Thứ Sáu, 30 tháng 4, 2021

Chủ nhật buồn: Sự thật và huyền thoại

Chủ nhật buồn: Sự thật và huyền thoại

Ca khúc Chủ nhật buồn (Szomorú Vasárnap) nổi tiếng thế giới, từng được mệnh danh là “Quyên sinh ca”, có xuất xứ từ Hungary, năm 1999 đã được báo chí Pháp bầu chọn là ca khúc buồn nhất thế kỷ 20.
Nhạc sĩ Seress Rezső. Nguồn: jazzma.hu
Chủ nhật buồn đã được hàng loạt các ca sĩ lừng danh trên thế giới, như Sarah Vaugh, Elvis Costello, Mariann Faithful, Sinead O”Conor, Bilie Holyday, Sarah Brightman, Sarah McLachnan, Ray Charles, Maurice Chevalier, Josephine Baker... đưa vào chương trình biểu diễn và coi đó là một bảo đảm cho thành công của họ. Giai điệu của ca khúc này cũng được đạo diễn Steven Spielberg sử dụng trong bộ phim “Danh sách của Schindler” từng đoạt 10 giải Oscar. Trong hơn 80 năm kể từ ngày ra đời (1933), người ta đã gán cho ca khúc này nhiều điều huyễn hoặc, xung quanh nó tồn tại nhiều giai thoại, khó biết thực hư ra sao.
Người ta cũng thường nhắc tới Seress Rezső như là tác giả duy nhất của ca khúc này, ít người biết ông chỉ là người phổ nhạc cho một bài thơ tình (hay thất tình) của một người khác: nhà thơ, nhà báo Jávor László.
Nhiều bài báo trong nước, kể cả trang Wikipedia tiếng Việt cũng viết: “Một chiều buồn cuối năm 1932, bầu trời Paris thật ảm đạm, mưa nặng hạt và lạnh lẽo. Nhạc sĩ dương cầm Rezso Seress ngồi chơi đàn dương cầm bên cửa sổ. Một giai điệu chợt xuất hiện trong đầu ông và nửa tiếng đồng hồ sau, bài Szomorú Vasárnap ra đời”. Đó là một sự nhầm lẫn đáng tiếc, vì sự thật bài hát này đã ra đời ở trong một quán rượu tồi tàn ở thủ đô Budapest năm 1933, và Seress Rezső, cho tới khi đó, chưa hề ra khỏi đất nước Hungary.
Seress Rezső sinh ngày 3-11-1899 tại Budapest trong một gia đình gốc Do Thái, tên thật là Spitzer Rudi. Cậu bỏ học sớm và đi theo một gánh xiếc rong, vừa làm các công việc vặt, vừa tập các tiết mục nhào lộn dù bị bà mẹ cấm đoán. Trong một buổi tập bài nhào lộn ba vòng không có dây bảo hiểm, cậu bị ngã và may mắn thoát chết, phải đi nạng gỗ hàng tháng trời.
Sau đó cậu thanh niên có chiều cao chưa đầy 1m56 này xin vào học trường kịch nghệ. Sau khi học xong, suốt chín năm ròng anh đi theo một gánh diễn lang thang khắp các tỉnh lẻ, và cuối cùng được nhận vào một đoàn nghệ thuật ở Budapest. Đó là những năm khó khăn sau Đệ nhất Thế chiến, thất nghiệp tràn lan, đời sống của các nghệ sĩ cũng thiếu thốn đủ bề. Seress được nhận vào đoàn này với mức thù lao rẻ mạt và thất thường là thu nhập từ số vé bán được ở hàng ghế cuối cùng, mà hàng ghế cuối thường trống không. Niềm an ủi duy nhất đối với anh là thỉnh thoảng được ngồi xuống bên đàn dương cầm và chơi tùy hứng theo ý thích. Một hôm, để câu khách, ông trưởng đoàn cho phép anh ngồi chơi đàn và hát trước cửa nhà hát. Ban đầu anh dè dặt chơi các bản nhạc, ca khúc tự sáng tác, nhưng về sau người qua đường ngày càng chú ý hơn tới các ca khúc của anh. Chàng Seress bé nhỏ cứ ngồi chơi dương cầm, hát và huýt sáo các bản nhạc của anh trong gió xuân, nắng hạ và mưa thu suốt nhiều năm như thế.
Nhạc sĩ Seress Rezső và bạn bè. 
Nguồn: random-times.co
Năm 1925, ca khúc “Một đêm nữa...” của anh được phát hành chính thức. Trong một thời gian ngắn cả nước biết tới và hát ca khúc này. Đĩa hát thu ca khúc này đã bán được 16 ngàn bản, một kỷ lục chưa từng đó thời bấy giờ.
Được sự tán thưởng và khích lệ của công chúng, sau này Seress chuyển hẳn sang làm âm nhạc. Trong khoảng từ 1923-1933, Seress đã soạn lời cho khoảng bốn chục ca khúc của các nhạc sĩ khác và sáng tác chừng sáu chục ca khúc của riêng anh, trong đó rất nhiều ca khúc được yêu chuộng thời đó, có hàng chục ca khúc được đánh giá không kém gì, thậm chí hay hơn Chủ nhật buồn. Nádor Jóska, một nhạc sĩ và đồng nghiệp, cũng là người đã phát hiện ra anh, đã gọi Seress là “bậc thầy lớn bé nhỏ của âm nhạc”.
Seress Rezső trở thành một nhân vật được yêu thích của giới văn nghệ sĩ nghèo ở Budapest thời bấy giờ. Với vóc dáng nhỏ bé, ngồi gần như khuất lấp sau dương cầm, với giọng ca “ống bơ rỉ” khàn rè, ông vừa hát vừa chơi dương cầm kiểu “mổ cò” chỉ với hai ngón tay của bàn tay phải, tay trái đánh nhịp. Đầu tiên ông hát và chơi cho quán ăn Kulacs (Bầu rượu) ở phố Dob, đến đầu những năm 1950 ông chuyển sang quán Kispipa (Chiếc tẩu nhỏ) trên phố Akác và chơi nhạc ở đây đến cuối đời. Trong các quán ăn, cũng là tiệm rượu mù mịt bởi khói thuốc lá, nơi thường xuyên lui tới của tầng lớp tiểu thị dân, thợ thuyền, phu xe, đĩ điếm, của các văn nghệ sĩ nghèo... ông say sưa hát và chơi đàn dương cầm, ông đã làm nên một không khí nghệ thuật đặc biệt, nhiều khi bốc lửa và quyết rũ khiến nhiều người “nghiện” ông, tối tối thường đến uống rượu hay ngồi bên tách cà phê chỉ để được nghe ông hát. Ông không hề học nhạc lý và không biết ghi lại các ca khúc ngẫu hứng của mình, sáng tác xong một bài, ông huýt sáo làn điệu bài hát và nhờ người chép lại thành bản nhạc. Sau này, khi Chủ nhật buồn đã nổi tiếng khắp thế giới, nhiều du khách từ các nước đến Budapest và tìm tới quán Kispipa chỉ để một lần tận thấy người nhạc sĩ kỳ lạ này và được nghe ông hát Chủ nhật buồn. Trong sổ lưu bút của Seress Rezső có những tên tuổi lớn như Toscanini, Luchino Visconti, Spencer Tracy, John Steinback, Luis Amstrong, Benjamino Gigli... Thậm chí Otto Klemperer, nhạc trưởng nổi tiếng người Đức, sau khi nghe ông đã nhận xét: “Không phải là nhạc sĩ - mà là thiên tài”.
Dưới bức phù điêu Seress Rezső bên ngoài quán 
cà phê Kispipa luôn có hoa tươi tưởng nhớ người 
nhạc sĩ đã từng chơi nhạc tại đây. Nguồn: nepszava.hu
Quyên sinh ca
Về ca khúc Chủ nhật buồn mà trước và sau nó, chưa ca khúc Hungary nào gặt hái được thành công vang dội như vậy trong làng âm nhạc quốc tế, nhà thơ Jávor László, cũng là một phóng viên hình sự của “Báo 8 giờ”, tác giả phần lời của ca khúc này nhớ lại: “Tôi viết bài thơ Chủ nhật đen cho một người, một người đã chết đối với tôi”. Bài thơ đã được một nhạc sĩ khác phổ nhạc, nhưng Jávor không ưng ý. Năm 1933, Jávor đã đưa bài thơ Chủ nhật đen cho Seress Rezső, người mà ông quen biết và đã từng giới thiệu trên báo tám năm trước đó, nhờ phổ nhạc lại. Seress đã đổi đầu đề bài thơ thành Chủ nhật buồn. Cũng theo hồi ức của Jávor: “Một đêm người trực điện thoại của quán cà phê Forum bảo: Seress đã tìm ông ba lần. Tôi vội lao đến tiệm rượu nhỏ. Rezső chơi bài Chủ nhật buồn. Khi bài hát kết thúc, giai điệu đẹp còn ngân mãi trong tôi... Các biến thể nhịp ba C-moll đơn giản cực kỳ hợp với tâm trạng bài thơ của tôi”.
Bài hát đã được một thanh niên tốt nghiệp Học viện âm nhạc ghi lại với giá năm đồng pengő. Chủ nhật buồn đã nhanh chóng được hát khắp nơi, được danh ca Kalmár Pál đưa vào chương trình biểu diễn. Nhưng sự vui mừng của các tác giả không kéo dài lâu, vì một loạt ca tự tử được cho là do tác động của ma lực bí ẩn và sự ám ảnh của nó. Đầu tiên là cái chết của một cô hầu phòng do uống thuốc độc và bên cạnh xác cô người ta tìm thấy bản nhạc. Một tuần sau, một chuyên viên bộ tài chính tự sát bằng súng lục trên xe taxi, cùng với thư tuyệt mệnh người ta còn thấy bản nhạc Chủ nhật buồn. Người ta cho rằng, riêng ở Hungary thời kỳ đó, có ít nhất 17 trường hợp đã tìm đến cái chết sau khi nghe Chủ nhật buồn. Ngày 7-11-1935, “Báo 8 giờ” đã mở cuộc tấn công phê phán Chủ nhật buồn và gọi nó là “ca khúc sát nhân”. Từ ngày 13-24 tháng 11 năm ấy, đã có tới 278 tờ báo ở Thụy Sĩ, Pháp, Ý, Đức viết về Chủ nhật buồn và làn sóng tự tử ở Hungary, báo chí gọi Chủ nhật buồn là bản “Quyên sinh ca” hay “Bài ca chết chóc”. Không lâu sau, cơn sốt lan sang Mỹ, tờ New York Times đưa tin ở Budapest hàng loạt người đã nhảy xuống sông Danube tự tử vì tác động của Chủ nhật buồn?! Bài hát đã bị cấm phổ biến và cấm hát ở nhiều quốc gia, vì tác động tiêu cực của nó. Nhưng một thời gian sau, cơn sốt tự vẫn - như một cơn lên đồng tập thể - qua đi, ca khúc lại được hát trở lại và trở thành một bản tình ca bất hủ.
Màn ra mắt ấn tượng ở Paris
Một người Pháp đã sang Budapest, trong một quán cà phê, ông yêu cầu ca sĩ hát Sombre Dimanche, sau đó ông mang bản nhạc về dàn dựng trên sân khấu Olimpia ở Pari. Trước khi Ray Ventura, ca sỹ lừng danh thế giới hát ca khúc, người đứng đầu ban nhạc đã giới thiệu ca khúc, ông ta kể rõ ở thành phố nào bao nhiêu người đã tự tử do tác động huyền bí của ca khúc này. Đến điệp khúc đầu tiên tay trống của ban nhạc rút súng ngắn (giả) bắn vào đầu. Tiếng súng nổ đã gây một hiệu ứng chưa từng có trong khán giả. Sau “cái chết” của tay trống, người chơi kèn rút dao tự đâm vào ngực. Rồi một người hầu đưa cốc thuốc độc tới cho nghệ sĩ Saxofon. Trên sân khấu thưa vắng dần, chỉ còn cây vĩ cầm tiếp tục chơi Chủ nhật buồn, cuối cùng một chiếc thòng lọng được buông xuống và Ray Ventura chui đầu vào thòng lọng, kết thúc bản nhạc.
Sau buổi trình diễn khác thường này, Chủ nhật buồn và Seress Rezső trở nên nổi tiếng khắp thế giới, trong khi ở Hungary, giới chuyên môn vẫn đánh giá rất thấp tác giả của nó. Năm 1936, Chủ nhật buồn lần đầu tiên tới Mỹ dưới tựa đề “Gloomy Sunday”, được các tên tuổi lớn nhất Như Luis Amstrong, Bing Crosby, Frank Sinatra, Paul Robson, Ray Charles... thể hiện. Làn sóng tự tử cũng lan rộng gần như khắp châu Âu. Người ta nói, kể từ “Werther” của Goethe, không một tác giả nào - dù ngoài ý muốn - đã biến tự tử thành “mốt thời thượng” đến như vậy.
Thành công cũng ngoài sức tưởng tượng, chỉ trong vài năm ca khúc đã được dịch ra 28 thứ tiếng, bản nhạc, đĩa hát được in rất nhiều và phổ biến khắp thế giới. Giai điệu sầu não, buồn đau, tang tóc của Chủ nhật buồn bao trùm lên nhiều quốc gia trên thế giới, từ Trung Quốc tới châu Mỹ, châu Phi và cả ở Việt Nam, qua bản dịch của nhạc sĩ Phạm Duy từ đầu thập niên 50 của thế kỷ trước với những giọng ca sáng giá một thời của làng ca nhạc Việt như Khánh Ly, Duy Quang, Chế Linh... 
Số phận long đong
Seres Rezső có tuổi trẻ long đong lận đận, nhiều năm tháng sống trong thiếu thốn, nghèo khó. Tuy nhiên con người nhỏ thó, vui tính đó lại may mắn trong đường tình. Bà Hélenke, một phụ nữ được coi là đẹp nhất Pest thời đó, vì mến tài ông, đã bỏ người chồng là một sĩ quan lương cao bổng hậu đến với người nghệ sĩ nghèo, làm người nâng khăn sửa túi cho ông. Suốt đời, ông chỉ chơi nhạc, không tham gia vào chính trị, nhưng tai họa vẫn tới. Cuối Đệ nhị Thế chiến, do nguồn gốc Do Thái, Seress bị bắt đi lao động khổ sai. Trong một trại tập trung của phát xít Đức, trong khi cùng một số người khác đang phải tự đào mồ chôn tập thể, thì ông được một sĩ quan Đức cứu sống. Chả là, trong thời gian Budapest bị quân đội Đức chiếm đóng chiếm đóng, viên sĩ quan này đã từng tới quán Kulacs nghe Seress hát Chủ nhật buồn, và vì mê bài hát này mà y đã tha chết cho tác giả của nó.
Sau chiến tranh Seress lại trở về Budapest, ông quay lại với những khán thính giả nghèo khó, trung thành của mình trong quán rượu Kispipa, và chính ông cũng sống cuộc đời nghèo khó thiếu thốn đủ đường. Một hôm, có một nhân viên của IRWING Trust Bank từ New York sang tìm gặp và thông báo với ông: họ đã giữ cho ông một tài khoản 370 ngàn USD, tiền bản quyền tác phẩm. Chỉ cần đích thân ông sang Mỹ nhận tiền, vì Hungary là nước thua trận phải bồi thường cho phe đồng minh, họ không thể chuyển tiền sang cho ông. Nhân viên này còn chuyển lời mời của Oscar Peterson, sang dự buổi hòa nhạc đầu tiên của ông với dàn nhạc giao hưởng ở Carnegie Hall, New York. Chỉ cần sau bản “Gloomy Sunday” ông cùng nghệ sĩ dương cầm nhạc Jazz danh tiếng này ra chào khán giả. Ông đã nhiều lần được mời sang nước ngoài, mời ký những hợp đồng béo bở. Nhưng Seress không đi, ông nói ông sợ đi máy bay, đứng trên ban công ông còn chóng mặt. Hơn nữa ông đã mơ thấy định mệnh của mình, ông sẽ chết do rơi từ trên cao. Ngay cả đi trên cầu ông cũng sợ, có tới cả chục năm ông không qua sông sang Buda, nửa bên kia của thành phố Budapest.
Và số phận thật trớ trêu, một ngày tháng Giêng năm 1968, mệt mỏi vì bệnh tật và cô đơn sau cái chết của vợ, rơi vào trang thái trầm cảm kéo dài, ông đã ra ban công căn hộ trên tầng 4, nhảy xuống đường tự tử. Cũng có giả thuyết cho rằng, đó chỉ là một vụ tai nạn: ông ra kéo lại rèm cửa và bị trượt chân ngã xuống đất. Nhưng khả năng lớn hơn là ông đã tự tìm đến cái chết. Ông không chết ngay, mà bị thương nặng và được đưa vào bệnh viện. Nhưng sau nhiều ngày chịu đựng đau đớn ông lại tìm đến cái chết bằng một sợi dây thép tự xiết cổ, ở tuổi 69. Nhưng chính những ca khúc nổi tiếng của ông, đặc biệt là “Quyên sinh ca” Chủ nhật buồn đã biến tên tuổi tác giả của nó sống mãi với người yêu âm nhạc trên khắp thế giới.
Chú thích:
* Tham khảo các tài liệu Hungary.
Chủ nhật buồn
(Lời Việt của nhạc sĩ Phạm Duy)
Chủ nhật buồn, đi lê thê
Cầm một vòng hoa đê mê.
Bước chân về với gian nhà,
Với trái tim còn nặng nề.
Xót xa gì? Oán thương gì?
Đã biết mùi hương chia ly.
Trót say mê đã yêu thì
Dẫu vô duyên còn nặng thề.
Ngồi một mình, nghe hơi mưa,
Mặc lệ tràn câu thiên thu.
Gió hiên ngoài nhắc một loài
Dế giun hoài ru thương ru.
Ru hỡi ru hời!
Chủ nhật buồn, tôi im hơi
Vì đợi chờ không nguôi ngoai.
Bước chân người nhớ thương tôi,
Đến với tôi thì muộn rồi!
Trước quan tài, khói hương mờ
Bốc lên như vạn ngàn lời.
Dẫu qua đời, mắt tôi cười
Vẫn đăm đăm nhìn về người.
Hồn lìa rồi, nhưng em ơi,
Tình còn nồng đôi con ngươi,
Nhắc cho ai biết cuối đời
Có một người yêu không thôi
Ru hỡi ru hời!

Lời dịch nghĩa (Từ nguyên bản tiếng Hungary của GVC):
Ngày Chủ nhật buồn
anh đợi em với trăm bông hoa trắng
và lời nguyện cầu.
Sáng Chủ nhật đuổi theo những
giấc mơ
chiếc kiệu buồn
quay về không có em.
Từ hôm đó
Chủ nhật nào cũng buồn
nước uống của anh chỉ là nước mắt
bánh mì của anh là khổ đau.
Chủ nhật buồn.
Chủ nhật cuối cùng
em yêu ơi đến nhé
sẽ có cả cha cố và quan tài
nơi quàn linh cữu và khăn tang.
Sẽ vẫn là hoa chờ đợi hoa và áo quan.
Dưới những hàng cây nở hoa
anh đi chuyến cuối.
Anh sẽ mở mắt
Nhìn em một lần nữa.
Em ơi đừng sợ
Dù đã chết anh vẫn phù hộ em...
Chủ nhật cuối cùng...
Chú nhật buồn
Phạm Duy - Khánh Ly
26/9/2020
Giáp Văn Chung
Theo https://tiasang.com.vn/

Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng, nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu - Hoài Khanh

Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng, 

nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu - Hoài Khanh

(TM tặng anh Ái Văn để đáp lại cd Đăng Khánh anh gởi trong đó có bài Mắt Em Vương Giọt Sầu)

Phỏng từ hai câu thơ cuối của Hoài Khanh trong bài “Ngồi Lại Bên Cầu”, Đăng Khánh viết bài “Mắt Em Vương Giọt Sầu” và chấm dứt bằng câu Ta ngồi lại nghiêng đời bên tuyết trắng, nghe gió về vin cửa gọi đơn côi… Nghe hoang liêu làm sao từ lúc tôi nghe được bài hát này mà giật mình nhớ lại bài thơ năm xưa của Hoài Khanh tôi thương lắm chép vào nhật ký của mình. Hoài Khanh qua đời chỉ hai tháng trước thôi, lặng lẽ để lại ít xôn xao, nhưng là người thi sĩ được viết đến nhiều nhất trong đó có Bùi Giáng, Tuệ Sỹ và Phạm Công Thiên.

Tôi gởi đây bài hát “Mắt Em Vương Giọt sầu” của Đăng Khánh và bài thơ “Ngồi Lại Bên Cầu” của Hoài Khanh, Trần Trung Đạo diễn ngâm.
Tống Mai
May 20, 2016

MẮT EM VƯƠNG GIỌT SẦU
Nhạc: Đăng Khánh  Tuấn Ngọc

Tình yêu, từ xa xưa như trái đắng
Ngày chưa đi tiếng hát bỏ câu thề
Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng
Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu

Thời gian làm thu phai trên suối tóc
Buồn trên môi nước mắt chẳng thay mầu
Ta về lại thăm vườn xuân hoa cũ
Bên giáo đường nghe kể chuyện tương tư

Tình vẫn hoang mang tiếng buồn vọng mãi
Dòng nước trôi mau em sẽ về đâu
Màu thời gian hoang vắng
Đã chết một đời sau

Tôi bên bờ dĩ vãng
Mắt em vương giọt sầu
Đành thôi cành phong xưa nay đã chết
Rồi mai kia bóng sẽ bỏ xa người
Ta ngồi lại nghiêng đời bên tuyết trắng
Nghe gió về vin cửa gọi đơn côi

NGỒI LẠI BÊN CẦU
Thơ Hoài Khanh
Trần Trung Đạo diễn ngâm
www.youtube.com/watch?v=S8l53jKXuOU

Người con gái trở về đây một bận
Con đường câm bỗng sáng ánh diệu kỳ
Tôi lẩn trốn vì thấy mình không thể
Mây của trời rồi gió sẽ mang đi

Em thì vẫn nụ cười xanh mắt biếc
Màu cô đơn trên suối tóc la đà
Còn gì nữa với mây trời đang trắng
Đã vô tình trôi mãi bến sông xa

Thôi nước mắt đã ghi lời trên đá
Và cô đơn đã ghi dấu trên tay
Chân đã bước trên lối về hoang vắng
Còn chăng em nghĩa sống ngực căng đầy

Quá khứ đó dòng sông em sẽ ngủ
Giấc chiêm bao nguyên vẹn có bao giờ
Ta sẽ gặp trong ý tình vũ bão
Con thuyền hồn trở lại bến hoang sơ

Rồi em lại ra đi như đã đến
Dòng sông kia cứ vẫn chảy xa mù
Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng
Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu

GIỚI THIỆU THƠ HOÀI KHANH, "THÂN PHẬN"
PHẠM CÔNG THIỆN

Thôi nước mắt đã ghi đời trên đá
Và cô đơn đã ghi dấu trên tay

Chiều 30 Tết, sương mù xuống nhiều, hai người lang thang trên mấy nẻo đường ở Đà Lạt…

Hoài Khanh bỏ Biên hòa và lên Đà lạt ăn Tết với tôi. Bạn bè dăm đứa hắt hiu cuối trời… Hôm đó, tôi đi vắng. Hoài Khanh bơ phờ đứng chờ tôi. Vừa bước về nhà, chợt thấy Khanh, tôi rưng rưng ôm anh mà hôn… Xa nhau bao ngày, bây giờ lại trùng phùng nơi cảnh trời thơ mộng vào ngày cuối năm. Ngày trước khi chia tay nhau chúng tôi có ngờ đâu lại gặp nhau trong một khung cảnh thiên đàng, giữa mùa hoa đung đưa, dưới bầu trờ đầy mây trắng lê thê trong hơi xuân mơ hồ của Đà lạt. Chúng tôi dẫn nhau lang thang trên những đường phố tối tăm nhất, lắng nghe tiếng chó sủa và lắng nghe tiếng lòng mình rạo rực đau khổ vì quá bơ vơ, vì quá lạc lõng giữa sa mạc loài người. Người này nắm tay người kia, dắt nhau đi, lê thê như hai người mù đi xin ăn giữa phố chợ: chúng tôi đi ăn mày một chút tình thương giữa con người, một chút giao cảm, một chút rộng lòng, một ánh lửa ấm áp giữa đêm lạnh nhất và đen tối nhất của ngày cuối năm. Người ta chết và không hạnh phúc.

Cuộc đời đã quá nhiều ngộ nhận. Đêm ba mươi Tết không mưa. Chúng tôi nhắc đến những người bạn khác, nhắc đến Bùi Giáng, Hoàng Trúc Ly,… Mỗi người bơ phờ ở một góc trời, ôm một nỗi lòng tha thiết, nồng nàn dâng trọn hồn mình cho đời.

Hoài Khanh ở với tôi được vài ngày, rồi không hiểu sao, tôi lại đuổi Khanh về Biên hòa… Tôi chịu anh không được. Ngày anh đến, tôi hôn anh. Ngày anh đi, tôi muốn anh đi cho phức mắt.

Mấy ngày anh ăn Tết với tôi ở Đà lạt, anh chỉ im lặng và ít nói. Chúng tôi thương nhau lắm. Thế mà chỉ nhìn nét mặt của anh và chỉ nghe sự im lặng của anh, tôi kinh hoàng đi. Tôi muốn đuổi anh đi ngay, tôi muốn đuổi một hình ảnh hãi hùng: tôi muốn được thanh bình trong tâm hồn trong những ngày này. Bởi vì đây là hình ảnh bi đát của Đời, của con người, của một kẻ bị đày giữa bãi đất hoang tàn của nghĩa địa trần gian. Nhìn nét mặt Khanh, tôi thấy sự Chết, tôi thấy Bệnh hoạn, Đau khổ, Quằn quại, Khắc khoải, Ray rức, Xao xuyến, Hãi hùng, Hoang liêu, Cô đơn; tôi thấy sự Chiến bại, sự Thất vọng của con người. Nghe sự im lặng của Khanh, tôi cảm thấy Thượng đế, tôi cảm thấy Quỷ ma, tôi cảm thấy Tiếng nói của một ngàn đêm, hai ngàn đêm, triệu ngàn đêm, tiếng nói của muôn triệu ngàn đêm vọng về hiu hiu trong lòng nhân thế. Tôi không muốn nghe, cũng như bao nhiêu người khác cũng không muốn nghe, bởi vì đó là tiếng nói của sự thật: Tiếng nói của dòng sông vạn ngàn năm chảy trôi về biển. Dòng sông kia cứ vẫn chảy xa mù…

Tôi muốn trốn thân phận con người, tôi không muốn nhìn hình bóng lẻ loi của một kẻ bị đày ở cuối trời miên viễn… Tôi lẩn trốn vì thấy mình không thể… không thể được. Không thể trốn. Chỉ còn cách tự tử như Hemingway trong một cơn khủng hoảng thác loạn. Nếu không làm thế thì đứng lại mà trừng mắt ngó nhìn nét mặt Khanh, lắng nghe sự im lặng của Khanh và đừng chạy trốn nữa.

Thế rồi cách đây một tuần, lúc về Sài gòn, tôi có ghé lại Biên hòa để gặp Khanh. Khanh chỉ ở một mình, trong một căn nhà tồi tàn, tôi nhìn lên vách và gặp những bức tranh của Michel Ange, của Van Gogh và Picasso, những bức ảnh của Pasternak, Evtushenko, Salinger, Hemingway và Camus, rồi tôi nhìn Khanh. Bỗng nhiên, tôi thấy tất cả sự vật ngừng lại, cả thế giới đứng lặng lờ và Hoài Khanh cũng đứng lặng lờ như một bức ảnh treo tường; tôi bay ra ngoài thế giới này và có cảm tưởng như là một hồn ma trở về viếng lại thế giới loài người, ngắm lại những hình ảnh bất di bất dịch của con người giữa dòng đời trôi chảy và trong một thoáng giây, tôi lắng nghe được tiếng nói miên man của sự im lặng đưa vọng ra từ đôi môi bất động của những bức ảnh kia và bỗng nhiên tôi thấy sống lại và không còn là hồn ma nữa, tôi nhìn mấy ngón tay, nhìn lại người mình đã mang lại xác người và tôi nhìn lại Hoài Khanh, tôi thấy anh không còn là một bức ảnh nữa. Anh cũng cử động như tôi và anh mở miệng cười. Tôi cũng mở miệng cười, nụ cười của một người mà linh hồn vừa mới thoát ly ra thể xác.

Đà Lạt ngày 26 tháng 4 năm 1962
Phạm Công Thiện

HOÀI KHANH
BÙI GIÁNG

Từ Dâng Rừng tới Thân Phận, Hoài Khanh đi một bước riêng biệt choáng váng trong dòng lục bát của ông. Ông không bị một ảnh hưởng nào gò bó. Ông chỉ chịu ảnh hưởng của trời, của sương, của dòng sông, bến quạnh quê hương.

Thỉnh thoảng cố nhiên, ông bị vướng lụy trong bầu khí hậu văn nghệ của hiện tình đất nước chia năm xẻ bảy, ông ngượng gạo viết vài bài khổ nhọc không có cách điệu bồng bềnh bất tuyệt trầm hùng của ông. Nhưng đó là trường hợp hy hữu thôi.

Riêng biệt những bài “xuất thần” bi ca của ông, thì quả thật vô song bát ngát.

Ngày sương thành phố dâng mùa
Bóng thu chìm tịnh cành thưa khởi vàng
Tôi hoài trên bước lang thang
Yêu em vô lượng mà mạn dại buồn
Tóc huyền đó lạnh như sương
Mắt huyền đó mộng bình thường không em
Mỗi đêm nhớ gió trăng tìm
Bãi sông triều dậy đi niềm chia phôi

Khí thơ đi trầm trầm tịch nhiên mà thống thiết như một khúc tân đoạn trường kết tụ dưới thanh hiên.

Mắt em hồ vỡ cung đàn
Thôi xuân nào cũng mộng tàn đêm thâu
Ngùi thương bóng nhỏ giọng sầu
Cõi kia cũng quạnh quẽ màu lưu linh

Thường mỗi phen đọc bài thơ hay, tôi quen thói hình dung tâm hồn ông Nguyễn Du. Tôi tự bảo: nếu ông Nguyễn Du đọc những bài thơ ấy, ông sẽ nghĩ sao về bọn hậu bối.

Suốt bài thơ, dường chẳng thấy sự tình gì xảy ra hết cả. Chỉ nghe một dòng sông đi. Một triều sóng động.

Người ta chấp nhận bài thơ như chấp nhận một trận mưa rào xuống ruộng tình biển ái.

Người ta đi vào bài thơ như đi vào cõi như lai tịch mịch ngậm ngùi. Như đi vào một cung đàn diễm ảo nhớ nhung khép mở, gây một trận tịch hạp chon von, cho nảy ra một niềm đốn ngộ. Người ta không biết đâu bờ bến để phân tích. Không còn chủ nghĩa. Không còn lập trường. Chỉ còn một niềm phiêu dật hồn nhiên tự phóng nhiệm hòa vào cây cỏ, nước mây, là môi trường riêng tây của thi sĩ:

Biển mù mịt đó mưa đan
Tôi ngàn năm nhớ nào tàn mộng xưa
Vi vu màu gió đi mùa
Núi non đồng vọng cũng thừa xót thương
Đà nghe đất dậy môi trường
Cõi miên viễn bỗng vô thường thanh âm
Bơ vơ chiều dựng chuông trầm
Sông dài trôi quạnh hồi âm nẻo nào

Ta nhớ lại cung bậc ban đầu của Dâng Rừng:

Lối xưa mây xám nghẹn màu
Thuyền xuôi qua mấy nhịp cầu chênh vênh
Tóc huyền chìm mấy mông mênh
Thiên thai đâu nhỉ mà quên lối về
Cố nhân chưa vẹn câu thề
Sắt son là mảnh hồn quê ngậm ngùi
Vào thu mây trắng tim rồi
Đêm sâu bỗng lạnh tiếng cười tri âm

Nhưng tại sao lại phải ghi ra nhiều nữa? Hoài Khanh đã hồn nhiên đưa nguồn thơ mình vào lục bát, hồn nhiên dẫn lục bát về cõi uyên nguyên, bỗng nhiên lại khơi mạch gì khiến uyên nguyên trào trở dậy trong vẻ tân kỳ bình đạm thiết tha:

Người ơi năm tháng là gì?
Phải chăng mấy khóm tường vi héo mòn
Đố ai che mảnh trăng tròn
Đố ai đo được lòng son của đời

Thật không thể tưởng tượng. Ông bạn thuở ấy còn nhỏ tuổi, giọng thuần phác như nhiên, đùng một cái, đứng song song lên ngang những thi bá đời Đường mà uyển chuyển như câu hát Kinh Thi, lại pha màu cay đắng của thời đại lao lung nhược tiểu:

Biết bao giờ! đến bao giờ
Cố nhân thì chỉ hững hờ mà thôi
Khách qua tàu đã xa rồi
Là thôi còn một góc trời chênh vênh
Nắng mưa còn thắm ân tình
Dâng đời tất cả riêng mình héo hon

Con tàu nhược tiểu đi đâu như thế? Nó trao được chút gì cho tứ hải hay không? Nó lận đận điêu linh, nó nhẫn nại trong đêm dài bối rối, nó chắp nhặt ân tình, nó mang trở đi đâu, nó mang về không dứt khoát, nó làm hết nhiệm vụ mình và có thể cứ như hờ hững trước mọi tiếng tương giao:

Tàu qua tàu lại vẫn còn
Ngói trơ sương nắng dáng mòn cỏ rêu
Sáo ai buông xuống lưng chiều
Nhà ai lên khói mà nhiều đắng cay
Tàu qua tàu lại đêm ngày
Khăn xanh nào vẫy bàn tay nào mềm
Lệ ai nhỏ ướt sân thềm
Tàu qua thì cả ân tình theo qua

Theo qua là qua mất? Hay theo qua là qua về? Qua lại? Qua đi? Qua bờ bỉ ngạn? Kết tụ tử sinh ? Không biết. Không biết? không biết.

Chỉ biết rằng thi sĩ đã đặt bàn tay thân ái vào giữa cõi lang thang. Và toàn thể quê chung đã quy về cảm thương trong cô độc.

Nát từng nếp áo hoàng hoa
Tâm tư lạnh cả bài ca độc hành
Nhịp đời lẻ khúc thơ xanh
Thế nhân chẳng khóc nhưng tình đơn côi
Lòng ga còn trọn cuộc đời
Chỉ đưa chỉ đón là thôi chứ gì?

Đón đưa gì nhỉ? Tại sao vừa như Tố Như Tử, vừa như Tử Tố Như? Vừa không phải Tố Như Như Tố gì cả?

Chút riêng chọn đá thử vàng
Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu
Còn như vào trước ra sau
Ai cho kén chọn vàng thau tự mình?
Mặc người mưa sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?

Thế ra Hoài Khanh đã chạm vào chỗ cốt yếu mà Nguyễn Du đã dành riêng cho tâm sự Thúy Kiều? Anh định làm cái gì thế?

Mùa thu chừ đã đi qua
Lá khô bớt rụng sương sa lại nhiều

Lơ đễnh một chút, ắt ta không ngờ rằng những dư vang thâm hậu Nguyễn Du đã được âm thầm khơi dẫn trở lại một cách kín đáo u nhã u nùng?

Lần lần tháng trọn ngày qua
Nỗi gần nào biết đường xa thế này
Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
Lần lần thỏ bạc ác vàng
Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn.

Thì chính đó là mạch sầu riêng biệt đã đi về ám lấy núi non. Hoài Khanh ngày xưa không đọc gì nhiều Nguyễn Du, nhưng anh đã hồn nhiên nằm ngay vào giữa mạch sầu thiên cổ của thiên tài Hồng Lĩnh.

Gió lên cuồn cuộn lưng đèo
Chao ôi tâm sự biết chiều hay đêm

Ấy bởi vì quê hương Phan Thiết của anh, với sông, núi, đèo, truông hiu quạnh, những “chiều gió nồm” quả chứa chan màu sắc núi sông Hà Tịnh. Tâm hồn con người cũng được hun đúc trong bầu khí hậu long lanh ngang trái phảng phất những oan nghiệt biển dâu, thôi thúc con người đi suốt xứ tìm trong viễn vọng chiêm bao những ân tình chung thủy:

Em ơi tháng sẽ về năm
Tình ơi chung thủy về thăm mộng lành
Ngàn ngày núi biếc hương xanh
Cho nhau một tấm lòng thành mà thôi

Chúng tôi tưởng, nếu người đọc thơ không có một ý niệm gì hết về phong cảnh núi đồi Hà Tịnh, Phan Thiết, Phan Rang, Tipasa… những phong cảnh bao la ngậm ngùi, đất nước quá đẹp và quá đau thương, nếu không nhìn bằng hai con mắt những sự tình đó suốt bình sinh, ắt sẽ không rõ từ đâu mà những bản bi ca lại xuất hiện trong Dâng Rừng giữa xuân xanh như thế.

Ngàn sâu lắng xuống mịt mùng
Lãng du đêm quạnh lại chùng bước chân

Từ đó chúng ta miên man đọc lại những chiều “xa quê hương nghe gió nồm”, chúng ta trở lại với Dâng Rừng, cùng thi sĩ gọi lại những âm thanh không lời, những lời không có tiếng:

Cố nhân ơi đã đành xa
Thâm u vọng tưởng bài ca sang mùa
Khói hương còn quyện mái chùa
Sắt se chi nữa mà mua tị hiềm
Rừng thiêng mòn mỏi cánh chim
Cũng không giết chết buồng tim đợi chờ
Rồi mai lá rụng cành trơ
Cuốn bao nhiêu gió chép thơ tặng đời

(Dâng Rừng)

Ngậm ngùi một nửa quê hương
Lạnh lùng một dáng chiều buông rủ sầu
Hồn về sáng lại đêm thâu
Lửa hương cầu nguyện cho nhau thâm tình
Không gian chiều xuống thay hình
Thời gian giữ mãi tâm tình trong ta

(Sầu Chiều)

Tập Dâng Rừng cố nhiên có vài chút tạm gọi là “khuyết điểm” theo quan điểm văn nghệ thời nay. Nhưng những khuyết điểm hoặc nhược điểm kia, chính là những đặc ân, ưu điểm của tuổi trẻ. Ngày mai lớn lên, ta khắc phục được những nhược điểm kia, thì cũng chính ngày đó chúng ta đành mất cõi thanh xuân, linh hồn bắt đầu tàn tạ, khép kín. (Kín là kín bưng, kín bít, chứ không phải kín đáo u huyền).

Nhưng làm sao có thể khép kín mãi được? Hãy thư thả nghe lại cung bậc lục bát dị thường trong Thân Phận:

Chim bay tàn bóng xa mù
Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi
Nằm đây lạnh suốt mặt trời
Hoài thương quá khứ đã ngùi phiêu linh

Phố xưa hồn đẫm lệ mình
Sông xưa chiều đã lênh đênh mấy mùa
Nghe tàn cõi mộng hoang thưa
Con chim lại hót trên mùa lang thang

Mắt em hồ vỡ cung đàn
Thôi xuân nào cũng mộng tàn đêm thâu
Ngùi thương bóng nhỏ giọng sầu
Cõi kia cũng quạnh quẽ màu lưu linh…

Màu lưu linh

Chim bay tàn bóng xa mù
Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi

Màu lưu linh là màu lưu ly, linh đinh, hay lung linh sương bóng. Màu lưu linh là một tiếng lãng đãng chia phôi.

Nếu nghĩ tới Kiều, thì đó là màu sắc nhuộm suốt một đời lưu lạc của nàng. Và trong đó không chỉ có đoạn trường thôi? Ly biệt, chia phôi? Nhưng còn ý nghĩa riêng của tu hành trong cuộc Lữ.

Nếu nghĩ tới Nerval, thì màu lưu linh của Hoài Khanh chính là màu của huyễn mộng Les Chi-mères, màu của el desdichado (kẻ lang thang trần trụi, không chỗ dung thân khắp bến bờ đất trích).

Je suis le ténébreuxe le veuf l’inconsolé
Le prince d’Aquitaine à la tourablie
Ma seul etoile est morte - et mon luth constellé
Porte le Soleil noir de la Mélancolie…

(Ta là kẻ âm u, kẻ góa vợ, kẻ khôn nguôi Hoàng tử của một cung thành vùi lấp).

Đã tử diệt là Ngôi Sao duy nhất
Mặt trời đen là cung bậc ta ca
Vừng Hắc Ô bám chặt cây đàn ngà
Ảo mộng của mối Sầu U suốt kiếp

Màu lưu linh của Hoài Khanh ngân lên cung bậc dị thường kia của ông Chúa Siêu Thực Tây Phương, mà ngân lên trong tiết điệu dịu dàng đôn hậu của lục bát. Cái mới thật là kỳ.

Chim bay tàn bóng xa mù
Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi

Hai câu đơn giản như thế cũng đủ sức xô ùa những Nerval Hölderlin vào cuộc hội đàm vô thanh vô tức với Nguyễn Du. Cuộc hội đàm của bọn người cô độc. Và tuổi tôi chỉ riêng sương lạnh ở lại đền bù.

Người ta có thể hỏi: giọt sương hao mòn như thế, hột sương ở lại đền bù, thì đền bù được bao lăm?

Nhưng thi sĩ vẫn hồn nhiên tha thiết bảo:

Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi

Sương của mùa thu dằng dặc? Vì mùa xuân đã chết? Mùa xuân đã tàn phai theo cánh chim bay tàn bóng xa mù. Tôi còn biết làm sao buộc cánh nó lại? Mà buộc lại để làm gì? Tôi xin chấp thuận cuộc chuyển dịch kia và đem lời thơ trao nhau làm tặng vật.

Dâng đời tất cả riêng mình héo hon

Đó là ý nghĩa của câu thơ Dâng Rừng.

Nằm đây lạnh suốt mặt trời
Hoài thương quá khứ đã ngùi phiêu linh
Phố xưa hồn đẫm lệ mình
Sông xưa triều đã lênh đênh mấy mùa.

Phố xưa sông xưa, là sông phố ở một tỉnh lỵ nhỏ miền Trung? Gió biển thổi vào từng trận, những chiều hè tha thướt hoang liêu, những buổi sáng mùa đông thảm đạm. Một giai nhân dị thường như những Sylvie, có lẽ đã cư lưu tại phố đó. Và một mối tình tuyệt vọng có lẽ đã đem lệ về làm đẫm ướt phố xưa. Sylvie, Adrienne, Diotima, Alissa… vân vân… Những con người như thế vốn từng đã khiến những thiên tài Hà Tịnh viết nên những lời:

Ví chăng duyên nợ ba sinh
Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi

Hoặc:

Hồn lưu lạc chưa hề thờ một chúa
Yêu một người, ta dâng cả tình thương

Nhưng tình thương đó đã vô vọng và vì thế nó đã biến thành một thứ gì không tuổi không tên, nhân gian không có lời gì để gọi nó ra được nữa. Gọi nó là màu lưu linh. Màu lưu linh đã giết con người ta chết từ sơ ngộ, người ta sẽ bỏ phố xưa sông cũ ra đi để suốt đời nghe tiếng chim thuở ban sơ về hót…

Nghe tàn cõi mộng hoang thưa
Con chim lại hót trên mùa lang thang
Mắt em hồ vỡ cung đàn…

Trên bước lang thang người thơ gieo những cung bậc vào cung đàn mà mỗi phen mỗi thấy hiện ra trước mắt mình hai con mắt thiên tiên của công chúa, và hai con mắt u huyền đó đã làm vỡ cung đàn bất tuyệt của tài hoa. Và mỗi phen lại nghe cung đàn mình chết lịm trong cung đàn sơ khai kỳ ảo.

Il est un air pour qui je donnerais
Tout Rossini, tout Mozart et tout Weber
Un air très vieu languissant et funèbre
Qui pour moi seul a des charmes secrets

Hoài Khanh chẳng bao giờ đọc Nerval, và có lẽ ngày xưa anh cũng chẳng đọc gì Nguyễn Du, Huy Cận.

Nhưng tâm hồn anh mang chứa tinh thể thi nhạc những tâm hồn kia. Những Mozart, những Chopin, những, những…

Tôi vốn là kẻ rủi ro thuở mười lăm mười sáu đã gặp Huy Cận Nguyễn Du Nerval. Tôi đã giã từ hết sách vở meo mốc nhà trường về quê sống với chuồn chuồn châu chấu. Thì cái ngày lạc lối vào Sàigòn, bỗng nhiên tao ngộ tiếng thơ Dâng Rừng, tôi tưởng mình được phép nói vài lời tuyệt đối, mặc dù ngày đó tôi chưa quen biết Hoài Khanh. Tôi nói với ông Tạ Ký dịp nào gặp Hoài Khanh thì dẫn anh tới nhà chơi một cuộc. Từ bấy tới nay ngót mười năm.

Hoài Khanh là hồn thơ thuần nhiên điền dã.

Vậy thì cái bản “hòa âm điền dã” của anh tất nhiên ngân lên một âm thanh gì khó lọt vào thính quan người văn nghệ phồn hoa. Mỗi người hãy xin mang trọn cái nghiệp mình trong cái vũ trụ riêng mình. Rồi mai sau, sẽ có dịp bất ngờ cái vũ trụ riêng mình sẽ chan hòa vào cái càn khôn chung thiên hạ. Chẳng nên sớm vội vã cưỡng cầu.

Chỉ thử tưởng tượng xem. Những kẻ hồn lạc loài ngay từ thuở sơ sinh bỗng một hôm gặp Nàng Thơ đẹp nguy nga như hoàng hậu trong bầu không khí ba cha bảy mẹ thế kỷ này… Thì từ đó?

Il est un air pour qui je donnerais
Tout Rossini tout Mozart et tout Weber…

(Trích “Đi vào cõi thơ” của Bùi Giáng) 

LỤC BÁT THƠ HOÀI KHANH
Tuệ Sỹ

Một thời xa xưa, đã qua rồi; tuổi thơ được nuôi lớn bằng lời ru của Mẹ. Những buổi trưa nhiệt đới, mặt trời nóng chảy, hoang vắng như tàn bạo, song đẹp một cách huyền ảo ngây người bởi giọng ru tha thiết theo nhịp tiếng võng đưa, quyện theo âm điệu bất chợt vang vọng xa vời.

Tuổi ấu thơ ấy, những ngày đầu tiên mới mở mắt chào đời ấy, không ai còn nhớ. Lớn lên một chút, tôi biết lắng nghe cô bé hàng xóm ru em, để mường tượng lời Mẹ ru khi mình còn tấm bé. Bé cũng bằng tuổi tôi thôi; còn bé lắm, chưa ẵm nổi em mười mấy tháng. Cô bé đưa võng em, những lời ru liên miên bất tận, không biết từ đâu, mà cô hát lên theo cảm hứng ngẫu nhiên, theo vần điệu tự nhiên. Cô bé không được đi học, không biết chữ. Thơ là hơi thở của Mẹ ru, đã thấm vào da thịt, thấm sâu vào tim. Vần điệu theo lời ru, như con gió qua đồng lúa chín rì rào, không vì sao, không vì ai. Sự sống được nuôi dưỡng, được lớn lên trong những chuyển động hồn nhiên như vậy.

Lời Mẹ ru, khi ta còn quá bé bỏng để nghe và nhớ. Cơ hồ như hoài niệm mông lung về một quá khứ huyền thoại hoang sơ, vừa thoáng qua trong khoảnh khắc mà thôi. Một cái gì đó vô tình, hồn nhiên và tinh khiết, vẽ lên những ảnh tượng mơ hồ, không hình thù, không tên gọi, chập chờn theo nhịp sáu-tám, như à ơi theo tiếng võng đưa. Nó chập chờn trong tôi suốt cả một đời, thăng trầm theo sông nước.

Lớn lên theo năm tháng, như dòng suối trôi qua bến bờ hoang vu, tĩnh lặng, rồi bất chợt đổ xuống ghềnh thác, gào thét và bắn tung bụi nước, qua làng mạc, qua phố thị, ngập tràn khói lửa. Từ đó, trong giấc mơ, nghe lời Mẹ ru rơi trong tiếng khóc nghẹn ngào của chinh phụ. Một thế kỷ đảo điên, điệu lục bát bỗng nghe trong cung bậc lạc loài. Lời thơ thay đổi; điệu thơ thay đổi; một thế kỷ thi ca thay đổi. Nhưng những ai từng lớn lên trong tiếng Mẹ ru, làm sao quên được những câu thơ lục bát? Tôi biết mình không thể làm được một bài thơ lục bát; mà hồn thơ đã bị đẽo gọt qua những khúc quanh phố thị. Phố thị với những khủng hoảng cơ giới. Rồi những đêm, theo dõi bóng trăng mờ, tìm về “cây đa bến cũ, con đò năm xưa”, âm hưởng lục bát của Nguyễn Du chợt đẩy tâm tư vào những bước đường phiêu lưu của lịch sử. Tình cờ, những câu thơ lục bát của Hoài Khanh chợt khuấy động. Nó ngân vang từ phương trời đồng vọng của Nguyễn Du, ngay giữa dòng lịch sử cuồn cuộn sóng, hay bên lề cuộc Lữ tồn sinh. Ấy là âm vang đồng vọng trên những bước chân:

Ngược xuôi bao kẻ đi về
Tấm thân bé mọn bên lề tồn vong
Chuyện đời có có không không
Phù vân một áng bụi hồng xa xa
Cớ sao thiên hạ người ta
Vẫn chưa tròn một Quê nhà bao dung?
Vẫn chưa tỉnh giấc hãi hùng?
Trong cơn trường mộng vô cùng thời gian

(Nhớ Nguyễn Du)

Nó hồn nhiên như lời ru của Mẹ, mà lại cay đắng như thân phận Thúy Kiều. Đó là ngữ điệu của nông dân chất phác, không văn hoa hay tráng lệ như các thể điệu cũ, mới, lại mang nặng trong nó trường thiên bi kịch lịch sử.

Lịch sử bồng bột như tấn kịch trên sân khấu ồn ào. Trong những lúc tỉnh cơn tàn mộng, ta cảm thấy mình như nghệ sĩ giữa đám khán giả cuồng nhiệt nhưng bạc tình. Để cho Thúy Kiều “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, giật mình mình lại thương mình xót xa.” Một ánh sao cô độc, mà vẫn chung thủy, chân tình muôn thuở. Song,

Chắc chi thiên hạ người ta,
Cũng thương cho một cành hoa héo tàn

(Theo Nguyễn Trãi)

Ta yêu người, sao người chối bỏ? Ta yêu đời, sao đời ruồng rẫy? Không đâu. Bóng thời gian đi qua, mấy ai không đầu bạc. Bởi vì con nước trôi xuôi cho nên bến bờ cô độc. Bởi vì thời gian hóa thân thành lịch sử, để cho mặt đất dậy lửa, và khung trời khói ám, người chơi vơi trong cuộc chiến tình thù. Hãy chờ khi dứt cuộc chiến trong ta, khi mặt trời đổ màu xám xanh lên tử thi trên chiến địa, ta đi nhặt những ngôi sao đã tắt trong con mắt lịm của một thời, yêu và hận, sống và chết:

Một phương đã rực suối nguồn
Vai mang xiềng xích vẫn thương bạo tàn

(Cát và sông)

Ta hận người, vì bóng chiều tàn hoang dại. Ta vẫn yêu người trong hơi thở còn ấm giọng Mẹ ru. Vẫn lầm lì trên phố thị, cho hết buổi thanh xuân. Bỗng chốc, phố thị, điện đường, lâu đài, tất cả biến mất. Trong bóng tối mịt mù của ngày tận diệt, ta ngửa bàn tay, chờ đợi. Bất giác, long lanh một ánh sao rừng, như giọt sương ngưng tụ trong tinh thể tồn sinh. Ngày xưa, ta ngủ say trong lòng Mẹ, chợt thấy trên tóc Mẹ một đóa sao cài. Ngày sau, trong cuộc Lữ đi tìm tính thể tồn sinh trong tính thể hủy diệt, đâu đó mơ hồ một đóa sao cài:

Tóc em nửa đóa sao cài
Đã long lanh nỗi lạc loài sương vây

Và tôi hột cát xa mờ
Một đêm nào bỗng tình cờ sương tan

(Trong giọt sương tan)

Hai câu thơ đẹp kinh hồn. Làm sao ta có thể tĩnh lặng, âm thầm, lắng đọng, để nhìn thấy giọt sương lấp lánh trên tóc Ai? Giọt sương soi bóng ngôi sao nào đó lẻ loi, heo hút; giữa một trời sương lạnh buốt kinh người. Đấy thôi, tàn cuộc nhân sinh. Một trời sương bảng lãng. Một vì sao cô độc, lấp lánh, và long lanh như khóe mắt vương nỗi sầu thiên cổ, nỗi sầu trường mộng nhân sinh.

Rồi anh bước đi, và tôi cũng bước đi, từ giã nơi này, vô định, như hột cát xa mờ, để mà

Ngùi nghe trái đất thì thầm
Nhỏ dòng máu lệ kiếp trầm luân sâu.

Trong mỗi bài thơ, trong cả tập thơ, tôi nhặt từng hạt sương, mà chợt nghe lạnh buốt âm thầm, bởi đâu đó trong hoài niệm xa xôi, đôi mắt u huyền của một thời, một đoạn đời đã thành thiên cổ. Những hạt sương trong lòng tay chợt thoáng tan; dòng thời gian ngưng động, để đông cứng thành hạt bụi, ray rứt.
Còn gì nữa chăng?

Trong ta là núi là rừng
Là trăm tiếng hát đã dừng trên môi.

Vẫn còn ngân vang mãi đó, lời ru của Mẹ, trong vần thơ sáu tám.

Tuệ Sỹ

BẰNG HỮU CUỐI TRỜI: NHÀ THƠ HOÀI KHANH
Viên Linh

Kỳ này người bạn thơ ở nửa vòng trái đất phía Ðông xa vời vợi kia hiện ra trong tâm trí người viết là nhà thơ Hoài Khanh, người bạn từ thuở cho tôi xem bản thảo “Dâng Rừng,” sau này năm 1957 trở thành thi phẩm đầu tay của anh.

Còn nhớ Dâng Rừng có cái tranh cắt giấy mầu tím của Phạm Hoán in trên bìa giấy trắng, và những bài thơ của thuở vào đời, mặc dù anh hơn tôi tới bốn năm tuổi. Không chỉ là nhà thơ, bảy tám năm sau Hoài Khanh là thư ký tòa soạn tạp chí Giữ Thơm Quê Mẹ của Sư Ông Nhất Hạnh. Lúc ấy, 1965, Văn Học Phật Giáo lên như diều, báo văn học mà in khổ lớn, ngang dọc 7 inch x 9 inch 1/2 (18cm x 25 cm), cỡ lớn nhất, bìa in nền màu trên giấy trắng (thay vì dùng giấy màu), dầy hơn một trăm trang (nói cách khác, dầy gấp đôi các tạp chí văn nghệ bình thường, vì cũng hơn một trăm trang nhưng khổ nhỏ - nhỏ bằng nửa - cỡ phổ thông của nhà thơ Nguyễn Vỹ hay tạp chí Văn xuất bản năm trước, của Nguyễn Ðình Vượng). Ðã thế, tờ Giữ Thơm Quê Mẹ lại qui tụ những tác giả lớn viết thường xuyên, hầu như số nào cũng có bài, là Nhất Hạnh, Hồ Hữu Tường, Tam Ích, Phạm Duy, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Bùi Giáng, và tiếp theo là Dương Nghiễm Mậu, Trụ Vũ, Nguyễn Ðức Sơn, Thành Tôn, Phạm Công Thiện. Tới số 5 mới có bài của Viên Linh, Trần Tuấn Kiệt, Hữu Phương. Mặc dầu chủ nhiệm Nhất Hạnh có ảnh hưởng rõ rệt, song Hoài Khanh quen rộng, nên tờ báo gây tiếng vang đáng kể.

Xuất hiện rất sớm, trong vòng 10 năm Hoài Khanh Võ Văn Quế in bốn năm tập thơ, dịch sách thiền, chủ trương nhà xuất bản Ca Dao, song con người thơ của Cà Ty Phan Thiết không được đón nhận đúng mức. Ðiều ghi nhận đầu tiên là khuôn mặt anh buồn bã quá, không phải nét buồn của lãng mạn hoài tình, mà nét âm u khắc khổ của nhịn nhục. Nó hiện ra với vẻ chủ bại rõ rệt, chẳng thế mà khi 29 tuổi anh cho xuất bản thi phẩm thứ hai mang nhan đề Thân Phận.

Bài đầu tiên anh xác nhận chỗ đứng bị bỏ lại phía sau của mình, ngay ở nhan đề:

Sau Lưng Ngày Tháng
Rồi mai gió núi mưa trời
Tôi đi cho lạnh hồn tôi một mình
Ðời lê thê bước lênh thênh
Lối âm u mãi buồn tênh mắt nào
Lóng tay muôn thuở còn đau
Trái tim nguyên thỉ vẫn nhầu nhớ thương

(Hoài Khanh, Thân Phận, trang 11)

Cũng có lúc chàng lộ vẻ quả quyết, nhưng không quả quyết sống hay quả quyết làm một cái gì, mà chỉ quả quyết sẽ buồn:

Lạnh rồi tự buổi xanh non
Búp măng tơ ấy đã tròn gió sương
Con sông nào đã xa nguồn
Thì con sông đó sẽ buồn với tôi

(Hoài Khanh, Dòng sông của tôi)

Người bạn thân nhất của Hoài Khanh là Phạm Công Thiện cũng tỏ ra bất mãn vì cái vẻ buồn bã cố hữu của bạn. Xa nhau rất lâu, một ngày tác giả Thân Phận từ Biên Hòa lên Ðà Lạt thăm bạn, gặp nhau bất ngờ, Phạm Công Thiết kể lại: “Vừa bước về nhà, chợt thấy Khanh, tôi rưng rưng ôm anh mà hôn… Chúng tôi dẫn nhau lang thang trên những đường phố tối tăm nhất, lắng nghe tiếng chó sủa và lắng nghe tiếng lòng mình rạo rực đau khổ vì quá bơ vơ, vì quá lạc lõng giữa sa mạc loài người […]. Mấy ngày anh ăn Tết với tôi ở Ðà Lạt, anh chỉ im lặng và ít nói. Chúng tôi thương nhau lắm. Thế mà chỉ nhìn nét mặt của anh và chỉ nghe sự im lặng của anh, tôi kinh hoàng đi. Tôi muốn đuổi anh đi ngay, tôi muốn đuổi một hình ảnh hãi hùng… Nhìn nét mặt Khanh, tôi thấy sự chết, tôi thấy bệnh hoạn, đau khổ, quằn quại, khắc khoải,…” (Phạm Công Thiện, Nỗi Cô Ðơn của Hoài Khanh và thay lời Tựa).

Không gặp nhau bốn chục năm, song từ xa xưa còn nhớ Hoài Khanh không phải là con người của thành phố. Anh quá thận trọng, hay quá rụt rè. Anh xa lạ với tất cả xung quanh, ít ra là người ta cảm thấy thế. Ðoạn văn sau đây của Phạm Công Thiện đã cho người đọc thấy một khía cạnh mông lung mờ nhạt của người bạn thi sĩ:

“Thế rồi cách đây một tuần, lúc về Sài Gòn, tôi có ghé lại Biên Hòa để gặp Khanh. Khanh chỉ ở một mình, trong một căn nhà tồi tàn, tôi nhìn lên vách và gặp những bức tranh của Michel Ange, của Van Gogh và Picasso, những bức ảnh của Pasternak, Evtushenko, Salinger, Hemingway và Camus, rồi tôi nhìn Khanh. Bỗng nhiên tôi thấy tất cả sự vật ngừng lại, cả thế giới đứng lặng lờ và Hoài Khanh cũng đứng lặng lờ như một bức ảnh treo tường.” (bài trên)

Nhưng Trần Tuấn Kiệt mô tả Hoài Khanh xác thực hơn, cụ thể hơn: “Viết đến Hoài Khanh, tôi lại nghĩ đến một người muốn an phận, không chịu đựng nổi cái đời sống văn… nghệ quá hỗn tạp. Anh sống trong một nông trại, nuôi gia súc, ở Biên Hòa. Thỉnh thoảng về Sài Gòn thăm bè bạn. Gặp Hoài Khanh, nhìn gương mặt khắc khổ của anh, nghe anh khuyên nên về vườn lập nông trại. Tôi rất ước ao một cuộc đời bình dị như vậy.” (Trần Tuấn Kiệt, Thi Ca Việt Nam Hiện Ðại, 1880-1965, Khai Trí, Sài Gòn, 1967)

Nhà thơ thiền giả Tuệ Sỹ phát hiện Hoài Khanh vừa đẹp, vừa vang vọng bi kịch của lịch sử:

“Tình cờ, những câu thơ lục bát của Hoài Khanh chợt khuấy động. Nó ngân vang từ phương trời đồng vọng của Nguyễn Du, ngay giữa dòng lịch sử cuồn cuộn sóng, hay bên lề cuộc lữ tồn sinh. Ấy là âm vang đồng vọng trên những bước chân:

Ngược xuôi bao kẻ đi về
Tấm thân bé mọn bên lề tồn vong
Chuyện đời có có không không
Phù vân một áng bụi hồng xa xa
Cớ sao thiên hạ người ta
Vẫn chưa tròn một Quê nhà bao dung?
Vẫn chưa tỉnh giấc hãi hùng?
Trong cơn trường mộng hãi hùng thời gian.

(Hoài Khanh, Lục Bát và Tựa của Tuệ Sỹ, Phương Ðông xuất bản, Sài Gòn 2010).

20/5/2016
Theo https://khungcuahep.com/

  Cái bóng – Chùm thơ Muồng Hoàng Yến 23 Tháng Bảy, 2023 Con bước lên đồi/ Bóng theo chẳng mỏi/ Mẹ ơi con hỏi/ Bóng là của ai? Cái b...