Tướng Giáp đã đúng về cuộc chiến 1946
Trong cuộc hội thảo thứ ba trong Chương trình Hòa
bình cho Đông Á của Đại học Upsalla tổ chức vào 18.10.2013 tại Học viện Ngoại
giao, có một sự cố đặc biệt. Tại lần thứ ba này, các nhà tổ chức đã thất bại trong
việc mời một nhà lãnh đạo của Đông Á tham dự và phát biểu. Giáo sư sử học Stein
Tonnesson, người tham dự hội thảo đã có sáng kiến là thay vào bài diễn văn của
một lãnh đạo Đông Á, ông sẽ trình bày một bài diễn văn về cuộc đời và những chiến
tích của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, và được đồng ý.
Giáo sư Stein Tonnesson đã viết cuốn sách “Việt Nam năm 1946: Chiến
tranh đã bùng nổ như thế nào”, bản tiếng Anh ra đời năm 2010 với giả
định rằng lẽ ra cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất có thể ngăn được, và
Việt Nam đã bị “bẫy”. GS Tonnesson đã có cuộc trả lời phỏng vấn về giả định
này.
Cái bẫy chiến tranh
* Tại sao Việt Nam và Pháp bỏ lỡ cơ hội ngăn cuộc bùng nổ chiến
tranh cuối năm 1946, theo quan điểm của ông?
– Việt Nam và Pháp đã ký Hiệp định sơ bộ vào
6.3.1946. Nhưng cuộc đàm phán để đi đến hiệp định này hoàn toàn không tự nguyện,
bởi vì cuộc đàm phán này là do sức ép của Trung Quốc (chính quyền Tưởng Giới Thạch).
Họ có quân chiếm đóng ở Việt Nam, và vẫn còn chiếm đóng miền Miền Bắc Trung Quốc.
Họ có thỏa thuận với người Pháp vào ngày 28.2.1946, khi họ
rút quân ra khỏi Bắc Việt Nam, và cho phép người Pháp quay trở lại thế chân. Đổi
lại, họ nhận được rất nhiều tiền từ người Pháp.
Nhưng quân Tưởng đã không biết rằng người Pháp đã chuẩn bị
quay lại Việt Nam nhanh như thế, và muốn chiếm Việt Nam bằng vũ lực. Nhưng, với
mong muốn như vậy, người Pháp cũng muốn thương lượng với chính phủ Hồ Chí Minh
để được phép cập cảng ở Hải Phòng.
Chính quân Tưởng cũng đã yêu cầu Pháp phải thỏa thuận được với
Chính phủ Hồ Chí Minh trước. Vì vậy, cả người Pháp lẫn người Việt đều bị Quốc
Dân Đảng gây sức ép về việc ký hoà ước này.
* Tướng Giáp đã trả lời ra sao khi ông đề cập về chuyện này?
– Khi tôi hỏi tại sao hiệp định này lại không được thực thi đầy
đủ, Tướng Giáp đã trả lời rằng nó được ký trong điều kiện với đầy sức ép như vậy,
nhưng đã giúp Việt Nam có thêm thời gian củng cố thêm vị thế của mình.
Tức là Việt Nam được công nhận là quốc gia tự do, và họ chỉ
cho phép Pháp ở lại tạm thời, sau đó sẽ đuổi quân Pháp ra.
Cuộc đàm phán tiếp theo ở Fontainebleau để tiếp tục những kết
quả của hòa ước 6.3.1946, và làm tăng thêm tính độc lập của Việt Nam, đã không
đạt được kết quả.
Thế nhưng, Hoà ước 6.3.1946 không bị dập tắt ngay, bởi Đảng
Xã hội và Đảng Cộng sản Pháp ở Pháp lúc đó nắm quyền, và họ không muốn có chiến
tranh ở Đông Dương. Chính phủ Hồ Chí Minh cũng muốn tránh cuộc chiến tranh này,
và họ đã đạt được hòa ước với Bộ Trưởng Thuộc địa Pháp, thuộc Đảng Xã hội.
Tuy nhiên, hòa ước này đã bị phá hoại bởi Cao ủy Pháp tại Sài
Gòn Georges Thierry d’Argenlieu, một người được Đại tướng Charles de Galle, chứ
không phải Đảng Xã hội bổ nhiệm.
Nhưng đến tháng 12.1946, trong một thời gian ngắn, Pháp có một
chính phủ do André Léon Blum đứng đầu, và ông ấy muốn giữ hòa bình tại Đông
Dương.
Hồ Chí Minh muốn chính phủ Pháp rút d’Argenlieu, Cao ủy Pháp
tại Đông Dương, về, và bổ nhiệm một người khác tốt hơn. Nhưng chuyện đó đã
không diễn ra.
Có một cuộc khủng hoảng chính trị ở Pháp thời điểm đó, và Tổng
Tư lệnh Quân đội Pháp ở Đông Dương được lệnh ném bom Hải Phòng, giết hàng ngàn
người ở đó. Từ đó, ở Hà Nội nổi lên phong trào tiêu diệt quân Pháp, xây dựng
công sự và chuẩn bị chiến tranh.
Khi Pháp vào Việt Nam từ tháng 3.1946, quân Tưởng cũng đã rút
đi. Hồ Chí Minh muốn giữ chặt mối quan hệ với André Léon Blum, lúc đó là Thủ tướng
Pháp, và gửi hàng loạt bức điện tín, nhưng những người Pháp ở Sài Gòn, con đường
duy nhất để các bức điện có thể sang Pháp, đã tìm cách trì hoãn những bức điện
đó lại. Trong khi đó, ngoài Hà Nội, người Pháp tìm cách phá hoại Hiệp định,
và khiêu khích với mong muốn là Việt Nam sẽ tấn công trước.
Tướng Giáp cho rằng đã quá sức chờ đợi của Việt Nam về mặt thời
gian, trong khi Hồ Chí Minh lại quyết định chờ đợi thêm với Chính phủ Blum,
song song với việc chuẩn bị những chứng cứ về việc quân Pháp giết người ở Hải
Phòng. Hồ Chí Minh muốn có thêm thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến tranh.
* Và quyết định ngày 19.12.1946 ông đã gọi là “cái bẫy” của
Pháp ở Đông Dương?
– Đúng vậy. Và vào 19.12, Pháp đã tiến thêm một bước nữa, gửi
điện tín cho phía Việt Nam, với hàm ý rằng Pháp sẽ tấn công. Và Tướng Giáp đã
tin vào điều đó.
Nhưng Hồ Chí Minh cho đến phút chót vẫn nghĩ rằng ông có thể
chờ đợi Blum, với quyết định không gây chiến?
Đúng vậy. Và Chính phủ Blum đã làm đúng như vậy. Có điều bức
điện mà ông gửi chỉ đến Sài Gòn sau khi chiến tranh nổ ra. Bởi vì khi lên làm
Thủ tướng, Blum đã gửi một phái đoàn hòa bình sang Việt Nam, và ngày
17.12.1946, trước cuộc chiến hai ngày là ngày ông ra quyết định.
Tôi nghĩ là có sự thiếu nhất trí trong việc tuyên bố chiến
tranh trong nội bộ chính phủ Việt Nam, và có sự hiểu nhầm giữa chính phủ Pháp
và Việt Nam, và cơ hội gìn giữ hòa bình đã bị bỏ lỡ.
* Và ông đã hỏi lại Tướng Giáp chuyện này bao giờ?
– Cuối năm 1991. Tướng Giáp nói rằng ông đã được lệnh tấn
công, và sự việc đã không thể khác được.
Tôi lại nghĩ rằng đó là nguyên cớ chỉ ra rằng Tướng Giáp đã
đúng. Tôi biết ở Việt Nam có những tài liệu nói về chuyện này, nhưng rất tiếc
là những người nước ngoài như tôi không thể tiếp cận chúng.
* Khi lần đầu tiên ông gặp Tướng Giáp, cảm giác của ông về vị
tướng này thế nào?
Lần đầu tiên tôi xin gặp ông là cuối những năm ’80, nhưng mọi
cố gắng đã không đạt kết quả. Trước khi tôi quay lại Việt Nam cuối năm1991, tôi
lại xin, và tôi đã được gặp ông.
Có một chuyện hơi buồn cười là tôi đi đến nơi hẹn, Nhà khách
Chính phủ, nhưng những người ở Học viện Ngoại giao bảo tôi phải gửi xe ở gần
đó, và lên xe ô tô của họ để vào gặp ông. Họ giải thích rằng một vị khách của
Tướng Giáp phải như vậy.
Khi tôi vào phòng, chúng tôi ngồi đối diện nhau. Những người
của Học viện Ngoại giao ngồi một bên, còn bên kia, phía Tướng Giáp, là những
người phụ tá của ông. Tổng cộng cả phòng có chừng 50 người.
Ông bảo tôi đặt câu hỏi bằng tiếng Anh, và Tướng Giáp trả lời,
và người phiên dịch sẽ dịch Anh – Việt và Việt -Anh. Nhưng tôi đã hỏi ông bằng
tiếng Pháp, và ông cũng trả lời bằng tiếng Pháp, và người phiên dịch không có
việc gì phải làm, giống hệt như cuộc gặp của tôi với GS Phan Đình Diệu vào năm
sau.
Ấn tượng đầu tiên của tôi là tiếng Pháp của ông rất tốt.
Nhưng ấn tượng mạnh hơn là ánh mắt của ông, ánh mắt của một người có bản lĩnh lớn.
Hồi đó tôi đã đọc cuốn “Những năm tháng không thể nào quên” của
Tướng Giáp, và tôi muốn nghe ông giải thích về một số điều ông viết trong đó,
cũng như cách ông kết thúc cuốn sách.
* Đối với câu hỏi của ông về khả năng cứu vãn hòa bình cuối
năm 1946, Tướng Giáp đã trả lời thế nào?
– Khi câu chuyện chuyển sang năm 1946, Tướng Giáp nói rằng
ông biết rằng tôi sẽ hỏi câu hỏi đó, và ông nói rằng phía Việt Nam đã chủ động
tuyên chiến vào ngày 19.12.1946.
Sau đó, Tướng Giáp viết hồi ký của mình, gồm 3 tập, nói rõ những
việc mà trong “Những năm tháng không thể nào quên” còn chưa nói rõ. Và ở cuối
cuốn thứ 3, ông đã tranh luận về việc cuộc chiến đã xảy ra như thế nào ở miền Bắc,
với các luận điểm của một học giả Pháp và một học giả Na uy.
* Học giả Na uy là ông?
– Đúng thế.
Nhưng tôi không cảm thấy hài lòng với giải thích của ông. Bởi
qua đó tôi không thấy rõ ràng nguyên nhân chính của Lời Kêu gọi toàn quốc
kháng chiến của Hồ Chí Minh.
Tướng Giáp còn đọc rất kỹ những gì đồng tác giả người Pháp và
tôi nói, và ông thể hiện rõ quan điểm của mình chống lại những gì chúng tôi giả
định.
* Ông giả định điều gì?
Một quan điểm khác của tôi là nếu Việt Nam tránh khỏi cuộc
chiến cuối năm 1946, sẽ không có cuộc chiến nào ở Việt Nam, kể cả cuộc chiến
Đông Dương lần 2 (Chiến tranh Việt Nam), và con đường phát triển của chính trị
và xã hội Việt Nam sẽ hoàn toàn đi theo hướng khác. Và Việt Nam sẽ
không quá phụ thuộc vào Liên Xô và Trung Quốc như thực tế đã diễn ra, và Việt
Nam sẽ thực sự độc lập hơn nhiều.
Thế nhưng, cho đến bây giờ, ngay cả luận điểm này tôi cũng
không tin.
Việt Nam cùng lắm là hoãn chiến tranh được 10 tháng
* Tức ông không tin vào điều mà ông đã giả định trong cuốn
sách của mình?
– Bởi nếu tránh được cuộc chiến cuối năm ’46, Việt Nam vẫn sẽ
vấp phải cuộc chiến, khoảng 10 tháng sau, vào năm 1947. Tôi đã suy nghĩ rất kỹ
chuyện này, về phía Pháp, và đi đến kết luận rằng cuộc chiến chắc chắn sẽ xảy
ra vào Mùa Thu 1947.
Bởi vì cuối năm 1946, người Cộng sản ở Pháp rất mạnh, có nhiều
ảnh hưởng, thậm chí họ còn có các thành viên trong Chính phủ vào tháng 1 năm
1947. Và những đảng viên Đảng Xã hội cũng mạnh, và họ rất muốn giữ hòa bình.
Còn những người Dân chủ, tuy không ham thích chiến tranh lắm,
nhưng họ phải chiến đấu vì những chiếc ghế trong Quốc hội, nên họ đã quyết định
dừng lại tất cả những nhượng bộ với Việt Nam.
Và vào tháng 4 – tháng 5, năm 1947, những người Cộng sản bị mất
ghế trong chính quyền, và cuộc chiến tranh lạnh thực sự đã diễn ra trên tầm quốc
tế. Vì vậy, tôi kết luận rằng bên Pháp đã có phong trào chống lại Việt Nam, và
chính phủ không còn nằm trong phe tả nữa. Như vậy, nếu Việt Nam tránh khỏi cuộc
chiến cuối năm 1946, và tiếp tục đàm phán với Chính phủ Pháp, nhưng không có kết
quả cho tới khi có cuộc thay đổi về chính trị ở Pháp mùa thu năm sau, với bất lợi
lớn về phía Việt Nam.
Tức là cả trong hai trường hợp, Việt Nam không thể tránh được
cuộc chiến tranh với Pháp, chẳng qua là nếu lùi lại được 10 tháng thì có thêm
cơ hội chuẩn bị kỹ càng hơn cho cuộc chiến?
Đúng vậy. Và anh nói đúng, Việt Nam sẽ có thêm thời gian chuẩn
bị cho cuộc chiến, và kể từ đó tới khi Cách mạng Trung Quốc thắng lợi, Việt Nam
sẽ phải chờ đợi ít thời gian hơn để có thể nhận được sự giúp đỡ của họ.
Hơn nữa, thế giới cũng biết thêm về Việt Nam, về những điều
người Pháp gây ra ở Việt Nam năm 1946, và bản thân Hồ Chí Minh cũng được thế giới
biết tới nhiều hơn.
Và với tư cách là một sử gia, tôi phải nghiên cứu mọi khả
năng có thể xảy ra.
* Ông có nghĩ là trong trường hợp đó, Việt Nam sẽ ít phụ thuộc
hơn vào Trung Quốc, để dẫn tới các hệ luỵ kèm theo, ví dụ như cải cách ruộng đất?
– Vẫn như vậy thôi, bởi sự giúp đỡ của Trung Quốc với Việt
Nam bắt đầu từ năm 1950, và Mao Trạch Đông công nhận nước VNDCCH (18.1.1950), rất
nhanh trước khi Stalin làm việc này. Ông ta làm vì không muốn Pháp công nhận
Đài Loan, và ông ta muốn gây xung đột với phương Tây, ủng hộ phong trào giải
phóng dân tộc ở Đông Dương, và Trung Quốc sẽ được hưởng lợi từ đó.
Trong khi đó, Liên Xô không hề quan tâm tới Việt Nam.
* Ý ông nói là Việt Nam từ lúc đó đã là con bài trong ván bài
của Mao Trạch Đông?
Đúng. Bởi vì đối với Mao, cuộc chiến ở Đông Dương tốt hơn cuộc
chiến ở bán đảo Triều Tiên, bởi Triều Tiên nằm gần vị trí trọng yếu của Trung
Quốc. Trong khi đó, Stalin không muốn có một nước Trung Quốc mạnh, nên Stalin
đã “gây ra” cuộc chiến ở bán đảo Triều Tiên”, còn Mao thì phải trả giá với hàng
triệu sinh mạng và vô số nguồn lực.
Nhưng nói gì thì nói, cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất
là một yếu tố cấu thành của “chiến tranh lạnh”
* Xin cảm ơn ông!.
26/8/2021
HUỲNH PHAN
Nguồn: TUANVIETNAM
Theo https://vanvn.vn/