Hiện hữu tạo sự chối từ ảnh hưởng trong hiện hữu.
Sartre tóm lược lại vị trí của ý thức như sau: “đối với ý thức
là không có hiện hữu ngoại trừ có một điều kiện bắt buộc để được phát hiện bằng
trực giác của sự vật”
For consciousness there is no being except for this precise
obligation to be a revealing in intuition of something. (P.618).
Chỉ có cách làm cho ta có thể hiện hữu như một ý thức khác của
một hiện hữu khác mà thôi. Hẳn nhiên Sartre đã nắm chắt cho-cái-tự-nó
(For-itself) là tính chất phiêu lưu mà ông đã nói lên lời cứng chắc về hiện hữu
và một đời sống có ý thức.
Sartre thường phát biểu về Hư Không như một sự hiện diện, như
một chi tiết trung thực, thẳng thắn để phê nhận cả hai ý niệm của Hegel và
Heidegger. Đối với lời phê nhận của Hegel cho rằng; “ Không bao giờ có cái cõi
ngoài mà đó chỉ là hình thức luân lý của cái gọi là không-hiện-hữu (non-being).
Như vậy sự tương quan của con người là hiện thực. Sartre cho sự thể đó làm cho
quan niệm của Hegel về hiện-hữu và không-hiện-hữu là một điều đúng lúc, đúng
thì thay vào một nhãn quang không-hiện-hữu như một tùy thuộc vào luân lý của hiện
hữu. Ông cho sự thể đó mà Hegel hết sức thờ ơ một cách vô tình giữa hiện-hữu với
không-hiện-hữu.
Heidegger phù hợp với Sartre coi đó là một sự cân nhắc đúng đắn
đưa tới một tiến trình bởi sự hoán chuyển từ Hiện-hữu đến Hư-không và nhận ra cả
hai bề mặt của hiện-hữu và không-hiện-hữu là dấu hiệu căng thẳng cho việc chống
đối. Heidegger cũng ca ngợi lời phát biểu của Sartre về Hư-không như một dự phần
của con người đầy đủ kinh nghiệm, ở đây không phải việc làm đơn thuần như một
việc trừu tượng. Sartre cảm nhận được ý thức của Heidegger; bởi những nguyên
nhân bên ngoài đã làm đình trệ trong cái duy lý về Hư-không mà lấy đi tất cả những
khả tính có thể tính toán, chọn lọc một nguyên lý của sự Hư-Vô (nihilations).
Đây là điều mà Sartre đã nói; không còn cách gì hơn để giải thích cái vô cùng
trong ‘đáy giếng’ của Hư-không mà những điều đó dự phần trong đời sống hằng
ngày của chúng ta.
Cả hai Hegel và Heidegger đưa ra vấn đề giữa hiện-hữu và
không-hiện-hữu đó là vấn đề mà Sartre đã nói đến về Hư-không mà không phải qua
Hiện-hữu. Hư- Không đã tìm thấy và có thể thiết lập được để rồi chối bỏ cái thực
thi đi vào Hư-Vô. Nói chung hai ông đã thờ ơ sự cấu trúc và trí tuệ của con người
hoặc là ý thức của con người. Sartre tránh những đối tượng đó mà ông cảm thấy cần
phải mạnh dạn đứng lên chống lại những chủ thuyết của Plato, Hegel và
Heidegger, sự cảm nhận đó có thể nói rằng đó là một phương án trị liệu của tri
giác, trí tưởng và nhận thức, tất cả như dính chùm vào nhau trong một luân lý cổ
hủ giữa một xác định cụ thể và sự chối từ. Cái đó gọi là chối bỏ nội tại; tự-nó
như một luân lý khác biệt.
Sartre hoàn toàn không hạn chế mà thường coi Hư-Không như một
ý niệm có tương quan. Ông dùng nó như để phát biểu về một nỗi đau, để lột trần
những gì đáng kể nhất và như thể có mắc phải vào những lo âu mà Heidegger đã đề
ra.
Hư-Không là nằm giữa cái lý sự vô cớ và hành động. Đó là
nguyên cớ để trở nên cái sự lý vô cớ; chỉ khi nào thật sự tự do. Bởi tự do của
Hư-Không thực sự từ ý thức. Cuối cùng Sartre chỉ dùng nó như là tiếng nói của tự
do. Ý thức tự do là cái tự-nó vẫn ‘chưa đủ’ để nhận ra sự hiện hữu.
Như vậy ; cái gì Cho-tự-nó (For-itself) là được phơi bày một
cách rõ ràng về Hiện-hữu, một nội tại Hư-Không của Hiện-hữu, một tương quan với
Hiện-hữu, một mong muốn của Hiện-hữu và một chọn lựa của Hiện-hữu.
Trong phần thuyết trình về Hư-Không, đặc biệt về phần tiếp nối
của tri giác và trí tưởng. Sartre đã thận trọng dùng khoa tâm lý học của
Gestalt như một tương quan bổ sung cho trí năng về ‘hình tướng’ (figure) và ‘cứ
điạ’ (ground).
Chúng ta nhận thấy rằng Hư-Không là Cho-tự-nó, không những chỉ
vào sự chối bỏ nội tại và lột trần Hiện-Hữu. Nhưng đó cũng là dục vọng của Hiện-Hữu
và chọn lựa của Hiện-Hữu.
Cái nhìn của Sartre là từ khi khởi ra cái Cho-tự-nó
(For-itself) trong sự tương quan với chạm trán Trong-cái-tự-nó (In-itself). Có
nghĩa là sự ao ước, lòng ham muốn thì sự ham muốn dục vọng đó được thích hợp
Trong-cái-tự-nó. Trái lại lòng ham muốn dục vọng đưa cảm giác như để đồng hóa
hay đã đồng hóa với Hiện Hữu và rồi trở thành một trong hai cái Cho-tự-nó và
Trong-tự-nó hoặc gián tiếp bởi lần chiếm cứ đầu tiên. Hiện Hữu là thể thức của
thế giới quan.
Trong cùng một phương cách đó; những điều mà nhận ra được là
những điều không tương hợp hoặc đột nhiên ‘biến dạng’ đúng lúc để đi tới một ý
thức chọn lựa, đó là một chọn lựa phù hợp với những điều mà trước đây hầu như
người ta đã phớt lờ về phần tâm lý hoặc xem đó như một tổng thể của siêu nhiên
về Ego (It-self) và nhờ đó tạo nên được sự chọn lựa của hiện hữu. Điều mà rất
hiếm thấy về sau nầy; nhưng với danh nhân lịch sử hay bộ môn tiểu thuyết thì lại
xem như một thứ văn chương đích thực, một xác quyết về mặt bí truyền xẩy ra như
sự cố.
Có hai vị trí khác biệt của khoa tâm lý học; đối với Sartre
là một tiếp nối quan trọng qua lăng kính của ông đó là Cho-tự-nó chính vị trí
đó là mạch liên đới với con người. Đấy là ý tưởng của Sartre nói về như nhiên của
thân tâm, của dục tính xác thịt. Lẽ đương nhiên cảm giác đó là thể chất đứng ra
như một sự kiện của con người.
Chúng ta suy xét về một phần của ý thức mà ý thức đó chính là
Cho-tự-nó (For-itself) được coi như Hư Không là mãi mãi mâu thuẩn nội tại. Thực
tế sự ấy nằm trong lãnh vực của Cái-trong-tự-nó (In-itself) như đã được tồn lưu
(existed) bởi cái gọi là Cho-tự-nó (For-itself) thì đó là vấn đề tâm lý. Trên
thực tế chúng ta phải có nhiều xác quyết cụ thể về cái Cho-tự-nó là chính thân
tâm của mình. Vì Cho-tự-nó là ý thức của vật thể như đã thấy. Cho-tự-nó không
có ý thức phán đoán mà chỉ hiện diện để xuyên qua cảm thức của Trong-tự-nó.
Chúng ta đã thấy điều quan trọng ấy trong “ La transcendence
de l’Ego “ Sartre tin là Ego chỉ một phần tâm lý và từ đó được xem như vật thể
của thế giới quan. Sartre bắt bẻ sự sai lệch đó về Hiện Hữu và Hư Không mà
Sartre đã bày tỏ trước đây và ông rất vững tâm và lạc quan về điều đó. Sartre
đã phân tích kỷ năng về thể xác của con người mà ông đã chia ra làm hai phần :
-Thể-xác-cho-một-cõi-khác (Body-for-the-Other) và Thể-xác-thấy-bởi-một-cõi-khác
(Body-seen-by-the-Other). Đó là dây chuyền kết nối của tâm-thân. Mỗi khi Hiện Hữu
với tâm-thân trong cùng một tiến trình của thành quả thì đó là Thân-xác-thuộc-về-tôi
(Body-for-me) thuộc về Hiện Hữu dù hiện diện trong cõi Hư-Không để ý thức về những
điều ‘tự-nó’ như hiện thể với thế giới quan.
Với bài viết nầy còn thiếu những dữ kiện để xác minh cái đích
thực phản ảnh sự trong sáng của J.P. Sartre. Ở đây chúng ta chỉ có cái nhìn thẩm
quan về những gì Sartre đã làm ra trong phần kết thúc luận án triết học trong
tư thế phân tích văn chương (Literary analyses) . Sartre đã vẽ lên ở đây một cuộc
Cách Mạng Mới đặt xuống một đề cương cho xã hội mà trong đó cho phép chúng ta một
tiếp nối tồn tại với cái tự vươn lên ‘self-trascendence’ một cách siêu đẳng
trên con đường đi tới tự do thật sự và được coi như bước tiến dẫn đến con đường
hiện sinh của ông. Đó là những gì Sartre đã làm ra trong phần kết thúc tập tiểu
luận triết học nầy.
Jean-Paul Sartre muốn khởi hành một mình để tìm đến một lối rẽ
mới, một lối rẽ đi tới hành động cho nhân loại. Có lẽ; không còn bao lâu để
khám phá hướng đi của ông với cái nhìn riêng tư của ông như một phần hoạch định
tự nhiên.
Cuối cùng Sartre chấp nhận mọi sự căng thẳng về tự do cũng
như mọi trách nhiệm và bổn phận mà Sartre đã thực hiện. Những điều nhận định ở
đây cũng giống như Sartre đã miêu tả là một đúc cứng dự án của con người, như một
tổng thể liên hợp từ ngoại giới đến nội giới của ý thức nhân bản và được coi
như chúng ta ‘phải là’.
Tóm lại Hiện Hữu là điều kiện giản đơn như vạch trần hết thảy.
Hiện-Hữu-vạch-trần (Being-for-revealing / Être-pour-dévoiler) thì cũng như lột-trần-hiện-hữu
(revealed-being / être dévoilé) giữa hai dạng thức đó không có gì khác biệt giữa
Hiện Hữu; nói cách khác giữa CÓ và KHÔNG là RỖNG, tất cả đều nằm trong qui
trình vũ trụ giới với con người. Sartre giải phóng toàn bộ tính không trong ý
thức Hiện Hữu và Hư Không như một gạch nối cho lý thuyết hiện sinh mà Sartre đã
bày tỏ và hết lòng nâng cao giá trị nhân bản một cách trọng yếu trong triết
thuyết của Sartre đề ra.
Nếu hiện hữu của hiện tượng thì nó không còn phân tích về hiện
tượng của hiện hữu. Cụ thể hơn hết từ khi xuất bản tiểu luận Hiện Hữu và Hư
Không Sartre luôn luôn quan tâm hạnh phúc hay bất hạnh của con người, đó là vấn
đề luân thường đạo lý (Ethical) mà mục đích và tính nết đã được biểu lộ một
cách sâu đậm trong những tác phẩm của ông để lại; nhất là những tác phẩm triết
học phong phú và hiệu năng, một luận án đầy đủ , là phạm trù triết học mang
tính triết thuyết hơn là triết học. Dẫu sao; dù dưới lý luận nào chống đối hay
phủ nhận chân lý hiện sinh là một đánh dấu vô cùng qua mọi thời đại mà con người
đang trực diện với hiện hữu trong hay ngoài của cái ‘tự-nó’ mà chúng ta đương đầu
hằng ngày với thế giới quan và sự sống còn giữa cõi tồn lưu.
Tất cả những vấn đề đã được đề cập với chúng ta hôm nay là một
điều hết sức trong sáng, không một phản ảnh phụ thuộc nào; điều đó chỉ tìm thấy
câu trả lời trên mặt phẳng của cái gì thuộc về tâm lý và ý thức mà thôi.
Chúng ta đang nhìn tới một thế giới mới trong tương lai.
Chú thích:
* Jean-Paul Satre (1905-1980) Sinh và chết tại Pháp quốc.
30/8/2023
Võ Công Liêm
Theo https://vietvanmoi.fr/
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)
Hư vô phản kháng
Hư vô phản kháng Hư vô phản kháng là gì? Là niềm đau vô tận số: ngậm ngùi bi thương, đoạn trường ai oán. Trong trạng huống đó người ta tạm...
-
Nguyễn Du Từ một ai đó đến không ai cả Bạn phải là một ai đó trước khi có thể là không ai cả Engler Jack Sau thời đại...
-
Hoàng Thụy Anh và những không gian mơ tưởng “ta chấp nhận mọi trả giá - kể cả cái chết - để hiện sinh - như một bài ...
-
Ánh trăng trong thơ Dương Quân (Trong Ba tập thơ Chập Chờn Cơn Mê, Điểm Hẹn Sau Cùng, Trên Đỉnh Nhớ) Vào một ...

