Tiêu Sơn tráng sĩ 2
Hồi 20
Vua Chiêu Thống
Năm hôm sau, bốn người đến Lạng Sơn và theo Phạm Thái đi thẳng
đến Kỳ Lừa thăm sư cự chùa Tam Thanh. Sư cụ đạo hiệu Phổ Mịch thiền sư là bạn đồng
chí của Phạm Thái và là một đảng viên trong đảng Tiêu Sơn.
Hàn huyên dăm câu rồi hai người hỏi nhau đến việc đảng. Vô tình không biết có hoàng phi đứng trước mặt Phổ Mịch buột miệng nói:
- Về vùng trấn Bắc như thế cũng có thể hy vọng lắm. Còn Ở
đây, từ khi cái tin Hoàng đế thăng hà đưa về nươc các bật sĩ phu xem chừng đều
có ý chán nản...
Thiền sư bỗng ngừng bặt vì thấy Phổ Chiêu ra hiệu bảo im
ngay. Nhưng đã quá chậm rồi. Hoàng phi nấc lên một tiếng rồi ngã vật xuống đất.
Nhị Nương vội nâng dậy đật lên giường và gọi mãi mới tỉnh. Thấy bà khóc thảm
thiết và luôn miệng kêu "Bệ hạ", Phạm Thái lại gần khẽ nói:
- Tâu lệnh bà nên bình tĩnh.
- Ta cần gì. Ta cố sống đến ngày nay là chỉ vì hy vọng mai
sau được gặp mặt Hoàng thượng. Nhưng nay Hoàng thượng thăng hà rồi, thì ta chỉ
còn một thác mà thôi - Tâu lệnh bà, lệnh bà dạy thế sao được? Vì nào chỉ có một
mình Thánh thượng? Còn thái hậu, vâng còn Quốc mẫu, sau này ai người phụng dưỡng
ngài?
Và xin lệnh bà tha tội cho, Hoàng thượng mất tuy là một sự
đau đớn. Vì Hoàng thượng mất còn tìm được người trong hoàng tộc kế vị, chứ
giang sơn mất vào tay người khác, mới là mất hẳn. Vậy xin lệnh bà tĩnh tâm cho,
đừng làm náo động lòng thần dân. Nhất lại Ở chốn biên thành này, binh lính cùng
thám tử của ngụy triều đông như kiến cỏ, nay lệnh bà khóc lóc ầm ỹ, nhỡ đến tai
bọn họ, thì không những một mình lệnh bà bị khổ nhục, mà đảng trung thần phục
quốc cũng đều vì lệnh bà mà phải ly tán mất. Xin lệnh bà nghĩ kỹ mà lượng xét
cho.
Hoàng phi lau nước mắt ôn tồn đáp lại:
- Đạ tạ thiền sư, không có lời dạy bảo của thiền sư thì suýt
nữa tôi đã làm lỡ cả việc lớn Bà liền cố gượng khuây nói chuyện với Phổ Mịch, cốt
để hỏi về mọi sự đã xảy ra Ở bên Tàu. Phổ Mịch sợ hải khép nép:
- Tâu lệnh bà, vì lệnh bà cải trang, bần tăng không biết, đã
xúc phạm tới lệnh bà.
- Điều ấy không hề gì. Vả từ nay tôi thực đã trở nên một người
tu hành, một nhà chân tu. Vậy xin sư cụ cứ gọi tôi là Phổ Bác cho tiện.
Dùng thiền trà xong, hoàng phi cố nài Phổ Mịch thuật lại cho
biết tình cảnh bọn bầy tôi tòng vong Ở nước người sau khi Hoàng thượng thăng
hà. Phổ Mịch nói:
- Điều ấy, bần tăng không được tường. Nghe đâu vua Càn Long
đày mỗi người Ở một nơi...
Hoàng phi thương hại phàn nàn:
- Trời ơi? Sao lại còn bị đày nữa? Tội tình gì mà bị đày như
thế?
- HỌ bị đày ngay khi còn sinh thời Tiên đế, vì vua Càn Long
không muốn bọn họ được gần đấng Tiên đế, sợ họ thúc giục Tiên đế xin quân đem về
nước lo sự phục hưng.
Hoàng phi thốt ra một câu mắng nhiếc:
- Quân khốn nạn?... Vậy thế thì ta không còn mong gì nhà
Thanh giúp binh nữa đấy.
Phạm Thái đáp:
- Tâu lệnh bà, ta cũng chăng nên mong cậy gì Ở họ. Trước kia
họ cho Tôn Sĩ Nghị mang quân sang ta, tuy miệng nói là cứu giúp, nhưng kỳ thực
chỉ cốt chiếm cứ nước Nam mà thôi. Nhà Minh xưa giúp nhà Trần, cái gương xâm lược
ấy ta đã quên rồi sao?... Chỉ nên trông vào sức mình là hơn cả...
Phổ Mịch nói tiếp:
- Tâu lệnh bà, Phổ Chiêu thiền sư nói rất phải. HỌ chẳng nhân
nghĩa gì đâu. Cứ xem cách tàn nhẫn họ xử với một ông vua mất nước với đám bầy
tôi tòng vong cũng đủ rõ tâm địa họ không ra gì. Ai đời thủa một ông vua láng
giềng gặp bước loạn ly lánh sang nhờ vả mình, mà coi người ta không bằng một
viên thượng thư?
Bần tăng nghe Trần Thiện mo hắn phong cho Tiên đế chức tả
lĩnh, ban cho áo mũ quan tam phẩm. Cái tin ấy làm bần tăng thâm ruột tím gan.
Vua mình nó còn khinh thường như thế không trách các quan đi hộ giá, nó đày mỗi
người một nơi...
Việc này chỉ tại thằng Kim Giản xui nên cả. Tâu lệnh bà, chẳng
ai ngu như bọn Lê Quỳnh, Phạm Như Hùng, Hoàng Tịch Hiếu không biết cư xử cho phải
đường.
Thấy nó lãnh đạm với mình thì mình phải hiểu chứ, ai lại để
Thánh thượng đi lại cầu cạnh mãi rồi ra quỳ bên đường dâng biểu lên vua Thanh
xin binh, nhất lại nhờ tên đô thống Kim Giản đưa vào hầu. Thầy trò chúng nó đã
bàn định cùng nhau rồi.
Chúng nó sợ bọn Tây Sơn như sợ cọp, còn dám ho he gì nữa mà
mong ngóng chúng nó cứu giúp? Vua Thanh có cho thằng Kim Giản ra dỗ ngon dỗ ngọt,
đánh lừa tam tứ phen, nào là chỉ cho đất Thâm Châu, nào là sắp phong làm quốc
vương Ở đất Tuyên Quang. Chỉ thương hại Nguyễn Văn Quyên vì lòng trung quân mà
bị bọn chó má nó ném chết Ở trong vườn Viên Minh.
Hoàng phi rơm rớm nước mắt hỏi lại:
- Chắc cao tăng biết nhiều về mọi việc Ở bên nước láng giềng.
Vậy dám xin cao tăng làm ơn thuật lại cho nghe.
- Tâu lệnh bà, bần tăng quả mắt không trông thấy, nhưng tai
được nghe Trần Thiện kể lại. Câu truyện đau lòng lắm, thiết tưởng lệnh bà chẳng
nên biết làm gì thêm khó chịu. Chẳng qua nhà Lê ta đến vận suy, nên tình cảnh
vua tôi sinh ra như thế Hoàng phi cố giữ nét mặt thản nhiên:
- Xin cao tăng cứ cho biết.
Nhị nương cũng nói:
- Việc đã xảy ra thì có can hệ gì. Đối với người đeo đuổi việc
lớn, chỉ có việc hiện tại với tương lai là đáng kể. Vậy xin cao tăng cứ thuật lại
hầu lệnh bà nghe rõ đầu đuôi Phổ Mịch ngồi ngẫm nghĩ một lát, như để sưu tầm mọi
điều trong trí nhớ, rồi kể rằng:
- Hồi cuối năm ngoái, một hôm bần tăng đi tới cửa động Tam
Thanh, bỗng gặp một người hành khất, quần áo rách rưới, dườing như đứng chờ ai.
Người ấy vái chào bần tăng, thì thầm xưng tên là Trần Thiện. Bần tăng giất
mình, vì hôm tiễn thánh giá vượt biên giới sang Tàu, chính mắt bần tăng trông
thấy trong bầy tôi có ông Trần Thiện. Ngày nay ông ta về nước, chắc có sự biến
cố chi đây. Bần tăng liền thắp đuốc mời Trần quân vào chơi trong động nói chuyện.
Thì ra Trần quân trá hình kẻ hành khất trèo non, vượt suối về nước chỉ để báo
tin cho thần dân biết rằng Hoàng thượng đã thăng hà, và đã lập Duy Khang kế
nghiệp.
Hoàng Phi ngơ ngác hỏi:
- Duy Khang là ai vậy?
- Tâu lệnh bà, là Lê duy Vượng, con nuôi của đấng Tiên đế.
Hoàng phi có vẻ lo sợ:
- Thế hoàng tử?
- Hoàng tử...
Phổ Mịch ngần ngại đưa mắt nhìn Phạm Thái, Nhị Nương trù trừ
đáp:
- Tâu lệnh bà, Hoàng tử lên đậu đã qua đời.
Nhị Nương kinh hãi nhìn hoàng phi, chắc thế ngào nghe tin
thái tử mất, bà cũng chết ngất đi. Nhưng không, bà vẫn giữ thản nhiên.
CÓ lẽ sự thống khổ đã đến cực điểm làm cho bà nghẹn ngào
không khóc được lên tiếng. Hay lòng căm tức vua tôi nước Tàu lấn át cả sự thống
khổ? Cặp mắt mơ mộng xa xăm, bà ngây người, nhắc đi nhắc lại:
- Lên đậu?... Hoàng tử lên đậu? Lên đậu? Mất rồi?
- Tâu lệnh bà, có lẽ phần bực tức bị người Tàu khinh mạn, phần
buồn phiền vì hoàng tử qua đời. Nên Hoàng thượng mắc bệnh nặng ngay, rồi qua
năm sau, năm Quí sửu, Ngài thăng hà.
Cặp mắt Hoàng phi vẫn mơ mộng xa xăm:
- Ngài thăng hà? Ngài thăng hà?
- Vâng, Ngài thăng hà đã được hơn bốn năm nay.
Hoàng phi rùng mình như có cơn gió lạnh thổi qua tâm hồn.
Nhưng bà cố định thần mà hỏi rằng:
- Trần Quân có thuật cho cao tăng nghe cái giờ lâm chung của
bệ hạ không?
- Tâu lệnh bà, Trần quân thuật rất tường tận.
"Hôm ấy, Thánh thượng biết rằng sắp qua đời, liền gọi bảo
Như Tùng. Lê duy Vượng đi nấu nước thơm để Ngài tắm. Khi đã lau mình mẩy sạch sẽ,
Ngài truyền lấy triều phục mặc vào cho Ngài rồi ngài nằm thẳng trên giường,
quay mặt về phía Nam, miệng lẩm bẩm khấn khứa rất lâu. Hai người tôi - Trần Thiện
với Như Tùng - quỳ Ở một bên giường, trong lòng lo sợ, đau đớn...
Nhị nương hỏi:
- Bạch cụ, còn ai nữa không, hay chỉ có hai người ấy?
- Chỉ có hai người ấy, Những người khác đã bị đày cả đi các
nơi. Hoàng ích Hiểu bị đày ra Y lệ, Lê Hân ra Phụng Thiên, Quốc Đống ra Cát
Lâm, Việt Triệu, Văn Chương ra Nhiệt Hà.
Hoàng phi thở dài nguyền rủa:
- Cha đời quân Mãn Thanh? Thế rồi sao nữa, bạch cụ?
- Tâu lệnh bà. Thánh thượng vẫn tỉnh lắm. Ngài bảo Trần Thiện
lấy giấy bút thảo tờ di chiếu, lập Duy Khang, tức Như Tùng Lê duy Vượng lên kế
nghiệp, giữ hương hoả hoàng phả, phụng thờ đức hoàng thái hậu.
Đọc xong, Thánh thượng cười chua chát nói tiếp: "Hương
hoả của trẫm chắc cũng chẳng còn mấy?" Trong phòng yên lặng, lạnh lẽo. Hai
người tôi vẫn quỳ bên giường. Bỗng Thánh thượng nắm lấy tay Trần Thiện mà rằng:
- "Các người theo trẫm trên con đường khốn quẫn, cùng trẫm
nằm gai, nếm mật mong có ngày lấy lại giang san... Ngờ đâu trẫm gặp phải vẫn nước,
vận nhà chẳng ra gì, đến nỗi không giữ nổi được xã tắc, phiêu bạt quê người...
Nay trẫm chết là linh hồn trẫm được yên... Trẫm thương các ngươi không biết còn
đeo cái khổ, cái nhục đến đời thủa nào.
Trần Thiện khóc mà tâu rằng:
- "Muôn tâu Thánh thượng, vua tôi có ngờ đâu gặp phải bọn
quyền gian đánh lừa như thế này để đến nỗi Thánh thượng âu sầu căm tức là long
thể mang đau, Hạ thần xin thề rằng, nếu Bệ hạ có mệnh hệ nào, thì kẻ hạ thần
xin tận tâm báo được thù này...
Hoàng thượng cười và an ủi:
- "Thôi, không nên trách người ta làm gì, chỉ nên trách
mình mà thôi. Vả ngày nay, vận mệnh nhà Lê ta đã hết, các ngươi dẫu có chống chọi
đi nữa có lẽ cũng không ăn thua gì. Ta chỉ ước mong có một điều sau này các người
được về nước.
Bấy giờ các ngươi mang hài cốt ta về, phụ táng vào sơn lăng
liệt thánh, để tỏ bụng ta; các ngươi nên nhớ kỹ điều ấy, cùng là truyền báo cho
các quan Ở xa được biết.
Trần Thiện, Như Tùng khóc nức nở vâng mệnh.
Thánh thượng nằm nghỉ một lát, rồi lại nói:
- "Khi trẫm bị quân Tây sơn đuổi, kịp bỏ chạy sang đây,
đến cửa Nam quan thì thấy lạc mất hoàng phi. Trong mấy năm nay trẫm hằng lo lắng
chẳng biết hoàng phi trốn tránh nơi đâu hay đã bị quân giặc hại mất rồi. Nếu
sau này về nước, các ngươi còn có gặp Hoàng phi, thì xin vì trẫm trông coi cho
tử tế. Trẫm nhờ Trần Thiện trao cho hoàng phi cái nhẫn này, Hoàng phi đeo Ở tay
chắc lại nhớ đến trẫm, mà biết rằng Ở nơi đất khách quê người trẫm không bao giờ
quên kẻ chung tình." Phổ Mịch ngừng kể, xin phép đứng dậy mở hòm lấy ra
cái nhẫn vàng trổ lưỡng long chầu nguyệt đưa nộp Hoàng phi.
- Tâu lệnh bà, cái nhẫn này, Trần Thiện sợ thất lạc đã gửi bần
tăng giữ giúp, nay bần tăng xin dâng lên lệnh bà.
Hoàng phi ứa nước mắt đỡ lấy vẫt kỷ niệm của người xưa, đeo
vào ngón tay mà lẩm bẩm:
- Bệ hạ? Bệ hạ?
Nhị nương ghé vào tai Hoàng phi nói thầm:
- Tâu lệnh bà, cái nhẫn ấy, xin lệnh bà gói lại cất đi, đeo
vào tay như thế, sợ có nguy hiểm.
Hoàng phi khóc nức nở:
- Từ nay ta còn sợ gì nguy hiểm tới thân ta nữa. Ta sống đến
nay chỉ mong mỏi có ngày được gặp long nhan, nhưng nay... ta chỉ còn lấy cái
thác đền lại ơn tri ngộ của Hoàng thượng.
- Thiết tưởng lệnh bà càng nên giữ gìn quý thể để mai sau,
khi rước hài cốt Hoàng thượng về nước, còn được nhìn thấy cùng là trông nom việc
mai táng trong sơn lăng liệt thánh.
Hoàng phi vụt tỉnh ngộ:
- Em nói rất phải. Chị đợi đến ngày ấy hãy xuống cửu tuyền hầu
Thánh hoàng cũng không muộn.
Rồi quay lại hỏi Phổ Mịch:
- Hoàng thượng thăng hà vào năm nào, ngày nào, giờ nào, bạch
cao tăng?
- Tâu lệnh bà, bần tăng đã biên chép cẩn thận. Thánh thượng
thăng hà giữa giờ Dần, ngày mười sáu, tháng mười, năm Quý sửu. Ngài thọ hai
mươi tám tuổi.
Hoàng phi lấy bút chép lại ngày tháng vào một mảnh giấy, gập
lại bỏ vào bọc và phàn nàn:
- Chẳng biết mấy năm nay, có ai nhớ ngày húy ky Hoàng thượng
mà cúng giỗ không?
Phổ Mịch đáp:
- Tâu lệnh bà, thế nào Ở bên Bắc Quốc, Duy Khang chẳng đèn
nhang thờ phụng Tiên đế. Còn như Ở bản sơn môn đây, thì năm năm vẫn nhớ ngày
húy, lập đàn cầu nguyện lên vong linh Tiên đế.
- Đa tạ cao tăng, cao tăng đừng quên hoàng tử nhé?
- Xin vâng... Nhưng bây giờ thì rước lệnh bà xơi lưng cơm
chay cho đỡ đói.
Liền bảo các chú tiểu sắp cơm, trong khi hoàng phi và Nhị
nương ngồi sụt sịt thì thầm nói chuyện.
Hồi 21
thanh xuyên hầu
Thanh Xuyên hầu, Trương Đăng Thụ là một trang thiếu niên tuấn
tú, con quan Kiến Xuyên hầu, người làng Thanh Nê, trấn Sơn Nam.
Kiến Xuyên hầu làm thượng thư bộ lễ thời chúa Trịnh Sâm. Khi
Sâm mất, Khải và Cán chia ra hai phe đánh cướp nhau ngôi chúa, thì hầu chán nản
cáo quan về làng, Trương Đăng Thụ hồi đó đang làm hiệp trấn Lạng Sơn.
Kịp khi Tây Sơn dứt nhà Lê, vua Chiêu Thống qua trấn Lạng
sang Tàu, Thụ xin hộ giá tòng vong, nhưng vua truyền Ở lại xem xét tình hình
trong nước và để sau này làm nội ứng cho quân cứu quốc Ở ngoài đưa vào. Thụ ép
lòng nhậm chức cũ, đợi xem Tây Sơn xử trí ra sao. Chàng nghĩ thầm: "Dù có
vì thế mà bị hại, thì cũng là một cách báo đền ơn vua".
Triều đình Tây Sơn có rõ điều ấy chăng? Chỉ biết rằng vua
Quang Trung săn sóc đến bọn bầy tôi nhà Lê một cách tha thiết, chu đáo. Ai đi
trốn thì tìm về cho làm quan, ai Ở chức cũ thì cất nhắc lên chức trên, còn những
người nào nhất quyết từ chối không chịu nhận quan tước thì đẽ mặc ý về quê an
cư lạc nghiệp, không phiền nhiễu tới. ĐÓ chỉ là một chính sách thu phục nhân
tâm, có chi lạ.
Cũng vì thế mà Trương Đăng Thụ đương Ở chức hiệp trấn được nhắc
lên chức trấn thủ. Nhưng ta đừng vội tưởng đó là sự khoan hồng của nhà Tây Sơn.
Trong chính giới, không có cai gì người ta làm vì tình cảm hết, Ở đời nay hay Ở
đời Tây sơn cũng vậy. Trước kia, Trương Đăng Thụ còn Ở chức hiệp trấn thì tuy
dưới quyền quan trấn thủ nhưng bao binh lực chốn biên thuỳ đều Ở trong tay
mình. Nay được thăng chức trấn thủ tức là bị tước hết binh lực. Vả viên hiệp trấn
mới lại là một tướng thân tín của vua Tây Sơn từ Quảng Nam theo vua ra Bắc, và
một số đông binh lính mới lại là người đường trong, trung thành với nhà vua, với
triều đình Vậy thì quan trấn thủ Trương Đăng Thụ thực chẳng khác một tên tù
giam lỏng, tuy vẫn được quan hiệp trấn và các viên liêu thuộc rất tôn trọng.
Trương Đăng Thụ cũng thừa hiểu, nhưng phải vờ trung thành với
triều đình mới, dù ngày đêm vẫn lo mưu khởi nghĩa để phục hưng nhà Lê.
Một hôm lòng buồn bực, trí chán nản, Thụ đến vãn cảnh chùa
Tam thanh, và nhận thấy sư cụ Phổ Mịch là một bậc cựu thần nhà Lê. Hai người liền
đem tâm sự ra kể lể. Lúc bấy giờ sư cụ mới bỏ lòng khinh bỉ Thanh Xuyên hầu, vì
trước kia vẫn tưởng lầm rằng hầu ham công danh, phú quý, bỏ vua theo giặc.
Nghe sư cụ thành thực tạ lỗi, Thanh Xuyên thở dài mà rằng:
- Sư cụ, - xin cứ xưng hô như thế cho tiện - sư cụ ngờ oan
cho Thụ này, thật chẳng có gì là quá đáng. Thời này, ai đã dễ mà tin hẵn được
ai? Bậc trung thần nghĩa sĩ, anh hùng khảng khái thì ít, mà đồ siểm nịnh ham
danh vụ lợi thì nhiều.
Những hạng siểm nịnh ấy, tôi có trách đâu. Cái chí bình sinh
của họ Ở chổ vinh thân phì gia, thì họ cứ việc mà theo cái chí lớn ấy cho kỳ tới
mục đích, nào ai cấm đoán, mà nào ai bảo sao... Tôi chỉ trách riên bọn bầy tôi
nhà Lê ngoài miệng leo lẻo những chữ trung quân, ái quốc, phò Lê diệt tặc, mà
trong lòng chứa đầy sự ham muốn cho mình, cho vợ con mình. Tôi chẳng cần kể tên
bọn họ ra đây, vì chính tôi cũng đương Ở một điạ vị vừa khả nghi vừa khó xử...
Nhưng sư cụ thử nghĩ xem, lúc phò thánh giá, bọn kia nói những gì khảng khái biết
bao? Thế mà bây giờ tôi chỉ biết mấy thằng trong đám nghĩa binh xưa đang dự vào
những chức trọng yếu trong triều... Sư cụ đừng ví họ với tôi. Tôi chỉ là một
tên tù giam lỏng mà thôi, không có quyền binh gì trong tay. Chứ bọn họ - bọn đồng
chí xưa của ta - thì trái hẳn, nay họ chỉ hô một tiếng là đầu chúng ta rụng, họ
chỉ vẫy tay một cái là cả một hạt bị tàn phá. Công to của họ đối với triều đình
Tây Sơn là đã hoặc dụ hàng, hoặc chém giết hàng trăm hàng nghìn bậc cựu thần
nhà Lê. Tôi đây hẳn là cái gai trước mắt bọn họ, họ chỉ chờ dịp bứt đi mà thôi.
Phổ Mịch hết lời an ủi Thụ, rồi đem công việc đảng Tiêu Sơn
ra bàn. Thanh Xuyên hầu cả mừng mà rằng:
- Tôi vẫn nghe đất Kinh Bắc có nhiều bậc anh hùng. Bây giờ mới
biết rằng một đảng lớn mới thành lập Ở đấy. Thực là đại phúc cho nhà Lê ta?...
Nhưng có phải dư đảng của Nguyễn Đoàn không?
- Không, đảng trưởng đảng Tiêu Sơn là Phổ T nh thiền sư.
Nhưng mới có cựu quân sư của Nguyễn Đoàn nhập đảng.
- Phạm Thái phải không, bạch sư cụ?
- Chính Phạm Thái, thế ra ngài biết cũng tường tận lắm nhỉ.
Từ hôm đó thỉnh thoảng Trương Đăng Thụ lại đến vãn cảnh động
- chàng không ra luôn, sợ gợi lòng nghi ky của viên hiệp trấn. Nhưng sau chàng
nghĩ được một diệu kế là vờ ham mê đạo Phật, mua đủ cách thứ kinh về xem, rồi
đoạn sách nào không hiểu, lại thân ra chùa Tam Thanh hỏi sư cụ.
Viên hiệp trấn thấy vậy chỉ cười, cho trấn thủ là người mê
tín đạo Phật và không đáng đề phòng cẩn mật lắm như triều đình đã có lệnh:
"Phải, còn có việc gì, chẳng xem kinh Phật thì làm cái gì?" Viên hiệp
trấn lấy làm đắc chí, tâu luôn mấy điệp sớ về triều, kể tình trạng sự thay đổi
tâm tính của Thanh xuyên hầu.
Nhưng trong khi ấy Phổ Mịch và Trương Đăng Thụ vẫn được bình
tĩnh cùng nhau bàn quốc sự. Rồi nhờ Phổ Mịch giới thiệu, Thụ xin vào đảng Tiêu
Sơn và biên thư xin Phổ Tĩnh phái Phạm Thái lên trấn Lạng để cùng hai người lo
toan việc lớn
Hồi 22
tâm sự
Bấy giờ vào quá giờ Tý. Dẫy nhà thấp lụp xụp mái lơp ngói kiểu
tàu nằm ngủ dưới ánh sáng yên lặng của trăng tà. Gần đấy, về phía tây bắc, mấy
quả núi đá Kỳ Lừa lù mù lấp lánh trong sương. Đứng bên bờ sông Kỳ Cùng trông
sang, cảnh ấy hiện thành một bức tranh thủy mạc Tàu chấm phá trên nền lụa màu
vàng ám khói.
Cách xa hẳn dẫy phố, bên con đường nhỏ rẽ vào động Tam Thanh,
một toà nhà cao rộng hơn, nhưng cùng làm theo một kiểu kiến trúc. Một bức tường
xây bằng đá ong, trên ngọn có cắm mảnh sành vỡ, bao bọc nơi dinh cơ ấy, trông
như một cái thành quách nhỏ vậy, tuy xung quanh không có hào. Trong vườn nhô
lên những đám lá cây thưa nhặt, thấp thoáng trong trăng, khiến cảnh thâm u lặng
lẽ kia bớt vẻ buồn tẻ, lạnh lùng.
Đêm đã khuya, thế mà một nhà sư trẻ tuổi còn lần mò đến gõ cổng
nơi biệt thự. Sau một hồi chó sủa inh ỏi, có tiếng hỏi Ở phía trong:
- Ai? Ai đến khuya thế?
- Tôi.
- Tôi là ai mới được chứ?
- Tôi đây mà? Bần tăng đây mà?
Tiếng mắng đuổi chó, tiếng lách cách mở then rồi cánh cổng từ
từ hé. Người bên trong cất tiếng run run, se sẽ hỏi:
- CÓ phải Phổ Bác thiền sư đấy không?
Người đứng ngoài cũng se sẽ trả lời:
- Phải.
- Trời ơi? Sao đêm hôm khuya khoắc mà lệnh bà lặn lội...
Hoàng phi sợ hãi vừa quay đầu nhìn phía sau lưng vừa thì thầm:
- Im?
- Sao thế, tâu... bạch sư ông?
Hoàng phi bước vội vào:
- Đóng cổng lại đã. Hình như có bóng người theo sau.
Rồi hai người cùng đi vào trong nhà.
Độc giả hẳn đoán biết người vừa ra đón tiếp Hoàng Phi là Nhị
nương. Nhưng sao Nhị Nương lại đến Ở đây?
Nguyên biệt thự này, quan trấn thủ Thanh Xuyên hầu dựng lên
đã dăm năm nay, dùng làm nơi nghỉ mát để thỉnh thoảng đến đọc sách, ngâm thơ,
di dưỡng tinh thần những khi nhàn hạ, rảnh việc quan. Nhất từ ngày ngài ham khảo
cứu đạo Phật, thì ngài càng năng lui tới nơi đó để được cùng sư cụ Tam Thanh
thuyết minh nghĩa mầu nhiệm của kinh Phật.
Kỳ thực, lập ra lớp riêng, Trương Đăng Thụ chỉ có một mục
đích hưng Lê, hội họp anh em đồng chí để bàn việc lớn chống chọi với Tây Sơn.
Hai tháng trước Hầu có ngỏ lời nhờ Phổ Mịch thiền sư tìm cho
một người tin cẩn thông chữ nghĩa để vừa trông nom nhà, vừa biên chép kinh Phật,
cùng văn thơ.
Nhân gặp giữa lúc Phạm Thái và Nhị nương phò giá Hoàng phi
lên Lạng, sư cụ liền đem Nhị nương ra giới thiệu là một người cháu họ tên gọi
Nguyễn Đức Minh.
Thế là đương đóng vai phong lưu công tữ, Nhị nương đã đổi ra
đóng vai quản gia tại biệt thự quan trấn thủ. Trong khi ấy Phạm Thái Ở lại tạm
trụ trì một ngôi chùa gần Tam Thanh và Hoàng phi đến trú Ở chùa Tiên, có đầy tớ
tinh cẩn chủa Thanh Xuyên ăn mặc giả làm tiểu Ở trông nam hầu hạ luôn bên mình.
Ham nay chừng có điều khẩn thiết hay nguy kịch muốn ngỏ cùng
Nhị nương, Hoàng phi bỏ chùa lần tới đây chăng? Chính Nhị nương cũng đoán thế
nên vừa vào trong phòng, nàng đã lo sợ thì thầm hỏi:
- Tâu lệnh bà, có việc gì quan trọng thế?
- Không, chả có việc gì quan trọng cả, nhưng hôm nay không biết
sao, chị nóng ruột quá.
Nhị nương thở dài:
- Lệnh bà làm tôi giật mình kinh hoảng, tưởng đã xảy biến. Mà
tôi cũng vậy, tâu lệnh bà, lòng tôi cứ xót như bào, đêm nay không sao nhắm mắt
ngủ yên được.
Tôi đương một mình tản bộ ngoài vười thì nghe có tiếng lệnh
bà gọi cổng.
Hoàng phi buồn rầu nói:
- Em ạ, từ hôm nghe tin hoàng đế thăng hà, hoàng tử qua đời đến
nay, chị sinh ra mê sảng luôn. Động nhắm mắt là lại thấy haòng thượng về đứng
bên giường.
CÓ khi muốn tránh những giấc mơ đau lòng, chị đã thức suốt
đêm tụng kinh niệm Phật, cầu cho vong linh thánh thượng cùng hoàng tử.
Nhị nương nghe Hoàng phi nói, chỉ ngậm ngùi thở dài. Rồi nàng
hỏi:
- Mấy chén thuốc tôi lấy hầu lệnh bà, lệnh bà đã xơi chưa?
- Cám ơn em, chị uống cũng thấy dễ chịu, nhưng sốt ruột thì vẫn
còn sốt ruột.
Hôm nay vì chị đứng ngồi không yên về nỗi sốt ruột, nên chị
phải vội đến thăm em để nói chuyện cho khuây khỏa.
Nhị nương chợt nghĩ đến con sông Kỳ Cùng:
- Nhưng ai chở thuyền hầu lệnh bà sang ngang?
- vẫn có anh lái đò của sư Phổ Mịch đỗ thuyền Ở bến. Chị nói
sư cụ cho tìm, nên người ấy vội vàng chở ngay. Nhưng còn em, vì cớ gì mà em
cũng băn khoăn không ngũ?
- Tâu lệnh bà, tôi cũng không hiểu vì cớ gì mà đêm nay tôi lại
nóng ruột quá thế Tôi lo đã xảy ra sự gì bất trắc Ở Tiêu sơn, nên có tâm linh
báo cho biết như vậy Tôi muốn một hai hôm nữa về thăm đảng trưởng cùng anh em đồng
chí, nhưng lại e lệnh bà Ở đây một mình...
Hoàng phi vội đỡ lời:
- Nếu em về thì chị cũng về. Chị Ở đây gần Trung quốc là nơi
hoàng đế thăng hà, lòng chị đau thương không rứt. Vì thế chị cũng muốn về Bắc để
được nhất tâm niệm Phật mà quên đau khổ.
Ngừng một lát không thấy Nhị nương đáp lại. Hoàng phi nói tiếp:
- Nhưng chị thấy em cũng khổ sở thì chị lại muốn quên nỗi thống
thiết của chị đe để an ủi em. Hình như em có điều gì dấu chị?
Nhị nương vẫn ngồi im. Bỗng Hoàng phi nghe thấy nàng nức lên
một tiếng.
Bà vội cầm lấy tay nàng, ôn tồn khuyên bảo:
- Chị em ta cùng gặp một cảnh ngỗ, tưởng em chẳng nên giấu chị
một điều gì.
Đấy em coi, xưa nay có một ý nghĩ gì mà chị không ngõ cho em
biết?
Nhị nương lặng lẽ để bàn tay trong tay Hoàng phi rồi thong thả
nói:
- Thưa chị - vì lệnh bà đã cho phép tôi được kêu lệnh bà là
chị...
Hoàng phi vui vẻ ngắt lời:
- Phải, chị muốn em gọi chị là chị, như thế vừa thân vừa kín
đáo.
- Thưa chị, tâm sự của em, em chưa ngỏ cùng ai. Nhiều khi đêm
khuya thanh vắng, gồi một mình em lấy làm tự thẹn về những ý nghĩ bất chính của
em. Vì, thưa chị những ý nghĩ ấy thật là bất chính. Em xin cứ thực tình dể hầu
chị nghe:
"Từ ngày em rời bỏ tỉnh Nghệ, mang tấm thân phiêu bạt đi
khắp đó đây, em đã tự thề với em rằng em còn sống một ngày nào, thì đời em, em
hoàn toàn hiến cho sự báo thù cha, cho sự trả ơn chúa. Cũng vì thế mà em dấn
mình vào nơi nguy hiểm, đi tìm thầy học võ, tìm bạn đồng chí để gây thế lực.
"Thế rồi một đêm em gặp Trần Quang Ngọc, cùng nhau lập đảng
Tiêu Sơn".
Hoàng phi kinh ngạc:
- Vậy ra chính em đã cùng Quang Ngọc, sáng lập đảng Tiêu Sơn?
- Vâng, sau khi em cùng chàng giết được tên ác tăng tu hành Ở
chùa Tiêu Sơn.
Rồi một ngày, đảng một thêm đông, một ngày em một thêm mến phục
Quang Ngọc, mến vì nết, phục vì tài. Nhưng xin thú thực với chị rằng ngoài sự mến
phục ra, không có gì nữa. Quang Ngọc coi em như một đảng viên khác bên nam giới
mà thôi, còn em thì mải mê man trong cuộc hành động... em không bao giờ để lòng
em...
Nhị nương im bặt như lấy làm hổ thẹn về lời thú tội của mình.
Hoàng phi thở dài đáp:
- Thế thì em đáng thương lắm. Chị hiểu em rồi. Em ạ, chị em
mình muốn khảng khái, muốn hiến thân cho việc lớn đến bực nào mặc lòng, cũng chẳng
bao giờ thoát khỏi được ra ngoài vòng thường tình nhi nữ. Nhưng em ơi, nặng chữ
tình thì có phạm tội gì đâu. Mà theo đuổi việc lớn thì sao lại không được có
tình?
Nhị nương ngập ngừng:
- Nhưng... thưa chị, Quang Ngọc đã mặc áo cà sa.
- Không em ạ, Quang Ngọc tuy mình mặc áo cà sa, mà vẫn giữ một
linh hồn một trang hiệp sĩ. Sống tạm trong tấm áo kẻ tu hành để làm việc lớn
không phải hoàn toàn là kẻ tu hành. Đã không phải là kẻ tu hành, thì em có thể
mong được mai sau...
Nhị nương bỗng ngồi ngay lại, nói dắn dỏi:
- Tạ ơn chị. Không, thưa chị, không bao giờ ta được nhu nhược.
Em xin tự xử làm sao cho xứng đáng lòng tin cậy, lòng quý mến của Quang Ngọc, của
đảng trưởng. Thưa chị, em nhất định không bao giờ chịu để ngữ "nhi nữ tình
trường, anh hùng khí đoản" lại không đúng nghĩa đối với cả những hạng người
theo đuổi việc lớn như Quang Ngọc?
Hoàng phi cảm động khen một câu:
- em nghĩ rất phải.
Hồi 23
cái cũi người
Nhị nương nóng ruột, thực không phải vô cớ nếu ta tin có sự
viễn truyền tư tưởng.
Mà sao lại không có?
Thực vậy, Ở Tiêu Sơn, anh em đồng chí rất mong mỏi Nhị nương,
vì gặp nhiều sự nguy biến, và cần phải có tài do thám của Nhị nương để phá sự
do thám khốc liệt của triều đình.
Trong mấy tháng trời, nhà ngục thất phủ Từ Sơn không đủ chỗ
giam tội nhân, đến nỗi đã phải dựng thêm một nhà nữa. Mà sự bắt bớ và tra tấn vẫn
tiến hành, sự canh phòng thì rất cẩn mật. Viên phủ tri đã xin thêm lính trấn về
và lại mộ thêm lính dõng nữa. Hình như sau khi quân giặc luôn hai lần náo động
phủ đường, viên phủ tri lấy làm căm tức lắm, thề răng thế nào cũng báo thù lại
một cách đích đáng.
"Muốn báo thù phỏng có khó gì? Viên phủ tri vẫn ngẫm
nghĩ thầm, rồi lập tức kén những tay tài giỏi, tài về ngôn ngữ giảo quyệt, và
giỏi đủ cả các môn võ hiểm để phòng thân. Một mặt cho bọn ấy đi khắp các làng,
các xóm trong dân quê do thám, một mặt dùng tiền để dụ những học trò nghèo hay
chữ mà họ đóan chừng thuộc đảng Lê thần.
CỐ nhiên có nhiều kẻ túng đói giả danh là thuộc đảng nọ đảng
kia ra tâng công khai man hết điều này điều khác, mục đích chỉ cốt được l~nh tiền
thưởng. Rồi vì thù riêng cũng có, vì người ta xui dục cũng có chúng nó cung
khai ra toàn những người hoặc có chút danh vị, hoặc có chút tư bản. Nào người
này đã nhiều lần oa trữ Phạm Thái, nào Ở nhà kia họ thấy cái áo lụa của bà
Hoàng phi. Trí tưởng tượng của họ đem đến cho họ chẳng thiếu gì tang chứng. Nếu
xét ra tang chứng ấy không có, thì hắn là kẻ tàng nặc đã tiêu hủy đi rồi, tội
càng nặng. Nhưng tội nặng ấy cũng sẽ được tiêu hủy, nếu tội nhân có đủ trí
thông minh trong khi nói chuyện riêng với viên phủ tri hay viên phân suất Ở nơi
nhà tư.
Thôi thì tiếng kêu khóc của bọn bị tra tấn chẳng ngày nào là
không làm rung động lòng dân đối với hai viên quan đã lên đến cực điểm. Đi đâu
cũng nghe thấy lời ta thán, thì thầm với nhau, trong khi cặp mắt nhớn nhác nhìn
trước nhìn xem có ai nấp đâu đó nghe trộm. Phòng bị như thế mà co lkhi cũng
không thoát đấy. Một lần một người bị bắt lên phủ, vì một câu khí khái hão nói
riêng với vợ Ở trong phòng kín. Người ấy kinh ngạc thú nhận, nhưng nhờ về một
thứ mà ai cũng có thể đoán ra, người ấy được tha ngay. Sự thám thính có hiệu quả
ghê gớm như thế làm cho nhân dân hạt Từ Sơn sinh ra nao núng, ngờ vực. Cha con,
anh em, vợ chồng cũng không dám tin nhau nữa.
Kể ra, tuy sự do thám có kết quả mà viên phủ tri cũng chỉ biết
bắt giam những người ra mặt hay ngấm ngầm phản đối triều đình Tây Sơn. Còn những
người ấy thuộc đảng nào vẫn chẳng sao dò ra được. Cách lập đảng bí mật, tính
kín đáo và chí gan liều của các đảng viên làm cho sự tra khảo mất hẳn hiệu nghiệm.
Chẳng thế mà chưa một lần nghe đọc đến tên đảng Tiêu Sơn, tuy trong đám tội
nhân bị giam có rất nhiều đảng viên: Ba nhà sư bị bắt đương đi phát hịch và đến
hơn chục người Ở ngoài tăng già.
Giữa thời bắt bớ nhộn nhịp ấy, một buổi chiều bốn người lực
lưỡng, y phục nai nịt gọn gàng khiêng đến phủ Từ sơn một cái củi lớn nhốt một
thiếu niên dõng sĩ vẻ mặt tuấn tú, thân thể vạm vỡ. Người ấy mặc có một cái quần
vải thô; cái khăn nhiễu tam giang đội vụng che không kín hết cái đầu chơm chởm
tóc mọc cứng như cỏ ruộng mới cắt. Mình mẩy cởi trần và mang đầy những vết
thương còn rớm mau.
Thấy bốn người khiên cái cũi xồng xộc đi vào cầu treo, lính
canh cổng giữ lại hỏi:
- Đi đâu?
Bốn người đặt cái cũi xuống đất, nói vào hầu quan có việc rất
khẩn cấp.
- Nhưng việc khẩn cấp là việc gì mới được chứ? Mà các chú nhốt
con gì Ở trong cũi thế?
Thật ra mắt chú lính cũng hơi kèm nhèm, nên đứng đằng xa nhìn
thấy vật đen lục đục trong cũi, chú ta đoán già ngay rằng bọn kia đi săn bắn được
con hươn nai khiêng đến biếu quan. Không nghe thấy trả lời, người lính lại hỏi:
- Ư, các chú biếu quan con gì thế?
- Người?
Chú lính kinh hãi:
- Người? Biếu người?
Bấy giờ chú mới lại gần ngắm nghía kẻ bị nhốt trong cũi:
- ấy này? ăn cắp, ăn trộm gì mà các chú đánh người ta máu me
thế kia?
- Nhờ cậu vào trình quan cho, rằng chúng tôi khiêng đến nộp
quan một tội nhân rất quan trọng.
Chú lính gắt:
- Nhưng người ấy là ai mới được chứ?
- Phạm Thái?
Tức thì mặt người lính tái hẳn đi. Rồi người ấy ấp úng:
- Phạm... Thái. Người bị nhốt trong cũi là Phạm Thái?
Người nọ bảo người kia, nhắc đi nhắc lại hai chữ Phạm Thái.
Chỉ trong chốc lát, cái tên ghê gớm ấy truyền Ở cửa miệng khắp mọi người trong
phủ. Đến nỗi người lính canh cổng chưa kịp vào trình báo, hai viên phân phủ và
phân suất đương nguồi nói chuyện Ở công đường đã tất tả chạy ra cổng:
- Đâu? Phạm Thái đâu?
Ai nấy đứng giãn ra. Người lính lại gần giơ tay trỏ bọn
khiêng cũi mà nói răng:
- Bẩm ông lớn bốn tên này vừa đem nộp.
Cặp mắt ngờ vực của viên phân phủ đăm đăm nhín thẳng vào mặt
bốn người:
- Chúng mày bắt được Phạm Thái? BỘ chúng mày bắt nổi Phạm
Thái?
Một người trong bọn lễ phép lại gần, vái dài, trả lời:
- Bẩm hai ông lớn, Nguyễn công tử chúng tôi sắp đến hầu hai
ông lớn. Công tử chúng tôi cho chúng tôi khiêng tội nhân đến nộp trước, rồi xin
lại sau.
Đoạn, người ấy thuật rất rành mạch cuộc chiến đấu của Nguyễn
công tử với Phạm Thái; Nguyễn công tử Ở Sơn Nam, lên ngoạn du trấn Bắc vì nghe
tiếng miền Bắc có nhiều thắng cảnh, mà số anh hùng hào kiệt lại rất đôgn. Công
tử là người võ nghệ cao cường, văn chương lỗi lạc, nhưng không hề khinh xuất sự
thủ thân bao giờ. Vì thế đi đâu cũng có một bọn bốn kẻ dõng sĩ theo liền bên hộ
vệ đề phòng sự công kích bất thần.
Buổi trưa hôm nay vừa sang qua bến đò Kim lũ thì gặp một người
tự xưng là Phạm Thái đêm theo dăm tên bộ hạ ra cản đường đòi tiền mãi lộ. Nghe
hai chữ Phạm Thái, Nguyễn công tử chẳng nói chẳng rằng, xuống ngựa rút kiếm
xông vào đánh liền. Phạm Thái cũng rút dao ra nghênh địch.
Nghe người khiêng mình kể chuyện, Phạm Thái Ở trong cũi luôn
mồm lớn tiếng chửi rủa. Đến nỗi viện phân suất cáu tiết phải đạp mạnh vào cũi
mà mắng răng:
- Im ngay? Tên giặc cỏ?
Rồi quay lại bảo người kia kể nốt câu truyện.
- Bẩm hai ông lớn, võ nghễ Phạm Thái, người ta ca tụng quả
không ngoa.
Công tử chúng tôi phải dùng mưu mới đánh ngã được hắn. Mưu ấy
là giả thua để Phạm Thái đuổi theo, rồi bất thình lình quay lại đánh miếng đà
đao.
Một tiếng chửi lớn Ở trong cũi bay ra:
- ĐỒ khốn nán? ĐỒ cắn trộm? Còn khoe mẽ gì?
Viên phân phủ lại bên cũi ghé mắt nhìn qua khe chấn song.
Phân suất vội vàng kêu:
- Ngài đứng xa ra một tý.
Người kể chuyện lễ phép thưa:
- ông lớn không ngại. Chúng tôi đã trói cẩn thận chân tay hắn
rồi.
Quả thật chân tay người bị nhốt đều nặng trĩu những giây thừng.
Phân suất ngắm nghía, mỉm cười hỏi:
- Khốn nạn? Mình mảy bị đầy những vết thương như thế kia có
đau không?
Phân phủ trù trừ:
- CÓ lẽ hãy để đến mai. Bây giờ gần tối rồi trông không rõ,
ta hãy cứ tống cái cũi vào ngục thất đã, như thế chắc chắn hơn.
Quả thực, câu truyện chiến đấu kể dềnh dàng mất đến quá nửa
giờ, nên lúc đó trời đã sặp tối Phân phủ liền cho khiêng cũi Phạm Thái vào ngực.
Bốn người nhà Nguyễn công tử cùng xin theo xuống trại ngồi chờ chủ sắp đến.
Hồi 24
nguyễn công tử
Phân phủ xuống lệnh mở tiệc ăn khao. Một tiếng dạ ran. Tức
thì nào cai, nào lính đem trát quan đến làng sở tại bắt lý trưởng đi mua trâu,
bò, dê, lợn. Rồi một lát, sau khói rơm thui súc vật bốc lên um cả một góc
thành. Tiếng cười reo vang đông tưởng như quan quân vừa thắng trận về.
Mà kể bắt sống Phạm Thái cũng là đại thắng rồi tuy không phải
chính tay mình bắt giặc. Một người quấy nước chọc trời bấy lâu nay, xuất quỷ nhập
thần chẳng còn ai dò ra tung tích, thế mà bỗng có người bỏ cũi đem nộp, thì phỏng
còn tin gì khiến hai tên viên quan và binh lính phủ Từ Sơn mừng hơn nữa? Thôi từ
nay tha hồ ngủ kỹ, đương đêm không còn nghe thấy phi báo: Phạm Thái quấy rối
vùng nọ, tống tiền vùng kia.
Vào khoảng cuối giờ Tuất, có tiếng trống báo, rồi tên lính
canh cổng vào trình rằng một viên tướng trẻ tuổi cười ngựa đến trước cổng thành
tự xưng là Nguyễn Thiêm, người bắt giải Phạm Thái, và xin ra mắt hai quan. Phân
phủ mừng rỡ, truyền lập tức đón công tử vào dự tiệc.
Ngài cùng phân suất thân ra tận cổng nghinh tiếp. Nguyễn
Thiêm xuống ngựa vái chào:
- Kính lạy nhị vị đại nhân, Nguyễn Thiêm xin ra mắt nhị vị đại
nhân.
Phân phủ và phân suất đáp lễ rồi khẩn khoản mời khách vào
công đường dự tiệc Nhưng khách cung kính vội gạt:
- Xin nhị vị đại nhân tha lỗi. Thiêm này chỉ xin đến chào nhị
vị đại nhân rồi lại phải đi ngay có việc cần.
Phân suất hấp tấp trả lời:
- Không được, thế nào cũng phải mời công tử dự tiệc. Vâng, ăn
mừng hôm nay cho bỏ những buổi lo lắng.
Nguyễn Thiêm nửa giọng mỉa mai, nửa giọng thật thà:
- CÓ làm gì cái thằng giặc cỏ ấy mà lo lắng.
Rồi làm như mình nói hớ, chữa liền:
- Với lại cũng vì nó khéo lẩn lút, chứ nếu không thì thoát thế
nào được với hai ngài? Hôm nay vì tôi may nắn cũng có mà vì nó khinh địch cũng
có, nên mới tóm được nó đem nộp hai ngài.
Phân suất cười khoái lạc, giọng tự phụ:
- Phải, nó rất tài lẩn lút, nếu không thì thoát sao khỏi tay
tôi?
Phân phủ lại ân cần mời mọc hai lần nữa. Nguyễn Thiêm mới chịu
nhận lời theo hai người vào trong phủ. Tức thì phân suất ra lệnh cho lính đi bắt
phường chèo về hát mừng.
Tiếng dạ ran. Rồi chỉ một lát sau đã thấy hai tên lính dẫn về
một gánh hát đông tới hơn hai chục người vừa kép vừa đào.
Thiêm khen:
- Giỏi nhỉ? Sao chóng thế?
Một tên lính chắp tay lễ phép thưa:
- Bẩm ba ông lớn, chúng con vừa đi được một quãng thì gặp bòn
này đương tiến đến phố phủ, định ngủ trọ một đêm để mai đi Kinh Bắc sớm. Chúng
con lập tức giải nộp.
Thiêm quay ra hỏi:
- Hát có khá không, anh trùm?
Một người thưa:
- Bẩm ông lớn, chúng con thường hát hầu cụ lớn trấn thủ nghe.
Thiêm mỉm cười:
- Thế thì hẳn là khá. Các chú người Ở đâu?
- Bẩm, chúng con toàn người tứ chiến họp nhau lại thành phường.
Riêng con, người làng Phù Lưu nhưng đi phiêu bạt kiếm ăn đã có hơn mười năm
nay.
- Phù Lưu, người làng Phù Lưu thì hẳn hát khá.
Phân phủ nói:
- Thôi, anh em bảo nhau xuống trại ăn uống, rồi còn đóng trò
chứ. ái chà?
Làm gì mà lắm hòm thế? Những sáu cái.
Nguyễn Thiêm đỡ lời:
- Thưa ngài, bọn này chừng hát được, mà dễ thường nhiều xiêm
áo lắm đấy.
Bấy giờ tiệc rượn đã bày ra linh đình Ở công đường. Ngoài sân
trước, hai hàng chiếu giải dọc, cỗ bàn có gần trăm mâm. Phân phủ mời Nguyễn
Thiêm vào ngồi bàn giữa. Khách, chủ nhường mãi nhau chỗ chính toạ. Về sau phân
suất phải đứng lên vì phân phủ mời hộ:
- CÓ bữa tiệc hôm nay là nhờ Ở tài của công tử. Công tử chẳng
nên từ chối để làm phiền lòng quan lớn tôi.
Nguyễn Thiêm nể lời hai người mới chịu ngồi xuống mà nói nhún
rằng:
- Tôi tài hèn, trí thiển. lại còn ít tuổi mà được hai ngài
quá hậu đãi, chẳng biết sau này có đền được cái ơn tri ngộ cho xứng đáng không.
Vậy xin nâng chén rượn nồng chúc hai ngài trường thọ.
Phân phủ và phân suất cũng nâng chén rượn chúc oang oang,
hình như ai nấy đều vui mừng rằng trừ được Phạm Thái tức là trừ được mối lo cho
tất cả mọi người, cho nhân dân cũng như cho quan quân, nhất là cho quan quân.
Rượn uống được dăm tuần, Nguyễn Thiêm đầu hơi lão đảo say, đứng
dậy nói trong khi yến ẩm nên có cuộc vui. Phân phủ tưởng chàng nhắc đến hát
chèo liền gạt:
- Xin tan tiệc hãy hát chứ?
Nguyễn Thiêm cười ha hả:
- Không, thưa nhị vị đại nhân, không, không phải hát chèo.
Ngày xưa các bậc đế vương, công khanh khi dự yến đều có âm nhạc. Nhưng thiết tưởng
âm nhạc không phải thứ để bậc anh hùng tiêu khiển. Tôi xin hiến cái trò chơi
này thú hơn, vui hơn, mà mạnh mẽ hơn.
Nguyễn Thiêm ngừng lại đễ cười một dịp nữa, rồi nói tiếp:
- Thứ trò chơi ấy đại khái như thế này: đóng một cái cọc Ở giữa
sân, rói một người vào cọc, rồi mỗi lần uống cạn chén rượn lại đánh một tiếng
trống cái, lại cầm dao sắc sẻo một miếng thịt... người.
- Sẻo thịt người bị trói?
- Chứ còn thịt ai? Bây giờ chỉ còn việc kiếm một người để
trói vào cọc. Người ấy tôi xin hiến...
Ai nấy lắng tai nghe. Nguyễn Thiêm đưa mắt nhìn một vòng rồi
dõng dạc tiếp luôn:
- Người ấy là Phạm Thái.
Mọi người vỗ tay hò reo:
- Bắt Phạm Thái trói vào cọc. Bắt Phạm Thái sẻo thịt?
Phân phủ vội đứng dậy bảo quân lính im ngay rồi lớn tiếng nói
rằng:
- Thưa công tử, kể tù nhân của công tử thì công tử có quyền
xin điều ấy thực.
Song tội nhân lại là tội nhân của triều đình, nên ta phải nộp
triều đình đã, sau này hết hắn vào hình phạt tùng sẻo hay hình phạt gì nữa,
cũng là tùy Ở triều đình, bọn ta có phải là nhà pháp luật đâu, mà sân công đường
bản nha có phải là nơi pháp đình đâu?
ông khách lặng thinh, có ý ngồi suy nghĩ và không được hài
lòng.
Phân suất tính tình nông nổi, hấp tấp nói:
- Đại nhân nói rất hơp ý tôi. Vả lại ta còn phải nộp tội nhân
về triều để l~nh thưởng chứ. Việc này đâu phải là một việc tầm thường. Bắt được
Phạm Thái há phải một việc dễ dàng mà phần thưởng há lại không xứng đáng sao?
ít ra là đại nhân thăng đến chức trấn thủ mà tôi đây nhẩy đến chức hiệp trấn. ấy
là chưa kể vàng bạc, vóc nhiễu hoàng đế ban cho đấy. Vậy thì ta khờ dại gì mà
giết Phạm Thái đi để mua vui trong chốc lát, cái vui vô ích thay?
Phân suất nói trúng ngay vào ý nghĩ của phân phủ. Nhưng kẻ võ
biền vô học kia không biết sửa sang lời nói cho có văn vẻ, khiến phân phủ lấy
làm ngượng về nỗi ông bạn đồng thành quá lỗ mãng và thật thà.
Liền chữa thẹn cho ông ta và cả cho mình nữa:
- Thưa công tử, công tử chưa biết tính quan phân suất đấy. Chỉ
được cái hay nói đùa... Ý nghĩ một đàng lại nói đi một nẻo để pha trò cho vui.
Chứ công tử còn lạ gì anh em chúng tôi, làm việc chỉ biết hết bổn phận, trên vì
vua, dưới vì dân, còn ngoài ra có cần một thứ gì nữa đâu?
Nguyễn Thiêm cười cười nói nói:
- Vâng, vâng đại nhân dạy rất phải. Vậy xin theo ý nhị vị đại
nhân hãy để cho Phạm Thái sống thêm ít ngày, tuy tôi vẫn thích cái hình phạt
tùng sẻo.
Phân phủ rùng mình nhìn ông khách lạ, yên trí rằng ông ta hẳn
là một tay tử thù của Phạm Thái.
Tiệc kéo dài đến mãi giờ Hợi. Lúc đó từ quan đến lính, ai ai
cũng say mềm.
Chỉ trừ bọn phường chèo sợ có giọng rượu, hát không được, nên
xin ăn cơm riêng Ở dưới trại.
Chờ khi các mâm bàn dọn dẹp xong xuôi, anh trùm phường lên
xin hát. Quan truyền lấy liếp quây buồng trò ngay Ở sân công đường. Một lát sau
tiếng trống chầu, tiếng trống hát nổi lên. Nhưng trong bọn lính có nhiều kẻ đã
say quá đã tìm một xó kín nằm vật ra ngáy như bò. Còn anh nào cố đứng lại xem
thì cũng ngủ gà ngủ vịt, đầu gật như mấy cái máy chầy giã gạo.
Rồi đến lượt phân phủ. Nhờ phân suất ngồi lại tiếp khách hộ,
ngài xin đi nằm một lát. ông khách vui vẻ mời ngài tự tiện. Mà sao chàng vẫn khỏe
khoắn và tỉnh táo như thế? Phân suất cố mở to cặp mắt lim dim ra để nhìn chàng
giơ thẳng tay vụt trống chầu, lòng tự nhủ thầm: "không trách nó bắt nổi Phạm
Thái? Càng uống, càng thức, nó càng tỉnh?" Trong lúc ai nấy đương mơ mơ
màng màng, bổng một tiếng pháo nổ. Tức thì chàng công tử cầm chầu vất dùi trống,
lanh lẹ rút kiếm thí cho phân suất một nhát.
Tiếng hét ầm ĩ vang thành. Nhưng đó không phải tiếng của các
tướng chèo nữa. Những tướng giả ấy đã trở nên thực cả: cũng thực những binh khí
họ cầm trong tay khi ra múa may dưới sân khấu.
HỌ vừa chém giết bọn binh lính đương mê ngủ, vừa tiến về phía
chổng phủ mà bốn chàng khiêng cũi cùng chủ tướng của họ, tức người bị nhốt
trong cũi, đã mở toang từ bao giờ.
Hồi 25
tướng ấy là ai?
Lần này là lần thứ hai, phủ Từ Sơn trở nên một bãi chiến trường.
Mà hai lần, quan quân đều mắc mưu bên nghịch và bị thiệt hại. Lần trước Đào
Phùng lừa cho phân suất kéo binh đi xa, rồi đến phủ cướp lại bà hoàng phi họ
Nguyễn, mưu ấy kể cũng đã cao. Nhưng lần này, viên tướng trẻ tuổi kia táo tợn
hơn nhiều, dám tự rạch mình mẩy, tự nhốt vào cũi sai quân khiêng nộp phủ, rồi
đang đêm phá ngục thất cứu hết thảy tù nhân ra, cả người trong đảng lẫn người
không thuộc đảng mình.
Viên tướng ấy là ai?
Phạm Thái thật đó chăng? Nhưng Phạm Thái là người biết thận
trọng, làm việc gì cũng cân nhắc phần thắng, phần bại từng ly từng tí. Dẫu lúc
phải quyết liệt thì chẳng ai quyết liệt bằng chàng, nhưng không khi nào không cần
làm liều mà chàng lại làm liều.
Tự nhốt vào cũi cho người khiêng nộp quan hẳn là một sự làm
liều, tuy đó là một thủ đoạn phi thường mà Nguyễn Nhạc đã dùng để cướp thành
Qui Nhơn.
Mà liều thực. Nếu lúc giải đến cổng phủ, viên phân suất nghe
nói đó là Phạm Thái, liền nổi cơn giận nóng nảy lên, cầm kiếm sỉa cho một ngọn
qua then cũi thì còn gì là đời kẻ bị nhốt Ở trong? Rồi lại đến khi viên tướng tự
xưng là Nguyễn Thiêm, chừng muốn tỏ bụng trung thành của mình đối với triều
đình và lòng thù oán của mình đối với Phạm Thái đứng dậy bàn đem sẻo tù nhân để
làm cuộc vui trong yến tiệc. Nếu lúc bấy giờ phân phủ hay phân suất uống quá
vài chén rượn đến nỗi mất hết lương tri mà nghe theo lời bàn ghê gớm ấy, thì
cái thân thể anh chàng can đảm chẳng đã tan tành thịt nát, máu rơi rồi ư?
Lại nữa, trong phủ có rất nhiều binh lính, khí giới, và sự
canh phòng rất là nghiêm mật, biết khi ra tay, vài chục người của hai viên tướng
trẻ tuổi có chống nổi với mấy trăm quân của viên phân suất chăng? Tin Ở lòng tự
phụ của viên phân suất, tin Ở tính thích uống rượn của binh lính? Nhưng một ông
tướng cầm quân không được tinh phỏng như thế bao giờ.
ấy là còn chưa kể điều này: Là nếu viên phân phủ có tính đa
nghi, khi thấy bắt được bọn phường chèo Ở giữa đường một cách không được tự
nhiên, liền lừa vào tròng rồi giết sạch đi...
Những sự có thể xảy ra được đã không xảy ra nên cái mưu kế mạo
hiểm kia đã thành công. Nhưng một người như Phạm Thái hay Trần Quang Ngọc vẫn
không bao giờ dám dùng vì nếu mưu bại lộ thì chẳng những mình bị thiệt mạng mà
đảng mình cũng đến tan.
Nhưng tướng trẻ tuổi kia đã dám dùng vì tướng ấy là Lê Báo.
Duyên do có thế này:
Trong đảng Tiêu sơn xưa nay có việc dự định gì to tát muốn
đem ra trình bày cùng các đảng viên, thì bao giờ đảng trưởng Trần Quan Ngọc
cũng bàn trước với Phạm Thái, vì Phạm Thái là người mưu cơ, chiến lược. Không
những thế, những khi phải đi xa, Quang Ngọc còn thường giao công việc Ở nhà cho
Phạm Thái trông col nữa.
Đến như Lê Báo thì đảng trưởng chẳng dám phó thách cho những
việc quan trọng bao giờ, vì biết chàng có tính nóng nảy và hay cậy sức, cậy
tài, ưa phỉnh ưa nịnh.
Lần này Phạm Thái đã cùng Nhị nương đi Lạng Sơn hộ giá Hoàng
phi. Ở nhà, trong bọn các tướng lãnh, Lê Báo và Trịnh Trực là những người mà đảng
trưởng có thể tín nhiệm hơn hết. Lê Báo thì tuy nóng nảy, nhưng rất trung
thành, còn Trịnh Trực thì thẳng thắn, can đảm, lại có nhiều mưu lược.
Vì thế, trong khi đảng gặp nhiều nỗi khó khăn, Quang Ngọc cần
phải giả danh đi quyên giáo để mộ thêm nhân tài các trấn lân cận, chàng liền
giao cho hai người kia tạm thay mình làm giám đốc đảng Tiêu Sơn. Chàng muốn phó
thác việc nặng nề ấy cho một mình Trịnh Trực thôi, nhưng sợ mếch lòng Lê Báo,
nên chàng để hờ Lê Báo vào địa vị đó mà ân cần dặn rằng:
- Nếu hiền đệ có thực bụng yêu đảng, thương ngu huynh thì phải
ghi chép ba điều này. Một là chừa hẳn uống rượn trong khi ngu huynh đi vắng.
Hai là không việc gì được tự tiện, một ly một tý cũng phải bàn với Trịnh Trực.
Ba là bất cứ việc lớn, nhở gì định làm cũng phải chờ huynh về đã, còn những việc
bất thần xảy ra đã có Trịnh Trực định liệu.
Lê Báo vui vẻ vâng lời. Nhưng trong lòng căm tức Phổ T nh đã
đặt mình vào một địa vị quan trọng mà không giao trong tay mình một tí quyền lực
gì.
Tuy thế, chàng vẫn cố theo được những lời dặn của đảng trưởng
trong gần nửa tháng Một hôm, tiết xuân đầm ấm, chàng rủ Trịnh Trực đi chơi rừng
Sặt. Đến đấy, hai chàng gặp một người bạn đồng chí ra khẩn khoản mời về chơi
nhà. Thì ra, - đó là mưu Lê Báo - họ đã sắp định sẵn từ trước: Một mâm nhắm và
mấy nậm rượn đương đợi hai người đến chiếu cố.
Tất nhiên là Lê Báo vờ từ chối, nói không những tu hành phải
giới tửu mà lại đã có lời dạn của đảng trưởng khi ra đi. Nhưng về sau nể lời mời
mọc ân cần của chủ nhân, chàng thầm bảo Trịnh Trực:
- Thôi, nhận lời cho ông ấy bằng lòng. Chúng ta uống ít vậy.
Uống ít nghĩa là chẳng bao lâu ba nậm rượn cúc đã cạn ráo. Bấy
giờ Lê Báo mới dùng hết lời khảng khái nói chọc tức Trịnh Trực:
- Chỉ có ba anh em mình đây, tôi nói vụng đảng trưởng, chứ đảng
trưởng thực không tin một tí nào. Như tôi thì bản tính nóng nảy đã đành, đến
như Trịnh đại huynh thì văn võ khiêm toàn, mưu kế sâu sắc, thế mà lúc ra đi, đảng
trưởng lại không kể vào đâu, bắt bất cứ việc gì đều phải chờ đảng trưởng về mới
được làm.
Như thế phỏng còn coi Trịnh đại huynh ra sao nữa.
Trước Trịnh Trực còn hết sức binh vực Quang Ngọc. Nhưng sau bị
hai người cùng ùa nhau nói khích mình và công kích đảng trưởng nên chàng cũng
hơi thấy siêu lòng tự phụ. Chàng phàn nàn:
- Kể đảng trưởng thì giỏi thực, nhưng anh em mình há phải bọn
võ phu vô mưu cả đâu?
Được thể, Lê Báo càng nói hùn vào:
- Vâng, nhất là đại huynh.
Rồi chẳng bao lâu, khi chủ nhân đã rót Ở hũ ra đến nậm rượn
thứ mười, ba người đồng ý thi thố một việc phi thường. Trịnh Trực nói:
- Tức thật. HỌ bắt bớ nhiều quá. Nhà ngục phủ Từ đã chật hết
chỗ giam tù nhân Vẫn biết trong số ấy chỉ có hơn một chục người đảng ta, mà những
người ấy cũng không bao giờ chịu cung khai ra kẻ khác, nhưng giá có mưu kế gì
phá được ngục thì một là cứu thoát các đảng viên hai là thêm thanh thế cho đảng
bí mật của ta Ở vùng này, ba nữa là làm cho bên địch nao núng kinh hãi chúng
ta.
Ai nấy khen phải. Rồi người nọ bàn thế này, người kia bàn thế
khác, rút cuộc chưa có cách nào ổn thỏa. Lê Báo nguyên đã có mưu riêng của
mình, nhưng mãi sau cùng mới chịu đem ra bàn. Là cái mưu tự nhốt mình vào cũi,
rồi cho khiêng đến nộp phân phủ. Trịnh Trực như trông ;thấy sự nguy hiểm, song
một phần bị men rượn làm cho chóng mặt, một phần bị những lời tâng bốc của Lê
Báo làm cho quá hởi lòng, nên chàng chẳng chịu suy xét kỹ càng nữa. Vả Lê Báo lại
khảng khái hai ba lần bảo chàng:
- Dù tôi có chết nữa, âu cũng là một cái chết xứng đáng: chết
vì đảng, vì vua.
Khi Trịnh Trực đã thuận theo mưu kế, Lê Báo chỉ việc hô lên một
tiếng, tức thì bốn người khiêng một cái cũi Ở buồng bên đi ra.
Lê Báo chẳng nói chẳng rằng, đứng dậy cởi phăng áo ra, rồi
chưa ai kịp ngăn cản, chàng cầm dao tự chém vào lưng, vào vai mấy nhát. Máu chảy
đỏ cả người.
Đoạn, chàng đừa tay cho bọn quân dùng thừng trói lại bỏ cũi.
Chàng lại dạn dò cặn kẽ mọi điều để bọn khiêng cũi trình với
phân phủ. Điều cần nhất là nhớ kỹ rằng kẻ bị nhốt không phải là Lê Báo mà là Phạm
Thái. Chàng thích chí cười ha hả, ngồi trong cũi nói ra một câu khôi hài:
"Lê Báo thì chúng nó sợ quái gì, vì chúng nó biết Lê Báo
là thằng nào. Còn cái tên Phạm Thái thì khắp vùng này từ quan đến dân chẳng ai
lạ, mà chẳng có ai là không kinh hãi".
Khiêng Báo đi được một lúc lâu. Trịnh Trực mới tỉnh hẳn rượn
và hiểu thấu hết mọi nỗi nguy hiểm của một hành vi quá ngỗ nghịch. Nhưng đã quá
tiến rồi, lùi sao kịp nữa? Bấy giờ chàng vội đi tìm mấy chục dõng sĩ trong đảng
để đóng những vai kép và đào mà ta đã thấy trong hồi trên. Vì Nguyễn công tử
hay Nguyễn Thiêm chính là Trịnh Trực.
Hồi 26
mưu mô
Trong lầu Tiêu Lĩnh, Lê Báo và Trịnh Trực còn ngồi uống rượn,
tuy lúc bấy giờ đã vào khoảng gần nửa đêm. Hai người nghe chừng đề đã say lắm,
say chán nản, buồn tẻ, ủ rũ chứ không phải say vui vẻ ầm ĩ như mọi khi.
Bỗng Trịnh Trực như thức giấc, tỉnh cơn mê, thở dài hỏi bạn:
- Đại huynh nghĩ sao?
Lê báo cũng thở dài, hỏi lại:
- Không biết hôm nào đảng trưởng mới chịu về cho?
- Hừ? CÓ gặp những lúc nguy biến như thế này mới biết bọn
mình còn kém đảng trưởng xa. Mình không thể nào còn bình tĩnh, sáng suốt mà
nghĩ tìm mưu kế được Lê Báo đáp lại bằng một tiếng khà, sau một tơp rượn suông.
Vậy một sự nguy biến đã xảy ra?
ĐÓ là sự lùng bắt các thiền sư bị tình nghi trong hạt và giam
chật ngục thất phủ Từ Sơn.
Trước kia, tuy cách tổ chức của đảng Tiêu Sơn rất bí mật và
viên phân phủ cũng đã hơi ngờ vực bọn thầy tu, thường vẫn cho thám tử đến do
thám các chùa chiền. Từ hôm xảy ra truyện cướp nhà sư Ở tửu quán ngoài phố,
phân phủ lại càng ngờ lắm, bởi về sau chẳng biết tung tích nhà sư bị cướp mang
đi ra sao mà cũng chẵng thấy chùa chiền nào làm đơn kêu ca về việc ấy hết.
Nhưng sau hôm ngục thất bị phá, phân phủ không còn nghi hoặc
nữa, quả quyết rằng có nhiều tăng già nhúng tay vào việc nước. Những cớ khiến
phân phủ tin chắc như thế, phân phủ còn giữ bí mật, sợ hơi tiết lộ ra bên địch
biết mà phòng bị, làm cản trở sự tra cứu đương tiến hành.
Vì vậy, ngay sáng hôm sau, trong khi binh lính mai táng những
gnười chết, và chữa chạy những người bị thương, thì phân phủ một mặt làm tờ bẩm
lên quan trấn thủ chịu nhận tội về sự thất thố đã xảy ra và xin khoan thứ cho y
đái tội lập công:
Y cam đoan rằng chỉ trong vòng nửa tháng là y sẽ tìm ra được
manh mối việc cướp phá và hơn nữa, sẽ bắt hết được đảng viên của mấy đảng bí mật
trong hạt.
Một mặt y cho các đội cơ dẫn quân đến các chùa khám xét, và
ra lệnh dù có hay không có vết tích hay tang chứng gì khả nghi cũng bắt các nhà
sư về phủ giam tạm để tiện sự tra vấn.
Cho đó là một việc rất quan trọng, nên khi nhận được tờ
trình, hai quan trấn thủ và hiệp trấn Kinh Bắc tức tốc tới phủ Từ Sơn xem tình
thế ra sao. Hiệp trấn nhất định xinh huyền chức phân phủ, một phần vì đã làm
cho phân suất, người nhà mình, bị hại, một phần vì bấy nay ngài vẫn dành chức
phân phủ Từ Sơn cho một viên phân tri đã khấn trước với ngài. Nhưng trấn thủ
sau khi nghe mấy lời mật bẩm của phân phủ, liền bằng lòng tạm để y Ở lại trị nhậm
trong thời hạn một tháng, hết hạn ấy, nếu không lập được công, quan trên sẽ định
liệu. Còn chức phân suất thì trước khi triều đình bổ người đến nhậm, trấn thủ tạm
cho một viên chánh quản có giá trị Ở trấn lị về quyền.
Những tin tức ấy Lê Báo và Trịnh Trực biết được là nhờ sự
thám thính của một đảng viên đảng Tiêu Sơn hiện làm đội hầu trà trong phủ.
- Vậy đại huynh định xử trí ra sao?
Nghe câu hỏi của Lê Báo, Trịnh Trực giật mình.
- Xử trí ra sao à? Chỉ có một cách là ám sát phân phủ Nguyễn
Túc.
Lê Báo vui mừng:
- Phải, ngoài sự ám sát ra, dễ không còn cách nào.
- Người khác về thay chắc không theo đuổi công cuộc đương tiến
hành của Nguyễn Túc nữa.
Lê Báo chau mày như suy nghĩ lung lắm:
- Nhưng vẫn không hiễu tại sao hắn biết có tăng già dúng tay
vào việc này.
Giữa lúc ấy có tiếng chó sủa. Kế tiếp tiếng gọi cổng. Trịnh
Trực lo sợ bảo Lê Báo:
- CÓ lẽ họ đến bắt chúng mình chăng?
Chàng vội tắt phụt ngọn sáp. Lê Báo mạnh bạo rút kiếm nhăm
nhăm cầm Ở tay. quả quyết kháng cự không chịu để ai bắt trói.
Lát sau, một người tay cầm cây sáp Ở trong chùa đi lên lầu
Tiêu Lĩnh. Té ra người ấy là Quang Ngọc. Lê Báo và Trịnh Trực vui sướng cùng
kêu:
- Kìa Phổ T nh thiền sư?
Quang Ngọc ôn tồn hỏi:
- Thế nào, Nguyễn Thiêm với Phạm Thái vẫn chưa bị bắt?
Lê Báo cười:
- Sao hiền huynh biết?
Quang Ngọc không trả lời, quay ra trách Trịnh Trực:
- Lê hiền đệ tính nóng nẩy hấp tấp đã đành, nhưng Trịnh quân
sao nỡ để xảy ra sự tai hại như thế?
Lê Báo vội cãi:
- Phá ngục thất không tổn một mạng đảng viên mà cứu nổi hết
tù nhân ra thoát, sao gọi là một sự tai hại được?
Quang Ngọc cười gằn:
- Cứu được hơn mười đảng viên thì hàng chục, có lẽ rồi hằng
trăm đảng viên khác kế tiếp nhau vào ngục, như thế không phải là một sự tai hại
hay sao? Nhưng thôi, việc đã xảy ra, phàn nàn cũng vô ích. Tôi chỉ trách tôi
quá tin hai ông, tưởng hai ông biết vâng theo thượng lệnh.
Lê Báo thấy Quang Ngọc giận dữ, thì lo lắng sợ hãi đứng im.
Quang Ngọc đi đi lại lại trong lầu, có vẽ cau có khó chịu:
- Các ông phải biết, nếu việc ấy nên làm thì tôi đã làm rồi,
có chờ đêu đến các ông? Mà các ông khờ khạo đến thế là cùng, bày mưu kế trẻ con
đến thê là cùng.
Các ông tưởng các ông khôn ngoan, nhưng các ông phải suy xét
kỹ càng đã chứ.
Nhốt một người đầu trọc vận quần áo nảu vào cũi, thì ai còn
không biết người ấy là một nhà sư, dù là một nhà sư say rượn bú bự đi nữa. Bây
giờ người ta đi lùng các chùa chiền để bắt bớ chư tăng về giam, các ông đã hiểu
vì sao chưa?
Lê Báo và Trịnh Trực vẫn đứng im thin thít, vừa kinh hãi, vừa
kính phục tài xét đoán của Quang Ngọc.
- các ông đã hiểu vì sao chưa? Cũng may mà người ta còn nể
tôi, chưa đến chùa Tiêu Sơn đấy, nhưng rồi thế nào người ta cũng đến. Lúc bấy
giờ ông Phạm Thái giả hiệu kia giấu sao được cái lưng đầy nhát dao chém? Mục địch
người ta lùng các chùa chiền là chỉ để tìm ra nhà sư bị thương ấy mà thôi, các
ông đã rõ chưa? Tang chứng rành rành, lúc ấy còn cãi làm sao được, thế là... cả
lũ vào ngục, thế tan đảng.
Lê Báo mướt mồ hôi xụp xuống lạy, xin chịu tội. Quang Ngọc vội
đỡ dậy:
- ông đứng lên nghe tôi nói nốt. Vì đã hết đâu... Trong bọn
phường chèo nhiều kép hát có cái đầu trọc, điều ấy đã dĩ nhiên rồi, tôi khôgn cần
nói tôi chỉ nói ngay cái giọng hát ê a như đọc kinh, đọc kệ của họ... Trời ơi?
giấu sao nổi cái tai thành thạo của Nguyễn Túc. Cũng may mà hắn say rượn đấy,
chứ không thì chưa biết đâu... Nhưng bao nhiêu sự l^ lỡ cuối cùng... Ư, tôi xin
hỏi ông Trịnh, ông giết phân suất làm gì? ông có cần giết hắn không? Để hắn,
thì hắn chỉ bàn ngang, chẳng giúp ích gì cho phân phủ. Nhưng giết hắn thì thế
nào không có người giỏi hơn về thay. Người đáng giết, các ông không giết, lại
đi giết kẻ không nên giết.
Trịnh Trục phục xuống khóc, xin chịu tội rồi hỏi mưu kế để đối
phó lại.
Quang Ngọc cười chua chát:
- Mời ông đứng lên cho, ông nên để dành nước mắt mà khóc đảng...
Chàng vẫn đi đi lại lại và như nói một mình:
- Hừ? Mưu kế?... Mưu kế?... Mưu kế gì?
Lê Báo bàn - Hay mai hiền huynh họp đảng viên...
Quang Ngọc ngắt lời:
- Họp tập? Lê hiền đệ phải biết cho rằng, đêm hôm nay ngu
huynh về chùa khuya, vị tất đã không có thám tử báo Nguyễn Túc rồi, chứ đừng
nói họp tập vội.
Chỉ còn cách này, ta hãy thử xem...
Chàng liền bảo Trịnh Trục đi lấy bút, rồi viết một thư như dưới:
Kính bẩm quan trấn thủ trấn Kinh Bắc Bấy lâu nay trong hạt Từ
Sơn, giặc giã quấy nhiễu giết hại nhân dân là chỉ vì viên phân phủ quá tham
tàn, một mặt ăn lễ, dung túng quân gian, một mặt bắt bớ tra khảo những người
lương th iện có chút tài sản. Viên phân phủ ấy còn Ở lại trị nhậm phủ Từ Sơn
ngày nào th ì mối loạn còn khó lòng dẹp yên đươc. Quang lớn không tin lời tố
giác của chúng tôi, xin về tra xét, sẽ rõ thực hư.
Kính bẩm Một bọn dân lương thiện ký, Niên hiệu Cảnh Thịnh năm
thứsáu Th áng ba ngày...
Trịnh Trực đọc nhẩm lại bức thư:
- Thưa đảng trưởng làm cách nào mà đệ lá thư này lên trấn thủ
được?
- Đã có đội Thiều. Vậy bây giờ cho người mang thư giao cho đội
Thiều ngay lập tức Dặn hắn nói với trấn thủ rằng buổi sớm lúc trấn thủ còn
đương giấc có một bọn dân đến xin hầu nhưng hắn đã đuổi ra, chỉ giữ lấy đơn để
nộp ngài.
Quang Ngọc cười nói tiếp:
- Trấn thủ đa nghi lắm, thế nào cũng về xét. Lúc ấy làm gì
không có bọn thù ghét phân phủ ra khiếu oan về lulung tội bị tra tấn, hạch sách
trước kia. Bằng không ai dám ra thì đảng viên đảng ta cáng đáng lấy...
Lê Báo và Trịnh Trục lấy làm phục Quang Ngọc lắm, chắc chắn rằng
thế nào mưu kế của đảng trưởng củng có công hiệu...
Đêm đã sang canh Dần. Quang Ngọc còn cắt đặt mọi việc. Mà việc
quan trọng nhất là bắt Lê Báo và Trịnh Trực phải ẩn núp trong một cái hầm kín Ở
chùa.
Hồi 27
bại lộ
Quang Ngọc vừa chợp mắt thì tiếng ngựa hí và tiếng người gọi ầm
ĩ Ở cổng chùa làm thức choàng dậy. Vội mở rương lấy ra một gói lớn, rồi lên
chùa.
Chú Mộc hấp tấp chạy theo:
- Bạch thầy, nguy biến đến nơi?
Chàng ghé vào tai chú dặn nhỏ mấy câu, đoạn mởi cửa nách lẻn
ra chùa biến mất...
Chú tiểu ung dung ra cổng hỏi:
- Đêm hôm, ai dám đến phá cổng chùa?
- MỞ ngay?
Chú tiểu vẫn dõng dạc, không chút sợ hãi:
- à, chúng mày là quân cướp, phải không? Nhưng dù chúng mày
là quân cướp tàn ác đi nữa, chúng mày cũng phải kiêng nể trời phật chứ?
Tiếng phá cổng đáp lại những lời thuyết đạo đức suông. Nhưng
cổng chùa vững chãi quá, phá không chuyển. Chú tiểu vẫn thét mắng:
- Ử cho chúng mày không kính nể trời phật, cho chúng mày coi
thường tăng già yếu đuối, không chống cự nổi chúng mày đi nữa, nhưng đây gần phủ,
chúng mày lại không biết đại danh của quan lớn phân phủ à?... Ngài không bao giờ
dung túng bọn chúng mày đâu... Ngài rất công minh.
Tiếng Ở ngoài quát:
- MỞ cổng mau? Quan đây?
- ái chà quan? Tôi đã biết các quan cướp?
Rồi Mộc cùng các chú tiểu khác la thất thanh:
- Trời ơi? Cướp? cướp? làng nước ơi? cướp?
Tiếng Ở ngoài quát càng to:
- MỞ cổng mau để quan lớn vào khám chùa. Bằng không quan đốt
chùa ngay lập tức bây giờ.
- Làng nước ơi? cướp? Cướp phá chùa? ới làng ơi? cướp đốt
chùa?
Ở ngoài tiếng quát tháo vẫn đi liền với tiếng phá cổng thình
thình. Bỗng chú Mộc vờ sợ hãi bảo mọi người:
- Im ngay? Hình như quan đến thực, các chú ạ?
Tiếng phía ngoài:
- MỞ cổng mau. Quan lớn phủ đến khám xét chùa.
Tức thì chú Mộc mở cổng và nằm phục xuống đất lạy mà nói rằng:
- Bẩm quan lớn đến vãn cảnh chùa sớm quá, nên chúng con không
biết, dám phạm đến quan lớn, xin quan lớn tha chết cho.
Một đoàn ky binh theo phân phủ và quyền phân suất rầm rộ kéo
vào trong sân.
Còn đến một trăm bộ binh gươm, dáo tua tủa đứng canh Ở ngoài
cổng và chung quanh chùa.
Lúc bấy giờ chừng vào khoảng cuối giờ Dần. Hàng chục bó đuốc
lớn chiếu ánh lửa, sáng trưng khắp quả đồi. Dẫu một con chuột Ở trong chù cũng
không chạy thoát ra ngoài, mà người ta không trông thấy được.
Gà Ở trong chùa, lầm lửa đuốc với lửa trời tưởng đã bình
minh, thi nhau cất tiếng gáy. Và chó Ở các làng lân cận nghe tiếng kêu ầm ĩ, sủa
ran cả một vùng.
Chú Mộc toan chạy lại mởi cửa chùa trên, bị ngay một anh cai
giữ lại. Phân phủ thét mắng:
- Mày định đi bảo thầy mày phải không?
Chú tiểu quỳ xuống lạy van:
- Bẩm quan lớn, sư cụ, sư ông con cùng đi vắng.
Phân phủ hô lính:
- Khám xét thực kỹ?
Rồi quay lại hỏi chú Mộc:
- Sư cụ mày đi vắng từ bao giờ?
- Bẩm, đã nửa tháng nay.
- Đi đâu?
- Bẩm ông lớn, cụ con đi khuyến hóa nay đây mai đó con biết
sao được.
Quả thực, quân lính lục lọi từ lúc đó cho tới lúc sáng rõ vẫn
không thấy vết tích sư cụ và sư ông đâu. Phân phủ căm tức nghĩ thầm:
- Thì vừa tra khảo mấy thằng tiểu, chúng nó đều khai hiện có
Phạm Thái Ở trong chùa?
Liền hỏi:
- Sư cụ mày là Phạm Thái, phải không?
Mộc ngơ ngác?
- Bẩm, con không biết Phạm Thái là ai. Sư cụ con là Phổ Tĩnh
thiền sư cơ ạ.
Phân phủ mỉm cười:
- Còn sư ông mày là Lê Báo?
Chú tiểu càng kinh ngạc:
- Bẩm Lê Báo? Tên gì mà dữ dội thế? Sư ông con là Phổ Mịch
thiền sư, người rất hiền lành, mộ đạo.
- Được? Tao đã có cách dạy mày nói thực. Lính đâu? Trói cổ điệu
cả chúng nó về phủ.
Tức thì lính dạ ran. Nháy mắt, ba chú tiểu đã bị gông xiềng
và giải về phủ.
Phân phủ lưu lại trong chùa vài chục lính với một viên đội để
ngày đêm canh phòng, vì chắc thế nào bọn Phạm Thái cũng lần mò về.
Hồi 28
đường hầm
Đường hầm ấy nguyên xưa kia là nơi chứa các mộc bản để in
kinh phật, Tiêu Sơn là chùa chính Ở vùng Từ Sơn Đông Ngàn, và bậc thiền sư trụ
trì Ở đó nhiều khi là sư tổ, nên vẫn phải in kinh sách phát đi những chùa Ở các
nơi khác cho chư tăng, ni, môn sinh của sư tổ. Vì thế các đồ đạc dùng về việc ấn
loát rất bề bộn, cần phải có một nơi kín để chứa cho khỏi mất mát, và được có
thứ tự.
Đến thời Phổ T nh thiền sư thứ nhất, - vì Phổ T nh thứ hai hiện
trụ trì Ở chùa Tiêu Sơn chỉ là Trần Quang Ngọc, mạo nhận đạo hiệu thiền sư bị
giết- thì cái hầm chứa ấy bỗng không có nữa. Những mộc bản khuân để ngổn ngang
đầy một gian nhà tổ Còn cái hầm kia, người ta đồn rằng nhà sư đã lấp đi rồi, hoặc
còn thì cũng chẳng ai biết cửa vào hầm Ở chổ nào...
Đã một dạo các thiện nam tín nữ quanh vùng kháo nhau rằng
trong chùa Tiêu Sơncó con yêu tinh cao tay và dữ tợn ghê gớm lắm. HỌ nói thường
những đêm trăng suông nó hiện lên đi vơ vẩn trong sân chùa, lượn vòng mấy cây
tháp rồi biến mất. Người ta nói thêm rằng con yêu tinh ấy có phép biến hoá thần
thông, muốn đổi hình gì tự khắc thành hình ấy. CÓ khi người ta thấy nó khoác áo
cà sa như một vị chân tu vừa đi vừa lần tràn hạt. CÓ khi nó hoá ra một người
con gái hoặc khóc hoặc cười, hoặc đùa bỡn nhảy múa quanh hàng tháp rồi tan vào
trong sương mù.
Lại có khi nó hoá làm một cặp vợ chồng âu yếm nhau dưới ánh
trăng nữa.
Lời đồn đến tai sư cụ Phổ Tĩ nh (người trụ trì chùa Tiêu Sơn
trước thời Quang Ngọc). Chẳng đừng được, sư cụ phải bầy đặt lập đàn bắt ma, vì
cụ vừa là một thiền sư đắc đạo lại vừa là một pháp sư cao tay.
Quả thực, bẵng đi một dạo con yêu tinh thôi không dám đến
chùa quấy nhiễu.
Nhưng nó không đến chùa chứ nhà dân gian thì nó vẫn qua lại
như xưa. Hễ đâu có gái đẹp là tất có bóng nó. CÔ nào nó thích vừa thì nó hãm hiếp
rồi cho tiền. Một điều lạ, tiền của nó chẳng phải tiền giấy, mà chính là tiền đồng
đúc Ở kho nhà vua.
Nhưng cô nào chẳng may bị nó yêu mến thực tình, thì thế nào
cũng bị nó mang đi biết tăm mất tích.
Vậy nó mang đi đâu?
NÓ mang vào cái hầm nói trên kia. Vì cái hầm ấy không những
chưa lấp mà Phổ Tĩ nh (Vẫn không phải Quang Ngọc), còn phá sâu vào đồi, dùng
làm nơi bí mật chứa gái của ngài. Với mục đích phóng dật và tích cách kiêu xa
như thế, cái hầm sơ sài chật hẹp đã sửa chữa thành rộng rãi, mát mẻ về mùa hè, ấm
áp về mùa đông.
Hầm có hai cửa. Một cửa mở ngay giữa bệ thờ phật. Mà chính
cái bệ ấy cũng là một cái buồng. Đứng ngoài trông - dẫu mắt tinh đến đâu đi nữa
- thì đó chỉ là một cái bệ gạch xây đặc. Nhưng khi đã lách qua, một cái khe hẹp
Ở giữa maột cái cột gạch và cái bệ kia, khi đã lấy chìa khóa riêng lùa vào một
kẽ vôi thì tự khắc mở được cái cánh cửa nhỏ, làm lẫn trong cột bệ.
Vào trong buồng chỉ việc nhấc lên mấy viên gạch lát bát tràng
là trôgn thấy lối xuống hầm.
Một cửa nữa là chính cửa một cây tháp. Cây tháp ấy chỉ là một
cây tháp giả, nhưng Ở trong chùa và Ở khắp vùng, người ta đều cho rằng đó là
tháp một vị sư tổ tu hành đắc đạo, đã thăng Nát bàn bằng cách thiêu hóa. Hai
cánh cửa gỗ lim có khóa sắt lớn, giữ gìn hài cốt sư tổ để khỏi bị ai xúc phạm tới
cái nội cung bí mật của ngài.
Chắc có người tưởng rằng cái phòng hầm ấy hẳn tối và bí hơi.
Trái lại, nó có rất nhiều cửa sổ, vì trong sân sau chùa theo mặt đồi thoai thoải
chạy ngược lên có rất nhiều tháp. Mà đến một phần ba số tháp ấy chỉ là những cửa
sổ dẫn không khí và ánh sáng vào hầm.
Quang Ngọc kế tiếp vị ác tăng kia đến trụ trì chù Tiêu Sơn, kế
tiếp một cách quá võ đoán như ta đã biết.
Nhưng mãi mấy tháng sau, nhờ về một sư tình cờ chàng mới tìm
ra được cái hầm bí mật. Hôm ấy Quang Ngọc mới mua được hai con chó tốt để giữ
chùa. Một con vừa ra sân sau là chạy đến ghé mũi ngửi một cây tháp, rồi chõ mõm
vào đó mà sủa om xòm. Trước Quang Ngọc còn sua đổi đi, vì tuy chàng không phải
là một bậc chân tu, nhưng chàng không thể đứng nhìn co chó láo xược xúc phạm tới
linh hồn một vị sư tổ.
Về sau thấy con vật sủa mãi không thôi, chàng sinh nghi và tò
mò đến ấn cánh cửa tháp, ghé mắt nhìn qua khe hở. Nhưng trong tối quá... Bỗng
phảng phất có mùi hôi tanh đánh và mũi chàng.
Quang Ngọc càng ngờ lắm, lấy dao nhựa phá cửa tháp ra xem.
Thò đầu nhìn vào nền tháp, chàng thấy có mấy viên gạch lát bị ai bẩy đặt chồng
lên nhau, Ở bên một cái 1641 sâu thẳm, như cái giếng khơi.
ĐÓ là lối xuống hầm. Hôm lão ác tăng Ở hầm chui ra, đương
loay hoay lát lại gạch thì chợt nghe thấy tiếng ngựa của Quang Ngọc Ở tam quan.
Lão ta vội vàng ra ngoài khoá cánh cửa tháp lại, định khi trở về sẽ xếp nốt.
Nhưng vừa cùng Nhị nương tới chùa thì lão bị ngay Quang Ngọc giết. Vì thế mà
nay tình cờ Quang Ngọc nhìn thấy lối xuống hầm.
Sau khi đã nhấc hết gạch lát lên, Quang Ngọc thấy một con đường
thoai thoải thành bực. Nhưng vừa chui vào đi được hai, ba bước, chàng giật mình
kinh hãi lùi lại Mùi hôi thối Ở dưới xông lên ghê tởm quá.
Chàng liền quay về chùa lấy một bó hương lớn, và một cây sáp.
rồi đốt hương, thắp sáp đi bừa xuống. Nhiều lần cái hơi chết xô đuổi chàng lên,
nhưng chàng đã quả quyết khám phá sự bí mật nên dẫu sao cũng tiến bước.
May thay đi hết con đường hẹp, chàng vào trong buồng rộng, và
Ở đó nhờ được có nhiều cây tháp giả Ở trên mật đất thông hơi và chiếu sáng, nên
chàng thấy dễ thở hơn một chút.
Rồi Quang Ngọc dong sáp soi khắp nơi. Đến một cái giường tre,
chàng kinh hoảng trừng mắt nhìn. Chàng nhận thấy mùi hôi thối chính Ở đó bốc
ra.
ánh sáng cây tháp lờ mờ lung lay chiếu vào đống vải nâu rách
tươm, và nhão như bùng. Thấy động, một đàn chuột Ở trong đống vải chạy ra.
Chàng cố bịt mũi đứng nhận kỹ thì đống vải mủm đó là một thây người bị trói, chết
đã lâu ngày và bị chuột cùng các côn trùng ăn ruỗng hết thịt.
Hoàng hồn, Quang Ngọc trở lên ngay. Rồi suốt ngày hôm ấy,
chàng cùng Nhị nương chôn cho người chết và tẩy uế gian hầm. Hai người giữ rất
kín những điều vừa thấy, và đã định tâm dùng cái hầm ấy, không phải để chứa gái
như vị ác tăng kia, nhưng để làm những việc bí mật trong đảng.
Nhị nương bảo Quang Ngọc:
- Thưa hiền huynh, rõ tội nghiệp cho người con gái bị chết
oan. CÓ ngờ đâu chỉ vì hiền huynh giết chết lão ác tăng mà người ấy bị chôn sống
trong hầm.
Quang Ngọc cười đáp:
- Hiền muội nghĩ lẫn thẩn quá. NÓ đã đưa vào hầm bí mật của
nó thì đời nào nó còn cho ra để làm lộ tội ác của nó. Đấy, hiền muội coi, lúc
nó Ở hầm ra, nó đã cẩn thận trói kỹ tình nhân của nó lại. Vậy người con gái đó
khi nào nó không ưng nữa, thì nó chỉ có một cách đối phó là giết đi. Biết đâu
những cây tháp kia lại không chứa bằng gio xương phụ nữ, bọn tình nhân một thời
gian ngắn ngủi của nó.
Nhị nương rùng mình ghê sợ.
Ngay từ hôm ấy, Quang Ngọc, Nhị nương và những đảng viên quan
trọng xuất lực sửa sang cái hầm cho kiên cố và bí mật hơn nữa.
Hồi 29
ma hiện hồn
Chẳng cần phải nói, độc giả cũng biết Quang Ngọc, Lê Báo và
Trịnh Trực trốn vào trong hầm ấy.
Vì hấp tấp quá, không ai nghĩ đến mang theo lương thực, nên
suốt một ngày không có gì vào bụng, ba người đói meo nằm ngủ một giấc dài.
MỞ mắt ra không thấy Lê Báo đâu, Quang Ngọc lo lắng bổ đi
tìm. CÓ lẽ lúc đó đã sang giờ Tuất, vì trong sân yên lặng tiếng dế kêu ran, và
xa xa tiếng chó sủa đêm...
Đến chổ cửa vào chùa, Quang Ngọc thấy Lê Báo đang đứng áp tai
vào tường nghe ngóng.
Chàng quay ra thầm bảo Quang Ngọc:
- Không ra được, chúng nó còn thức. Đương tụ họp nhau đánh bạc
Ở ngay chùa trên.
Quang Ngọc cũng lắng tai nghe, thì rõ ràng có tiếng tiền
trinh đụng thành đ a bát.
- Hay ngu để ra phía cửa tha ma vào làng mua các thức ăn mang
về đây.
- Đước, để khuya hơn tí nữa, chúng ta cùng đi. Phải cẩn thận,
quanh chùa đều có lính canh giữ cả đấy.
Lê Báo chau mày tở vẻ căm tức, nắm tay giơ về phía trong
chùa, đe dọa bọn lính, mồm làu nhàu mấy câu nguyền rửa.
Khai hai người quay về chỗ cũ, thấy Trịnh Trực đương ngồi bó
gối, khóc rưng rức Lê Báo chau mày lặng thinh đứng ngắm, và Quang Ngọc mỉm một
nụ cười chua chát hỏi mỉm:
- Công tử còn khóc được ư?
Rồi chàng phàn nàn như nói một mình:
- Bây giờ ta cànt thấy lỗi ta quá nặng. Ta tưởng giao phó
công việc, khi ta đi vắng nhà, cho một viên tướng có đủ trí dũng, ai ngờ ta chỉ
đem việc lớn đưa trẻ.
Một bậc thượng tướng, trong khi hành sự, có thể sa vào chỗ lầm
lỡ bị thất bại, rồi ngồi khóc thì chỉ là một đứa trẻ con... phải một đứa trẻ
con.
Quang Ngọc nhắc lại hai, ba lần câu "một đứa trẻ
con". Trông chàng vẫn bình tĩnh, nhưng khi chàng đã có giọng mỉa mai như
thế, là chàng tức giận lắm đấy.
Lúc bấy giờ, vô phúc có kẻ nào gặp chàng, không may cho một đảng
viên nào cãi lý với chàng: chàng sẽ trở nên một con sư tử dữ tợn hay một con rắn
đầy nọc độc, tàn nhẫn, ác nghiệt.
Ý chừng Lê Báo biết vậy nên chỉ đứng im thin thít, không dám
chêm một câu.
Và Trịnh Trực sợ hãi thôi khóc, quỳ xuống đất, rút thanh kiếm
đeo bên sườn, ha tt nâng lên dâng đảng trưởng, rồi vươn cổ ra mà nói rằng:
- Kính lạy đại huynh, - ngu đệ không dám dùng những chử đảng
trưởng đảng viên nữa - ngu đệ chỉ còn có cái chết để báo đến ơn sâu.
Quang Ngọc đỡ lấy thanh kiếm, ném mạnh lên giường, rồi cười
nhạt, đi đi lại lại, vừa nói dằn từng tiếng:
- Chết? Hừ? Chết? Ngày xưa đời Trần, Trần Bình Trọng chết vì
nước. ĐÓ là một cái chết. Trần Bình Trọng thua trận Đà Mặc bị Thoát Hoan bắt được.
bị bắt thì tìm chách tháo thân để đánh nữa, đánh mãi cho đến khi được, hay chết.
Mà không có cách gì tháo thân thì chết ngay. Đời làm tướng chỉ có ba kết quả:
được trận, thua trận, chết trận. Nào có gì lạ lùng mà nói những câu to tát:
"Tao thà làm quỷ nước Nam, chứ không theom làm vương đất Bắc." RÕ
cũng lôi thôi? Cái chết đó, tôi liệt vào hạng chết rất thường của ông tướng biết
tự trọng, cái chết của kẻ thua không chịu khuất phục kẻ được mình. Nhưng cái chết
mà Trịnh công tử xin tôi ban cho có giống cái chết ấy không?
"Hơn một trăm năm sau, Bình Định Vương, tức đấng Thái tổ
nhà Lê khởi nghĩa Ở Lam Sơn để đánh đuổi quân Minh đương chiếm đất nước ta. Một
lần, vua bị khốn Ở Chí Linh, khó lòng phá vòng vây mà trốn thoát được. Bấy giờ
có ông Lê Lai theo gương Kỷ Tín chịu chết thay vua Hán Cao, liều thân vì nước,
xin nhà vua cởi áo ngự bào ra cho mình mặc, rồi cưỡi ngựa ra trận đánh nhau với
quân giặc.
Quân Minh tưởng đó là Bình Định vương thật, xúm nhau vây đánh
giết đi, rồi yên tâm rằng trừ xong vương, rút cả quân về Tây Đô. ĐÓ là một cái
chết anh hùng, mãnh liệt, có xuy xét, có lui tới, không có ý nghĩa kiêu sức,
khoa trương, tự phụ, vì nó là cái chết không có không xong. V~ đãi thay những
hành vi kín đáo, nhún nhường, xả kỷ, dù hành vi ấy là sự bại trận, sự thắng trận,
hay chỉ là cái chết.
Nhưng cái chết mà Trịnh công tử xin tôi ban cho có giống cái
chết của Kỷ Tín, của Lê Lai không?" Quang Ngọc ngừng lại cười, cười to đến
nỗi Trịnh Trực phải sợ hãi, lo rằng người Ở trên mặt đất có thể nghe rõ. Trịnh
Trực buồn rầu lóp ngóp đứng dậy. Thì Quang Ngọc lại nói luôn:
- Hay Trịnh công tử muốn theo gương Hưng Đạo đại vương: à?
Công tử muốn chết như đức Trần Quốc Tuấn. Trời ơi? To tát thay cái chết vì nước,
vì vua?
Vua Nhân Tôn nhà Trần nghe tin Hưng Đạo Vương bại trận chạy về
Vạn Kiếp, liền ngự truyền xuống Hải Đông, rồi vời vương đến bàn rằng: "Thế
giặc to, mà mình chống với nó thì dân bị tàn hại, hay là trẫm chịu ra hàng để cứu
muôn dân?" Hưng Đạo quỳ xuống rút kiếm dâng vua Nhân Tôn rồi vươn cổ ra mà
nói rằng:
"Bệ hạ nói câu ấy thật nhân đức, nhưng còn đất nước thì
sao? Nếu bệ hạ muốn hàng, xin trước hết chém đầu tôi đã, rồi hãy hàng."
Quang Ngọc cười gằn:
- Cử chỉ của Trịnh công tử đối với đảng trưởng thực giống cử
chỉ của Hưng Đạo Vương đối với đức Nhân Tôn, chỉ khác một chút là người xưa
dùng cái chết để khuyến khích can gián vua, còn Trịnh công tử thì dùng nói vì
nhu nhược, vì nhút nhát, vì sợ chết. Cái chết hèn nhát đến đâu? Cái chết ấy
khác gì tự tử?
Nghĩ một lát, Quang Ngọc lại nói:
- Ư, thì tôi nhận công tử chết đấy. Nhưng trước khi chết,
công tử hãy thi thố một việc phi thường gì đã nào? Chẳng hạn bây giờ công tử thử
nghĩ cách cứu đảng xem. Làm thế nào cho đảng không những không bị tan nát, mà
còn đương suy háo thịnh được?
Quang Ngọc ngưng bặt vì nghe có tiếng chân chạy nện thình thịch
Ở sau lưng.
Quay lại, thấy Lê Báo mặt nhợt nhạt, hai mắt tròn xoe nhớn
nhác. Quang Ngọc hỏi:
- Cái gì thế?
Trịnh Trực run lập cập, nói không ra hơi:
- HỌ phá đường hầm?
Lê Báo cố định thần, thuật lại việc vừa xảy ra. Chàng đến lối
cửa tha ma nghe ngóng để chờ tin lẻn ra ngoài, đi tìm kiếm thức ăn...
Nguyên cửa ấy Quang Ngọc xây ẩn vào trong một cái mộ giả,
dùng để đảng viên trốn thoát ra ngoài chùa khi nào bị vây (cái cửa tháp của Phổ
T nh chỉ đưa từ hầm ra đến vường chùa mà thôi.) Lê Báo vừa nâng cái nắp mộ lên
ghé mắt nhìn ra thì nghe thấy mấy người lính canh Ở gần đấy chạy tán loạn và
kêu la inh ỏi: "Ma? Ma hiện hồn?".
Quang Ngọc đứng ngẫm nghĩ tìm hiểu.
Bỗng một người đầu trùm cái mấn vải trắng dài chấm gót chân
tiến đến gần, Trịnh Trực chạy lại giường với thanh kiếm. Lê Báo rút dao đứng chặn
trước mặt đảng trưởng. Ai nấy yên lặng.
Quang Ngọc đăm đăm ngắm nghía, phì cười, giang tay cản hai
người lại:
- Ta không tin có ma. Mà nếu ma biết đường vào hầm thì cũng
là ma quen, can chi phải sợ.
rồi chàng trợn mắt nhìn thẳng vào người lạ mặt và ôn tồn hỏi:
- Ngươi là ai? Vào đây làm gì?
Người mới đến, vẫn giữ vải che kín mặt, yên lặng đật xuống
giường một gói lớn, rồi thong thả mở ra: Trong có đến năm sáu nắm cơm cùng là
giò chả, gà luộc, muối vừng. Ba người vẫn kinh ngạc đứng nhìn. Nhưng Lê Báo bụng
đương đói như cào ngửi thấy mùi chả rán và mùi muối vừng rang thơm phúc, liền
thì thầm bảo hai bạn:
- Thì ta cứ ăn đã. ăn xong hãy hay.
Trịnh Trực vội gạt:
- Chết, không nên hấp tấp thế? Nhỡ quân thù bỏ thuốc độc vào
món ăn đem xuống hầm để hại bọn mình.
Một tiếng cười Ở trong mấn đưa ra đáp lại câu ngờ vực.
Quang Ngọc vẫn chăm chú ngắm nhìn người vừa tới. Chàng tiến
lên một bước, người ấy lùi một bước, chàng lùi thì người ấy lại tiến lên. ánh
sáp lờ mờ lung lay chiếu loang loáng vào cái mấn dài, mầu trắng càng làm tăng vẻ
bí mật của người lạ lùng kia.
Hai người yên lặng đứng nhìn nhau: Bỗng một tiếng cười thé. Rồi
cái mấn trắng tung ra. Quang Ngọc và Lê Báo vui mừng cùng kêu:
- Nhị nương?
Nhị nương ung dung rút con dao lớn đeo Ở sườn ra thái giò, chả
và nói:
- Xin mời ba hiền hữu chiếu cố.
Quang Ngọc không giấu nổi sự sung sướng, âu yếm đứng mỉm cười
nhìn Nhị nương. Từ ngày hai người hộ giá Hoàng phi lên Lạng đến nay đã hơn hai
tháng, ngày ngày chàng vẫn áy náy mong đợi tin tức, nhất là tin Nhị nương. Khi Ở
gần nhau chàng không cảm thấy chàng yêu, nhưng khi xa nhau chàng mới rõ hết nỗi
hổ tâm của kẻ thương nhớ, dù có công việc đảng luôn luôn chiếm đoạt ý nghĩ của
chàng. Nhị nương lại là một viên tướng rất có giá trị, giúp chàng được nhiều việc
trong những lúc khó khăn nên sự lầm lỡ của Trịnh Trực và Lê Báo lại làm cho
chàng hiểu rõ rằng thiếu Nhị nương thực như thiếu mất cánh tay phải.
- Thưa hiền tỷ, còn Phạm huynh đâu?
Câu hỏi của Lê Báo vụt nhắt Quang Ngọc nhớ tới Phạm Thái, mà
mải vui được gập mặt Nhị nương chàng quên bẳng. Bấy giờ chàng mới kịp hỏi thăm.
Nhị nương nói cho mọi người biết rằng Phạm Thái còn tạm lưu lại trên Lạng để
giúp việc Thanh Xuyên hầu cùng Phổ Mịch thiền sư chỉ một mình nàng đã đưa Hoàng
phi về, vì Lạng sơn không phải là nơi ẩn thân: Ở chốn biên thuỳ, sự canh phòng
khám xét cẩn mật lắm, nếu lưu lại lâu ngày, thế nào tung tích Hoàng phi cũng bị
bại lộ.
- Nhưng sao hiền muội lại biết ngu huynh cùng Trịnh công tử,
Lê hiền đệ bị nhốt trong hầm này mà đem thực phẩm vào?
Nhị nương kể:
- Ngu muội vừa đưa Hoàng phi đến chùa Liên đài thì được tin Ở
vùng này các chùa đương bị sưu sách dữ lắm, mà chùa Liên đài lại chưa bị khám
xét vì có tờ lý trưởng bẩm lên phủ rằng Phổ Chiêu đi vắng đã mấy tháng nay. Ngu
muội sợ nếu để Hoàng phi Ở đó trụ trì thay Phổ Chiêu như lời Phạm Thái dặn, người
ta lại tưởng Phổ Chiêu đã về mà tới dò xét chăng, nên đã đưa Hoàng phi đến ẩn Ở
nhà một bậc Lê thần rất có thể tin cậy được.
Lê Báo nghe Nhị nương kể dền dàng mà bụng thì đói đến cực điểm
rồi, liền cáu kỉnh gắt:
- Trưởng huynh hỏi hiền tỷ làm thế nào mà vào được đây, sao
hiền tỷ nói dài dòng văn tự thế?
Nhị nương chẳng lạ gì tính nết Lê Báo, nên mỉm cười dấu dịu:
- Nhưng hãy mời công tử cùng hiền huynh, hiền đệ xơi cơm đã.
Quang Ngọc nóng ruột muốn nghe nốt truyện liền dục:
- Thì hiền muội cứ kể đi, chúng tôi chưa đói đâu mà.
- Không, mấy nắm cơm cùng các thức ăn mà chưa hết, thì ngu muội
không kể nữa.
Dút lời, Nhị nương chắp tay đứng im, dù ai hỏi cũng mặc. Lê
Báo đưa mắt nhìn nàng, tỏ lòng cảm ơn.
- Ử thì ăn, nào mời Trịnh, Lê nhị vị.
Lê Báo sung sướng đáp:
- Vâng, ăn là phải lắm rồi?
Chỉ một thoáng, những nắm cơm và các món ăn biến hết vào
trong bụng ba người, rồi ai nấy ra chum uống nước mưa vì Quang Ngọc biết khoản
nước là cần, nên bao giờ cũng trữ sẵn Ở trong hầm.
Đoạn, Lê Báo thở ra khoan khoái bảo Nhị nương:
- Bây giờ thì xin hiền tỷ cứ việc kể, kể suốt đêm cũng được.
Quang Ngọc cười:
- ăn qua loa thế mà Lê hiền đệ no được ư? Vậy hiền muội cũng
nên thuật hết câu truyện vào hầm cho chúng tôi nghe tiêu cơm.
- Xin vâng. Ban nãy ngu muội nói đã tạm gửi Hoàng phi Ở nhà một
người cẩn tín. Thế rồi ngu muội tức tốc về đây. Lúc bấy giờ đã gần sáng. Thấy lửa
đuốc rực trởi, ngu muội kinh hoảng dừng lại không dám tiến vào chùa nữa, vì biết
rằng đảng ta đương gặp biến. Vừa nghe tin các chùa bị khám xét, mà lại thấy
trong chùa Tiêu Sơn có binh mã rộn ràng thì còn ngờ sao được nữa.
Lê Báo hỏi:
- Hiền tỷ ngờ gì thế?
- Nghĩa là chắc rằng đảng đương gặp biến. Tức thì ngu muội đến
nhà các đảng viên Ở quanh vùng báo tin cho biết, rồi chờ sáng rõ thay mặc một bộ
quần áo giái quê, - vì lúc ấy ngu muội vẫn còn đóng vai công tử như khi rời trấn
Kinh Bắc để dẫn Hoàng phi lên Lạng Sơn. BỘ quần áo ấy hiện ngu muội đương mặc
đây.
Ba người ngắm nghía Nhị nương. Quang Ngọc khen:
- RÕ ràng một cô gái Lim.
- Chú sao? Phải không ông hiền huynh? Khi mình cần làm hạng
người nào, khi mình cần theo nghề gì, thì ngôn ngữ cử chỉ cho chí y phục của
mình phải hệt là hạng người theo nghề ấy. Vậy hiền huynh thử trông xem ngu muội
có hệt một cô gái quê xinh xắn, láu lỉnh bán hàng trầu nước cho các cậu cai cơ,
cai lệ không?
Quang Ngọc mỉm cười gật gù:
- Hệt lắm?
Rồi chàng quay lại bảo Trịnh Trực:
- Công tử đã thấy chưa? Chứ khi người ta nhốt tù hờ vào cũi,
người ta chọn anh đầu trọc, thì người ta phải bảo ngay rằng người ấy là sư, chứ
người ta không để mập mờ... Tôi chỉ tiếc rằng hồi ấy không có Nhị nương hay Phạm
Thái Ở nhà.
Lê Báo lấy làm xấu hổ với Nhị nương, hằn học đáp lại:
- Lỗi Ở ngu đệ. Đại huynh muốn mắng thì mắng vào mặt ngu đệ
có hơn không, sao lại cứ nói bóng nói gió.
Quang Ngọc yên lặng, cái yên lặng tức giận, khinh bỉ. Thấy Nhị
nương cũng đứng im, chàng ôn tồn hỏi:
- Thế rồi sao nữa, thưa hiền muội?
- Thế rồi ngu muội quẩy gánh trầu nước, quà bánh qua cổng
chùa Tiêu Sơn lên giọng uốn éo rao lớn: "Có ai ăn trầu ngon, uống nước
nóng, xơi quà, xơi bánh không?" Chẳng đợi ngu mội rao đến hai lần, một cậu
lính ra gọi: "Vào đây?" Thôi tha hồ các cậu liếc, cùng buông những
câu bỡn cợt lả lơi. Ngu muội tuy đáp chuyện họ nhưng vẫn để mắt tìm thầy đội.
Làm quen thân được với một thầy đội còn bằng mấy mươi cậu cai, cậulính. Nhưng
may cho ngu muội thầy đội đi chơi vắng, giao cho bác cai nhất Ở lại trông coi,
mà bác cai nhất lại là người có tuổi, rất đứng đắn "Ngu muội nghe chừng
cái kế mỹ nhân chẳng có công hiệu gì lại quẩy gánh đi Vả có làm quen với thầy
cai cũng chẳng ăn thua, vì các cửa chùa trên họ đều khóa bằng khóa sắt nặng,
cùng là gián niêm phong cẩn mật lắm, khó lòng lọt vào được "Ngu muội quay
ra đằng sau nhà chùa, thì Ở hai góc trông ra bãi tha ma họ đã dựng xong hai cái
lều tre, trong ấy đều có lính giữ.
"Suốt một ngày ngu muội ngồi tìm kế để đem thực phẩm vào
hầm, vì ngu muội đoán rằng hiền huynh cùng hiền đệ chỉ ẩn Ở trong hầm mà vội
vàng hấp tấp thì ai nghĩ đến đem thức ăn... " Quang Ngọc ngắt lới:
- Có, ngu huynh có nghĩ đến nên ngu huynh đã đem theo một gói
oản chuối đây Lê Báo chau mày hỏi:
- Thực à?
- Lại chẳng thực. Nhưng tôi muốn để hai ngài làm quen với cái
đói thêm một đêm nữa. ĐÓ cũng là một cách trừng phạt.
Nhị nương cười rồi kể tiếp:
- Mãi tối, bóng trăng suông lờ mờ mới nhắc ngu muội đến làm
ma.
Lê Báo trợn mắt tròn xoe:
- ồ, giỏi nhỉ? thế ra lúc binh lính chạy tán loạn kêu
"ma hiện hồn", là lúc hiền tỷ đội cái mấn trắng này vào đầu làm ma nạt
họ...
- Chính thế? Rồi nhân lúc họ kinh hoảng, quanh ra sau cái bia
lớn, lần đến cửa bí mật chui vào hầm. CÓ thế thôi. Bây giờ thì họ đương đốt đuốc
tìm ma. Nhưng đã là ma thì còn ai tìm thấy?
Quang Ngọc buồn rầu thở dài:
- Chỉ sợ chẳng bao lâu, anh em ta hoá ma thực cả thôi.
Hồi 30
việc lớn
Đêm đã khuya. Phạm Thái đương ngồi nói chuyện với Phổ Mịch
thiền sư Ở động Tam Thanh thì có một tên lính cẩn tín hầu trong dinh quan trấn
thủ ra tìm chàng vào hội kiến với Thanh Xuyên Hầu. Biết rằng có việc khẩn cấp,
chàng vội vàng đi ngay.
Ra đến bờ sông Kỳ Cùng, chàng gặp Thanh Xuyên Hầu cũng vừa tới.
Hai người vừa cùng nhau đi đến biệt thự... Trương Đăng Thụ thì thầm bảo Phạm
Thái:
- Câu truyện kín không tiện Ở trong dinh.
Phạm Thái lo lắng đoán chừng đã xảy ra việc gì quan trọng cho
đảng Tiêu Sơn Tới biệt thự, Trương Đăng Thụ giở kinh Phật ra chất vấn Phạm
Thái, làm thế cốt để che mắt bọn lính theo hầu, mà trong đó chàng đoán chắc có
thám tử của hiệp trấn Phan Đình Hồng.
Mãi gần sáng, khi bọn người nhà mỏi mệt đi ngủ cả. Trương mới
đem câu truyện tâm sự ra giải bày. Chàng hỏi Phạm Thái:
- Trong triều có biến, tiên sinh đã biết chưa?
Phạm Thái kinh ngạc hỏi lại:
- Biến? Thưa đại nhân, việc gì thế?
- Bọn Bùi Đắc Tuyên bị giết cả rồi.
Phạm Thái không giấu nổi lòng sung sướng phá lên cười.
- Se sẽ chứ, tiên sinh. Tiên sinh nên nhớ rằng trong bọn lính
theo hầu, thế nào cũng có một vài tên thám tử của Phan Đình Hồng.
- Nhưng xin đại nhân cho biết đầu đuôi câu truyện.
- Đây, xin tiên sinh đọc thư này thì hiểu ngay.
Vừa nói vừa thò tay vào bọc lấy ra một tờ giấy hoa tiên đưa
cho Phạm Thái.
Bức thơ ấy của Trần Quang Diệu và đại khái nói triều đình
đương gặp buổi đại loạn: VÕ Văn Dũng lập mưu bắt trầm hà cha con Thái Quang Diệu
đem quân chống cự với Dũng thì Hoàng đế đã giảng hoà hai bên và cất Diệu lên chức
thiếu phó. Nhưng sau lại nghe lời Dũng dèm pha trước hết binh quyền của Diệu.
Nay Diệu muốn kết bè đảng Ở ngoài biên giới, nhân Thanh Xuyên Hầu là bạn thân của
va, va khuyên nên đem quân về hỏi tội bọn lộng quyền.
Đọc xong bức thư, Phạm Thái hỏi:
- Bây giờ đại nhân định liệu ra sao?
- ấy, tôi cũng chỉ cốt hỏi tiên sinh điều ấy. Phạm Thái mỉm
cười:
- Đại nhân hẳn đã đọc truyện Tam Quốc Chí. Vậy chắc đại nhân
nhớ đoạn Gia Cát Lượng mượn quân Đông Ngô đánh phá Tào Tháo Ở Xích Bích rồi
nghiễm nhiên chiếm lấy Kinh Châu?
- Tôi cũng nghĩ đến mưu ấy. Song Đông Ngô hiện không có quân.
Mà Ở ngoài biên thuỳ này quyền binh Ở cả trong tay Phan Đình Hồng là tôi thân
tính của Quang Toản, khó lòng dụ nó về cánh với mình được.
- Ô hay, mình có dụ nó về cánh với mình để đánh đổ triều
đình, để làm phản đâu?
- Vẫn biết thế, vẫn biết sau này mới nhờ sức gió mà bẻ măng,
nhưng cũng phải dò xem bụng dạ nó ra sao đã chứ.
Hai người bàn bạc với nhau suốt đêm. Kế hoạch định như thế
này: Trương Đăng Thụ sẽ đem châu truyện giết thái sư nói với Phan Đình Hồng cố
làm sao cho Hồng yên trí rằng VÕ Văn Dũng có lòng phản trắc muốn đoạt ngôi nhà
Tây Sơn.
Khi nghe chừng Hồng đã thuận theo cánh với mình rồi, thì liền
cùng va cất quân về triều hỏi tội kẻ gian thần. Qua trấn Kinh Bắc, hơn nghìn đảng
viên đảng Tiêu Sơn sẽ nhập bọn nói là tồng quân, nhưng kỳ thực để về triều vận
động chiếm lấy những chức trọng yếu mà mưu đánh đổ nhà Tây Sơn. Công việc tuy
to tát, kho khăn, nhưng tưởng cũng không phải không thể làm nổi, vì triều đình
Tây Sơn đương gặp đại biến: Ở bên trong thì các tướng tá lừa dối nhau ghen ghét
nhau, chém giết lẫn nhau; Ở bên ngoài thì thế lực Nguyễn ánh mỗi một ngày thêm
bành trướng.
Sáng hôm sau Trương Đăng Thụ sang chơi bên dinh hiệp trấn.
Phan Đình Hồng hết lòng trọng đãi, xữ rõ ra kẻ dưới đối với người trên. Thụ đem
truyện tâm huyết ra bàn, thì Hồng vui mừng theo ngay, hẹn nhau ngay hôm ấy sửa
sang quân bị, và mộ thêm binh lính để có thể chỉ trong dăm hôm là khởi sự được.
Trương Đăng Thụ cho tìm Phạm Thái đến bàn lại việc lớn. Hai
người đang hí hửng mừng thầm thì Thụ lên cơn đau bụng kịch liệt.
Thấy mặt trấn thủ đỏ bừng, cặp mắt như tiết, Phạm Thái kinh
hãi trân trân nhìn hỏi:
- Quan hiệp trấn có mời đại nhân xơi nước?
- Có, nhưng tôi uống muỗi một chén con.
Phạm Thái lắc đầu, và tuy giục người nhà đi tìm thầy thuốc,
chàng vẫn biết chắc rằng không cứu chữa được nữa.
Quả thực, chỉ trong một lát là Trương Đăng Thụ nằm vật ra,
hét lên một tiếng:
"Nó giết tôi?". Rồi tắt nghỉ.
Nàng Long CƠ vợ lẽ Thanh Xuyên Hầu nghe tiếng kêu. Ở trong buồng
chạy ra.
Thấy chồng nằm trên sập, mắt mở to, mồm há hốc, nàng tưởng là
chồng tức giận điều gì. Nhưng lay mãi, gọi mãi vẫn không thấy chồng động đậy.
Phạm Thái bảo nàng:
- Quan trấn thủ ngộ gió độc qua đời một cách bất ngờ quá,
không thể nào cứu chữa kịp. Xin phu nhân lo tang ma đi thôi.
Thực ra, ngắm mặt người chết, chàng hiểu ngay là có kẻ đầu độc.
Thứ thuốc độc ấy người Thổ dùng nhựa cây luyện thành thứ bột trắng chỉ gẩy một
chút vào chén nước đủ hại một mạng người.
Nguyên Phan Đình Hồng cũng nhận được một lá thư như Trương
Đăng Thụ, thư của VÕ Văn Dũng.
Dũng là quan thầy va, người đã cất nhắc va lên chức hiệp trấn
và giao cho va cái trọng trách kiềm chế Trương Đăng thụ. Trong thư Dũng dặn Hồng
để ý dò xét hành động của Thụ, và nhất là cho lính đi thám thính xem Thụ có nhận
được thư từ trong triều gửi tới không, thám thính để biết vậy thôi, chứ không cần
phải bắt lấy bức thư mà làm lộ mất cơ mưu. Quả nhiên bao nhiêu điều Dũng dự
đoán đều xẩy ra cả. Thụ có nhận được thư mà thư ấy thì Dũng chắc là của Trần
Quang Diệu gửi lên.
Bắt Trương Đăng Thụ giải về triều, nếu Thụ quả thực theo Trần
Quang Diệu, là một việc rất dễ dàng, vì bao nhiêu binh quyền Ở cả trong tay
quan hiệp trấn.
Nhưng bức thư của Dũng dặn cặn kẽ mội điều nên làm để che mắt
cánh cừu địch.
Những điều nên làm ấy, Hồng đã làm xong một cách nhẹ nhàng lặng
lẽ, kín đáo Ngay buổi chiều được tin quan trấn thủ mất, Hồng tới viến, khóc rất
thảm thiết, đến nỗi Long CƠ phải cảm động vì tấm lòng thương bạn của quan hiệp
trấn.
Chàng còn tỏ lòng thương xót cách khác nữa: là làm ma rất
linh đình, sức các viên phân tri, tri châu và tổng, lý phải đến phục dịch vào mọi
việc, dựng rạp dựng trạm, mổ trâu, mổ bò. Nhân dân ai ai cũng ca tụng tấm lòng
tốt của quan hiệp trấn và khen ngợi đám ma to nhất từ xưa đến nay Ở trấn Lạng
Sơn.
Riêng Phạm Thái là căm tức kể giết người và nếu chàng không
trót nhận lời cùng tang gia đưa linh cữu Thanh Xuyên Hầu về nguyên quán Thanh
Nê, thì chàng đã liều chết đến dinh hiệp trấn tặng Hồng một mũi kiếm để báo thù
cho người bạn đã bị hại một cách hèn nhát.
Linh cữu của Thanh Xuyên Hầu quàng tạm Ở chùa Tam Thanh để chờ
ngày rước về xuôi Long CƠ lăn ra đất than khóc, còn Phạm Thái thì ngày ngày
chàng đến quỳ Ở bên quan tài, lâm râm khấn khứa, người ta tưởng chàng tụng niệm
cho linh hồng người chết được siêu linh tịnh độ. Kỳ thực chàng chỉ thề với vong
hồn kẻ khuất rằng thế nào chàng cũng trả được thù cho một người đồng đảng, cho
bạn đồng chí.
Hồi 31
chùa non nước
Trong dòng sông Phong Doanh, chiếc thuyền bồng xuôi rất mau,
nhẹ nhàng như bay trên mặt nước. trời vừa rạng đông. Một buổi sớm thu mát mẻ,
êm đềm, dễ gỡi cảm hứng.
Trương Quỳnh Như ngồi ngắm ánh vàng nhảy lộn Ở mũi thuyền, rồi
mỉm cười bảo thân mẫu đương nằm nghỉ trong khoang:
- Dám bẩm mẫu thân, xin mời mẫu thân ra xem cảnh nên thơ lắm.
Kiến Xuyên phu nhân cau mày mắng con:
- Mẹ không muốn bạ lúc nào con cũng ngâm nga đề vịnh như thế.
Trai cung kiếm văn chương, gái khuê phòng thêu dệt, trời đã chia hẳn công việc
hai bên ra rồi, sao cứ muốn trái luật trời?
- Dạ bẩm mẫu thân, con có dám lười biếng công việc tầm tang,
phùng xuyến bao giờ đâu? Nhưng ngoài công việc làm ăn, cũng xin phép mẹ cho con
được học tập văn thơ ngắm cảnh vịnh đề một vài câu.
Kiến Xuyên phu nhân là một bậc mệnh phụ nghiêm khắc. Chồng bà
một nhà đại văn hào đậu tiến sĩ về đời Lê mạt, chỉ thích có ba thứ: đánh cờ, uống
rượn, làm thơ Phú quý công danh hầu coi như mây bay, như gió thoảng, như bóng
ngựa trắng qua cửa sổ. Nhất từ ngày hầu cáo lão quy điền, thì hầu lại càng rửng
rưng với đời lắm, công việc sinh nhai hầu phó mặc vợ con săn sóc.
Khi nhà Lê bị Nguyễn Huệ diệt, hầu chỉ cười, cái cười tuy đau
đớn nhưng ngụ rất nhiều ý nghĩa khinh đời. Hầu cho sự mất nước là một sự d~
nhiên, thế nào cũng xảy ra, chẳng chóng thì chầy: vì hầu thấy vua Lê hèn yếu,
chúa Sâm kiêu căng. Đã hai ba lần, vì lòng yêu vua, thương nước, hầu đem kế hoạch
hưng bang ra bàn với Sâm, song không những Sâm không nghe theo, mà còn quở mắng
hầu và doạ giáng chức hầu. Hầu liền dâng sớ xin cáo lão hồi hưu, tuy hầu mới
ngoài năm mươi tuổi. Lúc đó, Thanh Xuyên hầu đã thi đậu tiến sĩ và thụ chức hàn
lâm biên tu Ở bộ Lại.
Về quê, hầu đi ngao du sơn thủy. Bao nhiêu ngọn núi Ở vùng
Sơn Nam theo dọc con sông Đáy đều có in vết bàn chân của hầu.
Nàng Quỳnh Như, con gái yêu của hầu, hầu bắt theo nghiên bút,
cầm thi.
Nàng bẩm tính thông minh lại được hầu ra công dạy dỗ, nên năm
nay mới mười sáu tuổi mà đã có tài nhả ngọc phun châu, cầm ca đủ điệu.
Nhân gặp tiết thu trong sáng, hầu khuyên phu nhân đưa con gái
đi ngoạn cảnh chùa Non Nước.
Hầu thường nói: "Làm một trăm bài thơ, không bằng ngắm một
cảnh non xinh, nước đẹp".
Phu nhân chỉ thích việc làm ăn, đã toan từ chối, nhưng nể lời
hầu, nên cũng sắm sửa vàng hương lễ vật thuê tuyền cùng con gái đi cho hầu bằng
lòng. Vả nghe tiếng chùa Non Nước linh thiêng, phu nhân cũng muốn thừa dịp tới
đó cầu sức khoẻ cho gia đình. Quỳnh Như thì chỉ nghĩ đến ngắm cảnh làm thơ. Vì
thế, kèm với lễ phẩm, nàng đã đem theo bút mực và một tập giấy hoa tiên.
Thuyền nhổ sào vào giờ Dần, cuối giờ Thìn đã tới chùa.
Từ dưới mặt sông ngước nhìn lên, quả núi Dục Thuý tròn trĩnh,
xinh xắn như hòn non bộ lớn đặt trong cái bể cạn dài. Tức cảnh, Quỳnh Như xầm
bút thảo phóng một bài thơ Đường luật:
Non nước xinh xinh cảnh nước non, Bên dòng bích thủy đá chon
von.
Như cô thiế cu nữ nghiêng soi bóng, Mỉm miệng tươi cười nét
thắm son.
Thấy con húy hoái viết, Kiến Xuyên phu nhân gắt:
- Đến nơi rồi. Sắp sửa vàng hương lên lễ, còn thơ thẩn mãi à?
Quỳnh Như vâng lời, cùng mẹ theo bậc đá bước lên chùa. Khi
làm lễ xong, nàng đưa mẹ đi xem di tích của cổ nhân: Nào chỗ cụ Trương Hán Siêu
ngồi câu, nào chổ cụ ngồi uống rượn, đánh cờ, nhất nhất nàng giảng nghĩa rành rọt
cho mẹ nghe, vì đã được thân phụ dẫn giải.
Thấy có nhiều bài thơ hoặc viết hoặc khắc trên đá, Quỳnh Như
cũng gọi thị tỳ đưa bút mực đề một bài:
V~4N CHù~4 NON NƯỚC (Điện Tân giang nguyệt) Trèo lên Dục Thủy
thăm chiền:
Non xanh nước biếtc cảnh tiên dưới trần.
Thướt tha mây trắng một làn, Như buông bốn phía cánh màu bạch
sa.
Chim hót véo von chào khách.
CỎ thơm hớn hở mừng ai, Gió thu rung động mấy cành mai.
Khêu gọi hồn thơ lai láng, Cầm bút lạm đề trên thạch tảng, Một
bài cổ tích cảm hoài, Nào người chiếcn sĩ, kẻ văn tài.
Khôn hỏi Nước Non đâu tá?
Thanh Nê thôn nữ Trương Quỳnh Như lạm đề Đề xong thơ, Quỳnh
Như buồn rầu man mác, tưởng nhớ người xưa. Những bài văn non nớt của bọn văn sĩ
có ý khinh mạn bậc ẩn sĩ đời Trần càng thêm gợi lòng căm tức. Nàng toan thảo
luôn một bài nữa để vì cổ nhân mắng bọn hậu sinh vỗ lễ, thì Kiến Xuyên phu nhân
giục nàng xuống thuyền để trở lại nhà. Nàng bùi ngùi rời cảnh đẹp đi theo phu
nhân.
Đến chân núi, gặp một trong phong lưu công tử chắp tay vái
chào, phu nhân đáp lễ vấn an:
- Phu nhân với công tử vẫn được mạnh?
- Dám bẩm phu nhân chúng tôi xin đa tạ phu nhân ban lời hỏi
thăm, mẫu thân chúng tôi với chúng tôi nhờ ơn trời vẫn được bình yên.
Người đó là Trịnh Nhị, con một của một vien phân tri đã qua đời,
nhà giàu có nhất vùng Kiến Xương, Ý Yên mà ai ai cũng gọi là "Thạch Sùng đời
naỷ'.
Chàng ta dục dịch từ lâu muốn hỏi Trương Quỳnh Như, nên tuy
đã ngoài hai mươi tuổi, mà chàng vẫn chưa có vợ. Biết rằng Kiến Xuyên hầu không
ưng mình, chàng hết sức lấy lòng Kiến Xuyên phu nhân, biếu hết thức này, thức
khác.
Hôm nay được tin phu nhân và Quỳnh Như đến ngoạn cảnh Dục
Thúy, chàng thuê ngay một chiếc thuyền lớn và bốn tay thuyền thủ lực lưỡng ra sức
chèo cho kịp gặp mặt người chàng nhớ thầm yêu trộm.
Chàng phục sức cực kỳ sang trọng: Dăm vòng khăn nhiễu tam
giang mới nâng cái búi tóc cao cài lược đồi mồi; tấm áo gấm lam phủ ngoài mớ áo
nhiễu kỳ cầu và chiếc quần lụa màu ngà buông chấm mũi đôi hài Phú Xuân thêu kim
tuyến. Theo sau bọn đầy tớ xách điếu cắp tráp theo hầu rộn rã. Chàng biết sự
phong lưu đài các dễ cảm động lòng các bà mẹ có con gái kén chồng. Chàng lại
không quên sai hai tên tiểu đồng mang nghiên bút và một tập giấy hoa tiên đi liền
bên, vì chàng chắc rằng muốn được Quỳnh Như lưu ý tới, chàng phải đóng vai thi
hào ngoạn cảnh, ngắm núi, vịnh sông.
Gặp Trịnh Nhị, Quỳnh Như lạnh lùng quay đi, ngước mắt trông
ngọn Dục Thủy. Kiến Xuyên phu nhân vồn vã nói:
- Mời công tử lên nhà lễ Phật.
- Dám bẩm phu nhân, nay gặp tiết thu mát mẻ chúng con đến đây
chỉ cốt viếng nơi ẩn dật của Trương, một nhà chí sĩ đồi xưa.
Chàng đưa mắt liếc trộm Quỳnh Như, trong lòng lấy làm tự phụ.
Nhưng Quỳnh Như vẫn thản nhiên như không biết chàng đứng đó.
Muốn Trương phu nhân và Trương tiểu thư phải để ý tới mình,
Trương Nhị cầm một tờ hoa tiên lẩm nhẩm đọc. Quả nhiên Trương phu nhân hỏi:
- Công tử làm thơ?
- Bẩm phu nhân, vâng.
- Công tử đọc cho tôi nghe với nào.
Chẳng để nài đến hai lần, Trịnh Nhị đáp liền:
- Xin vâng. Đây là bài thơ đề núi Dục Thúy theo điệu liên
hoàn. Kẻ thơ sinh này làm khi thuyền vừa đáo chân núi.
Chàng hắng dặng để lấy giọng ngâm nga:
Khen ai khéo tạc đúc nên cồn Đứng vữngphô bày cảnh nước nơn
Cây cỏ xanh rì in dấu đá Nước non lóng lánh dáng chưa mòn.
°°° Nước non lóng lánh dáng chưa mòn, Thế giới riêng bầu cỏn
còn con Vang động gió khua cầm thú vắng, Thiên nhiên tắm vẻ đẹp xinh ròn.
Quỳnh Như quay đi, mủm mỉm cười. Trương phu nhân khen lấy
khen để. Phu nhân vẫn có ý muốn kén chọn Trịnh Nhị làm rể, nên trước mặt con
gái, phu nhân mới tâng bốc chàng lên như thế:
- Công tử tả rõ hệt núi Dục Thúy, phải không con?
- Bẩm hệt lắm. Nhưng giá Vịnh một hòn nơn bộ thì càng hệt
hơn.
Trịnh Nhị đỏ bừng mặt, vái chào toan bước lên núi, Trương phu
nhân còn giữ lại khẩn khoản xin chàng bài thơ. Chẳng đừng được, chàng trao cho
phu nhân tờ giấy hoa tiên, chào một lần nữa rồi im ỉm quay đi.
Quỳnh Như cùng mẹ xuống thuyền, Trương phu nhân mắng con:
- Sao thơ Trịnh công cử vịnh núi Dục Thúy mày lại hỗn xược
dám bảo thơ vịnh hòn non bộ?
- Dám bẩm mẫu thân, quả là thơ đề non bộ. Mẫu thân thử đọc lại
mà xem.
Như câu: "Thế giới riên bầu cỏn còn con," thì còn
có thể vịnh vừa non bộ, vừa chùa Non Nước được. Đến câu "Vang động gió
khua cầm thú vắng", thì rõ ràng vịnh hòn non bộ, hòn núi giả chứ không thể
vịnh một quả núi thực được. Vậy dám bẩm mẫu thân, chắc Trịnh công tử học thuộc
lòng hay chép sẵn từ nhà bài thơ cũ của ông đồ, ông cống nào đó rồi nhận bừa là
tác phẩm của mình. Vả bài thơ cũng chẳng hay hớm gì.
Trương phu nhân chau mày lườm con:
- Mày thì chỉ được mỗi một cái nết kkliêu căng, tụ phụ là hơn
người. Trịnh công tử là một bậc văn nhân lỗi bậc thời nay, mày bì sao kịp. Mày
có giỏi thử vịnh một bài xem nào?
- Thưa mẫu thân con phận gái đâu dám sánh tài trai. Nhưng mẫu
thân đã truyền, con cũng xin l~nh ý.
Nàng ngồi trong khoang thuyền nghĩ một lát, rồi vừa viết vừa
đọc:
NÚI D ỤC THÚY Trơ trơ chính thạch bóng Vân sang, Hỏi núi chờ
ai, đã mấy sương?
Uốn réo bên sườn dòng nước biếac.
Phát tuôn cửa động ngọn chùa hai, Mây trôiphảngphất hồn Lê,
Trịnh, Đá khắc lờ mờ dấu Phạm, Trương.
Cũng muốn bể dâu bàn truyện cũ, Nào ai xứng với khách đời
trang?
Trương phu nhân mỉm cười chua chát:
- Đã biết mà, mày kêu căng lắm? Mày tự hỏi xem tài đức mày được
là bao mà dám bảo không xứng đáng?
Quỳnh Như nghe mẹ mắng, bẽn lẽn cuối đầu.
Hồi 32
bi ai
Thuyền đi một lúc, đến chỗ ngã ba. Hai chiếc bồng lớn từ phía
sông Đáy rẽ vào, và muốn lên trước. Bỗng đưa sang tiếng khóc i ỉ, Quỳnh Như lắng
tai nghe rồi nói với mẹ:
Bẩm mẫu thân, có ai khóc Ở thuyền bên.
Trương phu nhân đáp:
- Các bác lái chừng thua bạc, hết cả tiền rồi vợ chồng đánh
nhau cãi nhau chứ gì - Bẩm mẫu thân, có lẽ không phải, vì tiếng khóc ai oán lắm,
nghe như vợ khóc chồng.
Nàng liền cùng bọn thị tỳ ra mũi thuyền nhìn sang. Một nhà sư
trẻ trai, nét mặt sáng sủa, thông minh, đứng đằng lái, hai mắt đăm đăm ngó thẳng
vào mặt Quỳnh Như. Một ả thị tỳ cười khanh khách chào mỉa mai:
- Nam vô a di đà phật?
Nhưng mắt nhà sư vẫn không rời Quỳnh Như khiến nàng tức giận
quay vào khoang thuyền.
Bọn thị tỳ bảo nhau:
- Sư mô quỷ gì mà nhìn người ta sòng sọc.
Rồi một ả cất tiếng mắng:
- Này người kia không được hỗn với tiểu thư.
Nhà sư mỉm cười hỏi lại:
- Tiểu thư là chủ các em đấy à?
Bọn thị tỳ phá lên cười:
- RÕ khéo, ai là em nhà sư đấy?
Tiếng Trương phu nhân Ở trong khoang thét:
- Vào cả trong này? Chúng mày làm như bọn nữ tặc thế à?
Nhà sư hỏi:
- Ai đấy?
- Không được vô lễ, phu nhân là bà lớn Lễ bộ thượng thư Kiến
Xuyên hầu đó.
Nhà sư kinh ngạc:
- Trương phu nhân phải không?
- Phải.
- Mà tiểu thư là Trương Quỳnh Như?
Mấy người thị tỳ lại khúc khích cười:
- Phải nhưng sư ông hỏi làm gì mới được chứ?
- Chết chửa? thế mà tôi vô ý không biết. Tôi phải sang hầu
ngay phu nhân.
- Không được hỗn?
Chẳng thèm đáp lại, nhà sư một mặt bảo thủy thủ lái sát vào
thuyền Trương phu nhân, một mặt gọi một ả thị tỳ Ở truyền có người khóc:
- Vào bẩm phu nhân...
Nhưng nàng Long CƠ - vì chính người ấy là Long CƠ - đã chạy
ra đằng lái, lo lắng, sợ hãi hỏi dồn:
- A di đà phật? Bạch sư ông cái gì thế, ai thế?
- Thưa phu nhân, thuyền đi sau liền kia là thuyền lệnh cô,
Trương lão mẫu.
Long CƠ nàng hoảng hốt:
- Thế à, bạch sư ông?
Quỳnh Như cũng vừa trông thấy Long Cơ.
- Ai như hiền tẩu?
Long CƠ oà lên khóc:
- CÔ Quỳnh Như ơi?... anh... mất rồi.
Quỳnh Như rú lên:
- Trời ơi?... Anh... Tôi...
Nàng không nói được dút câu, nằm lăn xuống ván thuyền ôm mặt
khóc nức nởi. Trương phu nhân bước ra hỏi:
- Cái gì thế, con?
- Mẫu thân ơi... anh con... chết...
Phu nhân cũng òa lên khóc nốt. Lời than vãn, kêu gào, kể lể rất
thảm thiết.
Một lúc lâu, khi sự thống khổ đã theo dòng lệ nhẹ bớt vài phần,
Trương phu nhân bảo ghé sát thuyền bào thuyền Long CƠ để nàng bước sang, rồi cố
nén lòng đau đớn, hỏi nàng về bệnh trạng, và lúc lâm chung của Thanh Xuyên hầu.
Long CƠ cứ sự thực kể lại đầu đuôi.
Nghe xong, Quỳnh Như ngẫm nghĩ lẩm bẩm:
- Trời ơi? Trưởng huynh bị đầu độc mất rồi?
- Sao con biết?
- Bẩm mẫu thân, không bị đầu độc thì sao đương khỏe mạnh lại
chết mau thế được?
Nàng vừ anói vừa trân trân nhìn thẳng vào cặp mắt Long Cơ,
như để tìm ra sự bí mật. Nhưng thấy nét mặt chị dâu đầy vẻ thành thực thì nàng
hết ngờ vực ngay.
Bỗng nàng nhìn sang chiếc thuyền bên đã cắm sào đứng lại?
- Nhà sư nào thế, thưa hiền tẩu?
- ĐÓ là sư ông chùa Tam Thanh, bạn thân của lệnh huynh, đạo
hiệu Phổ Chiêu thiền sư.
- Lúc trưởng huynh qua đời, nhà sư có Ở đấy không?
- CÓ giữa lúc lệnh huynh ngồi tiếp chuyện sư ông thì lăn ra
kêu đau bụng, rồi chỉ một lát là tắt nghỉ.
Quỳnh Như liếc mắt đăm đăm nhìn nhà sư đương buồn rầu ngồi bó
gối Ở đằng lái thuyền. Nàng thì thầm hỏi Long Cơ:
- Thưa hiền tẩu, hiền tẩu có ngờ vực gì hắn ta không?
Long CƠ vội đáp:
- Không, sư ông là bạn thân, bạn đồng chí của Thanh Xuyên hầu.
Trương phu nhân sụt sùi hỏi:
- Linh cửu để Ở đâu?
Long CƠ liền dẫn phu nhân và Quỳnh Như bước sang thuyền mình.
Chiếc quan tài bọc quách phủ vải trắng đặt trên sập sao Ở
khoang trong. Sáp thắp sáng trưng, khói hương nghi ngút. Lại một lần tiếng khóc
vang thuyền, ngưòi khóc con, kẻ khóc chồng, khóc anh.
Quỳnh Như bỗng nín bặt, lấy khăn lau nước mắt, bảo Trương phu
nhân:
- Bẩm mẫu thân, trưởng huynh con mất rồi thì không có cách gì
làm cho sống lại được nữa. Nhưng nếu trưởng huynh bị đầu độc, mà điều ấy con ngờ
lắm, thì bổn phận người sống phải trả thù cho người chết. Vậy con xin phép mẫu
thân cho tìm sư ông ssang đây để hỏi mấy câu về cái chết khả nghi này.
Trương phu nhân vẫn còn nức nở khóc, nhưng cũng theo ý con
cho mời nhà sư trẻ tuổi đến hỏi chuyện.
Phạm Thái theo mấy ả thị tỳ bước sang thuyền Long Cơ. Quỳnh
Như hỏi thẳng ngay đến chuyện đầu độc. Chàng nghe mà sửng sốt giật mình, nhìn
nàng tỏ lòng vừa kính pục, vừa kinh hãi. Cái chết bí mật của Thanh Xuyên hầu,
chàng vẫn tưởng ngoài kẻ thủ hạ với chàng ra không còn ai dám ngờ vực mảy may,
vì mưu kế kẻ kia rất kín đáo. Đến như Long CƠ trông thấy triệu chứng rành rành
của cái chết phi thường ấy mà cũng vẫn tưởng chồng mình ngộ gió độc. Chàng nghĩ
thầm:
"Thế mà người thiếu nữ này vừa nghe tin báo anh chết đã
đoán ngay được rằng anh mình bị đầu độc. âu cũng là một cân quắc anh hùng
đây." Thấy Quỳnh Như dương mắt trân trân đợi câu trả lời, Phạm Thái liếc mắt
nhìn bọn thị tỳ, rồi thản nhiên hỏi lại nàng:
- Chắc hẳn tiểu thư biết làm thơ?
Quỳnh Như chau mày cự:
- Không phải chỗ, không phải lúc để sư ông nói phiếm?
- Không, thưa tiểu thư, kẻ tu hành đâu dám nói phiếm, bao giờ
cũng thận trọng ngôn ngữ lắm. Bần tăng chỉ xin hỏi tiểu thư một điều: "Tiểu
thư có biết làm thơ không?" nếu có thì cùng cụ lớn đi vãn cảnh chùa Non Nước,
thế nào tiểu thư chẳng đem theo giấy, bút, mực.
Trương phu nhân tuy trong lòng đau đớn mà cũng không giữ được,
mỉm một nụ cươl:
- Sư ông quả đoán không sai. Chừng sư ông muốn mượn bút mực
làm một bài thơ viếng bạn.
- Bẩm cụ lớn có thế.
Khi thị nữ mang bút giấy ra, Phạm Thái viết mấ câu chữ nho đại
ý nói: "Tiểu thư đoán có lẽ đúng. Chính tôi cũng ngờ Thanh Xuyên hầu bị kẻ
thù ngầm hại.
Nhưng xin tiểu thư giữ kín cho. Việc này không phải là việc tầm
thường. Để lộ ra không những một người bị hại, mà còn liên lụy đến nhiều người
khác nữa. Vậy xin tiểu thư cứ tạm coi cái chết của Thanh Xuyên hầu là một cái
chết tự nhiên như nghìn, vạn cái chết khác. Nếu quả tiểu thư cảm thương tôn
huynh chết, muốn báo thù cho tôn huynh thì rồi tôi xin đem hết sức bình sinh ra
giúp tiểu thư một tay vì chính tôi đây cũng đã thề Ở trước linh sàng bạn rằng
không bao giờ dám quên ơn tri ngộ, mà để kẻ giết bạn được an nhàn hưởng phú
quý".
Nhà sư kính cẩn trao tờ giấy hoa tiên cho Quỳnh Như. Nàng xem
xong gập lại, thong thả đến châm vào ngọn lửa cây sáp thờ. Trương phu nhân sửng
sốt hỏi:
- Sao con lại đốt bài thơ của sư ông?
- Bẩm mẫu thân, sư ông làm thơ viếng trưởng huynh thì phải đốt
bài thơ đi, trưởng huynh mới đọc được, mới nhận được tự dạng của sư ông chứ.
Phạm Thái ngắm cử chỉ Quỳnh Như càng kính phục lắm. Chàng
nghĩ thầm:
"người này mưu cơ có lẽ chẳng kém gì Nhị nương, mà về
nhan sắc lại còn có phần hơn".
Hồi 33
kiến xuyên hầu
Kiến Xuyên hầu băn khoăn sốt ruột đã một tháng ròng. Nhưng
hôm ấy hầu càng băn khoăn sốt ruột hơn, đến nỗi hầu lo rằng đã xảy ra tai nạn
cho vợ chồng và con gái đi chơi vãn cảnh chùa. âu đó cũng là sự liên lạc của
lulung tâm hồn cùng một huyết thống, hay nói theo cổ nhân, có tâm linh báo cho
ta biết mọi sự can hệ đến những người thân yêu Ở nơi xa vắng.
Hầu lấy bộ Đường thi ra đọc cho quên nỗi buồn vơ vẩn, nhưng
không sao bình tĩnh mà hiểu được cái hay của những bài thơ cổ.
Đọc được vài trang, hầu lại xếp sách vào ngăn tủ, đứng dậy ra
vườn cảnh ngắm hoa.
Sau dẫy lan can xây theo hình chữ thọ triện, những bông hoa
phù dung kép và đơn về chiều đã ngả màu thắm lại, từ màu hồng phớt cho đến màu
đỏ xẩm. Trong lòng phiền muộn, hầu nhìn màu hoa như có nhuốm máu đào. Dưới dàn
thiên lý lá xanh già rủ qua những mắt cáo của phên nứa, mấy hàng chậu sứ men
lam và hàng thống Bát Tràng màu đen, đặt trên những bộ đôn cùng một kiểu. Trong
chậu, trông thống trồng các thứ cây uốn thành hình con giống: nào cây dành
dành, uốn kiểu "lão bạng sinh câư', cây đơn kiểu "phượng hoàng vu
phi", nào cây nẻ, kiểu "hạc qui quá hải", cây sanh kiểu "hạc
lập kê quần". Những cây cảnh ấy cùng hòn núi giả bày trong cái bể cạn lớn
đều do chính tay hầu đã sửa nắn và xếp nên. Vì thế, nên ngày hai buổi, sáng chiều,
hầu ra ngắm nghía không bao giờ chán mắt, mỗi lúc lại tìm ra cái đẹp thanh thú,
mới mẻ của nó. Nhưng hôm nay hầu chẳng buồn ngắm tới vật gì hết, đi trong vườn
cảnh mà trí để cả Ở đâu đâu.
Sang đầu giờ Dậu có tin báo thuyền phu nhân và tiểu thư đã về.
Rồi lại tiếp luôn có tên người nhà về bẩm với hầu rằng thuyền phu nhân cùng hai
chiếc thuyền nữa đã đậu Ở bến. Hầu giật mình kinh hoảng hỏi dồn:
- Với hai chiếc thuyền nữa? Trên thuyền ấy có những ai?
Chỉ một lát sau, tiến khóc đã ầm ĩ từ cổng đưa vào. Rồi Long
CƠ vận đại tang đến trước mặt hầu xụp xuống lạy và nức nở:
- Trình cụ lớn, quan lớn con thất lộc rồi.
Kiến Xuyên hầu mặt tái dần, phải vịn vào cột dàn hoa cho khỏi
ngã. Nhưng trấn tĩnh ngay được và ôn tồn hỏi Long Cơ:
- Chồng con... thất lộc?
- Dạ.
Hầu thở dài, tháo mục kính ra lau:
- Thảo nào một tháng nay thấy sốt ruột quá.
Rồi hầu vào buồng đóng cửa cài then, lên giường ngủ để không
ai biết rằng mình khóc con và khỏi trông thấy gia quyến kêu gào than vãn.
Sáng hôm sau hầu vừa thức giấc, tiếng kinh kệ đã lọt vào tai.
Hầu bước ra nhà ngoài: Trước cái linh cữu phủ vải trắng, một nhà sư trẻ tuổi,
ngồi gõ mõ tụng niệm, Hầu hỏi người nhà:
- Sư ông nghe giọng thanh nhã, chắc không phải người Ở vùng
này.
Người nhà đáp:
- Bẩm cụ lớn, sư ông theo linh cữu trấn thủ từ Lạng Sơn về
hôm qua.
Kiến Xuyên hầu ngồi xuống tràng kỷ nghe nhà sư tụng niệm.
ít lâu nay hầu rất chăm xem kinh phật và hiểu thấu triết lý
cao siêu của một đạo giáo đã an ủi lòng chán nản của nhà chí sĩ sống vào giữa
lúc giao thời.
Hầu thường đi ngao du, tìm đến thăm những nơi danh lam thắng
cảnh, rồi Ở đó, nếu gặp những nhà sư chân tu, cùng họ đàm đạo về ý nghĩa kinh
phật.
Một lẽ nữa khiến hầu yêu Phật giáo: Hầu muốn ngấm ngầm, lặng
lẽ phản đối nhà Tây Sơn. Từ ngày vua Nguyễn Huệ xuống sắc chỉ bắt phá hết các
chùa nhỏ Ở các làng, chỉ để lại mỗi hạt một vài ngôi có tiếng, thì hầuBỗng thấy
hầu càng yêu đạo Phật lắm, yêu một đạo giáo hình như đã bị nhà Tây Sơn ruồn
ghét.
Phạm Thái cúng Phật xong đứng dậy chắp tay chào Kiến xsuyên,
vì chàng đã biết hầu đợi từ nãy. Kiến Xuyên đáp lễ, rồi mời chàng ngồi.
Nghe một lão quan hỏi đến việc tu hành, đến các kinh bản một
cách chu đáo rành mạch, Phạm Thái lấy làm lo sợ, vì bấy lâu ẩn nấp dưới bóng từ
bi, chàng đã kịp có thì giờ khảo cứu đến sách phật đâu. Chẵng qua, chàng chỉ học
thuộc mấy câu kinh kệ nhì nhằng để ê a che mắt thế gian, cùng là sửa sang cái
điệu bộ hiền lành kính cẩn để ra vẻ một nhà chân tu mà thôi.
Đời chàng là đời hoạt động của một tráng sĩ, mà tu đối với
chàng chỉ có nghĩa là tập luyện tính tình cho khẳng khái, chí khí cho cứng cáp,
gân cốt cho mạnh mẽ.
Nát bàn của chàng là trả được thù cho cha, cho vua, cho các bạn
đồng chí bị giết.
CÓ một lúc nào tâm trí chàng được thư thái mà xem tới sự tích
Phật tổ, mà tìm hiểu cái nghĩa vu khoát của những chữ: "hư vô, tĩnh tọa".
Nay gặp Kiến Xuyên hầu mà chàng đóan chắc là một người hiểu
tinh tường đạo Phật, nếu chàng không tìm cách giấu cái dốt của mình đi, e chẳng
khỏi bị hầu khinh bỉ. Điều ấy chàng không muốn có, từ khi vụi nẩy một ý tưởng rất
kỳ dị trong tâm trí chàng.
Chàng liền xoay câu truyện từ chỗ đạo giáo ra chỗ văn thơ.
Chàng đã được Thanh Xuyên cho hay tính tình và tư tưởng của cha. Chàng biết rằng
Kiến Xuyên rất chuộng Đường thi và thích thú ngắm hoa vịnh nguyệt. Chàng liền hỏi:
- Bẩm cụ lớn, bần tăng thường được quan trấn đọc cho nghe thi
văn của cụ lớn Thực là lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu.
Kiến Xuyên quên bẵng ngay sự đau đớn, vui cười bảo Phạm Thái:
- Sư ông tính, về trí sĩ như tôi đây thì ngoài cầm, kỳ, thi,
tửu ra, còn có cái thú gì nữa? Nhưng nghe chừng sư ông cũng con nhà nho giáo
thì phải.
Phạm Thái biết thế nào Kiến Xuyên cũng hỏi đến gia sự nên đã
xếp sẵn câu truyện từ trước.
- Dạ dám bẩm cụ lớn, nhà bần tăng quả đời đời theo nho giáo.
Gặp thời loạn lạc cha mẹ lại sa sút, nên cho bần tăng xuất gia ăn mày cửa Phật
ngay khi mới lên mười tuổi. Nhờ ơn sư tổ dạy bảo bần tăng cũng biết ít nhiều chữ
nghĩa.
Kiến Xuyên mỉm cười, gật gù ngâm nga:
"Vút bút nghiên theo việc đao cung, " Rồi nói tiếp:
- Tôi chẳng biết sư ông vốn có giòng hào kiệt không, nhưng gặp
thời loạn mà quẳng bút nghiên theo kinh kệ thì hơi tầm thường. Nhưng mỗi người
có một nghiệp riêng theo như kinh Phật, phải không sư ông?
Phạm Thái kính cẩn, vờ khúm núm sợ hãi:
- Dạ, nghiệp của bần tăng là gõ mõ, thắp hương, tụng kinh niệm
Phật.
- Còn nghiệp của lão phu là làm thơ, phải không?
Kiến Xuyên cười đau đớn nói tiếp:
- Sư ông là bạn đồng chí của con trai lão phu thì hẳn sư ông
cũng biết tài văn võ của nó đến bậc nào. Lão phu chỉ tiếc giữa việc lớn...
Kiến Xuyên hầu ngừng lại, gọi người nhà pha nước, rồi nói lảng
ngay sang việc khác hình như câu truyện tâm sự không tiện đem ra bàn với một
người chưa quen thân.
Về phần Phạm Thái, chàng cũng rất thận trọng lời nói, giữ gìn
ý tứ, vì chàng biết tâm địa Kiến Xuyên hầu ra sao, chẳng rõ hầu còn trung thành
với nhà Lê hay hầu đã đổi bụng, theo Tây Sơn như nhiều vị quan già khác. Cứ lời
Thanh Xuyên thì đã hai, ba lần Nguyễn Huệ triệu hầu ra tham chính, nhưng hầu lấy
nê già yếu xin Ở nhà dưỡng lão.
CÓ một điều Phạm Thái hơi lấy làm lạ, là Kiến Xuyên hầu có mỗi
một con trai. Nay người con ấy qua đời một cách đột ngột, sao hầu không tỏ lòng
thống khổ, và nét mặt lại giữ được thản nhiên như thế. Há phải hầu không thương
con?
Hay hầu đã có cháu nối giõi tông đường rồi, nên hầu không lo
ngại nữa. Phạm Thái muốn dò ý ông qua già, liền hỏi:
- bẩm cụ lớn, quan trấn thủ Thanh Xuyên hầu thực là một người
lỗi lạc, thất lộc đi thì nhân dân thiệt mất một vị minh quan, triều đình thiệt
mất một bực lương tướng Ở chốn biên thuỳ.
Hầu cười nhạt đáp:
- Trời này làm gì có minh quan, lương tướng? Vả gần bốn mươi
chết là vừa lắm rồi. Sống giai như lão phu chỉ thêm nhục.
Phạm Thái nghe câu trả lời, trong lòng hớn hở mừng thầm,
nhưng còn vờ không hiểu:
- Bẩm cụ lớn, bần tăng thiết tưởng nhà cụ lớn phú quý tột bực,
có điều chi mà cụ lớn phải buồn rầu, phẩn uất. Quan trấn thủ không may qua đời,
thì mấy cậu cháu giai kia sau này làm gì không nối được nghiệp nhà mà quan cao,
chức trọng.
Kiến Xuyên vẫn cười nhạt:
- Hừ? nghiệp nhà hừ? hừ quan cao, chức trọng thì làm gì?
Rồi hầu nhìn thẳng vào mặt Phạm Thái:
- CÓ lẽ đi tu như sư ông cũng hay.
Nhà sư nhún nhường:
- Bẩm cụ lớn cũng là một sự bất đắc d~ Bần tăng vẫn biết
"vô quân, thần, phụ, Kiến Xuyên hầu ngắt lời:
- Quân thần nào có ra quân thần? Còn phụ tử... ĐÓ sư ông coi:
có hợp thì có tan, phải rời bỏ người mình yêu.
Hầu nghẹn ngào không nói được dút câu, tiếng khóc nỉ non Ở buồng
bên đưa ra càng làm cho hầu đau đớn. Hầu nâng chén nước, yên lặng mời nhà sư, rồi
uống một hơi cạn như muốn nuốt hết sự thống khổ xuống can tràng.
Hồi 34
long cơ
Xong việc tang ma của bạn đồng chí, Phạm Thái đã toan xin
phép Kiến Xuyên hầu để trở lại nhà, vì chàng đương sốt ruột về công việc đảng
Tiêu Sơn, mà bấy lâu chàng không nhận được tin tức.
Bỗng xảy ra một việc đau lòng.
Sáng sớm hôm ấy chàng ra viếng mộ bạn một lần cuối cùng.
Xa xa chàng đã trông thấy từ mồ bốc lên một làn khói biếc lẫn
trong sương buổi sáng thu. Chàng nghĩ thầm: 'Mình tưởng vào giờ này thì chưa ai
ra viếng mộ, thế mà trước mình đã có người đến rồi".
Chàng định quay về, nhưng đăm đăm nhìn quanh mồ, chàng vẫn
không thấy bóng một ai: "Có lẽ ngưòi đến viếng đã đi rồi? Nhưng người ấy
là ai? Chẳng lẽ Long CƠ lại ra sớm thế?" Phạm Thái liền tiến đến gần.
Chàng thoáng nghe tiếng rên khừ khừ se sẽ.
Bỗng chàng giật mình. Cách mộ độ hai ngũ, dưới một cành dương
liễu, chàng thấy treo lủng lẳng, lắc lư cái xác một người đàn bà vận tang phục.
Dưới chân một đống gạch đổ ngổn ngang. Chàng hiểu ngay là người kia vừa tự ải.
Vội vàng chàng trèo thẳng lên cây cởi cái giây lưng người kia
cùng để thắt cổ.
Thân người đàn bà rơi phịch xuống đất. Phạm Thái nhìn lại thì
là Long Cơ. Chàng liền hô hoán gọi những người qua đường, và nhờ một người về bẩm
với Kiến Xuyên hầu cùng phu nhân.
Ai nấy đang xúm nhau lại gọi hồn Long CƠ lai tỉnh, thì gia
quyến Kiến Xuyên hầu vừa đến. Trương phu nhân khóc oà:
- Trời ơi? Mất con, lại mất luôn cả dâu. Gặp tình cảnh này
thì già sống sao được, trời hỡi trời?
Quỳnh Như đặt tay lên Long CƠ bảo mẹ:
- Bẩm mẫu thân, chưa thất vọng đâu, còn thoi thóp, mà chân
tay chưa lạnh.
Ngàng liền vừa lay mạnh vừa gọi. Quả một lát sau, Long CƠ thở
ra một hơi thật dài, rồi duỗi thẳng chân tay, một lúc nữa, cặp mắt nàng đã động
đậy, lim dim.
Kiến Xuyên hầu sung sướng bảo Phạm Thái:
- Sư ông đã đưa giúp linh cữu con lão từ Lạng Sơn về đây, nay
sư ông lại cứu sống được con dâu lão, ơn ấy không bao giờ lão quên.
Quỳnh Như đưa mắt nhìn Phạm Thái thấy chàng có vẽ lẫm liệt
oai phong của một bậc hiệp sĩ. Nàng tự nhủ thầm: "Ta quyết người này không
phải là sư?" Phạm Thái cũng liếc trộm Quỳnh Như, ngẫm nghĩ "Sao một
tuyệt thế giai nhân như kia lại không Ở trong đảng Tiêu Sơn?" Giữa lúc ấy
Long CƠ mắt trân trân nhìn thẳng, ngơ ngác không biết mình dương Ở cõi dương
hay cõi âm. Rồi nàng lại nhắm nghiền mắt lại, miệng ú Ớ nói mê, tâm thần thiêm
thiếp.
Trương phu nhân hỏi thầm Phổ Chiêu:
- Bạch sư ông, liệu có việc gì không?
- Dám bẩm phu nhân, bần tăng chắc rằng không hề gì?
Sư ông xin phu nhân truyền bọn thị tỳ đem võng đưa Long CƠ về
nhà.
Hôm sau Long CƠ tỉnh hẳn, rồi nhờ về thuốc thang chữa chạy tẩm
bổ nên chỉ trong vòng ba bốn buổi lại lành mạnh như thường.
Nhưng suốt ngày ấy sang ngày khác nàng chỉ khóc không chịu ăn
thứ gì, khăng khăng đòi tuẫn tiết theo chồng. Kiến Xuyên hầu phải giảng giải
mãi nàng mới vâng lời, tạm nguôi phiền muộn và bỏ hẳn được cái chí quyên sinh.
Từ đó bất kỳ mưa nắng, ngày ngày nàng ra mộ chồng nằm phủ phục
kể lể tình xưa. Kiến Xuyên thấy vậy đem lòng thương xót và chuẩn lời nàng xin,
truyền gọi thợ đến làm ngay một ngôi nghĩa lư bên mả, để nàng một mình ra đó thủ
tiết cùng chồng.
Cách ít lâu, Quỳnh Như đến thăm chị dâu thấy trên vách trắng
có đề hai bài thơ, nét chữ tươi như hoa đào, già giặn như cành mai cỗi. Nàng đứng
đọc nhẩm:
Cuồn cuộn xe mây hp duổi dong, Dễmà theo hỏi chốn hành tông,
Khêu sầu chín khúc chùng giây sắt, Diễn thảm năm canh quạnh giọt đồng, Niên đảo
mơ màng hồi thú cổ Sinh tiêu nghe lắng tiếng thiền chung, Huyền thương ví chẳng
thù hồng phấn, Chi hếp trần hoàn trả chưa xong!
Gió thu hiu hắt, khóm phương tùng, Thổi rụng hàng châu ngoẹn
mà hồng, CỎ biếc chẳng treo hiền SỞ trướng, Trúc vàng thù điểom giọt Ngu cung,
Họa kề cổ trủng đeo tình nặng, Trăng rạng cô lư sáng tiết trong.
Dệt gấm Thanh nê, câu nhất tiếu, Thêu nền Thúy ái chữa tam
tòng.
Đọc xong, Quỳnh Như nhìn giòng chữ lạc khoản hỏi:
- Này chị, Phổ Chiêu thiền sư là ai vậy?
Long CƠ đáp:
- Là nhà sư trẻ tuổi tiễn tống linh cữu tôn huynh về đây bữa
nọ.
Quỳnh Như mủm mỉm cười:
- Chị xin thơ người ta đấy à?
Long CƠ lo lắng nhìn em chồng:
- Không, thưa cô, hôm qua Phổ Chiêu đến quỳ bên mộ khấn khứa.
Thấy tôi ra, nhà sư đứng dậy nói lại từ biệt linh hồn bạn một lần cuối cùng để
mai đi Kinh Bắc.
Rồi Phổ Chiêu xin đề tặng một bài thơ kỷ niệm. Tôi bảo người
nhà lấy giấy bút, nhưng nhà sư không viết vào giấy, mà lại viết ngay bên vách
luôn một lúc hai bài thơ nôm ấy.
Quỳnh Như vẫn mủm mỉm cười đọc đi đọc lại mãi hai bài thơ.
Nàng lẩm bẩm nói một mình:
- Đã biết mà, có sai đâu. Người này không phải là sư.
Long CƠ kinh ngạc:
- Clô bảo gì?
- Tôi bảo Phổ Chiêu không phải là sư, hay ít ra cũng không phải
là một nhà chân tu. Là một nhà thi sĩ thì còn có lý.
Long CƠ chau mày ngẫm nghĩ - Sao cô ngờ vực oan cho kẻ tu
hành như thế? Trong đám thiền tăng cũng có người giỏi văn thi chứ.
Quỳnh Như cười:
- Giỏi văn thi đến đâu đi nữa, một nhà sư chân tu cũng không
có những lời tình tứ như hai câu: "Gió thu hiu hắt khóm phương tùng, thổi
rụng hàng châu ngoẹn má hồng". Sao mà chữ "ngoẹn" nó lẳng lơ thế,
chị có thấy không? Nhưng hay chữ thì hay thật?
Quỳnh Như vốn là con nuông của Kiến Xuyên hầu. H^u thương yêu
nàng hơn cả con trai và cho nàng còn thông minh hơn anh nàng nhiều, tuy anh
nàng đã đậu tới tiến sĩ. Hôm ấy nàng đem câu truyện bí mật thuật với cha: nào
khi gặp lần thứ nhất Ở trên thuyền, nhà sư dùng cách bút đàmbảo cho nàng hay rằng
Thanh Xuyên bị kẻ thù đầu độc, nào cử chỉ ngôn ngữ của một nhà sư giống cử chỉ,
ngôn ngữ một võ sĩ. Nàng nói tiếp:
- Nhất là lúc nãy con ra nghĩa lư thăm chị trấn thủ con, được
đọc hai bài thơ của sư ông đề trên vách thì con không còn ngờ vực gì nữa. Chắc
chắn là nhà sư kia là một tay quốc sự phạm ẩn thân trong bộ áo cà sa.
Rồi nàng đọc lại hai bài thơ cho cha nghe. Kiến Xuyến hầu ngẫm
nghĩ nói:
- Ư, hay chữ? Nhưng có điều gì tỏ ra rằng hai bài thơ kia của
một quốc sự phạm đâu?
Bỗng Hầu mỉm cười nhìn con gái yêu. Hầu vẫn khen thầm nhà sư
có vẻ mặt tuấn tú của bậc văn nhân và tấm thân tráng kiện của hàng dõng tướng.
Nay nghe lời, hầu lại biết nhà sư có tài ngâm vịnh siêu thế nữa. Tự nhiên hầu lại
nghĩ đến việc nhân duyên của con gái, nếu quả thật kẻ có văn tài kia chỉ đội lốt
nhà sư để lánh nạn.
Thấy cha nhìn mình một cách tò mò, Quỳnh Như đỏ bừng mặt khép
nép thưa:
- Dám bẩm phụ thân, con trình phụ thân điều ấy chỉ vì con sợ
rằng nếu không đề phòng trước, biết đâu người kia lại không gieo họa cho nhà
ta. Vâng, biết đâu người ta không có chân trong một đảng phản nghịch nào đó.
Con nghe phụ thân nói Ở hạt Kinh Bắc có nhiều đảng Lê thần
đương ngấm ngầm phản đối triều đình. Thế mà nhà sư lại là người hạt Kinh Bắc,
nên con e ngại lắm.
Kiến Xuyên hầu gật gù suy nghĩ - Được, để cha xem.
Hồi 35
thử tài
Ngày chiều hôm ấy, Khiến Xuyên hầu truyền làm một bữa tiệc thật
long trọng rồi cho mời Phạm Thái đến dự.
Thấy đầy một mâm lớn sơn hào, hải vị, lại thêm một chóc rượn
đặt trên cái giá sơn son thiếp vàng, Phạm Thái kính cẩn chắp tay từ tạ:
- Bẩm tướng công, bần tăng đã xuất gia tu hành đâu dám nghĩ đến
ăn mặn.
Kiến Xuyên cười khà:
- Bày vẽ? Vã ăn chay quanh năm, nếm thử một bữa cơm mặn chũng
chẳng tội gì - Dám bẩm tướng công, bần tăng giới tửu đã quen...
- Giới tửu thì thật đáng tiếc, nhất sư ông lại có tài ngâm vịnh
phi thường.
Phạm Thái nhún nhường:
- Bẩm tướng công, bần tăng chỉ học có kinh phật.
- Dù thế nào mặc lòng, sư ông cũng chẳng nên bỏ dỗi bữa tiệc
tiễn hành của lão gia. Nhân hôm nọ sư ông ngỏ lời muốn về Kinh Bắc, nên hôm nay
lão gia mới có chén rượn nhạt để trước là cảm tạ sư ông đã hộ tống linh cữu con
trai lão gia, lại cứu con dâu lão thoát chết, sau là để tiển biệt một người bạn
thiếu niên.
Phạm Thái kính cẩn:
- Bẩm tướng công, chúng tôi đâu dám.
Kiến Xuyên hầu bỗng cười phá lên hỏi:
- Sư ông hẳn thuộc sự tích Phật tổ?
Phạm Thái giật mình, vì tưởng Kiến Xuyên hầu đoán biết cái lực
lượng phật học của mình. Nhưng Kiến Xuyên nói tiếp luôn:
- Hẳn sư ông đã đọc truyện người tiều phu bắn được một con lợn
rừng, nhân có Phật tổ qua đường liền rước ngài về nhà khoản đãi. Ngài tuy đau yếu
phải kiêng thịt,- vì nếu không kiêng thì tất phải nguy đến tính mệnh - nhưng
ngài không nỡ làm đỗi bữa tiệc của người tiều phu, bèn nhận lời đến dự. Cũng vì
bữa tiệc lợn rừng ấy mà Phật tổ tịch Nát bàn. Vậy sao bữa tiệc của lão gia thết
sư ông lại ế được, phải không sư ông? Dù sư ông có vì ăn mặn mà chịu thiệt
không được lên Nát bàn đi nữa thiết tưởng sư ông cũng chẳng nên từ chối.
Phạm Thái mỉm cười xin nhận lời. Rồi chủ khách vào tiệc.
Lúc mới uống dăm chén rượn, Phạm Thái còn giữ được tự nhiên,
chuyện trò ôn tồn vui vẻ. Nhưng khi đã quá số vài chục chén rồi, thì chàng quên
hẳn rằng mình đương ngồi đối diện với một lão quan. Thấy chàng li bì chẳng nói
chẳng rằng mà nốc rượn như nốc nước vối, Kiến Xuyên hầu nói đùa:
- Trông sư ông như ông Di Lặc.
Di Lặc đương để ý đến cái rèm che cửa buồng gian bên và nghĩ
thầm: "Không gió mà chánh rèm động đậy thì hẳn có người đứng trong ghé mắt
nhòm ra. Người ấy là ai? Hà tất ta còn phải hỏi".
Vì thế Di Lặc tỉnh hẳn: Men rượn chỉ đủ làm cho chàng hết
"li" (cái đức tính của chàng khi quá chén, và trở nên một người nói
chuyện rất có duyện).
Thấy nhà sư đãng trí, luôn luôn đưa mắt về phía cửa buồng
bên, Kiến Xuyên hầu hỏi:
- Sư ông nhìn gì vậy?
Phạm Thái luống cuống. May sao Ở ngay vách bức bàn gần đấy có
treo tờ tranh lớn vẽ một người tố nữ. Chàng liền vịn ngay vào đó để chữa thẹn:
- Dám bẩm tướng công, xin tướng công tha lỗi bần tăng mải ngắm
bức tranh; tinh thần nét bút, càng nhìn càng tươi. Dám bẩm tướng công ai là tác
giả bức danh họa này?
Trương công cười:
- Sư ông quá khen. Tôi coi nét vẽ còn non nớt lắm, mà còn non
nớt cũng phải, vì họa sĩ chỉ là một người con gái mười sáu tuổi.
Phạm Thái kinh ngạc hỏi lại:
- Bẩm tướng công, vậy ra...
Thấy chàng ngập ngừng, Kiến Xuyên đỡ lời:
- Phải, tranh ấy chính tay tiện nữ Quỳnh Như phát họa.
Phạm Thái khen, có lẽ cốt để Quỳnh Như đứng sau bức rèm nghe
rõ:
- Đại tài kỳ nữ?
Trương công lại cười:
- Sư ông quá tán tụng. Nhưng lão gia nghe đồn sư ông có tài
thất bộ thành thi, vậy sư ông đề một bài thơ Đường luật vịnh người mỹ nữ trong
tranh xem nào.
Phạm Thái chắp tay lễ phép:
- Bẩm tướng công, bần tăng đâu dám múa rìu qua mắt thợ. Nhưng
tướng công đã truyền bần tăng cũng xin đánh bạo vâng lời, có kém chỗ nào, xin
tướng công phủ chính cho. Vả bức tranh còn thừa nhiều khoảng trắng quá. Bài thơ
của bần tăng có dở đi nữa cũng được cái công dụng giúp cho bức tranh đỡ trống
trải.
- Thi sĩ nhúng nhường quá?
Hầu liền gọi người nhà lấy bút mực.
Phạm Thái ngồi ngắm kỹ bức tranh và ngẫm nghĩ một lát rồi quả
quyết đứng dậy viết một mạch xong tám câu thơ chữ Hán sau này:
Thanh xuân toả liễu lãnh tiêu phòng, Cẩm trục đình châm ngại
điểê m trang.
Thanh rạng đỗ liên phi bất lục, Đạm bi tạn cúc thái sơ hoàng.
Tình si dị tố liêm biên nguyệt, Mộng xúc tằng liêu trưởng đỉnh
sương.
Tranh Khúc cưỡng hêu sầu mỗi bận, Oanh ca nhật vĩnh các tiêu
hương.
Đề xong thơ, Phạm Thái lại ngồi vào tiệc rượn ngâm lại một lượt
rồi hỏi Kiến Xuyên hầu:
- Bẩm tướng công, bần tăng chữ nghĩa còn kém...
Nhưng Kiến Xuyên ngắt lời:
- Thiên tài? Thiên tài? thực là Lý B ạch tái thế.
Hầu lại gần bức tranh dương mục kính đọc đi đọc lại mãi. Bỗng
hầu kêu:
- Trời ơi? dễ thường sư ông... Phải rồi, Oanh, tranh, tình,
thanh, xuân... Gỉoi thực, giỏi thực? Đại tài, đại tài?
Rồi đọc đảo ngược bài thơ chữ thành một bài thơ nôm, lời văn
chải chuốt và tự nhiên:
Hương tiêu gát vắng nhặt ca oanh, Bận mối sầu khêu gượng khúc
tranh, Sương đỉnh tường gieo tường dục mộng, Nguyệt bên rèm tỏ sễsi tình, Vàng
thưa thớt, cúc tan hơi đạm, Lụcphấtphơ, sen đọ rạnh thanh, Trang điể hm ngại
chăm dừng trục gấm, Phòng tiêu lạnh lẽo khóa xuân xanh.
Hầu quay vào tiệc rót chén rượn đầu, mời Phạm Thái mà rằng:
- Xin tặng thi hào một chén rượn.
Phạm Thái giơ hai tay kính cẩn đỡ lấy, vái đáp:
- Tướng công ban thưởng, bần tăng xin bái l~nh xin chúc tướng
công thiên tuế.
- Nhưng ngày tôi hỏi: sao sư ông không để ba chữ "hồi
văn cách" để người đọc hiểu ngay.
Phạm Thái khiêm nhượng:
- Dám bẩm tướng công, có lẽ ngẫu nhiên mà được thế. Nhưng bần
tăng cũng xin vâng theo tôn ý.
Rồi chàng đứng dậy cầm bút đề vào bên bài thơ ba chữ "hồi
văn cách" thực nhỏ Kiến Xuyên hầu bảo chàng đọc lại một lượt. Chàng vâng lời
cất giọng sang sảng bình văn. Đến câu "nguyệt bên rèm tỏ dễ si tình"
thì không biết ngẫu nhiên hay định ý, chàng đăm đăm nhìn cái rèm rung động che
cửa buồng bên.
Phạm Thái bình xong, Kiến Xuyên hầu lại rót một chén rượn đầy
nữa:
- Đây là mừng riêng nhà bình văn tốt giọng.
Thực ra Phạm Thái đã cố sửa sang cho giọng mình lên bổng xuống
trầm, có nhịp nhàng tình tứ. Không một lần nào sư ông đọc kệ hay bằng thế.
Phạm Thái vội đỡ chén nói:
- Chết? Tướng công quá yêu, làm bần tăng tự thẹn, vì tài mọn
của bần tăng không được xứng đáng với tấm lòng lân tài của tướng công.
Kiến Xuyên cười phá lên:
- Hay? Sư ông không nhắc đến chữ lân tài, thì suýt nữa lão
gia quên bẳng rằng sư ông là một bậc đãi tài.
Phạm Thái cho câu nói có ý riễu, lặng thinh cúi mặt, nhưng
Trương công nói tiếp ngay:
- Phải, tôi hỏi, sao thiền sư không ra tiến thân để trị dân
giúp nước?
Rồi muốn dò ý Phạm Thái, Trương công nhìn thẳng vào mắt
chàng, trù trừ nol:
- Hay là thế này... lão gia tiến cử... thiền sư lên triều
đình.
Phạm Thái lạnh lùng:
- Xin đa tạ tướng công, bần tăng đã xuất gia tu hành, đâu còn
dám mơ màng quan cao, chức trọng. Vả miếng đỉnh chung thời này...
Phạm Thái tuy say, nhưng còn đủ tỉnh để giữ gìn lời nói, nên
ngừng ngay được Kiến Xuyên hỏi dồn:
- Miếng đỉnh chung sao kia, thiền sư? Thiền sư nói miếng đỉnh
chung thời này là có ý gì?
Phạm Thái kính cẩn:
- Xin tướng công đại xá cho, chúng tôi say, có khi nói mà
không biết nói gì.
Kiến Xuyên lại cười to:
- Còn gì sướng bằng lúc say mềm nói chuyện mà không biết mình
nói gì. Vậy xin mời thiền sư cùng lão gia uống cho thật say mềm đã rồi hãy nói
chuyện.
Dút lời, hầu giốc cạn nậm rượn vào chén mình rồi mở chóe,
thân cầm gáo và phễu triết đầy nậm, dù Phạm Thái đứng lên xin để chàng làm
giúp, hầu cũng không nghe:
- Tráng sĩ cứ để mặc lão gia.
Phạm Thái giật mình nhìn Trương công:
- Thôi tướng công say rồi. CÓ tráng sĩ nào ngồi hầu rượn tướng
công đâu?
Kiến Xuyên đầu lắc lư, tay run lẩy bẩy đặt nậm xuống bàn.
- Ờ mà có lẽ lão gia say thực. Lão gia nhìn thiền sư ra hẳn một
tráng sĩ, nét mặt đầy dõng cảm, chí khí.
Men rượn mỗi lúc một làm cho truyện thêm hăng hái. Đến nhá
nhem tối, khi chóe rượn đã cạn quá nửa, thì không còn ai tưởng đến giữ gìn nữa,
bao lời tâm quyết về thời thế đem giốc hết ra mâm rượn.
Rồi ánh sáng mấy ngọn sáp le lói chiếu vào hai cái đầu gục
lên hai góc bàn, một cái bạc phơ và một cái tóc đen mới mọc lởm chởm.
Hồi 36
rượu tiễn chưa tàn
Nửa đêm Phạm Thái thức giấc, thấy mình nằm ngay Ở sập rượu.
Mâm và các thức đã cất hết cả rồi, chỉ còn trơ cây sáp cháy trên cái đài làm
theo hình hoa sen và lá sen.
Phạm Thái ngồi vỗ trán nghĩ mãi mới nhớ ra rằng buổi chiều có
ngồi uống rượu với Kiến Xuyến hầu. Chàng cũng chỉ nhớ thế thôi, còn mọi sự xảy
ra trong bữa tiệc, chàng quên hết.
Bỗng chàng nhác trông thấy bức tranh treo trên vách cạnh bàn,
liền cầm đài sáp ghé gần lại xem. Đọc bại vịnh mỹ nữ, chàng vụt nhớ đến truyện
đề thi và hơn nữa, đến bức rèm rung động trước cửa buồng bên. Ngẫu nhiên, chàng
quay lại nhìn: Cánh cửa buồng đóng chặt, mà hai cành rèm the màu xanh đã mắc
lên đôi móc bạc.
Phạm Thái mỉm cười, chống tay vào cầm ngồi mơ màng tưởng tới
những truyện Liêu Trai đầy tiên cô và yêu quái. Chàng đăm đăm nhìn về phía buồng
ngâm lại bài thơ nôm, và ao ước hão huyền rằng đến câu "Nguyệt bên rèm tỏ
dễ si tình, thì tự nhiên cánh cửa buồng sẽ mở tung ra để đón mời chàng vào.
Tiếng gà gáy nửa đêm làm chàng giật mình. Chàng sợ mướt mồ
hôi, đưa tay lên vẩn vơ xoa đầu. Lúc bấy giờ chàng mới kịp nhớ ra rằng mình là
sư, và hơn nữa là đảng viện, một đảng Lê thần.
Chàng lấy làm tự thẹn và tự giật mình: "Chẳng lẽ nào
mình lại thế được." Rồi dần dần, trí chàng trở nên sáng suốt. Chàng cố ôn
lại những lời bàn với Kiến Xuyên hầu trong bữa tiệc. Chàng nghĩ thầm: "Chẳng
biết mình có vô ý để tiết lộ những điêu bí mật của đảng không?
Chàng lo lắng và hối hận vô cùng. Nhác thấy một tờ giấy hoa
tiên màu xanh lá mạ, gấp trong gối xếp và để thò ra một nửa, hình như cốt để
chàng lưu ý đến.
Chàng rút ra xem, thì đó là một bài thơ thất ngôn bát cú. Liền
ghé vào ánh sáng cây sáp, lẩm nhẩm đọc:
Véo von bên liễu liế cng hoàng oanh, Khuyên khắc đừng quên
chí chiếa n tranh.
Giữa lúc nước nhà đang hoạn nạn, phải khi tráng sĩ vướng tơ
tình?
Sông trơi đất Bắc in giòng đỏ, Núi đứng trời Nam nhuộm vẻ
thanh.
Khúc khải hoàn ca rồi mạnh mẽ, Phòng tiêu đầm ấm rạng ngày
xanh.
Phạm Thái sung sướng mỉm cười:
- Bài thơ họa không có lạc khoản, nhưng còn ai vào đây nữa?
Kín đáo và tình tứ, mà lẫm liệt biết bao, tuy viết vội, nên lời thơ không được
chuốt.
Chàng tưởng tượng ra một cảnh lặng lẽ, khi mâm rượn bưng đi rồi,
Trương Quỳnh Như từ khuê phòng rón rén bước ra.
Bức vẽ dần dần hoạt động. Phạm Thái mơ màng thấy một thiếu nữ
mặt trắng như ngà, giơ bàn tay xinh xắn vén cánh rèm the ngó nhìn quanh phòng một
lượt.
Rồi hai bàn chân nhỏ nhắn trong đôi hài con phượng nhẹ nhàng
khoan thai đặt trên nền gạch Bát tràng to bản, một bước một ngừng vì sợ chàng
nghe tiếng động giật mình thức dậy.
Thiếu nữ lại gần sập ngắm chàng say mềm nằm gục đầu vào gối xếp,
rồi thong thả bước lên sập, đứng đọc bài thơ đề trên tranh, vừa mỉm cười, Phạm
Thái như còn ngửi thấy mùi hương phảng phất trong phòng và nghĩ thầm vơ vẩn:
"Biết đâu cô Quỳnh Như không lay mình dậy, như vì mình say quá, không hay
'.
Chàng lắc đầu nghĩ tiếp: "Không, chắc không thể thế được?"
Giấc mơ tỉnh của Phạm Thái vẫn đi. Chàng thấy Quỳnh Như quay về phòng khuê lấy
bút mực để họa bài thơ của chàng, rồi lại như lần trước, rón rén bước ra nhà
ngoài khẽ đặt tờ giấy hoa tiên vào trong gối xếp.
Một tiếng gà gáy làm tan giấc mộng. Chàng cầm bài thơ đọc lại
một lượt:
"Nàng khuyên ta nên đi Kinh Bắc để dấn thân vào nơi nguy
hiểm: Sông trôi đất Bắc in dòng đỏ. Sao nàng biết ta... biết chí lớn của ta?
Thôi, chỉ vì trong khi ta quá chén, ta thốt hết tâm sự ra với Kiến Xuyên hầu.
Nàng đứng nấp sau bức rèm đã nghe rõ câu chuyện.
Chàng sung sướng thì thầm:
- Thực ta đoán không sai, nàng quả là một bực cân quắc anh
hùng. Nàng khuyên ta làm việc lớn, rong ruổi bước đường gió bụi, chờ lúc hát
khúc khải hoàn trở về Nàng ước hẹn cùng ta. âu yếm biết bao?... Phòng tiêu đầm ấm
rạng ngày xanh.
Một bức tranh khác kế tiếp hiện ra: Bức tranh náo động vẽ một
bãi chiến trường: Cả một thời kỳ theo Nguyễn Đoàn, thời kỳ đầy nguy hiểm, gian
lao.
Chàng cười con ngựa tía phi trong đám dáo, gươm, tên, đạn,
coi cái chết nhẹ như chiếc lông hồng. Cái chí nguyện bình sinh của chàng là được
da ngựa bọc thây chôn trên cồn cát trắng. Ngẫu nhiên, chàng ngâm khẽ mấy câu
thơ trong truyện Trinh phụ của bà Thị Điểm.
Chàng trẻ tuổi vố hn giòng hào hệt, Xếp bút nghiên theo việc
đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng, Thước gươm thề quyết chẳng dong
giặc trời.
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa, Giao Thái Sơn nhẹ tựa hồng
mao.
Dã nhà đeo bức ch iếựn bào...
Phạm Thái cười chua chát, ngừng lại "mình làm gì có chiến
bào chỉ có tấm áo cà sa. Còn nhà thì chẳng còn nhà đâu mà dã, họa chăng dã cô
Quỳnh Như...
Nhưng chẳng hay cô có... đưa chàng lòng dằng dặc buồn
không?" Chàng ngẫm nghĩ một lát rồi quả quyết đứng dậy, dáng bộ hùng dũng.
"Phải đi, phải đi ngay?" Tiếng gà gáy ran nghe như tiếng giục quân.
Quên hẳn rằng mình đương Ở đâu, Phạm Thái cất tiếng ca dõng dạc:
Bóng cờ tiế nng trống xa xa.
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.
Nghiên mực và quản bút vẫn cón để trên một tủ trè. Chàng tìm
giấy không thấy, liền xé nửa mảnh hoa tiên không có chữ và viết mấyu câu sau
này:
"Xin hnh chào tướng công cùngphu nhân.
~ có việc khẩn cấp phải hấp tấp ra đi, nên không hp bái biệt,
xin tướng công cùng phu nhân tha tội.
Phổ Chiêu thiền sư bái bút. " Chàng đã toan thêm một câu
chào cô Quỳnh Như và nàng Long Cơ, nhưng nghĩ kỹ thấy không tiện, chàng lại
thôi.
Ra sân chàng ngửa mặt nhìn trời: Trời đầy sao lấp lánh, nên
chàng trông cũng rõ lối đi Chàng sung sướng nghĩ đến anh em đồng chí nhất là Trần
Quang ngọc, Lê Báo, Nhị nương mà chàng xa cách đã bao lâu, không biết tin tức
ra sao. Chàng coi như vừa thoát được tai nạn gớm ghê hơn cả những tai nạn trong
rừng gươm dáo? "Trời ơi, mình mà chìm đắm vào bể tình, thì bao giờ báo đền
được ơn vua, trả thù cho nhà, cho đảng?" Đến cổng, chàng đã tưởng cổng
đóng, và phải trèo qua để vượt ra ngoài.
Nhưng lạ thay, cánh cửa hé mởi. Chàng vừa ra khỏi, quay đầu
nhìn lại thì chẳng hiểu ai đã đóng sập lại rồi, hình như để bảo cho chàng hay rằng
đừng do dự nữa.
Chàng còn bỡ ngỡ chưa biết tiến về phương nào. Bỗng bên bờ
tre trong bóng tối có tiếng lạt sạt. Chàng định thần trố mắt nhìn kỹ, thấy một
con ngựa, thắng yên cương đứng ngoạm lá tre. Giữa lúc ấy, một người Ở trong nếp
nhà tranh bên đường chạy ra hỏi:
- CÓ phải sư ông Phổ Chiêu đó không?
Phạm Thái kinh ngạc hỏi lại:
- Ai biết bần tăng thế?
- Chúng tôi chờ thiền sư Ở đây từ giờ Hợi, để dâng thiền sư
con ngựa này, với cái roi này.
người lạ mặt vừa nói vừa đưa cho Phạm Thái một cái tay nải
nâu:
- Xin mời thiền sư khoác khăn gói vào vai, lên ngựa đi ngay
cho, kẻo trời sắp sáng rồi. Thiền sư không cần sang đò, cứ rẻo bờ sông bên này
đi chừng tờ mờ sáng thì ra tới đại lộ.
Phạm Thái càng kinh ngạc:
- Nhưng tôn ông là ai?
- Thiền sư không cần hỏi điều ấy. Mời thiền sư lên ngựa ngay
đi cho.
Phạm Thái theo lời, khoác tay nải, nhảy phắt lên yên, nói:
- Đa tạ tôn ông, tôn ông đã muốn giữ bí mật không cho bần
tăng rõ tung tích thì bần tăng cũng chẳng biết làm thế nào, chỉ xin cầu Phật tổ
phù hộ cho tôn ông mà thôi.
Dứt lời, chàng ra roi, Vẳng theo sau lưng câu dặn với:
- Không cần phải trả lại ngựa. Các thứ nhu dụng đã có đủ cả
trong gói.
Phạm Thái rẽ ngựa qua cánh đồng khô vừa gặt hái xong, còn lởm
chởm những chân rạ, và theo ven bờ sông, trông phía Tây Nam thẳng tiến. Nắn tay
nải, thấy có nhiều vật rắn và nặng, chàng đoán chắc đó là những nén bạc.
Hồi 37
cảnh điêu tàn
Hai trấn Sơn Nam Hạ, Sơn Nam Thượng, Phạm Thái đi qua đều yên
tĩnh. Ở đó tuy bọn Lê thần cũng bất phục và ngấm ngầm phản đối triều đình Tây
Sơn, nhưng không lập thành đảng, thành hội như Ở hai trấn Hải Dương và Kinh Bắc.
Vì thế, sự canh phòng đỡ nghiêm ngặt và Ở các bến đò, sự hỏi
tín bài cũng không đến nỗi ráo riết như trên miền Bắc: quý hồ những người qua
os6ng đưa trình là đủ rồi, viên tuần giang không mấy khi bắt cạp chỉ cùng là hỏi
vặn lai lịch cặn kẽ.
Nhưng bắt đầu từ sông Hồng Hà thì sự qua lại đã khó khăn và
Phạm Thái đã phải phòng bị cẩn thận. Tuy kẻ xuất gia được miễn tín bài, Phạm
Thái cũng cố tìm lánh những đãi lộ và không qua Bấc Thành. Chàng đi ngược mãi
lên bến đò Trèm mới thuê thuyền sang ngang.
Dòng dã bốn hôm đường trường, Phạm Thái về tới hạt Từ Sơn.
Chàng toan đi thẳng đến chùa Tiêu Sơn, vì chàng nóng lòng muốn gặp mặt Quang Ngọc
ngay.
Nhưng khi xuống ngựa vào một cái quán nhỏ bên đường uống bát
nước trè nóng giải khát, chàng được nghe bà hàng thuật câu truyện "ma hiện
hồn tại chùa Tiêu Sơn, nên sợ hãi không dám tiến nữa.
Chàng cố giữ nét mặt thản nhiên. Một người bộ hành nhai trầu
bỏm bẻm vừa hỏi người kể truyện:
- Thế bây giờ lính còn canh giữ chùa ấy không?
- Không... Nhưng ý chừng ông Ở vùng Nam mới lên, hay ông...
Bà hàng toan nói đùa: "Hay ông là thám tử của triều
đình" - thời ấy, nhất Ở hạt Kinh Bắc, bọn thám tử của nhà Tây Sơn đông
nhan nhản - nhưng ngừng ngay lại, lo lắng nhìn mọi người.
- Không, tôi Ở Thăng Long mới tới.
Phạm Thái vờ phá lên cười, hỏi:
- Ngày nay làm gì còn Thăng Long?
Bấy giờ người hỏi chuyện mới kịp để ý đến nhà sư:
- ấy tôi quen mồm rồi đấy, vả gọi là Bắc thành tôi cứ e lẫn với
thành Kinh Bắc. Sư ông người vùng này?
- Không, tôi người vùng Nam.
Người đàn bà bán hàng nhanh nhẩu và muốn nói hết những điều
mình biết, tuy đã đinh ninh rằng nhất định giữ gìn mồm miệng:
- Bạch sư ông, sư ông tu hành Ở Nam thì sao không cứ Ở Nam,
lên đây làm gì?
Ở đây các nhà sư bị bắt bớ, đòi hỏi khổ sở lắm... RÕ đã xuất
gia tu hành mà chẳng được an thân - Đòi hỏi Ở đâu? Mà đòi hỏi vê việc gì vậy,
bà hàng?
- ấy chỉ câu truyện ma chùa Tiêu Sơn mà lôi thôi thế đấy.
Quan phủ ngài không tin có ma, ngài nhất định cho rằng những con ma ấy chính là
các nhà sư tu Ở chùa Tiêu Sơn. Nam vô a di đà Phật? Vì ngài thấy từ ngày có ma
hiện hồn thì sư cụ, sư ông chùa Tiêu Sơn biến mất...
Phạm Thái hoảng hốt:
- Biến mất?
- Vâng, bạch sư ông, biến mất. Mà nam vo a di đà Phật, chùa
Tiêu Sơn làm gì nên tội nên vạ.
Bà hàng ngừng lại, đưa mắt nhớn nhác nhìn quanh. Người Bắc
thành mỉm cươl:
- Bà cứ kể, chúng tôi đây không phải thám tử, thám tiếc gì
đâu.
Bà hàng còn ngần ngừ, nhưng cái tính bép xép hay nói những điều
mình biết bao giờ cũng thắng nổi lòng lo sợ.
- Bạch sư ông, chẳng hay chùa Tiêu Sơn đã làm nên tội vạ gì,
mà bị quan quân đem binh lính về triệt hạ. Lũy tre bị chặt nhẵn nhụi, tường thời
bị phá, hào thời bị lấp Đến những cây tháp đựng xương các sư tổ cũng bị phá đổ.
Người ta đồn rằng quan phủ làm thế để trừ tiệt giống ma quỷ, yêu quái. Nhưng trừ
ma tà thì sao không đón thầy bùa, thầy phù thủy, mà lại phá chùa như thế, phải
không bạch sư ông? CÓ nhẽ phép vua phép nước cũng linh thiêng lắm, sư ông ạ, từ
hôm phá phách như thế, giống yêu quái bỏ đi hẳn. Không dám bén mảng tới chùa nữa.
Bà hàng hạ giọng se sẽ nói tiếp:
- Mà người ta lại đồn rằng chùa Tiêu Sơn là sào huyệt của một
đảng cướp ghê gớm lắm.
Phạm Thái phá lên cười?
- Nam vô a di đà Phật?
- Vâng, tôi thấy bác cai Đán cũng nói thế. Hình nhưnhững cây
Tháp trong chùa toàn là tháp giả để chúa vàng bạc, châu báu cướp được trong dân
gian.
Nhưng điều ấy tôi không tin. Kỳ dâng sao năm ngoái, tôi về
Tiêu Sơn lễ Phật có gặp sư cụ PHỔ T nh. Lạy trời lạy tổ, ngài phúc đức, hiền
lành lắm. Khi nào ngài lại Phạm Thái ngắt lời:
- Vậy bây giờ ngài Ở đâu? Chắc ngài sợ hãi đi trốn tránh, đi
lánh nạn.
Phạm Thái không giữ nổi một tiếng thở dài. Người Bắc thành
quay lại hỏi chàng:
- Hẳn thiền sư có biết sư cụ chùa Tiêu Sơn?
Phạm Thái hơi luống cuống:
- Không... bần tăng... biết tiếng... mà thôi... Nhưng rồi ra
sao, bà hàng?
- Bạch sư ông, tôi cũng chỉ biết có thể. Sư ông muốn biết rõ
thêm thì xin lại điếm xem giấy yết thị.
- Điếm Ở đâu thế?
- Cách đây một thôi ngắn. Bắt đầu từ đấy cho tới sông Cầu, cứ
một quãng lãi có điếm canh.
Người Bắc thành nghe nói vội vàng trả tiền trầu nước, rồi đứng
dậy rủ Phạm Thái:
- Hay ta cùng đến xem đi?
Phạm Thái ngần ngại. Bà hàng cũng gạt:
- Sư ông chẳng nên lại làm gì. Tôi thấy nhiều nhà sư bị đưa đến
phủ tra hỏi rầy rà lắm.
Bà ta chép miệng nói tiếp:
- Vua với quan trên biết đấy là đâu, chẳng qua họ cứ bày vẽ
ra để hạch sách...
chứ đời thủa nào lại đi bắt bớ kẻ tu hành như thế.
Người Bắc thành cũng bão Phạm Thái:
- Bà ta nói thế mà phải? Ngay, gian chưa biết đâu, hãy bị tra
hỏi lôi thôi đã.
Mà tra hỏi với tra tấn thường hay đi liền nhau, sư ông nên giữ
gìn thì vẫn hơn.
Chàng ta lấy làm tự phụ rằng tìm được một ý hay vuốt ria cười
ha hả ra dáng thích chí lắm:
- Vậy sư ông ngồi đây một lát nhé?
- Vâng, cũng được. Ngựa của bần tăng, tôn ông cứ lấy mà dùng.
- Ngựa của thiền sư đấy à? Ồ? Thế thì càng hay lắm.
Chàng nhẩy phắt lên yên, ra roi phóng nước đại. Bà hàng nhìn
Phạm Thái hỏi:
- Sư ông quen biết ông ta?
- Không.
- Vậy sao ông lại cho người ta mượn ngựa? Nhỡ người ta không
trở lại thì sao? Thời loạn lạc trộm cướp như rươi, sao sư ông quá tin người thế?
- Kẻ tu hành không dám ngờ ai hết.
Thực ra Phạm Thái liếc mắt ngắm nghía người bộ hành, biết
chàng ta là bực phong lưu công tử, y phục chải chuốt và chững chạc, cái khăn
nhiễu tam giang, cái áo lương La-cả, cái quần vóc trắng ngà làm tôn hẳn vẻ mặt
tuấn tú và giáng điệu đài các của một văn nhân lanh lợi chốn cố đô.
vả Phạm Thái cho rằng con ngựa kia chàng đã dùng được việc rồi
thì dẫu người ta có lấy mất cũng chẳng hề gì. Cưỡi nó có lẽ một thiền sư càng
làm cho người ta ngờ vực.
Cái ý nghĩ ngờ vực khiến chàng hơi chột dạ. Chàng thì thầm:
"Ư, mà nhỡ nó dùng ngựa của mình đi báo phủ..." Chàng toan rời hàng
nước rẽ vào một làng gần đó trốn tránh thì đã nghe tiếng ngựa phi. Chàng thò cổ
ra nhìn, lo lắng. Nhưng người Bắc thành đã kìm cương, cười nói:
- Con ngựa của thiền sư tốt quá. Ý chừng thiền sư cũng thích
chơi ngựa.
- Nam vô a di đà Phật? Bần tăng có thích một thứ gì đâu. Con
ngựa ấy nguyên một ngưòi Ở xẽ Thanh Nê đã bố thí cho kẻ tu hành.
Người kia vuốt ve con ngựa.
- Tốt lắm. Con ngựa này thiệt giống ngựa Lạng Sơn: chân nhỏ,
bờm dầy, ức nở. Thực là ngựa trận, một ngày chạy trăm dậm không biết mỏi.
Phạm Thái hỏi tới bản chỉ thị, thì người kia thò tay vào bọc
rút ra một tờ giấy rộng và cuộn tròn, đầy những dấu ấn kiềm đỏ chói:
- Đây, thiền sư đọc.
Phạm Thái đỡ lấy xem thì đó là một tờ yết thị bằng chữ nôm
như sau này:
"Chùa Tiêu Sơn là một nơi sào huyệt của một đảng cướp lớn.
Quan trên đã khám phá ra đươc. Hiện nay tên đầu đảng cướp là Phạm Thái đội đạo
hiệu Phổ T nh thiền sư cùng tên tướng của nó là Lê Báo đội hiệu Phổ Mịch còn lẩn
lút trốn tránh. Hai tên ấy, dân vùng Tiêu Sơn nhiều người biết mặt. Vậy yết thị
cho ai nấy rõ. Kẻ nào tàng nặc hai tên ấy tức có đồng phạm. Kẻ nào biết hai tên
ấy Ở đâu mà không báo quan ngay để chúng trốn thoát bị phạt ba mươi trượng. Còn
kẻ nào bắt đươc hai tên ấy đem nộp, dù sống dù chết, đươc triều đình thưởng tiền
từ một nghìn quan trở lên, mà triều đình lại còn ban phẩm hàm cho nữa.
Nay yết thị Từ Sơn phủ phân tri Niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứsáu
Tháng mười ngày... " Dưới có bản tranh phác họa diện mạo hai nhà sư. Nét
bút vụng về và bức vẽ không giống làm cho Phạm Thái phải bật cười.
Người Bắc thành cũng cười, hỏi:
- Thiền sư đọc xong rồi?
- Vâng, nhưng sao tiên sinh lại dám bóc tờ yết thị?
- ấy, tôi thấy trong điếm chẳng có một ai, liền bóc lấy cho
chóng việc, chứ chép thì bao giờ xong, nhất tờ yết thị lại viết bằng chữ nôm.
Mắt người ấy vẫn không rời con ngựa.
- Đẹp thực?
- Ngài thích?
- Còn phải hỏi?
- Vậy bần tăng để lại hầu ngài đấy.
Người kia vui vẻ đáp:
- Thực nhé? Thôi thế này. Sáng hôm nay tôi cũng cười ngựa
sang đây. Khi đến quán Yên Viên, nó giở chứng không chị phi nữa, ra roi thế nào
cũng làm thinh Tôi tức mình để lại cho người lái buôn ngựa, lấy có bốn mươi
quan. Vậy bốn mươi quan ấy tôi xin nộp thiền sư.
Phạm Thái đáp:
- Bao nhiêu cũng được.
- Thế thì còn gì bằng. Vậy xin thiền sư cùng đi Yên viên
chơi. Rồi sáng mai ta cùng về Thăng Long... Ta cùng đi Bắc thành một thể thiền
sư tính sao?
Phạm Thái vui mừng nhận lời ngay, vì chàng đương chưa biết đi
đâu.
Hồi 38
quán bạch phượng
Đã mấy hôm nay trong khắp các phố Bắc thành bày ra một cảnh rất
náo nhiệt.
Vì kỳ thi tuyển cống sinh sắp sửa bắt đầu nên hàng nghìn sĩ tử
Bắc Hà vác lều chiếu từ các trấn xa gần kéo nhau về, lăm le tên chiếm bảng vàng
rồng mây gặp hội.
Ở các cửa ô, từng bọn thí sinh áo lương khăn nhiễu, đầu đội
nón sơn, chân dận dép da trâu, xúm xít đọc tờ chiếu chỉ dán trên thành tường. TỜ
chiếu ấy viết bằng chữ nôm như sau này:
Sự kén chọn nhân tài rất có quan hệ đến sự thịnh hưng của một
nước.
Từ khi Trẫm lên nối ngôi trời trị dân, không một lúc nào Trẫm
sao nhãng điều ấy Trẫm mong mỏi tìm bậc hiền sĩgiúp nước như người làm ruộng
mong mỏi trởi mưa giữa thời hạn hán.
~ thế theo gương Tiên đế, nay Trẫm mở kỳ thi cống sĩ để các
sĩ tử trong nước có dịp cùng nhau thi thố tài năng.
Trẫm lại nghĩ một nơi đế đô không đủ chỗ cho sĩ tử khắp nước
đến hội họp.
Vả những kẻ ngoài Bắc hà phải lặn lội vào hnh đô, e đường xá
xa xôi, nhất là đối với những ngưòi nghèo khó, phải lo kiếm tiền lộ phí để đi
thi.
Bởi những lẽ trên, Trâm đặt kỳ thi công sĩ Ở ba nơi, một là
hnh đô, một là Quy Nhơn, một là Bắc thành. Như thế người hạt nào đươc thi Ở hạt
nấy, thực là giản tiện. Rồi kẻ nào đậu cống sĩ sang năm vào Kinh đô dự kỳ thi
bác sĩ.
Ở trường thi Bắc thành việc kén chọn nhân tài, Trẫm giao cho
đại tự đồ Nguyễn Văn Danh cùng với Thị Trung Ngự Sử Ngô Thì Nhậm đươc tuỳ nghi.
Khâm thử Niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứ sáu.
Bên cạnh tờ chiếu chỉ lại có một tờ yết thị cũng bằng chữ nôm
của hội đồng chấm thi như dưới:
Thừa lệnh Hoàng đé, quan chánh chủ khảo yết thị cho các thi
sinh biết rằng:
CÓ ba kỳ thi:
Kỳ đệ nhất: một bài giải nghĩa cùng bàn luận một câu tục ngữ
hay ca dao viết bằng chữ nôm.
Kỳ đễ nhị: một bài luận Nam sử cũng bằng chữ nôm.
Kỳ đễ tam: một bài thơ chữ nôm, hoặc chữ Hán, một bàiphú chữ
nôm hoặc chữ Hán.
Đúng giờ Dần, các th í sinh đã phải có mặt Ở trường th i, ai
nấy phải mang theo lều chiếu cùng là bút mực giấy vở.
Kẻ nào gian trá sẽ bị tội nặng.
Nay yết thị Quan chánh chủ khảo:
Ngô Thi Trung Nhự sử đại thần Ở cửa Ô Ưu-nghĩa, khi đọc xong
tờ chiếu chỉ và tờ yết thị, một bọn học trò đủ các tuổi, từ mười tám đến ngoài
năm mươi, đưa mắt nhìn nhau tỏ vẻ hoặc kinh ngạc, hoặc chế riễu. Một người đã đứng
tuổi nói:
- Năm xưa, đức Tiến đế mở khoa thi. Tôi phải lặn lội vào tận
Phú Xuân, thế mà tôi còn bỏ không thi, nữa là năm nay Ở ngay Bắc thành.
Một thầy khoá đùa bỡn hỏi:
- Sao vậy?
- Tôi học đạo thánh hiền, dầy công đèn sách, nấu sử sôi kinh,
lại thèm làm những bài nôm na mách qué hay sao?
Dút lời dông đồ vút giấy bút xuống đất, giận dữ quay đi thẳng,
khiến mọi người phá lên cười.
Rồi họ xôn xao bàn tán. Kẻ phàn nàn chưa họ Nam Sử, kẻ lo ngại
quên mặt chữ Nôm. Lại có kẻ hỏi:
- Không biết làm phú nôm thì làm sao?
Một người đáp:
- Khó gì? lại hàng sách mua lấy một quyển phú nôm, văn sách
nôm của cụ Le Quý Đôn mà xem. Nhân tiện học lại chữ nôm một thể.
Một người nữa mỉa mai:
- Thi với cử? Chán ngắt? Văn nôm thì là phải nặng mùi, tờ yết
thị dán Ở cưa Ô Ưu Nghĩa, phố hàng Mắm thực là đắc nghi.
Một thí sinh có tuổi vừa nhìn trước nhìn sau, vừa bảo người
kia:
- Liệu giữ mồm miệng?
Rồi, từng tốp kéo đi các ngả.
Một bọn năm người rủ nhau ra chơi đền Ngọc Sơn. Nhưng vừa qua
cầu Sầm Công và rẽ sang phố hàng Bạc, các thầy khoá gặp một thiếu nữ gương mặt
sáng sủa đứng Ở hè phố dương mắt nhìn và mủm mỉm cười tình. Một người trong bọn
bảo anh em:
- Nghe nói con gái, Bắc thành ghê gớm lắm kia đấy? Chớ có
trêu vào. Nên lảng xa ra là thượng sách.
Nhưng người thiếu nữ nào có để cho các thầy lảng xa? Nàng tiến
đến gần hỏi:
- Thưa các thầy, em coi như các thầy đương đi tìm nhà trọ?
- CÓ thế Chừng cô là chủ hàng cơm?
- Thưa các thầy không. Em người Kinh Bắc, nhân gặp kỳ thi, về
đây bán hàng trầu nước.
Một thí sinh trẻ tuổi đã bạo, phá lên cười ha hả:
- Chừng để kén chồng, để tuyển phu?
- Thưa không ạ, em chỉ bán hàng để kiếm ăn. Em nghèo lắm,
thuê một gian xép Ở ỉru quán kia. Chủ tửu quán bảo hễ em đón được năm người
khách trọ thì họ cho em Ở nhờ không lấy tiền thuê. Vì thế em gặp năm thầy em mừng
quá. Vậy xin năm thầy thương em nghèo mà đến đấy Ở trọ giùm.
- Đấy là đâu?
- Thưa năm thầy, quán Bạch Phượng Ở phố Cầu Gỗ.
Năm người đưa mắt nhìn nhau. Rồi người trẻ tuổi nói:
- Được, cô cứ về trước đi Lát nữa chúng tôi đến.
- Tiện đường, em xin đưa các thầy về một thể.
- Nhưng lều, chiếu, tráp, nải, chúng tôi gửi cả đàng kia.
- Các thầy không ngại, để Ở đâu rồi em xin đến lấy sau.
Chẳng đừng được, năm thầy khoá phải theo cô kia rẽ sang phố
hàng Đào rồi đến phố Cầu Gỗ.
Tửu quán Bạch Phượng dựng ngay cạnh cái lạch nhỏ thông liền hồ
Hoàn Kiếm với cái hồ nhỏ hàng Bạc. Trên lạch cái cầu hỗ bắt ngang, (vì thế mà
người ta đặt tên là Cầu gỗ). ĐÓ là một nếp nhà gạch khá rộng, có gác, tuy gác ấy
thấp và không có cửa sổ trông ra phía đường, chỉ giống như cái mái chồng của một
kiểu nhà hai mái, dốc sây thành bậc.
Tửu quán ấy nguyên trước là nhà một người buôn lợn, khá giàu.
Một hôm vợ lẽ chủ nhân đứng cửa ngắm phố. Bỗng hai viên vệ binh qua đó thấy
nàng có chút nhan sắc, bèn thả lời trêu ghẹo. CÔ vợ lẽ vốn người quê trấn Hải
Dương mới theo chồng đến Ở Bắc thành, nên chưa rõ oai oác các ông vệ binh xứ
Nghệ. Nàng giở hết giọng chua ngoa tục bẩn ra đáp lại lời ngọt ngào của hai thầy
vệ. Người chồng nghe tiếng ầm ĩ Ở cửa chạy ra, thấy hai ông lính thì giật mình
kinh hãi, nhưng đã quá muộn rồi. Chiều hôm ấy, gần một trăm vệ binh kéo đến nhà
người buôn lợn phá phách, bắt hết lợn làm thịt. May mà vợ chồng con cái chủ nhà
biết trước đã đi trốn tránh. Rồi sau họ dọn luôn đi Ở nơi khác.
Nhưng nào bọn vệ binh đã thôi đâu. Chiều chiều họ còn kéo
nhau đi lượn qua cái nhà bỏ hoang để thị uy. Kẻ cười khoái chí, kẻ thét bô bô:
- Đã biết tay chúng ông chưa?
Một người khác lại tiếp:
- Phải biết? Ai bảo trêu vào lính nà vua? Trêu vào lính quan
tổng trấn?
Hôm đầu cũng có người láng giềng thương tình ra xin các thầy
vệ cho gia đình bác buôn lợn. Nhưng người khéo hứng việc ấy bị một quả đấm nên
thân. Từ đó không ai dám hé môi nói nữa lời, mặc cho nếp nhà kia bị khóa trái
không người ở.
Vì ai dại mà đến thuê một cái nhà nguy hiểm như thế, nhất là
khắp phố Cầu gỗ đều đã nghe rõ lời dọa nạt của các ông mãnh, lính hầu quan tổng
trấn:
"Đứa nào có giỏi cứ đến đây mà ở?" Hai tháng ròng,
nhà người buôn lợn vẫn đóng cửa im ỉm. Bỗng một hôm có người khách lạ đến thuê.
Hai bên hàng phố khúc khích cười khi nghe người ấy hỏi thăm xem chủ nhà Ở đâu.
HỌ thi nhau thuật lại những truyện chẳng lành đã xảy ra, rồi khuyên người kia
chớ nên trêu vào lính quan trấn thủ. Nhưng người khách lạ không tỏ vẻ mặt cảm động
mảy may, hỏi đi hỏi lại chổ Ở của chủ nhà để đến thuê, và nói nếu chủ nhà bán rẻ
thì mua dút.
Thấy vậy một người láng gi^ng nguyên có họ với bác buôn lợn mừng
rỡ, đứng ra nhận bán cho người khác lạ lấy nghìn quan tiền, rồi làm văn tự liền
lấy chữ ký của chủ nhà. Người khách chừng là một tay đại phú, vì trả ngay một
lúc năm mươi nén bạc, mà cũng chẳng cần phải có hộ trưởng ký nhận cùng áp triện.
Ngay mấy hôm sau nhà ngưòi buôn lợn đã trở nên một hàng cơm,
ngoài cửa treo một giải cờ dài nhuộm đỏ có viết bốn chữ lớn "Bạch Phượng tửu
quán '.
Từ hôm khánh thành tửu quán, suốt phố người nào cũng ngó tới
cái hà ghê gớm kia, mà bọn lính quan tổng trấn đã ra lệnh không cho ai được
phép ở. Ngó tới để xem cuộc xung đột dữ dội đến bậc nào.
Quả nhiên cách đlo vài ngày, năm người vệ binh đi qua phố Cầu
gỗ. Thấy cái nhà bị cấm đã nghiễm nhiên trở nên một tửu quán, họ thì thầm bảo
nhau:
- Thằng cha nào mà già gan thế?
- Ta thử vào xem sao.
Năm cậu vệ vừa bước chân qua ngưỡng cửa thì chủ quán Ở trong
nhà đã bước vội ra chắp tay lễ phép chào, rồi vồn vã hỏi:
- Thưa các thầy, có phải các thầy là vệ binh trong dinh quan
tổng trấn không?
Một ngưòi lính xừng xộ đáp:
- Phải, anh muốn nói vệ binh của quan tổng trấn điều gì?
Chủ quán lại vái dài một cái nữa, rồi mừng rỡ cuống quít:
- ồ, thế thì may cho chúng tôi quá, chúng tôi đương sắp sửa
vào trong dinh mời các thầy ra chứng kiến cho bữa tiệc khánh thành tửu quán,
thì các thầy lại quá bộ đến thăm. Thực là hân hạnh cho chúng tôi quá. Chúng tôi
chẳng nói giấu gì các thầy, trước kia chúng tôi là vệ binh trong hai năm Ở dinh
quan trấn thử Lạng Sơn.
Chỗ đồng nghiệp...
Rồi trong khi mấy người lính còn ngơ ngác nhìn nhau chưa biết
xử trí ra sao, thì chủ quán đã cất tiếng gọi:
- Em Hai?
CÓ tiếng dạ trong trẻo, rồi một người con gái rất xinh xắn,
nhanh nhẹn, y phục gọn ghẽ, từ nhà trong chạy vội ra.
- Thưa anh, anh bảo gì em?
Mấy cậu vệ trố mắt nhìn, tấm tắc khen thầm.
- CÓ các thầy cai Ở trong dinh quan tổng trấn ra chơi, vậy em
sắp rượn mời các thầy xơi Dút lời, chủ quán chạy xuống bếp bảo làm nhắm, để một
mình cô em gái đứng tiếp chuyện với các cậu vệ. Giữ thể diện với một cô thiếu nữ
cực kỳ xinh đẹp, các cậu cảm tạ và nhất định từ chối không nhận lời dự tiệc một
cách quá đường đột.
Nhưng các cậu làm thân ngay với chủ quán, người đã được diệm
phúc có một cô em gái rất dễ thương. Và chẳng bao lâu, hết thẩy bọn vệ binh
trong dinh quan tổng trấn, từ đội, cai cho đến lính, không còn ai thèm nhớ đến
câu chuyện phá phách và thù oán nữa.
Thế là Bạch Phượng tửu quán bắt đầu vào thời kỳ thịnh đạt
ngay. Nay gặp kỳ thi cống sĩ, khách trọ đến càng đông, đông như trong động
Hương Tích gặp ngày chảy hội vậy.
Hồi 39
cô hàng trầu nước
- Thưa năm thầy đến nơi rồi.
Một ông trẻ tuổi nhất và láu lỉnh nhất trong bọn, mỉm một nụ
cười tình đáp lại:
- Thưa cô em, chúng tôi cũng biết là đến nơi rồi, vì chúng
tôi đã trông thấy lá cờ đỏ "Bạch Phượng tửu quán" đương phe phất đón
chào chúng tôi kia.
Người thiếu nữ quay lại vẻ mặt rất ngây thơ?
- Ồ? Thầy cũng biết chữ?
Cả năm thầy khoá cùng cất tiếng cười ha hả:
- CÔ em ngộ nghĩnh tệ? Đi thi cống sĩ mà lại không biết chử?
- Ồ nhỉ? Nhưng em cứ tưởng là thi chữ nôm kia chứ?
- Cả chữ Hán nữa.
- Cả chữ Hán nữa? Thì ra Nôm Hán toàn tài?
Mọi người lại phá lên cười. Một thí sinh thì thầm bảo bạn:
- Con bé hay hay nhỉ?
Con bé hay hay đã đưa các thầy vào hàng và cất tiếng gọi:
- ông quán ơi, có khác trọ.
Tức thì chạy ra một ngưòi cao lớn, lực lưỡng, vận quần áo
nâu, chân đi giầy da trâu, đầu mọc lởm chởm chít chéo cái khăn lụa màu hoa
tiên. Người ấy hớn hở:
- Kính chào chư hiền. Xin mời chư hiền vào nghỉ trong nhà.
Quán chúng tôi được tiếp chư hiền thực là hân hạnh, hân hạnh cho quán chúng tôi
lắm.
Thiếu nữ bảo chủ quán:
- Tôi đón hộ ông đủ số năm ngài khách trọ rồi đấy. Vậy tiền
thuê cửa hàng trầu nước, ông liệu châm chước cho.
Nhưng không để ý đến thiếu nữ, chủ quán cuống quít, săn sóc
chung quanh năm người khách quý vì cứ liếc trông diện mạo sáng sủa và y phục chững
chạc, chủ quán cũng đoán biết rằng bọn kia là con nhà thế phiệt:
- Thưa chư tôn ông, chư tôn ông chừng người Kinh Bắc?
Thật ra, chủ quán rất thông minh, thoạt nghe mấ mẩu truyện của
năm thầy khóa đã biết các thầy vùng bể, như vờ hỏi chệch đi, làm ra mình ngớ ngẩn
thực thà không lưu tâm đến một việc gì hết. Ở thời loạn, Ở thời vua tôi không
thực bụng yêu nhau, thì sự ngờ nghệch ngây thơ là một nết rất tốt, vì ít ra nó
cũng tránh cho mình được sự ngờ vực của bọn thám tử. Phải, biết đâu trong năm
thầy lại không có một thầy là thân nhân của quan tổng trấn VÕ Văn Dũng. Khắp Bắc
thành còn nao núng về câu truyện xử tử một người học trò, vì người ấy trong lúc
ngà ngà hơi men đã đọc cho bạn nghe bài thơ cảm khoái, có giọng mỉa mai bọn tôi
triều đình Tây Sơn là một bầy con nít, năm cha, ba mẹ. Việc ấy chắc chủ quán
chưa quên, nên nay gặp mấy ông khóa trẻ tuổi kia, chàng giả vờ đóng vai đần độn.
Nhưng một người trong bọn nghe câu hỏi thẳng thắn trả lời ngay:
- Không, chúng tôi sinh trưởng Ở vùng Sơn Nam hạ cả. Tôi người
Xuân Trường.
- Thưa chư tôn, có ai người phủ Kiến Xương không?
- Có, tôi, Người vưà trả lời tức là thầy trẻ tuổi đã có chiều
muốn lơi lả với cô hàng trầu nươc.
- Vậy chắc tôn ông có biết tiếng quan Thanh Xuyên hầu?
Chủ quán hơi cuống:
- À? Tôi biết tiếng... vì ngài là trấn thủ Lạng Sơn.
Rồi lảng sang chuyện khác, chàng cất tiếng gọi:
- BỚ tửu bảo?
Mấy thầy khóa khúc khích bấm nhau, thì thầm:
- Chà? Lão quán này có lẽ là một tay văn sĩ chăng? Gọi người
hầu rượn là tửu bảo, tửu biếc cẩn thận.
Nghê gọi, một người trẻ tuổi chạy ra. Gương mặt chàng sáng sủa,
điệu bộ chàng nhanh nhẹn, khiến ai thoạt trông cũng thấy chàng khác bọn hầu hạ
trong các tửu quán xưa nay:
- Dạ, bác truyền con làm việc gì?
- Anh đi sắp rượn ngay hầu năm ông cống xơi nhé.
Một người khách cười:
- Chúng tôi đã thi đâu mà ông đã vội tôn chúng tôi lên cống
sĩ, bác sĩ?
- Thưa chư tôn, chư tôn đã thi thế nào cũng đậu. Trước sau có
khác gì?
CÔ hàng trầu nước quay lại nhìn các thí sinh và mỉm cười rất
có duyên:
- Xin mời chư vị hãy lại xơi chén nước chè nóng cho ấm bụng
đã.
Một thầy khóa gật, cười tình đáp lại:
- Phải đấy, chư tôn huynh ạ. Chúng ta chẳng nên để cô hàng
mong đợi. Phải không, ông quán?
Chủ quán cười nịnh:
- vâng. Nghe đâu cô hàng cũng là một nữ thi sĩ Ở vùng Kinh Bắc
mới tới kia đấy CÓ thể hầu chuyện văn thơ chư tôn được.
CÔ hàng chau mày:
- ông cứ chế riễu làm gì thế? Chúng tôi cữ nhi nan hóa dám
đâu học thói múa dìu qua mắt thợ.
Khách văn nhân đưa mắt nhìn nhau, có ý gờm gờm, thì cô hàng lại
nói tiếp:
- Thưa chư quý vị, ban nãy chư quý vị nói gửi lều chiếu cùng
hành lý Ở đâu để em xin đi lấy về.
- Thôi chả dám phiền cô.
Chủ quán đứng lên đỡ lời:
- Để tôi sai người đi ngay. Xin chư tôn cho vài chữ. Vậy Ở
đâu ạ?
Một thí sinh đáp:
- Ở nhà ông cử Lan, phố... à cửa Ô Ưu Nghĩa.
CÔ hàng thấy ông đồ tránh cái tên phố hàng Mắm thì quay đi mủm
mỉm cười.
Còn chủ quán vô tình nói luôn:
- à, ông cử Lan Ở phố hàng Mắm, tôi biết. Vậy xin tôn ông cho
cánh thiếp, tôi bảo người nhà đi ngay.
Trong khi các thầy khoá ngồi Ở phản hàng nước viết thiếp, thì
chủ quán mang đến một quyển sổ lớn mà rằng:
- Chúng tôi có một điều muốn thưa cùng chư tôn. ít lâu nay vì
có quân gian phi lẩn quất trong thành làm điều phi pháp, nên đối với việc tuần
phòng, quan tổng trấn rất nghiêm nhặt. Ngài có ra lệnh rằng các tửu quán đều phải
có một bạ nhật ký để khách viễn phương đến trọ khai tên, tuổi, quê quán vào đấy...
Chúng tôi cũng biết làm như thế là phạm đến danh dự của chư tôn, nhưng chư tôn
cũng lượng xét cho, nếu chúng tôi không tuân thượng lệnh thì tất phải tội với
triều đình...
Thấy chủ quán nói năng lễ phép, một người vội ngắt lời:
- CÓ gì mà phạm tới danh dự chúng tôi được. Giữ trật từ Ở một
nơi đô hội rộng rãi, đông đúc như Bắc thành thì cố nhiên phải cẩn mật.
Vừa nói vừa đỡ lấy quyển bạ để viết. Tên tuổi năm người là:
Nguyễn Thanh, hai mươi ba tuổi, Nguyễn Ban, hai mươi mốt tuổi,
hai anh em, người làng Hành Thiện, phủ Xuân Trường; ĐỖ Đắc Thắng hai mươi hai
tuổi, ĐỖ đắc Tiến, hai mươi tuổi, cũng hai anh em, người làng La Ngạn, phủ
Nghĩa Hưng.
Còn người thứ năm là Trịnh Nhị, hai mươi mốt tuổi, người xã
Thanh Nê, phủ Kiến Xương.
Xong việc sổ sách, chủ quán xin thiếp đi lấy hành lý, rồi
kính cẩn vái chào, để năm nhà văn ngồi lại mà lả lơi trêu gẹo cô hàng trầu nước.
Trịnh Nhị con nhà giàu sang, vốn đã thạo khoa tán gái, nhập cuộc ngay bằng một
câu khoe khoang với cô hàng:
- Cụ lớn tôi cứ bắt tôi phải đưa vài ba tên tiểu đồng đi cắp
tráp, xách điếu theo hầu, nhưng tôi ưa giản dị, nên chỉ đem có một đưá vác liều
chiếu. Vả đi đến đâu là nhà Ở đấy, phải không cô hàng?
CÔ hàng mỉm cười:
- Vâng tôn ông dạy rất phải.
Trịnh Nhị thích chí cười hé hé, nói tiếp:
- Lúc đã vừa ý thì lọ là phải có kẻ hầu, người hạ, thêm bận
chân?
- Vậy anh người nhà của tôn ông ý chừng Ở đằng cửa Ô Ưu
Nghĩa?
- Phải, nó nhận được thiếp của tôi thế nào cũng theo bác chủ
quán, mang hành lý lại đây Đằng ấy là chỗ bà con. Nhưng tôi đã nói, đối với nam
nhi, đối với thi nhân mặc khách như anh em chúng tôi, thì mình Ở đâu là nhà
mình đó, phải khống quý nương? Như gian hàng nhỏ của cô nương đây tuy hẹp,
nhưng lúc chúng tôi thích thì tức là lâu đài nguy nga của chúng tôi đó. Vì
khách làng văn như chúng tôi, sự nguy nga không Ở cửa cao, nhà rộng, mà chỉ Ở một
chén rượn nồng, một câu thơ hay, một lời nói có duyên, một bông hoa thơm hé nở.
Vừa nói chàng vừa liếc cô hàng một cách rất tình tứ, khiến bốn
người bạn phải lấy làm khó chịu, vì họ chỉ sợ sẽ mắc lỡm với cô hàng có cặp mắt
long lanh, sắc sảo và cái miệng luôn luôn nở một nụ cười bí mật.
Quả họ đoán không sai: cô hàng rót năm chén nước chè mạn sen
thơm ngát đặt trong cái khay khảm, rồi bưng lại sập mà nói rằng:
- Chả mấy khi tệ điếm lại được chu hiền chiếu minh, thực đại
hạnh, đại hạnh.
Nay nhân hàng vừa mở, vậy tiện nữ xinh Trịnh công tử ra ân
ban cho một đôi câu đối treo cửa.
Trịnh Nhị vui sướng:
- Sao quý nương biết tên tôi, mà lại gọi tôi là công tử?
- Dạ, ban nãy tiện nữ có trộm nhìn cánh thiếp của công tử.
Nguyễn Thanh vốn biết sức học kém cỏi của Trịnh Nhị và sợ lỡ
chàng giở hết cái dốt của chàng ra, thì thực cả bọn bị xấy lây với cô hàng, nên
đỡ lời ngay:
- Làm câu đối là một việc rất tầm thường quý nương chẳng cần
phiền đến tài cao của Trịnh đại huynh xin để tôi cáng đáng.
Ở hai cái cột có treo sẳn đôi liễn con phượng chưa viết chữ.
CÔ hàng bắc ghế lấy xuống mà nói rằng:
- Thưa chư tôn, ban nãy Trịnh công tử đã làm xong một vế rồi,
chỉ còn một vế nữa thôi.
Trịnh Nhị hoảng hốt:
- Xong một vế? Tôi làm xong một vế rồi?
- Vâng, vế ấy tiến nữ đã ghi vào mảnh giấy, đây xin trình chư
tôn.
ĐỖ Đắc Thắng đỡ lấy tờ giấy hao tiên của cô hàng trong có
hàng chữ thật tốt:
"Một chén rươu nồng, một câu thơ hay, một lời nói có
duyên, một bông hoa thơm hé nở ".
Nghe bạn đọc, Trịnh Nhị vỗ tay cười, tự phụ:
- Vế câu đối của tôi.
- Vâng, của công tử. Cho hay các văn nhân thi sĩ có đại tài vẫn
thế, làm văn làm thơ mà không biết rằng mình làm văn, làm thơ.
Năm người cùng lo lắng, ngẫm nghĩ CÔ hàng lại nói tiếp:
- Thưa chư tôn, kể về câu đối ấy mà treo Ở trà điếm của tiện
nữ thì cũng xứng đáng Nhưng tiện nữ xin phép Trịnh công tử đổi hai chữ cho được
đúng hơn vì ban nãy, chẳng qua công tử buột miệng mà nói thàng văn, chứ công tử
có kịp suy nghĩ tới tiến nữ đâu.
Nói đến đây, cô hàng đưa một cái liếc mắt rất kín đáo.
- Đổi hai chữ nào, quý nương?
- Thưa công tử, hai chữ "rượn nồng" ra hai chữ
"trà đượm".
Rồi nàng lại đọc:
"Một chén trà đượm, một câu thơ hay, một lời nói có
duyên, một bông hoa thơm hé nở ".
Cả năm ông cống sĩ tương lai cùng tấm tắc khen:
- Hay? Hay lắm? "Một chén trà đượm, một câu thơ hay, một
lời nói có duyên, một bông hoa hé nở ', câu ấy thực đáng treo Ở cửa hàng trầu
nước của một cô nữ văn sĩ CÔ hàng bẽn lẽn cuối đầu. Nhưng cô hiểu rằng không
nên làm cho các thầy khóa thất vọng. CÔ bèn nói té tát để chữa thẹn cho các thầy:
- Thưa chư tôn, trong thơ, đối chọi là một sự tầm thường, những
bậc tài lỗi lạc không thèm để ý tới. Trịnh công tử cho một vế như thế cũng đủ
nghĩa lắm rồi. Đủ nghĩa thì thôi, còn tìm một vế nữa làm gì. Vậy xin Trịnh công
tử hạ cố cho tiện nữ được ngắm tài của Vương hi Chi tiên sinh đời nay.
Nghe cô hàng nói, các thầy mướt mồ hôi, Khóa Nguyễn Thanh lại
phải đảm nhận việc viết liễn, vì chàng biết rằng chữ Trịnh Nhị xấu như gà bới.
Vả bốn ông khóa nghe đâu đều ỷ vào lưng Trịnh Nhị mà chơi bời phung phí, nên phải
luôn chống đỡ, che chở cho chàng.
viết xong vế câu đối với giòng lạc khoản "Trịnh Nhị,
Thanh Nê mặc khác đề, Nguyễn Thanh chừng biết cô hàng là gái chẳng vừa, liền bấm
bạn bè cáo lui vào trong quán nghỉ ngơi.
CÔ hàng khúc khích cười, treo đôi liễn lên cột lẩm bẩm nói:
- Một bên đã có chữ. Còn một bên... hãy để đấy.
Hồi 40
chủ quán
Đêm hôm ấy, khi các khác trọ đều đã yên giấc, khi trống, mõ
và chiêng, kiểng Ở trong thành đã điểm canh ba, chủ quán mới nghĩ đến đi ngủ.
Chàng ôm sổ sách lên gác, một từng thấp đến nỗi một người tầm thước có thể đứng
giơ tay lên với chạm mái được.
Vẫn tưỡng chàng đem sổ sách lên để tính toán các món chi tiêu
trong một ngày. Nhưng không, chàng vứt bề bộn hết cả giấy má trên mặt một cái
rương lớn, bên cạnh cây đèn dầu lạc, ngọn cháy lù mù, rồi cúi xuống một góc
phòng khẽ lật ván lên kéo ra một tờ giấy lớn bồi vải và cuộn tròn. Chẳng biết
nghĩ sao chàng lại đậy ván lại, rồi rón rén bước xuống nhà.
Trong các buồng, khách trọ đông ních, tiếng ngáy đủ giọng cao
thấp.
Chủ quán soát lại một lượt, từ phòng khách đặc biết dành
riêng cho các thí sinh giàu có, sang trọng, trong số đó có bọn Trịnh Nhị, cho
chí những phòng trống trải Ở nhà ngang, nơi trọ của các chú lái gồng gánh thúng
mẹt. Chàng lẩm bẩm:
- Được lắm? Ngủ yên cả rồi.
Chàng liền trở lên gác ngoài, đóng cửa cài then cẩn mật, rồi
lại lật ván lấy tờ giấy lớn bồi vải ban nãy, mở rộng ra: đó là bức bản đồ Bắc
thành, và các phố, các cửa ô, các ao chuôm. Chàng di ngón tay trỏ xuống cửa
tây, rồi đưa đi theo con đường nhỏ qua mấy thửa ruộng tới đền thờ đức Tản Viên
dựng trên gò Nùng Sơn.
Ngẫm nghĩ một lát, chàng lại lắc đầu, đưa ngón tay trỏ đi từ
trại binh thẳng đường qua VÕ miếu xuống cửa Nam Văn miếu. Chàng mỉm cười dừng lại
đó rồi đi ngang sang phía đông tới trường thi. Cặp môi chàng mỉm một nụ cười đắc
thắng:
- Chỉ năm trăm cũng đũ chán?
CÓ tiếng gõ cửa khe khẽ, kín đáo. Chủ quán vội cuộn bản đồ lại
cất vào chỗ cũ, rồi lên giường nằm im thin thít. Lại có tiếng gõ, hai tiếng đi
liền nhau, kế tiếp ba tiếng nữa. Chủ quán mỉm cười sung sướng dậy mở cửa gác hỏi
sẽ:
- Ai?
- Ngu muội.
- Trời ơi? Hiền muội? thế nào, công việc?
Một thiếu nữ bước vội vào phòng. Đóng cửa cài then xong, nàng
đáp:
- Hy vọng.
Thiếu nữa là cô hàng trầu nước buổi sáng, và chính là Nhị
nương. Còn chủ quán tức là trần Quang Ngọc.
Trần Quang Ngọc và mấy người đồng đảng bị vây Ở trong hầm
chùa Tiêu Sơn.
Tuy viên phân phủ chưa tìm ra được cái hầm bí mật ấy, nhưng
cũng đoán chắc rằng bọn nghịch chỉ lẩn quất đâu đây mà thôi. Vì thế, y ra lệnh
cho quân lính ngày đêm phải vây bọc thực cẩn mật lấy các ngách, các lối quanh
chùa.
Nhờ mưu Nhị nương giả làm ma, bọn quân khiếp sợ. Nhưng ngay
đêm hôm nàng đem lương thực vào hầm, nhân quân canh đướng náo động tâm hồn.
Quang Ngọc cùng các bạn đồng chí trốn thoát ra ngoài. Vì chàng cho rằng mưu kia
tuy lừa được bọn lính ngu dốt, mê tín, nhưng trái lại sẽ giúp cho sự dò xét của
viên phân phủ nhiều lắm.
Quả thực, sáng hôm sau phân phủ Nguyễn Túc được tin báo có ma
hiện hồn Ở sân sau chùa Tiêu Sơn, bèn tức tốc cười ngựa đến nơi xem xét. Theo lời
phác tả của tên lính canh, Túc đi quanh hai, ba vòng ngôi mộ, mà tên kia cho rằng
con ma biến vào đó. Bọn nha lại theo phân phủ bàn nên tìm thầy phù thuỷ cao tay
để lên đàn trừ tà Nhưng Túc chỉ mỉm cười đứng ngẫm nghĩ rồi thong thả bảo quân
lính đi lấy cuốc, thuổng đào ngôi mộ...
Vì thế mà sự bí mật bị khám phá vì viên phân phủ đoán chắc rằng
Phổ T nh thiền sư, chủ cái hầm kia tức chỉ là Phạm Thái.
Nửa tháng sau, Quang Ngọc đã trở nên chủ nhân quán Bạch Phượng
rồi chàng đem tiền - vì thế lực kim tiền bao giờ cũng mạnh - chạy cho Lê Báo được
trụ trì chùa Liên Phái. Còn Trịnh Trực thì nhân chưa ai được tung tích, Quang
Ngọc lưu lại Kinh Bắc để tìm kiếm thêm đảng viên trong vùng ấy sau này có dịp tốt,
chàng sẽ quay về hạt Từ Sơn lập lại đảng.
Chính giữa lúc Quang Ngọc đương miên man đến các cách lập lại
đảng, có lẽ to gấp mấy lần trước, thì nghe có tiếng gõ cửa rồi thấy Nhị nương
bước vào phòng báo cho chàng biết rằng việc đảgn rất hy vọng, chàng hỏi lại:
- Hiền muội có hy vọng, là hy vọng về phương diện nào, về
phương diện võ hay văn?
Nhị nương mỉm cười:
- Về cả hai phương diện.
Vẻ mặt Quang Ngọc vẫn thản nhiên:
- Nói qua cho ngu huynh nghe nào.
- Mưu kế rất giản dị. Hôm bắt đầu kỳ để nhất, các thí sinh sẽ
rấy loạn phá trường thi.
- Chắc?
- Chắc. Không kể hơn trăm đảng viên Ở các trấn về dự thí, ngu
muội đã dụ được vài trăm thầy khóa nữa rồi.
- Cả năm chú ban sáng?
- Chính. Hôm ra xem đầu bài chữ nôm, bọn họ sẽ la hét ầm lên
rằng nhất định không làm bài nôm na mách qué... Thế là hàng nghìn người a dua
theo rồi ùa nhau phá trường thi bắt giữ các khảo quan lại. Tất nhiên quan tổng
trấn cho quân lính ra đàn áp Bọn quân lính ấy đã là quân lính ta.
- Của ta?
- Vâng, của ta. Nghĩa là viên quân cơ đã phát thệ theo...
- Theo đảng ta?
- Không... theo ngu muội.
Quang Ngọc trân trân nhìn mm, rồi mỉm một nụ cười kính phục:
- Nhưng phải giữ bí mật lắm đấy? Hiền muội nên nhớ việc phá Từ
Sơn.
- Việc này mà bại lộ thì chỉ một mình ngu muội chịu tội, vì
những người làm việc dưới lệnh ngu muội chỉ biết có ngu muội.
Quang Ngọc ngước mắt ngắm Nhị nương, thấy cặp mắt nàng long
lanh sắc sảo lạ lùng:
- Vẫn biết thế, vẫn biết rằng chúng ta đã đổi hẳn chiến lược,
chia nhau ra ai làm việc nấy, chỉ riêng chịu trách nhiệm đối với đảng. Nhưng mất
một viên thượng tướng như hiền muội, thì thực đảng cũng đến siêu.
- Hiền huynh cứ dạy quá lời làm gì thế.
- Lúc hiền muội vào ngu huynh đương xem lại bản đồ Bắc thành.
- Bản đồ của Vẽ Tăng họa?
- Phải, đây, hiền muội thử xem lại...
Quang Ngọc toan lấy bản đồ thì Nhị nương gạt đi mà rằng:
- Không cần ngu muội nhắm mắt cũng đi được khắp nội thành ngoại
ô.
Dút lời, nàng đứng dậy nói:
- Thôi, mời hiền huynh đi nghỉ, chẳng khuya rồi.
Quang Ngọc giữ lại:
- à, một tin mừng. Quỹ tháng này tăng nhiều lắm. Riêng tửu
quán đã thu được gần nghìn quan.
- Thế à? Một tin mừng nữa.
- Tin gì?
Nhị nương ghé lại gần nói thầm:
- Phạm Thái hiện Ở Bắc thành.
Quang Ngọc vui mừng:
- Ở đâu?
- Ngu muội chưa gặp. Nhưng mai xin đi tìm.
Hồi 40
chủ quán
Đêm hôm ấy, khi các khác trọ đều đã yên giấc, khi trống, mõ
và chiêng, kiểng Ở trong thành đã điểm canh ba, chủ quán mới nghĩ đến đi ngủ.
Chàng ôm sổ sách lên gác, một từng thấp đến nỗi một người tầm thước có thể đứng
giơ tay lên với chạm mái được.
Vẫn tưỡng chàng đem sổ sách lên để tính toán các món chi tiêu
trong một ngày. Nhưng không, chàng vứt bề bộn hết cả giấy má trên mặt một cái
rương lớn, bên cạnh cây đèn dầu lạc, ngọn cháy lù mù, rồi cúi xuống một góc
phòng khẽ lật ván lên kéo ra một tờ giấy lớn bồi vải và cuộn tròn. Chẳng biết
nghĩ sao chàng lại đậy ván lại, rồi rón rén bước xuống nhà.
Trong các buồng, khách trọ đông ních, tiếng ngáy đủ giọng cao
thấp.
Chủ quán soát lại một lượt, từ phòng khách đặc biết dành
riêng cho các thí sinh giàu có, sang trọng, trong số đó có bọn Trịnh Nhị, cho
chí những phòng trống trải Ở nhà ngang, nơi trọ của các chú lái gồng gánh thúng
mẹt. Chàng lẩm bẩm:
- Được lắm? Ngủ yên cả rồi.
Chàng liền trở lên gác ngoài, đóng cửa cài then cẩn mật, rồi
lại lật ván lấy tờ giấy lớn bồi vải ban nãy, mở rộng ra: đó là bức bản đồ Bắc
thành, và các phố, các cửa ô, các ao chuôm. Chàng di ngón tay trỏ xuống cửa
tây, rồi đưa đi theo con đường nhỏ qua mấy thửa ruộng tới đền thờ đức Tản Viên
dựng trên gò Nùng Sơn.
Ngẫm nghĩ một lát, chàng lại lắc đầu, đưa ngón tay trỏ đi từ
trại binh thẳng đường qua VÕ miếu xuống cửa Nam Văn miếu. Chàng mỉm cười dừng lại
đó rồi đi ngang sang phía đông tới trường thi. Cặp môi chàng mỉm một nụ cười đắc
thắng:
- Chỉ năm trăm cũng đũ chán?
CÓ tiếng gõ cửa khe khẽ, kín đáo. Chủ quán vội cuộn bản đồ lại
cất vào chỗ cũ, rồi lên giường nằm im thin thít. Lại có tiếng gõ, hai tiếng đi
liền nhau, kế tiếp ba tiếng nữa. Chủ quán mỉm cười sung sướng dậy mở cửa gác hỏi
sẽ:
- Ai?
- Ngu muội.
- Trời ơi? Hiền muội? thế nào, công việc?
Một thiếu nữ bước vội vào phòng. Đóng cửa cài then xong, nàng
đáp:
- Hy vọng.
Thiếu nữa là cô hàng trầu nước buổi sáng, và chính là Nhị
nương. Còn chủ quán tức là trần Quang Ngọc.
Trần Quang Ngọc và mấy người đồng đảng bị vây Ở trong hầm
chùa Tiêu Sơn.
Tuy viên phân phủ chưa tìm ra được cái hầm bí mật ấy, nhưng
cũng đoán chắc rằng bọn nghịch chỉ lẩn quất đâu đây mà thôi. Vì thế, y ra lệnh
cho quân lính ngày đêm phải vây bọc thực cẩn mật lấy các ngách, các lối quanh
chùa.
Nhờ mưu Nhị nương giả làm ma, bọn quân khiếp sợ. Nhưng ngay
đêm hôm nàng đem lương thực vào hầm, nhân quân canh đướng náo động tâm hồn.
Quang Ngọc cùng các bạn đồng chí trốn thoát ra ngoài. Vì chàng cho rằng mưu kia
tuy lừa được bọn lính ngu dốt, mê tín, nhưng trái lại sẽ giúp cho sự dò xét của
viên phân phủ nhiều lắm.
Quả thực, sáng hôm sau phân phủ Nguyễn Túc được tin báo có ma
hiện hồn Ở sân sau chùa Tiêu Sơn, bèn tức tốc cười ngựa đến nơi xem xét. Theo lời
phác tả của tên lính canh, Túc đi quanh hai, ba vòng ngôi mộ, mà tên kia cho rằng
con ma biến vào đó. Bọn nha lại theo phân phủ bàn nên tìm thầy phù thuỷ cao tay
để lên đàn trừ tà Nhưng Túc chỉ mỉm cười đứng ngẫm nghĩ rồi thong thả bảo quân
lính đi lấy cuốc, thuổng đào ngôi mộ...
Vì thế mà sự bí mật bị khám phá vì viên phân phủ đoán chắc rằng
Phổ T nh thiền sư, chủ cái hầm kia tức chỉ là Phạm Thái.
Nửa tháng sau, Quang Ngọc đã trở nên chủ nhân quán Bạch Phượng
rồi chàng đem tiền - vì thế lực kim tiền bao giờ cũng mạnh - chạy cho Lê Báo được
trụ trì chùa Liên Phái. Còn Trịnh Trực thì nhân chưa ai được tung tích, Quang
Ngọc lưu lại Kinh Bắc để tìm kiếm thêm đảng viên trong vùng ấy sau này có dịp tốt,
chàng sẽ quay về hạt Từ Sơn lập lại đảng.
Chính giữa lúc Quang Ngọc đương miên man đến các cách lập lại
đảng, có lẽ to gấp mấy lần trước, thì nghe có tiếng gõ cửa rồi thấy Nhị nương
bước vào phòng báo cho chàng biết rằng việc đảgn rất hy vọng, chàng hỏi lại:
- Hiền muội có hy vọng, là hy vọng về phương diện nào, về
phương diện võ hay văn?
Nhị nương mỉm cười:
- Về cả hai phương diện.
Vẻ mặt Quang Ngọc vẫn thản nhiên:
- Nói qua cho ngu huynh nghe nào.
- Mưu kế rất giản dị. Hôm bắt đầu kỳ để nhất, các thí sinh sẽ
rấy loạn phá trường thi.
- Chắc?
- Chắc. Không kể hơn trăm đảng viên Ở các trấn về dự thí, ngu
muội đã dụ được vài trăm thầy khóa nữa rồi.
- Cả năm chú ban sáng?
- Chính. Hôm ra xem đầu bài chữ nôm, bọn họ sẽ la hét ầm lên
rằng nhất định không làm bài nôm na mách qué... Thế là hàng nghìn người a dua
theo rồi ùa nhau phá trường thi bắt giữ các khảo quan lại. Tất nhiên quan tổng
trấn cho quân lính ra đàn áp Bọn quân lính ấy đã là quân lính ta.
- Của ta?
- Vâng, của ta. Nghĩa là viên quân cơ đã phát thệ theo...
- Theo đảng ta?
- Không... theo ngu muội.
Quang Ngọc trân trân nhìn mm, rồi mỉm một nụ cười kính phục:
- Nhưng phải giữ bí mật lắm đấy? Hiền muội nên nhớ việc phá Từ
Sơn.
- Việc này mà bại lộ thì chỉ một mình ngu muội chịu tội, vì
những người làm việc dưới lệnh ngu muội chỉ biết có ngu muội.
Quang Ngọc ngước mắt ngắm Nhị nương, thấy cặp mắt nàng long
lanh sắc sảo lạ lùng:
- Vẫn biết thế, vẫn biết rằng chúng ta đã đổi hẳn chiến lược,
chia nhau ra ai làm việc nấy, chỉ riêng chịu trách nhiệm đối với đảng. Nhưng mất
một viên thượng tướng như hiền muội, thì thực đảng cũng đến siêu.
- Hiền huynh cứ dạy quá lời làm gì thế.
- Lúc hiền muội vào ngu huynh đương xem lại bản đồ Bắc thành.
- Bản đồ của Vẽ Tăng họa?
- Phải, đây, hiền muội thử xem lại...
Quang Ngọc toan lấy bản đồ thì Nhị nương gạt đi mà rằng:
- Không cần ngu muội nhắm mắt cũng đi được khắp nội thành ngoại
ô.
Dút lời, nàng đứng dậy nói:
- Thôi, mời hiền huynh đi nghỉ, chẳng khuya rồi.
Quang Ngọc giữ lại:
- à, một tin mừng. Quỹ tháng này tăng nhiều lắm. Riêng tửu
quán đã thu được gần nghìn quan.
- Thế à? Một tin mừng nữa.
- Tin gì?
Nhị nương ghé lại gần nói thầm:
- Phạm Thái hiện Ở Bắc thành.
Quang Ngọc vui mừng:
- Ở đâu?
- Ngu muội chưa gặp. Nhưng mai xin đi tìm.
Hồi 42
thầy tướng số
Trong sân đền Trấn Võ, dưới góc cây muỗm già, một túp lều dựng
sơ sài, bằng bốn cái cọc chống một bức phên nứa có cài lá gồi. ĐÓ là cửa hàng một
thầy tướng số.
Thầy tướng số ấy người còn trẻ măng, dù dôi mục kính gọng đồng
cố làm tôn vẻ đạo mạo của thầy lên. Mà hình như thầy đã được thụ giáo một Cốc tử
tiên sinh người Thiên quốc. Chẳng thế, bức vẽ trên khổ vải lớn treo Ở thân cây
muổm lại là tướng mạo một người Tàu, với cặp mắt xếch ngược và cái bím thực dài
vắt qua vai ra đằng trước ngực. Cho đến cả cái ống bút, cái nghiên mực, cái
tráp đen, cái đ a để gieo âm dương cũng toàn là đồ Tàu. Vì thế, người ta gọi thầy
là ông thầy Tàu, tuy thầy mang y phục đặc An Nam: cái khăn nhiễu Tam giang rộng
bản, cái áo the La cà dài lượt thượt, cái quần lụa Vạn Phúc ngả màu hồng và đôi
giầy Gia Lộc da dê chính hiệu.
Hôm nào, thầy cũng đến đó thực sớm, giở khăn gói lấy vuông vải
có hình treo lên cây, rồi mở tráp lấy ra đủ các thúu, nào thẻ hương, nào đ a,
nào tiền, nào chân gà khô bày la liệt trên chõng. Rồi thầy ngồi bó gối chờ
khách hàng. Buồn thì thầy mở sách tướng số xem lại, hay đem Đường thi ra ngâm
nga.
Ngày rằm, mồng một là những ngày thầy đắt hàng nhất, vì ngoài
khách xem tướng, xem số, còn rất nhiều ngưòi nhờ thầy giảng hộ những lá thẻ xin
được Ở trong đền. Hàng này phần nhiều là đàn bà, con gái, được thầy tướng số đẹ
trai khen và nịnh - vì thầy ta mặt mũi rất khôi ngô, mỹ lệ - thì sướng phồng
mũi lên, không bao giờ tiếc tiền thưởng.
Nhưng đối với bọn đàn ông, đối với các thầy khóa trẻ tuổi,
vãn cảnh đền, mơ màng chờ đợi xem có cô nào ngắt cành mẫu đơn bị trói để cởi áo
ra chuộc, đối với những bậc văn nhân, thi sĩ sẵn sàng bầu rượn, túi thơ, tới đền
để cảm đề ngâm vịnh, dối với những người ấy, thì thầy tướng rất giữ gìn, rất hà
tiện lời khen.
Mà có một điều lạ, là hình như thầy tướng cho rằng người Việt
Nam thời bấy giờ ai ai cũng phải phá ngang mới làm nên được. Thường thường thầy
dạy:
"Tướng ngài rất quý, nhưng không thể làm nên như bọn tầm
thường, nghĩa là không theo đường thi cử tiến thân được". Nếu người xem hỏi
vặn, thì thầy tướng sẽ nói tiếp:
- Tôi nói câu này, ngài đừng giận, chứ ngài thì một là mất đầu,
hai là công danh phú quý.
Một buổi sáng, thầy tướng đương ngồi nhìn theo những người tấp
nập đến lễ đền vì hôm ấy là ngày rằm. bỗng thầy để ý đến một thiền sư đi qua rẽ
xuống nhà tổ Chờ lúc thiền sư trở ra, thầy hắn dặng rồi mỉm cười cất giọng
trong trẻo mời một câu rất có duyên:
- Nam vô a di đà phật? Bạch sư ông...
- Nam vô a di đà phật?...
- Sư ông có xem tướng không?
Nhà sư dừng lại, tò mò nhìn thầy tướng rồi buồn rầu đáp:
- Thầy tính, bần tăng xuất gia tu hành, còn mong ước một điều
gì nữa mà cần biết hậu vận tương lai?
Thầy tướng vẫn mỉm cười:
- Sư ông không cần xem biết sau này có lên tới Nát bàn không
ư?
Nhà sư thản nhiên không đáp, toan đi thẳng.
- Bạch sư ông...
- Thầy bảo gì nữa?
- Tôi coi tướng sư ông như... như thế nào ấy.
Thiền sư quay lại đăm đăm nhìn thầy tướng vẻ mặt hơi cau có
khó chịu:
- Như thế nào?
- Khó nói quá. Như... như tướng một nhà sư... mà lại như tướng
một... một tráng sĩ.
- A di đà phật?
Thầy tướng nói luôn:
- Hai cánh tay cứng cáp kia để mang đại đao Ở nơi chiến trường
đúng hơn là để cầm dùi gõ mõ thỉnh chuông. Còn hai bàn chân kia mà đặt vào
trong bàn đạp thì vững trãi lắm. Nhưng trừ hai mắt sắc, thì vẻ mặt hiền từ ra vẻ
một nhà tu hành... Tướng sư ông lạ lắm, giá sư ông để tôi xem kỹ lưỡng hơn thì
tôi còn tìm ra nhiều điều mới nữa.
- Nhưng bần tăng làm gì có tiền?
- Được, su ông muốn trả bao nhiêu, hay không trả đồng nào
cũng được. Miễn là sau này sư ông tụng niệm kêu cầu Phật tổ phù hộ ban phúc cho
tôi là tôi đa tạ sư ông lắm rồi.
Nhà sư tươi cười lại gần, tuy đã yên trí rằng anh chàng kia
chỉ là một viên thám tử của quan tổng trấn nên mới vờ hỏi tò mò như vậy.
- Nếu thế còn nói gì nữa. Nào thì xem tướng.
Thầy tướng ngắm nghía nhà sư một lát rồi nói:
- Cặp mắt phượng này... đáo để lắm... Lại cái miệng hùm với
cái hàm én... Giá để râu thì chẳng kém gì Trương Phi... Nhưng đẹp trai hơn
Trương Phi nhiều.
Nhà sư rất lưu ý đến diện mạo và giọng nói của thầy tướng số,
bỗng phá lên cươl:
- Chịu thầy. Nhưng hình như tôi đã gặp thầy Ở đâu thì phải.
- Bạch sư ông Ở đâu ạ?
- Ở Ở vùng...
Thầy tướng nói luôn:
- Hay Ở hàng thịt... thịt cầy.
- Nam vô a di đà phật?
Mấy người trong đền đi ra bưng miệng khúc khích cười. Đợi bọn
họ ra khỏi cổng, Phạm Thái - vì nhà sư chính là Phạm Thái - ghé gần vào tận tai
thầy tướng thì thầm:
- Khá lắm?
- Đã gặp Trần huynh chưa?
- Đã - Nói với đại huynh rằng ngu tỷ vẫn còn sống nhé, không
lo gì hết. Công việc vẫn tiến hành như thường. Còn Phạm hiền đệ?
- Ngu đệ vẫn tạm trú tại chùa Trấn quốc. Sư cụ chùa Trấn quốc
thế nào rồi cũng vào đảng ta.
Nhị nương vui mừng:
- Thế thì hay lắm. Chùa ấy địa thế rất có lợi...
Lúc bấy giờ, một bọn đàn bà Ở trên phố đến lễ. Nhị nương
thoáng trông thấy, liền cất tiếng vờ hỏi:
- Bạch sư ông, sư ông làm phúc bạch với sư cụ cho như thế.
- Xin vâng.
Rồi chừng để quảng cáo cho thầy tướng giả trai, Phạm Thái nói
lớn cốt các bà ki a nghe rõ:
- Về tiền vận bần tăng, thầy nói không sai một li một tý. Lắm
việc xảy ra tôi đã gần quên mà bây giờ nghe thầy nhắc đến tôi vụt nhớ lại.
Mấy người đàn bà thì thào nói chuyện với nhau coi bộ phục tài
thầy tướng lắm. Khi họ đã vào đền, Nhị nương bảo Phạm Thái:
- Hành động Ở ngay Bắc thành khó thành công được.
- vâng, ngu đệ cũng nghĩ thế. Người chốn cố đô này họ đã quen
sống gần vua, gần chúa, gần các quan to chức lớn, nên sinh ra kính cẩn lễ phép
quá, cử chỉ thì khúm núm, ngôn ngữ thì giữ gìn, hành vi thì nhút nhát. Nói với
họ một câu hơi táo bạo, họ đã run lên cầm cập, trông trước trông sau, tưởng như
có thám tử đang nấp đâu đó - Phải, họ coi mạng họ quý hơn danh dự họ nhiều lắm,
Đem chí lớn ra bàn với họ làm gì vô ích... HỌ kém xa nhân dân trấn Đông, trấn Bắc.
Phạm Thái vốn người trấn Kinh Bắc, nghe Nhị nương tán dương
người vùng Bắc, thì tự phụ đứng thẳng lên đáp lại rằng:
- Người trấn Kinh Bắc thì còn phải nói?
Nhị nương cười hỏi lại:
- Còn người trấn Sơn Tây?
- Thôi tôi biết người vùng núi Tản sông Đà giỏi lắm rồi. Những
một Nguyễn hiền tỷ cũng làm lệch một bên gánh giang sơn?
- Ta nâng bốc lẫn nhau vô ích nhất là các công việc ta làm cứ
liên tiếp nhau mà thất bại mãi. Bây giờ hiền đệ định liệu ra sao?
Phạm Thái suy nghĩ - Phải, Ở Bắc thành chẳng làm nổi việc gì,
tuy trốn tránh có dễ hơn Ở các nơi.
Bữa qua ngu đệ cũng có bàn với Trần đại huynh, thì đại huynh
định để tình thế êm êm đã, rồi phân phát bọn ta mỗi người đi hành động một nơi.
Trần đại huynh một mình Ở lại Bắc thành, còn Trịnh Trực thì đại huynh cho sang
trấn Đông, ngu đệ về vùng Nam.
- Thế ngu tỷ?
- Hiền tỷ không thấy Trần đại huynh nói đến.
Nhị nương bực tức:
- CÓ lẽ nào thế được...
Nhưng nàng cũng nghĩ đến tấm tình của hai người một ngày thêm
khăng khít, tuy bề mặt thì vẫn là tình huynh đệ.
- Không, ngu muội phải đi Sơn Tây mới được. Ba phương: Bắc,
Đông, Nam, đều có người, sao phương Tây lại không có ai?
Rồi nàng cười hỏi Phạm Thái:
- Nhưng đảng trưởng cắt hiền đệ đi Sơn Nam hạ hay hiền đệ xin
đi?
Phạm Thái lo lắng nhìn Nhị nương:
- Trần đại huynh sai đi đấy chứ... Sao hiền tỷ lại hỏi ngu đệ
câu ấy?
- Chả sao cả. à, gửi hiền đệ thăm cô Quỳnh Như nhé?
Phạm Thái đỏ bừng mặt, toan nói cáu, thì mấy người đàn bà vừa
vào đền đã đi ra. Chàng yên lặng đứng nhìn vơ vẫn: Nhị nương lễ phép hỏi:
- Bạch sư ông, sư ông có chịu không đã?...
- Chịu thầy.
Khi thấy bọn kia đã đi khuất. Nhị nương cười bảo Phạm Thái:
- Hiền đệ chịu rồi đấy nhé?
Phạm Thái cũng cười:
- Biết thế chẳng nói cho hiền tỷ biết nữa xong, tưởng thuật với
hiền tỷ một câu truyện buồn cười, ai ngờ hiền tỷ để bụng.
- Nhưng giá Quỳnh Như vào đảng thì càng hay chứ sao?
- Hay thế này: để ngu đệ đi Sơn Tây, hiền tỷ xin đi Sơn Nam hạ.
Nhị nương vẫn cười:
- Ai lại trái thượng lệnh như thế?
Phạm Thái tức tối cúi chào Nhị nương rồi quay đi.
Hồi 43
tìm bạn đồng chí
Đã ba tháng trời ròng rã, Phạm Thái đi quyên giáo trong hai
trấn Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ. Lúc đi bộ, chàng rong ruổi khắp vùng Chương Đức,
thăm núi Tử Trầm cùng động Long Tiên. Khi đi thuỷ chàng cùng tiểu đồng lênh
đênh con thuyền trên giòng sông Đáy, qua bao nhiêu danh lam thắng cảnh từ Thanh
Oai, Ưng Hoà cho tới Lý Nhân, Ý Yên, Phong Doanh. Không một ngọn núi đá nào Ở
hai bên vệ sông mà chàng không trèo, không một cái động nào mà chàng không vào
xem. Khi hứng trí chàng đề thơ ngâm vịnh, khi gặp tri kỷ chàng lưu Ở lại chơi
dăm ba ngày.
Là vì, ngoài mục đích quyên giáo, chàng còn có mục đích khác:
đi ngoạn cảnh để di dưỡng tính tình, chờ dịp lại tận tụy theo đuổi việc lớn,
nhưng nhất là đi chu du thiên hạ để tìm nhân tài, tìm bạn đồng chí mà gây dựng
chi đảng Tiêu Sơn Ở hai trấn Sơn Nam.
Nghe nói Ở chùa Thiên Trù, gần động Hương Tích có Bảo Giám
thiền sư là một nhà đại văn hào về thời Lê, Mạt, chàng liền đến thăm. Hai người
bàn đạo lý, văn chương lấy làm hơp ý nhau lắm. Nhân Phạm Thái thuật chuyện biến
loạn suýt xảy ra Ở Bắc thành vào dịp kỳ thi cống sĩ, Bảo Giám thở dài nói:
- Tôi xem thiên văn biết vận nhà Lê đã hết. Mệnh trời đã định
như thế, kéo sao lại được nữa mà toan việc nọ kia? Cứ ngắm chòm sao Bắc đẩu mấy
năm nay ánh sáng lờ mờ, thì đủ biết nhân tài không Ở miền Bắc. Còn sao Nam cực
thì sáng rực lên, có lẽ Ở trong Nam sắp có sự lạ.
Phạm Thái nghe Bảo Giám khinh miệt người miền Bắc, thì không
bằng lòng.
Nhưng chàng rất mừng thầm rằng thiền sư tỏ ý còn thương tiếc
nhà Lê. Muốn biết rõ tâm tính thiền sư đối với thời cục, Phạm Thái nói khích một
câu:
- Cao tăng nghĩ cũng phải. Nhà Lê ngày nay đã như cái nhà đỗ
nát, ai còn dại gì mà chui đầu vào để mái nhà sụp cho chết uổng mạng. Còn nhà
Nguyễn thì như toà lâu đài nguy nga, đồ sộ, ai lại không muốn ở. Vả ngưòi xuẩn
ngốc đứng đầu việc toan khởi loạn Ở Bắc thành chỉ là một người đàn bà, một cô
hàng trầu nước tầm thường chứ bậc chí sĩ trong nước phải lấy nhàn làm quý, bạo
động có ích gì?
Bảo Giám kinh ngạc hỏi:
- Một cô hàng trầu nước?
- Vâng, một cô hàng nước Ở phố Cầu gỗ.
- Thế bây giờ cô ta đâu?
- Bần tăng cũng không rõ cô ta trốn đi đâu, nhưng nghe đồn cô
ta rất đẹp và rất thông minh.
Bảo Giám lẩm bẩm:
- Thảo nào sao Chức nữ sáng trội lện, lại muốn thiên gần bộ
phận Ngân hà.
Một kỳ nữ thực?
Phạm Thái biết rằng Bảo Giám tuy có tiếng làm một nhà chí sĩ ẩn
dật nhưng kỳ thực chỉ là một lão hủ nho, mê tín các khoa thiên văn địa lý không
đâu. Chàng liền từ biệt ra đi.
Qua miền Kim Bảng, thấy nước non hùng vỹ, chàng lên bộ dạo
chơi ngắm cảnh Đến rẫy núi tục truyền là núi Con Voi, chàng cảm hứng đề một bài
thơ lên vách đá:
Núi Con Voi Tạo hóa khen thay khéo vẽ vời, Dạm nên một rặng
núi Con Voi.
Tới chầu diện thẳm quỳ khom gối, Nằm ngắm doành thanh vắt vẻo
vòi.
Cây biế mc dưới trên che tán rơp, Mây vàng cao thấp thẳng
bành ngồi.
Cưa mây búa tuyết đầu dầu vậy, Xương đá lòng rêu vẫn hẳn hoi.
Vừa đề dứt bài, chàng nghe có tiếng cười khúc khích sau lưng.
Chàng quay lại: Một văn nhân mặt đỏ gay, đầu đội nón sơn, chân vận giầy vải chẽn,
đứng sững, trân trân nhìn chàng:
- Sư mô quỷ gì mà văn thơ tục tỉu?
Phạm Thái mặt tái đi, toan cho chàng kia một bài học võ,
nhưng chợt nhận thấy hắn say rượn bí tỉ, nên lại thôi. Chàng mỉm cười hỏi lại:
- Ý chừng tôn ông là văn sĩ?
Văn nhân vẫn cười:
- Sao thiền sư biết?
- Chả là văn sĩ mà ngôn ngữ cử chỉ lại quá nhã nhặn đến thế?
Người kia càng cười to, rồi ứng khẩu đọc:
Nhà văn này với sư ông, LỖ mãng nghe đâu cũng một tuồng, Bá
ngọ thằng nào mà nói dối:
Mồm ha hẳn chẳng nốc cà, tương.
Phạm Thái nghiêm nét mặt lại:
- Nam vô a di đà phật? ông này say rượn lắm rồi.
- Say gì mà say. Mới uống hết non nửa bình. Hay thế này: mời
sư ông lại xơi rượn với bỉ nho cho vui. Bỉ nho đương chén bỗng thoáng thấy bóng
cái nón sư, nên vội vàng leo xuống, ngờ đâu gặp ngay một văn sĩ thiền sư... Bạch
thiền sư, đạo hiệu thiền sư là gì xin cho biết, để bỉ nho được xưng hô.
- Thưa tôn ông bần tăng đạo hiệu Mộng Vân.
- Cao tăng trụ trì chùa nào?
- Thưa tôn ông, tại chùa Trấn Quốc.
- Ở Tây hồ?
Chàng đọc luôn:
"Em Ở Tây HỒ bán chiếu son.
"Chồng còn chưa có, hỏi chi con? " Rồi nói tiếp:
- Ở miền ấy chừng nhiều gái đẹp?
- A di đà phật? Sao tôn ông biết?
- Vì cái tên Tây hồ đẹp lắm. Vả cứ một điều cao tăng tu Ở đấy,
đủ tỏ rằng lời phỏng đoán của bỉ nho không sai.
- A di đà phật? Tôn ông nên giữ gìn lời nói hơn một chút.
Văn nhân cười phá lên:
- Xin lỗi cao tăng. Nhưng cao tăng có giữ gìn lời thơ đâu?
Cao tăng thử đọc lại bài thơ đề trên vách đá mà xem.
Thấy nhà su bẽ lẽn ngượng nghịu, chàng nói tiếp, chữa thẹn hộ:
- Thôi, bỉ nho cũng biết thiền sư chỉ là một nhà văn hào thời
nay, vì chẳng ưng nhà Tây Sơn, nên tạm mặc áo cà sa lánh cuộc đời phiền toái. Vậy
thì thiền sư còn ngần ngại gì mà chẳng nhận lời bỉ nho lên kia, đôi ta cùng
nhau uống rượn, ngâm thơ Dút lời, chàng cầm tay Phạm Thái dắt lên sườn non, và
ngâm vang núi:
Đánh ba chén rươu, khoanh tay giấc, Ngâm một câu thơ, vỡ bụng
cười.
Cho quách người đời danh với lơi.
Núi sông ta giữ để ta chơi.
Phạm Thái không giữ nổi vẻ trang nghiêm nữa, cũng phá lên cười:
- Tôn ông văn chương mẫn tiệp lắm. Xuất khẩu là thành thi.
- ấy cũng đọc lếu đọc láo cho có thơ. Chẳng lẽ có tửu lại
không có thơ.
Hai người vừa leo giốc vừa nói chuyện. Một lát tới một nơi bằng
phẳng rộng hơn một gian nhà dựa vào bên sườn núi dưới bóng mát một cây tùng già
cỗi.
Phạm Thái hỏi:
- Tôn ông có một mình?
- Với cao tăng nữa là hai. Vậy xin mời cao tăng chiếu cố.
Trên tảng đá, một bình rượn lớn và một cái chén vại đặt bên cạnh
một tàu lá chuối đầy thịt nướng. Thấy Phạm Thái trù trừ nhìn tiệc rượn, văn
nhân cười nói tiếp:
- Xin mời thiền sư cứ chiếu cố cho. ĐÓ là thịt lợn, chứ không
phải thịt cầy đâu mà thiền sư e sợ.
Phạm Thái cũng cười đáp:
- Thịt gì chả là thịt. Nhưng trước khi nhận lời tôn ông, xin
tôn ông cho biết quý tính cao danh.
- Thưa cao tăng, tên bỉ nho thì hà tất thiền sư phải biết. Gặp
nhau, chén một bữa rượn, rồi kẻ Ở người đi nhớ nhau làm gì thêm bận lòng. Nhưng
thiền sư đã yêu mà hỏi, thì bỉ nho cũng xin thưa: bỉ nho họ Phạm tên Lư - Lư là
cửa chứ không phải Lư là lừa, xin thiền sư chớ lẩn biểu hiệu Thanh Sơn.
- Tôn ông họ Phạm thì ra cũng...
Phạm Thái bỗng ngừng bặt nói lảng:
- Vậy xin cất chén rượn chúc Phạm Thanh Sơn tiên sinh vạn
phúc.
- CÓ mỗi một chiếc chén? Thôi ta uống chung.
Một lát sau Phạm Thái chán nản ra đi bỏ Phạm Lư say bứ nằm ngủ
trên tảng đá Chàng cau có lẩm bẩm nói một mình:
- Hay vận nhà Lê đến lúc cùng rồi, nên ta chỉ gặp toàn hạng
mê tín với hạng điên cuồng. Hay trấn Sơn Nam không có nhân tài?
Nửa tháng sau chàng lại chán nản hơn, khi chàng đã dựa tiếng
quyên giáo đến thăm các làng nổi tiếng văn vật nhất vùng. Ở đó cũng toàn một loại
hủ nho, toàn một phường ham phú quý. Đem nhà Lê ra nói với họ, họ chẳng hề cảm
động. Khi xưa ông cha họ có ăn lộc nhà Lê bao giờ? HỌ chỉ biết có chúa Trịnh.
Khi chúa Trịnh mất ngôi báu thì họ cũng có thương tiếc. Nhưng ngày nay vắng nhà
Trịnh đã có nhà Nguyễn. Còn vua Lê, cái ông bụt mục, cái ông tượng nát ấy, họ
có kể chi?
Buồn rầu, chàng quay về Thanh Nê, chàng chợt nghĩ ròng rã hơn
ba tháng trời, đi gần khắp hạt Sơn Nam, chàng chưa tìm được một bậc chí sĩ nào
có thể khiến chàng kính phục bằng Kiến Xuyên hầu và Trương Quỳnh Như.
Hồi 44
sơ kính tân trang
Thấy Phạm Thái lại trở về làng, Kiến Xuyên hầu rất vui mừng
và đặt tiệc khoản đãi Phạm Thái khẩn thiết tạ tội vì hôm rời Thanh Nê ra đi,
chàng vội vàng quá không kịp cáo biệt hầu, để xin phép về thăm quê.
Biết Phạm Thái là một nhà văn lỗi lạc, học thức uyên thâm, Kiến
Xuyên hầu ngõ lời lưu chàng Ở lại dạy mấy đứa cháu, con trai và con gái Thanh
Xuyên, Phạm Thái nhận lời ngay. Chàng cũng muốn nghỉ cái đời hoạt động ít lâu để
nghe ngóng thời cuộc Chàng nghĩ thầm: "bây giờ Tây Sơn đưong lúc vận hồng,
thế mạnh, khó lòng làm gì nổi. Ta đợi biết tin tức chúa Nguyễn ánh trong Nam
đã. Trong ấy mà thắng, ngoài này ta mới bắt đầu hoạt động, cũng chẳng muộn."
Thực ra đó chỉ là một câu nói, một ý nghĩ của kẻ anh hùng đã bắt đầu thoái chí,
đã bắt đầu hơi chán nản thời thế. Thường họ tự an ủi như thế. Rồi dần dần họ
quên việc lớn, trong chén rượn nồng hay trong lòng một người thiếu nữ. Trời ơi?
Cái tuổi ngoài hai mươi, hăng hái thì hăng hái thực. Nhưng đến
lúc đã nguội lạnh thì ngội lạnh hơn tro tàn. Lúc Bấy giờ họ sẽ đem chử nghĩa yếm
thế vẩn vơ ra mà che đậy một tâm hồn hèn yếu.
Hiện bây giờ Phạm Thái cũng chỉ là một ông thầy đồ còn sôi nổi
những ý tưởng cao xa.
Một hôm Kiến Xuyên hầu xuống nhà họ củ Phạm Thái ra vườn xem
hoa, rồi khẽ bảo chàng:
- Lão gia nghe nói triều đình đã một dạo lùng bắt các thiền
tăng. SỢ có kẻ lưu ý tới công tử chăng? Chi bằng phá giớ quách.
Kiến Xuyên hầu cả cười. Phạm Thái lễ phép trả lời:
- Bẩm tướng công, văn sinh lại nhập thế cũng không khó khăn
gì, chỉ việc bỏ bộ thiền phục ra là xong. Vả văn sinh chưa bao giờ đã chính thức
xuất thế, chẳng qua chỉ mượn bộ áo cà sa để ẩn núp trốn tránh, điều ấy văn sinh
đã nhiều lần thưa cùng tướng công.
Trương công reo lên:
- Công tử nói rất hợp ý lão gia.
Mấy hôm sau, Phạm Thái đã trở nên một ông đồ nho thực hiệu, với
tấm áo lương dài, với chiếc khăn nhiễu tam giang chít rất khéo để che cái đầu
trọc. Nhân anh em thường đùa bỡn gọi chàng là chiêu lý, chàng liền lấy tên là
Phạm Văn Lý.
Chàng nghĩ thầm: "Thôi thế này thì không còn ai có thể
nhận ra được Phổ Chiêu thiền sư chùa Nghiêm Xá mà cũng chẳng còn ai biết mình
là Phạm Thái, một thời để tìm cái chết với thanh kiếm, cây cung Ở bãi sa trường.
Chàng lấy làm tự thẹn, nhưng còn tự an ủi gượng: "Nhưng
nào ta đã thoái chí?
Chẳng qua chỉ nương náu đợi thời. Đợi thời như Trần đại
huynh, Nguyễn đại tỷ." CÓ một cớ khiến lòng chàng trở nên uỷ mị mà chàng
không dám tự thú nhận.
CỚ ấy là nàng Quỳnh Như.
Thực vậy, ngay hôm chàng vừa về tới Thanh Nê, Quỳnh Như đã mật
viết cho chàng một bức thư hỏi thăm về công việc chàng đương theo đuổi. Trong
phúc thư chàng thuật qua tình thế của đảng và tỏ ý chán nản về việc lập chi đảng
Ở trấn Sơn Nam mà Quang Ngọc đã phó thác cho chàng. Chàng như trông thấy rõ
ràng sự thất bại chắc chắn, vì tiền thì không sẵn, quỷ của đảng lại một ngày một
cạn. Vả chàng khó lòng mà tìm nổi một bọn đồng chí, như bọn đồng chí của Quang
Ngọc khi đảng Tiêu Sơn còn hoành hàh trong trấn Kinh Bắc. Vậy chàng đành lòng
chờ đợi ít lâu Quỳnh Như tin ngay lời chàng. Mà chàng cũng tự tin lắm. Nhưng khốn
thay cái dáng điệu mị kiều thấp thoáng trong hoa và giọng nói du dương văng vẳng
chốn phòng khuê nhiều khi làm cho tráng sĩ hoá ra mơ mộng.
MƠ mộng đến nỗi viết nên những bài thơ đầy tình uỷ mị như bài
thơ độc vận sau này:
Và đoạn dưới đây chẳng là hình ảnh người yêu còn là hình ảnh
ai nữa?
Căn gan tóc dựng đứng lên, Tuốt gươm chém án ngâm thiên ca rằng:
Làm trai cho thoả chí trai, Trong trần ai chớ lụy ai tầm thường,
bốn phương hồ chỉ dây vàng, Nhảy từng đảo lãng, bắc thang vân cà, Tu mi tỏ mặt
trượngphu, Đơn trung hiế ưu để trả thù non sông, Anh hùng ấy mới anh hùng, Thân
nhàn há sá học đồng thiến u niên..
Còn nàng, tác giả quên sao được nàng. Quỳnh Như mỉm cười đọc
đọan văn tả nhan sắc mình, mà tác giả đặt vào miệng tiểu đồng:
Trương công là đấng nghiên đường, Vốn giòng ngọc điệp, tên
nàng Quỳnh Thư, Xuân hoa bực ấy đương vừa, Tuổi vừa đôi tám, phong thư lạ lùng.
Thước tầm phong dạn bằng ông, Lam pha mày liễu, mỗ đông da
ngà, chiều cá nhảy, vẽ nhạn sa, Mắt long lanh nguyệ, tóc rà rà mây, Má hồng môi
thắm hây hây, Khổ mê thươc dươc, thức say hái đường, chiều xanh ngọc, vẻ so
vàng, ôi hoa vì sắc, ủ hương vì màu.
Hồi 45
quyển phóng
Hai bên tìm đủ cách để trao đổi thư từ văn thơ với nhau mà
Trương công và Trương phu nhân vẫn chưa ngờ vực một tí gì.
Một đôi khi, nhưng hôm mưa gió lớn, sấm chớp đầy trời. Phạm
Thái cũng mơ màng tới sự nguy hiểm gian nan của thời oanh liệt, và nhớ tới bọn
anh em đồng chí đương mạnh bạo quả quyết theo đuổi việc lớn. Những khi ấy, cái
thú ủy mị của tình yêu vị tất đã thắng nổi cái thú xông xáo theo tìm cái chết.
Nhưng than ôi, cái chế thì xa mà tình yêu thì Ở ngay bên cạnh, nó dỗ dành, nó
an ủi, nó dẫn dụ mình vào cõi mộng.
Phạm Thái sợ nhất những lúc nhớ đến Nhị nương vì tình yêu của
nàng đối với trần Quang Ngọc. Chàng mỉm cười, nghĩ thầm để chữa thẹn, tự tha thứ:
"Người ta làm đảng trưởng có khác? Ta ví sao được?" Rồi chàng giật
mình kinh hãi, nhầm ôn lại những điều lệ nghiêm khắc của đảng Tiêu Sơn đối với
các đảng viên, Phải, bị triều đình Tây Sơn truy nã thì còn có thể trốn tránh được,
chứ bị đảng Tiêu Sơn kết án thì chỉ có một việc chờ chết.
Hôm nay Phạm Thái càng lo sợ và toan bỏ đi ngay. Chết, chàng
không quản.
Nhưng vì một người con gái, mà sao nhãng chí lớn, dù sao
nhãng trong một thời kỳ ngắn ngủi, chàng lấy thế làm xấu hổ với lương tâm. Song
một ý nghĩ còn giữ chàng lại, khác nào mảnh ván trôi sông giữ người đám thuyền
lênh đênh trên mặt nước. Chàng tự nhủ thầm: "Ư, sao ta không dụ Quỳnh Như
vào đảng Tiêu Sơn, như ta vẫn định từ trước?" Những hành vi, cử chỉ, ngôn
ngữ của Quỳnh Như tỏ ra rằng nàng là một thiếu nữ tài năng phi thường, chẳng
kém gì Nhị nương. Chàng còn nhớ tới lời bình phẩm của Nhị nương khi chàng thuật
truyện Quỳnh Như cho nghe. Nàng nói: "Đảng ta mà được người ấy thì hay biết
bao?" Rồi Nhị nương khuyên chàng nên cám dỗ Quỳnh Như, đưa nàng vào đảng.
Phạm Thái mỉm cười: "Cám dỗ thì ta đã cám dỗ xong rồi.
Chỉ còn việc đưa nàng vào đảng. Việc ấy có lẽ khó hơn nhiều. Vì chính ta còn
đương mê muội trong vòng tình ái, ta phải làm một bài thơ trường thiên để gửi
cho Quỳnh Như mà dụ nàng." Phạm Thái vui mừng, hăng hái, lấy giấy bút ra
viết.
Bọn trò nhỏ kể nghĩa xong đã xuống cả dưới nhà ngang. Chàng rất
được bình tĩnh mà nghỉ thơ.
Nhưng chàng vừa mài xong mực, thì đứa thị tỳ lên nhà họ nói
mượn cho Quỳnh Như bộ Đường thi. Kỳ thực nó chỉ cốt lên để trao cho Phạm Thái một
bức hoa tiên.
Phạm Thái vội vút cả nghiên, cả bút, vội quên cả lời khuyên
răn, dỗ dành:
chàng chỉ còn trông thấy bức thư và nét bút của Quỳnh Như mà
thôi. Chàng đọc đi đọc lại bài thơ viết theo điệu Tây Giang nguyệt rồi tiện bút
tiện mực, chàng phúc đáp như sau này:
~41 lên tử các thanh vân, Hỏi thăm ả Tố, chiều xuân thế nào?
Cầm âm một khúc gởi trao.
Cậy lòng vì gió đưa vào xuân cung, Oanh yến véo von gọi
khách, CỎ hoa hớn hở gọi ai, Gió xuân hay hẩy giục đưa người, Đẽ khiến lòng thơ
bối rối.
Thấp thoáng thoi oanh dệt liễu, Thung thăngphấn bướm dồi mài,
Vũ lăng xa diễn biết bao vời!
Khôn hỏi Đào Nguyên đâu cả?
Không hỏi Đào Nguyên đâu cả?
Giòng ngư câu đeo lá tình chi, May thay một hội tương kỳ, Đễ
bên tình phận lại bề phong lưu, Câu hảo cầu đợi người thục nữ, Năm mây phong
đôi chữ đồng tâm.
Đón xuân nhắn với tri âm, Tính tình xin tỏ tiế ing cầ này
cho, Rắp hẹn hò, ngồi hoa đứng tuyết, Lòng còn e khôn biết nói năng.
Bây giờ mượn gió cung Đằng, duyên đua mối xích thằng lại đây.
Thơ rằng:
Từ chốn thềm cung trộm dấu hương, Dễxui tao khách mối sầu
vương.
Gió thông réo rắt trong đàn oán, Trăng lạnh chênh vênh rạng
bóng dương.
Nếu đã tình duyên vênh rạng bóng dương.
Nếu đã tình duyên dun dủi phận, Thì xin ân ái vẹn nên đường,
Phong lưu đội lứa đà ai dễ, Bụi tục chi cho bợn lóa gương?
Tục trần chi để lóa gương?
Tuyết, mai là tiết, liễu, dương, ấy tình, Khôn hoa vừa mảnh
phong thanh, Nức gương hnh các, nổi danh tao đàn, Trong tình thú hồng nhan dễ mấy!
Chốn phòng trang trộm thấy phong quang.
Xui lòng du tử thêm càng, Biết bao giờ vẹn lửa hương ước nguyền?
Tâm sự gửi hoa tiên một bức, Từ chương khôn sánh bực hào hoa,
Những thi ân ái thế, Tài nương xin hãy xét ta chữ tình, Bóng quế mờ mờ trước
nóc, Hơi hương hây hẩy bên thềm.
Ngón cầm dìu dặt nhắn thâu đêm, Văng vẳng khêu sầu dường điểm!
Cành tuyết ngoài rèm mới rớm, Chồi mai bên cửa vừa cầm, Vườn
đào quạnh quễ mượn ai tầm, Mấy bức gấm phong im ỉm!
Im ỉm gấm phong mấy bức, Điểm một ngày dằng dặc dường niên, Đẽ
ai đưa đón cung tiên, Xếp nghề vũ lại, để bên trường tình, Mâyphủ vóc hình
thương cẩu.
Nguyệt mờ ám vẻ ngọc thiềm.
Bóng đèn xanh thắm lọt năm đêm, Dì dõi khắp sầu khôn điểm.
Mấy tiếng khẽ thêm luống gẩy, Vài phen ngấm mực còn cầm.
Tuyết lồng thôn hạnh biết đâu tầm?
Chín khúc sầu trường im ỉm.
Im ỉm sầu trường chín khúc, Mượn tiêu cầm đỡ lúc tương tư, Cầm
sao thấy điệu ngẩn ngơ, Sầu ai luống để khách thơ thêm càng!
Viết xong, Phạm Thái đọc lại một lượt lấy làm vừa ý lắm. Lúc ấy
có lẽ chí lớn đã hoàn toàn biến thành tình yêu.
Rồi chàng ngồi chờ thị tỳ lên để trao thư cho nó đưa xuống
phòng thêu.
Nhưng chờ mãi đến trưa vẫn không thấy nó lên.
Chàng sốt ruột liền nghĩ ra một cách, tuy hơi nguy hiểm nhưng
rất igản dị: là viết phóng son cho hai đứa cháu Quỳnh Như tô. Chàng tự nhủ thầm:
"Viết ra hai đoạn như thế, dẫu Trương công có đọc qua cũng chẳng hiểu được."
Chàng sung sướng làm theo ý nghĩ rồi chiều hôm ấy, chàng bảo học trò đem phóng
xuống cho Quỳnh Như xem.
Quỳnh Như gnồi bên cửa sổ, thêu chiếc riềm màn với chỉ kim
tuyến. Đã mấy hôm nay, việc nữ công nàng biếng nhác. Sáng ngày, khung cửi im tiếng,
xa không quay, quặng để nhện trăng. Nàng lấy nê mải thêu bức riềm màn tặng cha,
nhưng bức riềm màn ấy mới xong được mươi mũi chỉ. Nàng những mải ngắm trời ngắm
mây, ngắm hoa, ngắm bướm mà hết thì giờ.
CÓ khi đương giở mủi kim, nàng ngừng lại, đứng dậy tìm bút mực
và giấy hoa tiên, đề một bài thơ. Vì một con chim khuyên Ở đầu cành liểu thướt
tha trước gió, hay đôi bướm trắng đuổi nhau lượn vòng quanh bộ núi giả vừa gợi
ra trong trí nàng một bài thơ tứ tuyệt, nên nàng vội ghi lên giấy những cảm tưởng
dịu dàng với những vần êm ái, những điệu du dương.
Quỳnh Như đề xong thơ, mỉm cười lẩm bẩm: "Cũng khá đấy?
Rồi ta nhờ Phạm quân nhuận sắc cho".
Tưởng tới Phạm Thái, nàng không khỏi bối rối. Nàng vẫn tự phụ
rằng nàng có con mắt tinh đời, đã đoán biết Phạm Thái không phải là một thiền
sư ngay từ khi chàng còn mặc áo cà sa và đeo tràng hạt. Nàng sung sướng tự nhủ
thầm: "Tài ấy mà gặp buổi thái bình thì chẳng trạng nguyên cũng thám hoa,
bảng nhỡn".
Một cảnh rực rỡ tưng bừng hiện ngay trước mắt tưởng tượng của
nàng. Một trang phong lưu công tử vừa l~nh mũ áo trạng nguyên, cưởi ngựa vào
cung dự yến.
áo màu lam, ngựa sắc trắng, thấp thoáng dưới lầu hồng, trong
đám người xung quanh để xem mặt ông tân khoa. Ngồi trên lầu, nàng gieo xuống một
quả cầu thêu chỉ ngũ s ắc...
Quỳnh Như giật mình tỉnh mộng, vì nàng vừa ném ra vườn cuộn
chỉ thêu đương cầm trong tay. Và nàng buông tiếng thở dài chán ngán, nhớ đến
cái thân thế kỳ dị bí mật của người nàng yêu: "Ư, lạ lùng thật? làm quân
sư cho một tướng giặc, rồi đi tu, rồi lập đảng. Đời chàng sao mà nhiều gian
nguy đến thế?" Cái bóng ông trạng nguyên cưỡi ngựa bạch đã biến thành hình
ảnh một tráng sĩ múa gươm trên lưng con ngựa nhuốm máu hồng phi nước đại Ở giữa
dắm can qua, Ở giữa tiếng chiêng, tiếng trống rầm trời, bụi bay mù mịt.
Quỳnh Như lo lắng, sợ hãi, tưởng tượng mình đương cùng người
yêu đứng trong vòng tên đạn.
Nàng tự thẹn và nhớ lại hôm mới biết Phạm Thái, nàng chỉ mong
ước chàng theo đuổi chí lớn, giúp nhà Lê lấy lại giang sơn. Nhưng mấy tháng xa
cách Phạm Thái đã làm cho nguội lạnh chí cao xa mà làm bồng bột tình thương nhớ.
Bây giờ, nàng chỉ lo có một điều: là phải cùng Phạm Thái biệt ly.
Nàng đương ngồi buồn rầu suy nghĩ thì Trương Đăng Quế, cháu
nàng, mang quyển phóng vào khoe:
- CÔ ơi? CÔ coi chữ cháu tô có tốt không?
Quỳnh Như sung sướng cầm xem, vì nàng vẫn khao khát được ngắm
nét bút tươi tắn, mềm mại của Phạm Thái. Nhưng vừa đọc được mấy câu đầu, nàng
đã phải mỉm cười:
- Cái anh chàng này mới ngỗ nghĩnh chứ? Dạy trẻ viết chữ nôm,
mà còn làm thơ nữa.
Má nàng dần dần nóng bừng. Nàng cất tiếng ngâm nga. Giữa lúc ấy,
Trương công Ở ngoài vường cảnh đi tới, đưa cho nàng quyển phóng của Ngọc Dung,
cháu gái nàng:
- Con tính ông đồ Phạm Lý thế này có dở hơi không? Dễ ông đồ
dạy chúng nó làm thơ nôm?
Quỳnh Như mặt tái đi, nhưng ngàng trấn tĩnh ngay được và ôn tồn
đáp lại cha:
- Dám bẩm phụ thân, có lẽ chữ nôm cũng cần lắm, Thân phụ
không coi mấy khoá trước, triều đình đều dùng chữ nôm để ra thi cống sĩ, bác
sĩ. Muống cháu Quế mai sau trở nên ông Nghè thì phải dạy nó học chữ nôm ngay từ
bây giờ.
Kiến Xuyên hầu cười:
- Đành rằng thế, nhưng dạy một thằng bé bảy tuổi tô những câu
thơ nôm mà nó không đọc được, thì cũng hơi quá.
Hầu vừa nói, vừa dương mục kính, rồi cầm quyển phóng đọc:
Trong tình thú hồng nhan dễ mấy!
Chốn phòng trong trộm thấy phong quan.
Xui lòng du tử thêm càng, Biết bao giờ vẹn lửa hương ước nguyền?
Hầu nói tiếp:
- Đấy, con coi, ông đồ họ Phạm, nguyên thiền sư, một là cuồng
chữ, hai là...
Quỳnh Như lo lắng đứng đợi thân phụ nói dút câu, nhưng Trương
công lảng ngay ra truyện khác và hỏi:
- Con thêu xong cho cha bức riềm màn chưa?
- Bẩm gần xong rồi ạ.
- Con thêu mau cho chóng xong đi, nhé?
Dút lời, Trương công thong thả lên nhà trên, vờ để quên quyển
vở của Ngọc Dung lại bên con gái yêu. Quỳnh Như mở vội ra xem thì ra hai đoạn,
hai bài viết tập, ăn khớp nhau mà chắp thành một bài thơ, một bức thơ tình.
Hồi 46
kén rễ
Trương công vừa khoan thai bước vừa ngẩm nghĩ đến việc biến sắp
xảy ra trong nhà mình.
ông buồn rầu tự nhủ: "nhà ta là một nhà thế phiệt đời đời
khoa giáp xuất thân, không thể nào lại chịu để cho kẻ kia làm nhơ nhuốc được?...
Thà giết chết con gái đi còn hơn?" Dần dần ông cũng nguôi cơn giận:
"Ư, chẳng lẽ nó theo học đạo thánh hiền, mà lại bậy bạ được?... Ư, cho dẫu
thằng kia có định tâm gởi thư trêu ghẹo con ta nữa, những con ta đã thuận
đâu?... Phải để ta tra xét đã... Những hạng công tử sính thơ, gặp nguồn cảm hứng
thì họ viết ra những câu tình tứ đó thôi, vị tất đã để tặng ai... Ta chẳng thấy
có thầy khóa viết thơ gởi lên trời ve vãn con Ngọc hoàng đấy Kiến Xuyên hầu bật
cười lên tiếng?
- "ồ? Tuổi trẻ?... Ngày xưa, chính ta đây thấy gái đẹp,
ta chẳng ngâm vịnh là gì? Chẳng những ngâm vịnh, ta lại còn trêu ghẹo nữa
kìa..." Hầu vui vẻ nghĩ tiếp:
- "Vả lại Phạm Thái cũng là một danh sĩ đời nay. Trí thức
ấy, học vấn ấy, thực xứng đáng với tài mạo con ta... Được, để ta xem... "
Hầu bước vào trong nhà thì vừa gặp Trương phu nhân tiễn chân một bà khách ra
công.
Một lát sau, chờ phu nhân trở lại. Trương công cười hỏi:
- CÓ điều gì vui mừng mà bà hí hửng thế?
Phu nhân cười hỏi lại:
- ĐỐ ông biết việc gì?
- Việc của bà thì tôi còn biết sao được?
Trương phu nhân ghé vào tai chồng thì thầm:
- ông Phủ Trịnh nhờ mối đến hỏi con Quỳnh Như ChO CậU Trinh
Nhị.
Trương Công thở dài không nói gì.
- Sao? ông không ưng chăng? ông phải biết ông phủ Trịnh giàu
nhất phủ Kiến Xương...
Trương công cười gằn, ngắt lời:
- Thì nhà ta đã nghèo đói đâu mà cần bám vào nhà giàu, mà phải
thông gia với nhà giàu?
- vẫn biết thế, vẫn biết mình chẳng cần nương nhờ ai, nhưng
con Quỳnh Như sau này thế nào cũng yên thân đỡ phải vất vả làm lụng.
Trương công gắt:
- Làm gì bà vội vồ lấy người ta thế? Thì hãy để xem thằng Trịnh
Nhị học hành ra sao đã nào.
- Điều đó thì ông chả phải lo. Khoa mới rồi giá đừng xảy ra
việc mưu phá trường thi thì nay nó đã ông cống rồi...
- Sao bà biết? Ý chừng bà mối bảo thế.
- Sao tôi chả biết? Dễ ông tưởng gả con lại không kén chắc.
Tôi cho ngưòi dò la, chẳng những biết sức học của Trịnh Nhị, mà lại còn biết
tính nết cậu ấy nữa kia.
Trương công cắt đoạn câu truyện:
- Được, rồi biết.
Sáng hôm sau Trương công truyền làm một bữa tiệc thực long trọng
rồi cho mời Trịnh Nhị đến dự.
Nhận được thiệp mời Trịnh Nhị hí hửng, vào khoe mẹ (Trịnh phu
nhân vừa Ở phủ về được mấy hôm để lo việc hỏi vợ cho con).
- Bẩm thân mẫu, việc xong rồi, Trương tướng công gửi thiệp mời
con đến dự tiệc Trịnh phu nhân vui mừng:
- Thế à? Nhưng con chắc đâu là xong?
- Sao lại không chắc. Con sang đấy sẽ giở hết tài ra, thì thế
nào Trương tướng công cũng phải phục mà bằng lòng gả Quỳnh Như cho con.
- Nhưng con cũng nên cẩn thận, mẹ nghe nói Kiến Xuyên hầu học
rộng tài cao, mà Quỳnh Như vào thơ lỗi lạc. Không khéo bị cha con họ lấn át thì
nhục đấy.
Trịnh Nhị mỉm cười:
- Thân mẫu quá lo xa làm gì thế? Cứ một cái gia tài nhà ta
cũng đủ xứng đáng với cái tài mạc của Quỳnh Như rồi. Vả lại tài nàng là tài của
một người con gái địch sao nổi tài cao, trí rộng của bậc nam nhi như con.
Chàng chắp tay chào mẹ rồi sửa soạn trang sức cực kỳ lịch sự:
Tấm khăn nhiễu tam giang mới quấn rất khéo làm lộ hẳn cái trán cao, chiếc áo gấm
lam thêu kim tuyến thướt tha chấm gót, cái quần lụa ngả mày hồng phớt trùm gần
kín đôi hài thêu. Trước khi ra đi, Trịnh Nhị không quên đánh qua một lượt phấn
gạo rồi đem các bài thơ cổ đã học thuộc lòng ra đọc một lượt.
Xong rồi, chàng thong dong nhẹ bước tới biệt thự Kiến Xuyên hầu.
Đến cổng, chàng gặp một người y phục nhã nhặn vái chào và lễ
phép nói:
- Tướng công tôi mời công tử vào chơi.
Trịnh Nhị trừng mắt nhìn rồi vái chào lại và hỏi:
- Thưa... Thưa ngài, dám xin ngài cho lãn sinh này được biết
quý tính cao danh để lãm sinh được hầu truyện.
Phạm Thái vẫn lễ phép đáp:
- Thưa công tử chúng tôi họ Phạm tên Văn Lý, được Trương tướng
công tìm đến dạy các cậu các cô con quan cố hiệp trấn Lạng Sơn.
Trịnh Nhị có vẻ kiêu hãnh:
- à? Thầy đồ. Vậy mời thầy đi, lãn sinh xin theo.
Phạm Thái cố nén lòng căm tức, ôn tồn nói:
- Thưa lãn tiên sinh, chúng tôi lấy làm...
Trịnh Nhị chau mày, ngắt lời:
- Thầy đồ mà không biết hai chữ lãn sinh ư? Tôi nhún mình mà
tự xưng là lãn sinh, chứ có phải tên hiệu tôi là Lãn sinh đâu.
Phạm Thái vờ giật mình, xin lỗi:
- Chết chửa, chúng tôi vô tình xúc phạm tới công tử, xin công
tử đại xá cho.
Vốn chúng tôi có biết tiếng cụ Lãn ông Nguyễn Hữu Huân, nên
tưởng công tử cũng lấy mỹ tự Lãn sinh. Vậy xin công tử cho chúng tôi rõ quý hiệu,
để chúng tôi được hầu chuyện.
Trịnh Nhị tỏ vẻ khinh bỉ, vờ không nghe rỏ, rảo bước đi vào
trong nhà, đến trước mặt Trương công và Trương phu nhân, lễ phép chắp tay vái:
- Vãn sinh Trịnh Nhị xin cúi đầu lạy trình.
Trương phu nhân vội đứng dậy niềm nở mời chào:
- Mời công tử ngồi chơi.
Rồi phu nhân lảng vào buồng bên để mình Trương công tiếp hai
chàng thiếu men.
Quỳnh Như thấy mẹ vào, liền hỏi:
- Bẩm mẫu thân ai vừa đến chơi, con coi như người gặp Ở chùa
Non Nước ngày nào.
Trương phu nhân cười mắng yêu con:
- Mày nấp nhìn trộm người ta đấy à? Ngày nay chúng mày đáo để
quá. Thời thầy mày làm rể, tao nghe nói đến tên ấy đã đi trốn biệt.
Quỳnh Như tái mặt suýt ngất đi: "Thì ra cái người đọc
thơ cũ nhận là thơ của mình, cái cậu ấm dốc ấy, chính là vị hôn phu của ta
đó?" - Con sao thế?
- Bẩm thân mẫu, con hơi váng đầu. Nhưng không sao?
- Vậy con đi nằm nghỉ.
- Bẩm được, thân mẫu để mặc con.
Rồi nàng tìm vào ngồi trong xó tối bưng mặt khóc thút thít.
Nàng vụt nghĩ đến mấy câu thơ trong bài "Cầm tháo" của Phạm Thái:
Im ỉm sầu trưởng chín khúc, Mượn tiêu cầm đỡ lúc tương tư, Cầm
sao thấy điệu ngẩn ngơ, Sầu ai luống khách thơ thâm cùng.
Nàng lau nước mắt rồi lẩm bẩm nói một mình.
"Hay chàng biết rằng ta sắp về tay người khác... Không,
không thể nào thế được, thà ta tự tử cho hết kiếp, chứ bắt ta lấy con người dốt
nát, đần độn ấy thì ta nhất định không nghe".
Nàng lại nghĩ "Can chi phải khóc lóc, buồn bã. RÕ ta
cũng trẻ con? Với lại đã có gì gọi là chắc chắn? " Rồi nàng gượng đi trang
điểm, vì nàng sợ nhỡ thân phu vào trông thấy dung nhan tiều tuy mà hiểu thấu
lòng nàng chăng. Đoạn nàng đứng bến cửa buồng nấp sau bức rèm, ghé mắt nhòm ra
nhà ngoài.
Lúc bấy giờ vừa bắt đầu vào tiệc. Trương công nâng chén nói:
- Ngày xuân không gì thú bằng uống rượn ngâm thơ. Lão gia
nghĩ thế nên có buổi chén xoàng này mời hai thiếu niên thi sĩ đến chơi cùng
nhau xướng họa cho lão được quên trong chốc lát cái tuổi già nua yếu đuối.
Trịnh Nhị nghĩ thầm: "Rõ Trương tướng công khéo bày vẽ
giở giọng văn hoa.
Thì cứ nói phăng là thử tài chú rể này có xong không. Tài tướng
công thì là một mớ tài cổ, ta không lo lắm. Vã dầu ta có kém thì con rể kém bố
vợ, lý ấy là thường. Đến như cái anh đồ đạc kia, chẳng qua là một anh hủ nho,
có hai chữ lãn sinh còn không thủng nghĩa, nói gì làm thơ phú?" Không thấ
ai trả lời, Trương công nói tiếp:
- Thế nào? Hai công tử nghĩ sao?
Trịnh Nhị mỉm cười vì chàng không hiểu sao Trương công lại gọi
thầy đồ kia là công tử. Nhưng Phạm Thái đã đứng dậy chắp tay lễ phép nói:
- Bẩm tướng công, vãn sinh học vấn được mấy nả, mà dám múa
dìu qua mắt thợ, đánh trống qua cửa nhà sấm...
Trịnh Nhị tiếp:
- Sao mà ông đồ giỏi phương ngôn, tục ngữ thế?
Phạm Thái vờ không nghe rõ câu chế riễu, nói luông:
- Nhưng tướng công đã dạy đến, văn sinh đâu dám từ nan.
Tướng công cười:
- Phạm công tử nhún mình lắm? Văn tài của công tử, lão gia
còn lạ gì?
Trịnh Nhị giật mình: "Chết chưa, thằng này dễ thường đã
xướng hoạ với Trương công nhiều lần rồi chăng?" - Trịnh công tử nghĩ sao?
Trịnh Nhị cũng đứng dậy trả lời:
- Dạ, xi tướng công cứ đề ra cho.
Trương công nâng rượn mời, rồi nói:
- Còn phải tìm đầu đề Ở đâu nữa? Ta đương vui chén với nhau,
chi bằng lấ ngay đề "Ngày xuân uống rượn," mà vịnh một bài Đường luật
thất ngôn bát cú.
Phạm Thái còn đương tìm vần thì Trịnh Nhị đã mỉm cười, nói:
- Dám bẩm tướng công, làm bằng hán tự có được không?
- Cũng được.
- Vậy, vãn sinh xin đọc:
Cẩm giang xuân sắc hội thi ngâm, Ngọc lũy phù vân biến cổ
câm...
Phạm Thái thản nhiên đọc luôn:
Bắc cực triều đình chung bất cải, Tây sơn khấu đạo mai tương
xâm.
Rồi nói tiếp:
- Bẩm tướng công, không ngờ, Đỗ, Trịnh lưỡng thi gia, lời văn
lại giống nhau đến thế? Mà lại hợp lắm? Nhất là hai câu dưới.
Trịnh Nhị cãi:
- Bẫm tướng công, anh đồ này dám hỗn xược trước mặt tướng
công. Bắc chước cổ nhân là một sự thường chứ? Không đọc Lý Bạch, ĐỖ Phủ, một
thi sĩ đời nay chỉ viết nên những câu vô vị.
- vâng, công tử dạy rất phải. Đã là văn nhân thì ai không đọc,
không thuộc Đường thi. Chẳng nói ai, chứ như bỉ nho đây, giá không thuộc Đường
thi, nối điệu sao được với công tử.
Trương công sợ hai người sinh ra to chuyện, liền nói chữa cho
Trịnh Nhị:
- Lão gia coi ra hai công tử cùng đọc rộng, nhớ nhiều. Bài
thơ ấy thực lão gia chưa xem qua, thế mà hai công tử đều biết, đủ rõ học vấn
hai công tử suýt soát nhau. Thôi tranh biện làm gì vô ích, xin hai công tử cạn
chén rồi mỗi người làm một bài thơ nôm chơi.
Trịnh Nhị nhìn Phạm Thái cười nhạt:
- Vậy mời tiên sinh vịnh trước cho, lãn sinh xin hoạ theo.
Phạm Thái ngả đầu, ung dung đáp:
- Xin lĩnh ý.
Rồi quay lại Trương công, chàng chắp tay vái:
- Bẩm tướng công cho phép.
Trương công vui vẽ:
- Xin công tử cho nghe những lời châu ngọc.
Phạm Thái liền đọc:
Ngày Xuân Uống Rươu.
Hơi xuân hây hẩy động rèm dương, Thổi hợn lăn tăn nước rươu
vàng.
Rạng rỡ tiên hoa khoe tử sắc, Nồng nàn thánh tửu tỏa mê
hương.
Đầu xanh trước gió lao đao chuyể hn, Tóc bạc sau mây lỏa tỏa
vương, CÓ rươu có thơ xuân có mãi, Một năm ba vạn sáu thiều quang.
Kiến Xuyên hầu vỗ đùi khen:
- Hay? Hay lắm? CÓ rượn có thơ xuân có mãi. Một năm ba vạn
sáu thiều quang? Hay? Đúng lắm. Công tử làm lão gia trẻ hẳn lại.
Hầu cất tiếng cười vang, cặp mắt nheo, mặt hây hây đỏ. Rồi hầu
thưởng Phạm Thái một chén rượn đầy, Phạm Thái tạ ơn, uống một hơi cạn.
Trịnh Nhị tức uất người, nhưng cũng gượng mời Phạm Thái một
chén rượn nữa, Phạm Thái mỉm cười nói kháy:
- Thưa công tử, tài làm thơ ngu để chẳng bằng ai, nhưng tài uống
rượn thì ít người bì kịp. Công tử ban thưởng, một chén, chứ đến mười chén, ngu
đệ cũng không từ chối?
Chừng để kéo dài thời giờ ra, Trịnh Nhị vịn ngay lấy câu ấy,
đứng dậy nói:
- Dám bẩm tướng công, Phậm công tử đã dạy thế, vãn sinh xin
phép tướng công mừng Phạm công tử đủ mười chén rượn nữa.
Trương công sợ Phạm Thái quá say, liền nói gạt:
- Rượn uống dần ít một mới ngon. Vả hai công tử phải tỉnh mà
làm thơ, chứ say li bì thì còn sao trông rõ cảnh mà ngâm với vịnh?
Phạm Thái đáp:
- Xin tướng công cứ cho phép vãn sinh nhận mười chén rượn mời
của Trịnh công tử.
Rồi chàng quay ra bảo Trịnh Nhị:
- Bỉ nho xin uống thật thong thả, để công tử có đủ thời giờ gọt
dũa bài thơ họa cho được toàn bích.
Trương công nói:
- Phạm công tử cũng nên đọc lại bài tho một lượt để Trịnh
công tử nhớ kỹ lấy vạn Phạm Thái vâng lời cao giọng ngâm, vì chàng biết thế nào
Quỳnh Như cũng nấp đâu đó để nghe. Ngâm xong, chàng ngồi yên, nhấp chén đẻ Trịnh
Nhị được bình tĩnh mà nghĩ thơ.
Nhưng khi chén thứ mười đã cạn. Trịnh Nhị vẫn loay hoay chưa
tìm được vần.
Chàng đánh trống lãng nói với Kiến Xuyên hầu:
- Bẩm tướng công, cổ nhân dạy: "Xuất đối dị đối đối
nan", quả không sai. Đối một câu đốim mà cổ nhân còn cho là khó hơn ra một
câu đối, huống nữa lại hoạ một bài thơ. Kể họa bậy, họa bạ, thế nào xong thôi
thì cũng dễ, nhưng họa được một bài nghiêm chỉnh cả từ lẫn ý, mà lại mốn có phần
xuất sắc hơn bài xướng đề thì thực là khó khăn quá.
Trương công muốn giữ thể diện cho chàng mốt chút, gật gù nói:
- Phải lắm, công tử nói phải lắm Vậy công tử bất tất phải họa,
cứ làm ngay một bài thơ khác, hoặc ngũ ngôn, thất ngôn, tứ tuyệt, hoặc cổ phong
hay Đường luật bát cú cũng được.
Giữa lúc ấy một đứa thị tỳ ra, dâng lên Trương công một tờ
hoa tiên mà nói răng:
- Dám bẩm tướng công, có người mạn phép tướng công họa giúp
Trịnh công tử một bài.
Trương công chau mày lẩm nhẩm đọc, rồi cười bảo hai người:
- Lời thơ còn non nớt quá?
Phạm Thái xin được ngâm. Kiến Xuyên hầu liền đưa cho chàng
bài thơ hoạ mà hầu thừa biết là tác phẩm của con gái yêu. Phạm Thái đọc thực to
cốt để trêu tức Trịnh Nhị.
Ngày Xuân Uống Rượn (Hoạ nguyên Vận) Rực rỡ trời xuân ánh
thái dương, Xuyên qua chén rươu nhuốm màu vàng.
Hoa xuân hn đáo thầm phong nhụy, Men rươu nồng nàn ngát tỏa
hương.
Má phấơn say xuân hây ửng đỏ, Thơ tình thiế uu rươu rối vản
vương, Tìm vần trong rươu vần không thấy, Chỉ thấy xuân đầy vẻ diệm quang.
- Trời ơi? Hay? Hay quá, hay lấn át hẳn bài xướng? Hay không
tìm được lài mà khen ngợi nữa.
Trương công chữa thẹn cho Trịnh Nhị:
- Công tử khéo chế riễu quá. Thực Trịnh công tử nói không
sai, họa vẫn khó hơn xướng. Đấy, hai công tử coi, trong bài họa vần nào cũng
dùng ép cả: "Vấn vương" nghe sao được? Còn hai chữ "diệm
quang" thực chẳng thoát tý nào.
Phạm Thái đã chếnh choáng hơi men, đứng dậy cải:
- Bẩm tướng công chê bài họa thì vãn sinh không phục. bài ấy
hay, hay lắm.
Câu phá mạnh mẽ biết bao, câu thừa tự nhiên lạ lùng. Hai câu
thục tuy không đặc sắc, nhưng cũng chẳng dở. Hai câu luận thì âu yếm quá. Tuy
hơi... chua chát chút đỉnh Còn hai câu kết, trời ơi? Hai câu kết đến Lý Bạch
cũng vị tất đã có hai câu kết ấy. Mà xin tướng công nhận cho điều này: Trong mỗi
vế, chữ "rượn" đều đối với chữ "xuân", thực hơp với đầu đề
"Ngày xuân uống rượn".
Trịnh Nhị tái mặt đi, xừng xộ mắng Phạm Thái:
- Thầy đồ vô lễ quá? Làm gì mà tướng công không nhận ra được,
lại phải nhờ đến thứ thầy. Còn như thầy khen bài thơ họa hay, thì điều ấy chẳng
lạ. NÓ cũng na ná như bài thơ của thầy nghĩa là rất tầm thường.
Phạm Thái cười khinh bỉ không thèm đáp rồi thì thầm ngâm lại
bài thơ. Đoạn chàng rót đầy một chén rượn mà mời rằng:
- vản sinh, xin phép tướng công, tự thưởng một chén rượn, vì
đã có diểm phúc được nghe một bài thơ hay.
Ngôn ngữ cử chỉ của Phạm Thái làm cho Kiến Xuyên hầu càng thấy
rõ tình yêu của chàng đối với Quỳnh Như và càng mong ước cho hai người nên vợ,
nên chồng. Hầu lại ngảnh nhìn Trịnh Nhị nghĩ thầm:
"Tài nữ mà sánh đôi với thằng ngu dợn thì thực ngọc quý
để ngâu vầỷ'.
Nhưng Trịnh Nhị đã đứng dậy nói:
- Văn sinh xin đọc, có đọan nào kém, nhờ tướng công phủ chính
cho.
Rồi chàng cất tiến ngâm ồm ồm:
Ngày Xuân Uống Rươu Ngày xuân uống rươu ngâm thơ tiên, Xuân
thắm rươu nồng tỏa hơi men, Liễuyếu trước thềm tha thước lã, Đào thơ bên cửa thắm
màu sen, Đưa thoi chim én bay vùn vụt, Xòe cánh bướm vàng lượn chập chờn, Nhấp
chén toan đề bài vịnh cảnh, Nhưng còn mãi ngắm buổi xuân thiên.
Chàng vừa đọc dút bài, bỗng có tiếng cười thé Ở buồng bên vọng
lại. Trương công cố thản nhiên, gật gù khen lớn để Trịnh Nhị không nghe thấy tiếng
cười chế nhạo:
- Hay? Hay? Tuy vần không được chính lắm? Nhung khuyết điểm
nhỏ nhặt ấy kể chi?
Phạm Thái cũng khen mát:
- Bẩm vâng, hay thực mà không thất niêm một câu nào.
Trịnh Nhị tưởng hai người khen thành thực đã vội tự phụ:
- Dám bẩm tướng công, văn sinh quả không hay làm thơ nôm. CÓ
thì giờ rãnh, văn sinh chỉ tập làm thơ chữ Hán. Rồi vãn sinh xin đem trình Tướng
công tập thơ của văn sinh, để tướng công nhàn lãm.
- Phải đấy? Bây giờ thì mời hai công tử uống rượn đã, mà xin
uống thực say cho.
Hồi 47
nói chuyện văn chương
Phạm Thái đang ngồi mở quyển Hán để ra câu đối cho học trò nhỏ
thì Kiến Xuyên hầu bước tới ôn tồn hỏi:
Hôm qua công tử uống rượn say thế mà hôm nay cũng dạy sớm được?
Phạm Thái vội vàng đứng lên chắp tay vái dài:
- Bẩm tướng công, hôm qua vãn sinh quá chén, có lầm lỡ điều
gì, xin tướng công tha tội cho.
Kiến Xuyên hầu vuốt râu cười ha hả:
- Đã uống thì phải say, say thì phải bỏ sự giữ lễ đi, như thế
mới thú chứ.
Hầu lại cười rồi đột ngột hỏi:
- Công tử đã đọc thơ Mộc Lan chưa, nhỉ?
Phạm Thái hơi chột dạ, đứng ngẫm nghĩ tìm hiểu. Thì Kiến
Xuyên hầu đã nói tiếp:
- Giá thời nay, người mình cũng viết theo đẻ ấy thì tất đã đổi
lại. Chẳng hạn nói nàng Mộc Lan cải nam trang đi đánh giặc. Khi thắng trận về
triều, gặp một ông trạng nguyên trẻ tuổi, liền phải lòng, rồi bỏ cả chiến bào
mà mặc áo xiêm, rồi cùng trạng nguyên kết hôn. Viết như thế mới có hậu, phải
không công tử?
- Dạ.
Phạm Thái sợ mướt mồ hôi, chân tay run lặp cập, chàng nghĩ thầm:
"Thôi, chắc Trương công đọc qua truyện "Sơ kính tân trang" của
ta rồi. Ta đã dặn Quỳnh Như giữ kín không cho ai xem qua, sao nàng vô ý đến thế
để Trương công vớ được Thế này thì còn gì là thể diện, còn gì là danh dự ta nữa?"
Nhưng chàng cũng đánh bạo đáp lại:
- Dám bẩm tướng công, tướng công dạy thế, thực là chu đáo.
Nhưng kể bài thơ cổ cũng có nhiều câu khảng khái.
- Thì vẫn khảng khái, hùng dũng. Nhưng thời nay làm gì có hạng
người khảng khái, hùng dũng, phải không, công tử? Một bài thơ đầy ý tưởng uỷ mị
mới tả được những tâm tình uỷ mị.
Rồi hầu cao giọng ngâm:
Vua ban vàng bạc Mộc Lan từ, Liền cấtLan lên chức thượng thơ,
Nhưng Lan chẳng th ích làm quan thượng...
Thấy Kiến Xuyên hầu ngừng lại, Phạm Thái liền bạo dạn hỏi:
- Dám bẩm tướng công, tướng công dịch?
- Phải, lão gia cũng vừa ngẫu nhiên nghĩ mà dịch liều một đoạn
ra quốc âm, nhưng được có ba câu đã thấy cạn giòng... Kể nhà vua cũng nông nổi
quá. Mới đem vàng, bạc, cùng chức thượng thư ra thử bụng tráng sĩ thì đã biết
đâu rằng tráng sĩ chỉ thích được một con lạc đà để phi về quê thăm nhà? Sao
không đem một công chứa diểm lệ ra, xem tráng sĩ có coi công chúa quý hơn con lạc
đà không.
Phạm Thái cố lấy giọng tự nhiên đáp lại:
- Bẩm tướng công, thử như thế cũng vô hiệu, vì tráng sĩ chỉ
là một thiếu nữ cải nam trang.
- Đành thế, nhưng nhà vua vẫn tưởng Mộc Lan là một nam nhi có
dũng cảm.
Đến đây, Kiến Xuyên hầu phá lên cười, nói tiếp:
- Kể ra thời nay bọn nam nhi còn thua Mộc Lan nhiều?
Hầu vờ lỡ lời xin lỗi, rồi lại nói:
- Lão già naỳ rõ lẩm cẩm quá. Đương câu truyện van chương lại
nói liên miên đến việc thì thế... À lâu nay công tử có làm được bài thơ nào hay
đọc cho lão gia nghe với.
Phạm Thái chưa kịp trả lời, hầu đã khéo nói lảng, hình như cốt
để chàng quên câu truyện Mộc Lan đi:
- Hay đại khái như bài thơ của Trịnh công tử hôm qua.
Cả hai cùng cười, Phạm Thái tưởng Kiến Xuyên hầu lên nhà trên
đã mừng.
Nhưng hầu chỉ ra đứng Ở hiên một lát, rồi lại quay vào hỏi Phạm
Thái:
- Công tữ hẳn đã đọc truyện Thôi Oanh Oanh?
- Bẩm tướng công, vãn sinh mới được đọc bộ Tây Sương ký.
- Cũng được? Tuồng Tây Sương ký còn có phần đặc sắc hơn tiểu
thuyết Thôi Oanh Oanh. Vậy công tử cho biết ý kiến về áng văn ấy.
Lần thứ hai Phạm Thái kinh hãi, nhưng cố giữ nét mặt thản
nhiên:
- Bẩm, văn chương rất hay.
Tướng công như không nghe rõ câu khên ngợi của Phạm Thái nói
luôn:
- Bao giờ cũng vậy, loạn thường từ trong nhà loạn ra. Trương
quân Thụy không phải là Thôi phu nhân thì gặp sao được Thôi Oanh Oanh. Đã không
gặp mặt Thôi Oanh Oanh thi thơ từ xướng họa với nhau sao được? Giá Trương quân
Thụy biết tự trọng mà lẳng lặng bỏ ra đi, thì đâu đến nỗi xuác phạm tới danh tự
nhà họ Thôi.
Thấy bọn trò nhỏ đã tề tựu lên học, Trương công mỉm cười gật
chào Phạm Thái, rồi thong thả bước xuống thềm nói tiếp:
- bỏ ra đi, rồi tùy ý, muốn đi hẳn không quay về nữa cũng được,
hay muốn nhờ mối lái hỏi Thôi Oanh Oanh làm vợ cũng được.
Sáng sớm hôm sau, Phạm Thái cáo biết Kiến Xuyên hầu, xin phép
về quê thăm nhà. Hầu đã thừa biết chàng chẳng còn họ hàng thân thích nào nữa.
Song hầu không đả động gì đến điều ấy, cốt để chàng đi ngay.
Hầu vẫn yêu mến chàng và bằng lòng gả Quỳnh Như cho chàng,
nhưng hầu muống tránh hẳn sự hiềm nghi.
Chàng vừa đi được một lát thì mụ mối nhà họ Trịnh đã sang nói
chuyện về việc hôn nhân của Trịnh Nhị.
Trương công và Trương phu nhân hỏi ý kiến nhau. Nghe chồng ngỏ
lời muốn gả Quỳnh Như cho Phạm Văn Lý. Trương phu nhân dẫy nẫy, nhất định không
bằng lòng nhận một anh sư phá giới làm rẻ.
Kiến Xuyên hầu biết Phạm Thái là con Trạch Trung hầu, nhưng
không muống tiết lộ tung tích của chàng ra với một ai, vì hầu đã rõ chàng đương
bị triều định truy nã. Hầu chỉ mỉm cười bảo phu nhân:
- Bà không ưng Phạm Văn Lý làm rể thì thôi. Nhưng tôi xin bà
đừng vội hấp tấp gả hoài gả hủy cho một gã vô học.
Về các việc, mà nhất là việc hôn nhân trong một gia đình, bao
giờ ý muốn của bà cũng lấn át ý muốn của ông. Dẫu ngày xưa hay ngày nay cũng thế
thôi.
Hồi 48
khóc trương quỳnh như
Những nếp nhà lơp cói lẵng lẽ dưới sự sầu thảm vừa xảy ra:
Cái chết của Trương Quỳnh Như.
Giữa hôm ăn hỏi linh đình, nàng đã nhờ chiếc giây lưng nhiễu
đưa hồn về nơi cực lạc Trên thửa vườn cao, song song hai ngôi mộ chưa xây. ĐÓ
là nơi yên giấc trăm năm của Thanh Xuyên hầu và Trương Quỳnh Như vậy.
Trời đã gần tối mịt. Đường làng vắng ngắt kể vãng lai. Bỗng một
ky sĩ phi ngựa tới, ghi cương Ở bên cây liễu cạnh mồ, rồi nhảy vội xuống, nằm vật
ra đất khóc thảm thiết.
Người ấy là Phạm Thái, cựu quân sư của Nguyễn Đoàn, phó đảng
trưởng kiêm chức quân sư của đảng Tiêu Sơn. Người ấy đã bao phen xông pha trong
rừng gươm dáo, nay chỉ còn là một kẻ tầm thường không còn một chút nghĩ lực để
phấn đấu Vì người ấy yêu.
Nằm khóc một hồi lâu, Phạm Thái ngồi dậy lau nước mắt, mở đẫy
lấy hương và sáp ra thắp.
Rồi quỳ bên mồ đọc bài điếu văn sau này:
Nương tử ơi! Chướng căn ấy bởi vì đâu? Oan thác bởi vì đâu?
Cho đến nỗi xuân tàn hoa nụ, thu lầu trăng rằm!
lại có điều đau đớn thế! Nhà huyền ví có năm có bảy, mà riêng
một mình nàng đeo phận bạc, thì lửa nguội, nước voi còn có lẽ. Thương hại thay!
Hoa có một cành, tuyết có một quãng, nguyệt có một vầng, mây có một đoá. Thân
hiếm hoi chừng ấy, nỡ nào lấy đôi mươi năm làm một hếp, mà ngơm ngớm chốn non Bồng
nước Nhươc, đính gì không đoái đến cõi phù sinh.
Ví dù hếp mà tiên thù với tục, sao xưa ha vâng mệnh xuống trần
chi? Nay đã nguyện thân này cho vẹn hếp thì cũng trọn ba vạn sáu ngày ~ờ~ cho đủ
lệ: nọ xuân huyên, ha phu tử góp với trần gian không chút bận, rồi sẽ rong chơi
chín suối cớ gì riêng bỗng vội vàng chi?
ôi! Chữ mệnh hẹp hòi, chữ duyện suồng sẽ, những như thân gia ấy,
tình cảnh ấy ngươc xuôi ha cũng ngậm ngùi cho. Huống ta cùng nương tử, tuy chẳng
thân ha thích nọ, những tình duyên là chừng ấy, cũng là một chút cương thường:
dẫu rằng kẻ đây người đấy, song an ái bấy lâu nay, đã biết bao nhiêu tâm sự!
Ta hăm hở chí trai hồ thỉ, bởi đợi tình cho nấn ná nhân
duyên: mình long đong thân gái liễu bồ, vì giận quá ngang tàng tính mệnh.
Cho đến nỗi hoa rơi lá rụng, ngọc nát châu chìm; chua xót
cũng vì đâu?
Nay qua nắm cỏ xanh, tưởng người phận bạc, xủi xụt hai hàng
tình lệ, giải bầy một bức khốc vãn; đốt xuống tuyền đài, tỏ cùng nương tử.
Đọc xong, Phạm Thái vừa khóc, vừa châm lửa đốt bài điếu văn.
Rồi chàng lên ngựa đi.
Hồi 49
trên đường thiên lý
Hai năm sau.
Một hôm trời đông đã về chiều. Trên con đường thiên lý, một
thiếu niên tráng sĩ buông lỏng cương thong thả cho ngựa đi về phía Nam.
Vẻ mặt chàng buồn rầu, chán nản. Y phục chàng đầy bụi và bùn.
Đến phố phủ Lý Nhận, chàng dừng ngựa trước cửa một tửu quán,
vào đó nghỉ trọ một đêm để mai đi Nam Thành sớm.
Chàng đương ngồi nhắm rượn, đăm đăm suy nghĩ đến những sự biến
cố của một đời vô định thì Ở ngoài đường có tiếng ngựa hí.
Rồi theo đêm tối, theo luồng gió lạnh và hạt mưa phùn, một
trang thiếu niên tuấn tú quăng mạnh mình vào trong quán:
- Sắp rượn mau, bớ chủ quán? Ta vừa đói vừa rét đây?
- Dạ?
nghe giọng nói trong trẻo của khách mới đến người ngồi uống
rượn phải ngửng đầu trông lên, chừng sung sướng cười bảo tửu quán:
- Lấy chén, lấy đũa bát để công tử cùng ngồi uống rượn với ta
cho vui.
Rồi chàng quay ra lể phép nói với người kia:
- Thưa công tử, công tử cho phép tôi được hầu công tử đêm
nay.
Một cái mỉm cười đi theo liền với chữ "đệm" có biết
bao nhiêu nghĩa, khiến người mới đến hiểu ngay. Chàng lại gần thì thầm:
- Hiền huynh?
Người kia cũng thì thầm đáp lại:
- Hiền hữu.
Thì ra ngẫu nhiên Quang Ngọc và Nhị nương gặp nhau Ở tửu quán
bên đường.
Cơm rượn xong, chủ quán thấy hai người thân mật với nhau liền
hỏi:
- Thưa hai công tử ngủ riêng giường hay cùng chung một giường?
Nhị nương phá lên cười, đưa mắt liếc Quang Ngọc, rồi đáp:
- Ta không quen ngủ chung với ai bao giờ. Nhưng bác quán cứ
đi ngủ trước, để chúng ta bàn luận văn chương, nghe?
- Dạ.
Đêm đã khuya, hai người còn thì thầm nói chuyện. Nhị nương
thuật với Quang Ngọc công việc điều tra của nàng về tung tích Phạm Thái: nào
chàng mê man say đắm Quỳnh Như, náo Quỳnh Như tự vận vì chàng. Quang Ngọc lộ vẽ
căm tức trên nét mặt. Chàng hỏi:
- Vậy bây giờ Phạm Thái Ở đâu?
- Thưa hiền huynh, hai năm nay hắn đi biệt tích, chỉ lẻn về
Thanh Nê có hai lần: một lần đọc bài khốc vãn, một lần để nghêu ngao hát bài
triệu linh bên mồ người mệnh b ạc.
Quang Ngọc cười chua chát:
- Không ngờ Phạm Thái mà trẻ con được đến thế nhỉ?
- Vâng, Phạm Thái cũng trẻ con như văn thờ của hắn.
Nhị nương mở khăn gói lấy đưa cho Quang Ngọc một tập giấy và
nói tiếp:
- Đây, tác phẩm của anh chàng mê gái: mà ngu hữu đã sưu tầm
được, tuy hãy còn khiếm khuyết nhiều.
Quang Ngọc đọc sơ một lượt, rồi buồn rầu, giận dữ ném tập thơ
xuống giường. Nhị nương thở dài, hỏi:
- Hiền hữu định sao?
Quang Ngọc hỏi lại:
- Định cái gì?
- Việc đảng.
Quang Ngọc ngồi yên lặng giờ lâu, ngẫm nghĩ - Vận chưa gặp?
Khó lòng quá?
Rồi chàng báo cho Nhị nương biết rằng Trịnh Trực đã bị hành
hình Ở Kinh Bắc, Đình Phùng bị bắt giải về Phú Xuân. Tửu quán Bạch Phượng cũng
đã đóng cửa, vì các bạn đồng chí tan tác cả, để nơi hội họp kia phỏng có ích
gì?
- Còn Lê Báo?
- Lê Báo vẫn nương náu Ở chùa Yên Tử trấn Hải Dương. Bây giờ
hắn thành thực mộ đạo Phật như một nhà chân tu vậy.
- Thế chúng ta?
- Chúng ta chờ đợi dịp để hành động. Hành động là phận sự của
chúng ta.
Không hành động, thì đời chúng ta không còn có nghĩa gì nữa
phải không hiền hữu?
Nhị nương mỉm cười:
- Thưa hiền hữu phải lắm.
Quang Ngọc như mê man nói luôn:
- Hành động? Hành động?
Nhị nương nhìn chàng, buông một tiếng thở dài não nuột.
Sáng hôm sau hai người từ biệt nhau: Nhị nương ngược Bắc
thành, Quang Ngọc xuôi Nam thành hẹn một ngày kia sẽ hội ngộ.
Nhị nương kìm cương ngựa, hỏi với một câu:
- Nhỡ không hội ngộ?
- Cũng chẳng sao? Vì linh hồn chúng ta bao giờ cũng Ở bên
nhau. Một người trong bọn ta làm một việc trái với bổn phận, đã tưởng nghe rõ
tiếng thống trách của bạn đã tưởng nhìn thấy cặp mắt nghiêm nghị của bạn. Mà
khi ta có việc đáng thi hành ngay, ta đã tưởng trông thấy cái gật biểu đồng
tình của bạn rồi. Vậy thì chúng ta có Ở xa nhau đâu? Tình bằng hữu của chúng ta
đã thành một sự thiêng liêng.
Nhị nương chắp tay vái.
- Vâng, tình bằng hữu của đôi ta?...
Rồi nàng rẽ cương quay đi.
Qua quãng đường gần một khuỷ sông Đáy, nàng văng vẳng nghe có
ai hát nghêu ngao. Kìm cương ngựa nhìn kỹ, nàng thấy ngồi dưới gốc đê bên bờ
sông, một anh chàng câu cá, đầu đội nón tre đan, vai khoác áo lá.
Cho ngựa thong thả bước tới gần, nàng dừng lại ngắm nghía:
người câu cá đưa hồ rượn lên miệng một hơi rồi ngâm:
Sống Ở dương gian đánh chén nhà, Chết về âm phủ cấp kè kè,
Diêm vương phán hỏi rằng: chi đó?
Be!
Nhị nương đoán chắc là Phạm Thái, nhưng vẫn yên lặng ngồi
trên mình ngựa để chờ xem anh chàng chán đời kia còn làm những trò gì nữa.
Thì Phạm Thái lại cất giọng ngâm:
Đưa lời cho tới cung mây, Sau này xin gửi cho dây với cùng,
Túi thơ hồng trách ai se mối, Đến nửa chừng bỗng mới dãn ra, Căm thay một ả
trăng già, Trêu người chỉ mãi chẳng tha thế này.
Nhị nương giật cương ra roi phi thẳng.
Nghe tiếng động, người câu cá quay lại, cười lớn:
- Mời khách qua đường hãy dừng vó ngựa uống với ta một hớp rượn?
Ha ha?
Chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy một hồ rượn.
Nghĩ một lát, chàng lại nói:
- Ha ha? Chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy hai con mắt mỹ
nhân.
Khái Hưng
Theo http://vietnamthuquan.eu/