Thứ Ba, 30 tháng 4, 2024

Cuộc hội ngộ sau nửa thế kỷ

Cuộc hội ngộ sau nửa thế kỷ

Cầm điện thoại trên tay, số đã bấm rồi, chỉ cần OK nữa là xong. Vậy mà tôi vẫn cứ chần chừ. Chần chừ vì hồi hộp không biết đầu dây kia có phải đúng là người mình cần gặp không?
– A lô! Có phải là số chú Thái đây không?
– Dạ phải. Nhưng anh là ai. Sao lại biết tôi ạ? Tôi nghẹn đi vài giây. Khi bình tĩnh trở lại, tôi nói:
– Là anh! Anh Duẫn ở Quảng Bình đây! Anh Duẫn ngày xưa đi K8, ở nhà em đó.
Như vài giây suy nghĩ thoáng qua. Rồi tiếng đầu dây cất lên: – Dạ! Dạ, em nhớ rồi. Là anh Duẫn, ngày xưa ở trong nhà của ba mẹ em. Ôi! Anh. Đã hơn nửa thế kỷ rồi. Sao lâu nay biệt tin. Mà sao anh lại biết số điện thoại của em mà gọi?
Hai anh em lan man chuyện nhà, chuyện làm ăn rồi nhắc đến chuyện xưa. Từ khi tôi chia tay gia đình của chú thím nuôi tôi khi tôi đi K8 năm 1968 đến nay(2023) ngót nghét đã 55 năm. Lúc đó tôi còn là đứa trẻ con 10 tuổi nhỏ dại chẳng biết gì. Khi tôi lớn lên, những hồi tưởng thời niên thiếu đã gợi lại cho tôi những kỷ niệm một thời đi K8 ở Thanh Hóa. Tôi gửi thư ra cho gia đình chú thím nuôi. Nhưng không hiểu sao không có hồi âm, tôi thấy buồn lắm. Và rồi những năm tháng lo toan cuộc sông, với những miếng cơm, manh áo đã làm cho tôi dần quên. Năm 1982, tôi nhập ngũ vào quân đội. Gặp những người đồng đội quê Thanh Hóa là tôi giới thiệu mình đã một thời là người con của Xứ Thanh và hỏi xem có ai người quê xã Yên Tâm, huyện Yên Định. Nhưng tôi đều hẫng hụt vì không ai biết thông tin về người thân của tôi cần tìm cả. Năm 1990, có người ở quê tôi đã đi K8 với tôi cùng đợt, ra thăm lại người thân nơi sơ tán K8 xưa. Đây rồi! Đây là manh mối để tôi năm bắt thông tin về chú thím nuôi của tôi. Nhưng tôi lại nhận được trả lời: “Ông bà nhà anh ở xưa đã chuyển đi nơi khác rồi”. Một nỗi buồn ùa về trong tôi. Tôi nghĩ. Cũng đúng thôi,  đất nước thống nhất, chú đã đưa gia đình về quê. Quê chú ở tỉnh Thừa Thiên Huế mà. Vậy là tôi hết hy vọng và thôi ý định việc tìm kiếm từ đó. Nhiều lúc tôi cứ tự hỏi, không biết quê chú ở huyện nào? Biết đâu có một ngày tôi sẽ gặp gia đình chú ở Thừa Thiên Huế.
Mạng xã hội ngày càng phát triển. Tôi đưa thông tin tìm kiếm lên Facebook. May mắn có một người bạn đã đọc và góp ý cho tôi. Thế là thông qua Cổng thông tin điện tử xã Yên Tâm, huyện Yên Định tôi biết số điện thoại của ông Chủ tịch xã. Ông Chủ tịch xã cho tôi biết số điện thoại chú Thái.
***
Tôi điện thoại ra cho Thái và kết nối za-lô với con gái của chú ấy. Chúng tôi tâm sự với nhau qua màn hình.  Gia đình Thái gặp tôi với nỗi vui mừng khôn tả. Nhất là cô Lý, vợ chú Thái, tuy chưa gặp lần nào nhưng tình cảm như người thân lâu ngày gặp lại. Cô hồ hởi mời gia đình chúng tôi có điều kiện trở lại thăm nơi ngày xưa tôi đã từng sống. Tôi nhận lời mời. Tôi nhìn Thái. Thái đó đứa em con chú thím nuôi tôi thời K8 khi đó mới 4 tuổi mà bây giờ đầu đã hai thứ tóc. Khuôn mặt bụ bẫm ngày nào bây giờ đã hao gầy theo năm tháng. Nước da sạm màu sương gió. Dừng  lại ít giây, tôi  hỏi: “Vậy Sơn đâu?”. “Dạ Sơn nó lấy vợ và đang sinh sống ở Cam lộ, Quảng Trị”. Tôi xin số điện thoại của Sơn để liên lạc. Ngày đó Sơn khoảng 2 tuổi. Hằng ngày ngoài giờ đi học, đứa lớn tay dắt, đứa bé tôi bế đi chơi để cho chú thím làm việc. Rồi tôi cũng liên lạc được với Sơn và cũng biết được một vài thông tin về gia đình.
Dự định trở lại Thanh Hóa cứ thôi thúc tôi. Đã mấy lần tôi đã sắp xếp để đi. Nhưng dịch bệnh Covid – 19 ngày càng tăng. Dập tắt chỗ này thì bùng phát chỗ khác. Vậy là ý định đi Thanh Hóa đã tạm dừng không thể thực hiện được. Thỉnh thoảng qua za lô chúng tôi lại liên lạc với gia đình hai em.
 ***
Mấy ngày Tết Quý Mão 2023 rồi cũng qua. Ý định đi Thanh Hóa lại trỗi dậy. Những kỷ niệm thưở xa xưa một thời kỷ niệm đi K8 bỗng ùa về như chỉ mới ngày hôm qua.
Đã hơn nửa thế kỷ qua rồi. Ngày đó 1965, chiến tranh. Quê tôi tràn ngập tiếng bom đạn. Khói bom, khói nhà cháy cuộn lên mù mịt đất trời. Hằng ngày tiếng máy bay gầm rú inh ỏi trên bầu trời. Tiếng súng phòng không bên bến phà Long Đại bắn trả máy bay Mỹ từng tràng inh tai nhức ốc. Làng quê tôi cũng như bao làng quê của Quảng Bình đều bị đạn bom cày nát. Từng gốc tre kiên gan với lụt bão, chống chịu với mưa nắng cũng bị bật gốc trước bom đạn giặc Mỹ. Từng bờ đê, từng ruộng lúa non xanh… chỉ một quả bom địch thả xuống là bao mồ hôi, nước mắt đều tan tành trong chốc lát. Tiếng khóc thét sợ hãi của trẻ con,  tiếng khóc gào thảm thương khi người thân bị sát hại cứ ám ảnh trong tuổi thơ tôi. Cuộc sống của người dân chuyển xuống hầm hào, địa đạo. Ăn trong hầm, ngủ trong hầm, học trong hầm, lao động sản xuất bên hầm. Mọi hoạt động cho cuộc mưu sinh diễn ra trong tiếng bom rơi, đạn nổ.  Quê chỉ còn bà già, trẻ con. Đàn bà, con gái thay đàn ông, bám trụ hậu phương với phong trào thi đua “hai giỏi”
Được biết, tháng 8 năm 1966 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã lập ra một ban chuyên trách về chiến dịch gọi là Ban K8 nhằm đưa một số con em, học sinh khu vực Vĩnh Linh (Quảng Trị) và Quảng Bình  sơ tán ra miền Bắc để giữ gìn sự sống cho các em, và cũng để giữ gìn lực lượng và nòi giống cho cuộc chiến tương lai, đảm bảo cho những người ở lại yên lòng đánh giặc. Theo kế hoạch, địa phương quê tôi sẽ tổ chức cho con em đi sơ tán từ cuối năm 1967. Nhưng vì lúc này chiến tranh ác liệt quá. Đường giao liên thường xuyên bị máy bay địch oanh tạc. Đến Tết Mậu Thân 1968, lợi dụng mấy ngày Tết máy bay địch thường ít oanh tạc bắn phá, quê tôi tổ chức đưa con em chúng tôi đi. Tôi còn nhớ lúc đó vừa ăn Tết xong vài ngày, tôi cùng các bạn, anh chị trong diện “chiến dịch mang mật danh K8” xuất phát vào khoảng ba, bốn giờ chiều. Ngày chia tay, tôi thấy mắt mẹ ươn ướt, nhưng mẹ không khóc. Mẹ nói, đi để giữ nòi giống, tương lai cho đất nước. Mẹ dặn dò tôi phải ngoan ngoãn, chăm chỉ học hành là mẹ mừng. Rồi mẹ dúi vào tay tôi 5 đồng để mua quà vặt dọc đường. Tôi ngần ngại và không cầm. Mẹ cứ để mà mua thức ăn cho bà, mua quà cho các em. Con đi có Nhà nước lo cái ăn, cái mặc rồi. Con biết mua gì đâu, rồi mất tiếc lắm. Các em tôi lúc đó còn nhỏ, thấy tôi đi nó mừng lắm vì bà nội bảo, anh các cháu đi vài bữa, anh về mua quà cho. Chỉ có bà nội ôm tôi vào lòng òa khóc nức nở. Lúc đó bà đã 82 tuổi. Bà đã già móm mém, mắt đã kèm nhèm. Bà bảo. Cháu cứ yên tâm ra đi, bà già nhưng bà chưa chết đâu. Bà nói thêm, ba cháu đi bộ đội biền biệt mấy năm rồi. Chẳng có tin tức gì, không biết sống chết ra sao. Cầu mong cho ba cháu thoát được bom đạn, sống sót trở về khi đó bà mới an lòng ra đi. Tôi ôm bà nghẹn ngào không sao cất bước nổi.
Chúng tôi được các cô, chú và các thầy cô giáo dẫn đoàn đưa đi. Lúc đến bến đò Quảng Xá chuẩn bị vượt sông để sang bên kia quốc lộ 1A thì bất ngờ từng tốp máy bay phản lực Mỹ đến oanh tạc. Tất cả đều chạy vào hầm trú ấn dọc bờ sông để nấp tránh bom. Căn hầm chữ A ẩm ướt, mốc meo, chứa đến hai, ba chục người chật ních. Tiếng máy bay gầm rú, tiếng bom nổ ầm ầm gần lắm, đất trên nóc hầm rơi xuống cả mình. Đến khoảng 5 giờ tối thì máy bay mới ngừng hoạt động. Sau khi tình hình máy bay địch đã cút, các cô dẫn đoàn và cô giáo tập trung điểm danh rồi đưa chúng tôi trở về nhà. Chúng tôi vô cùng lo sợ bởi một trận oanh kích kinh hoàng. May không có ai bị làm sao cả.
Về nhà  được một tuần thì có lệnh lại lên đường. Lúc bấy giờ trong lòng tôi không muốn đi. Nhưng thương bà vì bà bảo, nhà chỉ còn lại cháu là con trai, bố thì ở chiến trường không biết sống chết ra sao, cháu ở nhà chiến tranh ác liệt lỡ có làm sao thì bà không yên lòng nhắm mắt về với tổ tiên. Nghe bà, tôi khoác túi vải, buộc chéo bên hông cùng bạn bè ra đi. Mẹ quay lưng gạt nước mắt tiễn tôi.
 Ngày lên đường là vào một ngày đẹp trời. Từ sáng sớm chúng tôi đã tề tựu về hội trường của hợp tác xã đông đủ, có cả người nhà đến tiễn đưa. Không có máy bay, không có tiếng bom đạn của giặc trời. Tất cả được chia thành từng toán nhỏ. Mỗi toán có các cô chú thanh niên địa phương dẫn đi. Mọi người đều đi bộ. Đi hết một ngày thì đến làng Lệ Kỳ lúc xế chiều. Chúng tôi nghỉ ngơi qua đêm ở đó. Các nhóm được chia về nhà dân để ở. Mỗi nhà chừng khoảng 5-6 đứa.  Đêm lành lạnh, không chăn màn. Tiếng muỗi vo ve quấy rối, nhưng tất cả đều ngủ say vì mêt mỏi. Lần đầu tiên từ nhỏ đến giờ tôi cùng các bạn mới có ngày đi bộ hơn ba chục cấy số. Ăn sáng xong, các cô chú và thầy cô giáo tập trung chúng tôi để quán triệt tình hình. Lần đầu tiên xa nhà, ai cũng buồn, cũng nhớ. Có mấy đứa con gái khóc đòi về. Được các cô dẫn đoàn động viên, dỗ dành mấy đứa mới hết khóc. Hành trình chúng tôi được các cô thông báo là sẽ đến Thanh Hóa. Chúng tôi không biết Thanh Hóa ở đâu nhưng các cô, chú trong đoàn cho biết: cuộc “thiên di” này khoảng chừng hai tháng. Trời! Hai tháng đi bộ giữa làn bom đạn, trong thiếu thốn sinh hoạt, mới nghe ra ai cũng hoảng.
Đã đi được mấy ngày, chúng tôi cũng đến được huyện Bố Trạch. Đến một cánh rừng, cô giáo giới thiệu với chúng tôi nơi đây là chỗ đóng bộ phim “Rừng o Thắm”, chúng tôi thấy tự hào lắm. Tôi cũng đã được xem phim Rừng o Thắm, thấy cảnh máy bay bắn phá, cảnh o Thắm đã anh dũng, không sợ hy sinh dẫn đường cho vượt xe qua khu vực bom tọa độ. Tôi hỏi cô giáo: “Chỗ này nguy hiểm vậy sao cho chúng em qua đây?”. Cô bảo, ở đây an toàn nên mới đóng phim được. Cảnh ác liệt trong phim là họ dựng lại để ghi dấu tội ác của bọn giặc Mỹ. Nghe cô nói vậy nên chúng tôi yên tâm. Đi tiếp mấy ngày mệt rả rời. Có khi ngày ngủ, đêm đi. Khi thì ngày đi đêm ngủ. Tuy mệt đến bở hơi tai nhưng đặt lưng xuống là cả bọn ngáy như sấm. Thật đúng là tuổi ăn, tuổi ngủ. Đến địa phương nào thì đã có dân ở đó tiếp đón. Chúng tôi được ăn ngủ trong nhà dân. Khi đó tôi cứ tưởng tượng chúng tôi như các chú bộ đội về đóng quân từng nghỉ lại ở quê tôi trên dường vào Nam đánh giặc vậy. Chúng tôi toàn đi đường giao liên, đường rừng núi. Mấy tuần sau chúng tôi đến Quảng Trạch, cũng chẳng biết là đang ở xã nào. Chúng tôi háo hức lắm vì đêm nay được xe ô tô tải chở đí. Chúng tôi dừng lại một khu rừng lúc tầm 4 giờ chiều. Rừng không rậm rạp, chủ yếu cây tán nhỏ. Trời ơi! Dâu rừng. Mấy đứa con trai láu cá chui vào bụi, phát hiện được rồi thốt lên. Dâu  ở đâu ra mà lắm thế. Những quả dâu chín đỏ trên cành như đang mời gọi. Mấy đứa con trai chạy đi bẻ dâu từng chùm chín mọng, ngọt thanh. Mấy đứa con gái í ới tranh nhau những chùm dâu của mấy anh lớn tuổi ném cho. Không khí rộn ràng lên.  Bỗng có tiếng máy bay gầm rú. Tất cả chúng tôi hoảng loạn nằm nấp dưới các mô đất, dưới những hố bom rốc két nông choèn. Tiếng các cô trong đoàn hét to: “Nằm sát xuống, máy bay đang thả bom”. Phía trong làng từng đám lửa cháy nhà bốc lên. Tiếng bom bi nổ chậm ùng ục liên hồi rồi thưa dần. Tôi nghe mấy người lớn bàn tán. Không biết có ai bị sao không mà bom nổ quá dữ. Một lúc. Bâu trời như trở lại bình yên, tiếng xe ô tô cũng rì rì đến. Tất cả lên xe. Mọi người cùng cất lên bài hát “Quảng Bình quê ta ơi” như vừa mừng rỡ lần đầu tiên được đi ô tô, như để động viên nhau. Song chỉ được mấy phút sau, tiếng nôn ọe, tiếng khóc của mấy đứa con gái rộn lên cả trên xe. Hai chiếc xe tải chở cả đoàn chúng tôi khoảng hơn trăm người vừa chật chội, vừa lắc lư trên những đoạn đường ổ gà, ổ trâu nghe nôn nao. Rồi một vài đứa kêu đau bụng. Chắc là do ăn nhiều dâu quá. Rồi mấy đứa say xe nằm bẹp dí. Sáng hôm sau chúng tôi cũng đến được Hà Tĩnh sau một chặng đường đầy vất vả. Trên xe, trên quần áo, túi đồ mùi hôi nồng nặc bốc lên.
Sau một tháng, đoàn chúng tôi cũng đến đươc Đức Thọ, Hà Tĩnh. Chúng tôi ở lại đây một tuần nghỉ sức. Đoàn lại tiếp tục đí đến Quỳnh Lưu, Nghệ An. Tại đây chúng tôi được thưởng thức mật mía, kẹo lạc. Rồi từ Quỳnh Lưu chúng tôi lên bến tàu (tôi không nhớ là lúc đó lên ga nào) đi về ga TP. Thanh Hóa. Từ ga Thanh Hóa chúng tôi lên xe về điểm sơ tán.
Vậy là sau hơn hai tháng hành quân, vượt qua bao khó khăn gian khổ chúng tôi đến được xã Yên Tâm, huyện Yên Định tỉnh Thanh Hóa một cách an toàn vào khoảng sáu giờ tối. Không ai bị “sứt đầu mẻ trán”. Duy chỉ có mấy đứa bị ghẻ lở, ghẻ ruồi, hắc lào trong số đó cũng có tôi. Các cô phải nấu nước lá chuối tiêu lùn, lá ổi tắm cho chúng tôi thì mới lành. Đêm đó là một đêm đầy nỗi buồn vui. Đèn măng xông thắp sáng cả hội trường xã. Chúng tôi được lãnh đạo địa phương tổ chức bữa cơm thân mật. Tiếp đó là tổ chức liên hoan văn nghệ. Các bạn thôn Quảng Xá hát đồng ca bài “Quảng Bình quê ta ơi” thật vang nhộn, làm cho không khí hội trường náo nhiệt hẵn lên. Tôi cũng mạnh dạn đọc bài vè “láo thiên” tôi đã đọc thuộc trong một quyển sách nào đó tôi không nhớ. Những câu hò đáp lại của các cô trò địa phương làm cho mối quan hệ gần lại. Rồi giờ chia tay cũng đến. Cán bộ địa phương đã chuẩn bị danh sách từ trước. Khi đọc đến tên ai thì người đó bước ra và người nhận nuôi đưa về nhà. Vậy là chúng tôi mỗi người về một ngã. Chúng tôi ôm những người dẫn đoàn khóc nức nở, chia tay.
Tôi được về ở nhà chú Giữ. Ngôi nhà tranh vách đất đơn sơ.. Cột nhà là những cây luồng to, được ngâm bùn từ vài tháng đến một năm. Đòn tay, rui mè làm bằng cây lồ ô. Nhà chính có ba gian. Gian giữa để chiếc bàn gỗ tạp và chiếc điếu bát hút thuốc Lào. Gian đầu hồi có hai giường tre. Giường sát vách trong tôi ngủ và một giường ngoài là ông Cố San. Phía gian gần bếp là chỗ ngủ của chú thím và hai đứa con. Phía Tây là nhà bếp. Sau vườn là chuống lợn. Sau vài ngày tôi dần quen với gia đình và nếp sống sinh hoạt của chú thím. Ngày chủ nhật chú Giữ không đi làm. Chú ở nhà ngồi tâm sự với tôi. Chú tên là Nguyễn Văn Giữ, quê ở Thừa Thiên Huế. Hiện tại chú làm công nhân ở nông trường Sao Vàng. Chú có nước da ngăm đen. Khuôn mặt chữ điền vẻ hiền lành. Trên cằm chú râu ria luôn cạo nhẵn. Với giọng miền Trung mằn mặn đồng chiêm làm tôi dễ nghe, dễ hiểu. Tuổi chú khoảng tầm tuổi mẹ tôi, tức là lúc này chú tầm 37-38 tuổi. Chú nói với tôi. Cháu cứ gọi chú thím như phong tục ở quê ta. Tôi dạ. Vợ của chú là thím Trần Thị Hiệt. Thím khoảng chừng 30 tuổi. Dáng người thấp đậm, trong khỏe mạnh. Người có nhiều kỷ niệm đáng kính với tôi là cố San. Cố khoảng chừng 50 tuổi. Tóc bạc nhiều hơn tóc đen, lơ thơ trên mái đầu hói. Khuôn mặt khắc khổ, nhăn nheo. Trông cố già trước tuổi. Cố hay cười. Nụ cười hiền dễ gần. Sáng sớm ngủ dậy cố thường hút một điếu thuốc lào. Tiếng điếu bát kêu sòng sọc, khói um cả nhà. Cố làm một bát nước chè xanh, mấy củ khoai rồi cố đi làm việc. Công việc hằng ngày của cô là quét nhà, quét sân, cho lợn ăn. Xong việc cố ngồi đan lát. Cố đan rất điêu nghệ. Từng chiếc nan cố vót nhẵn thín. Cố đan giậm đánh cá, đan giỏ bán cho mấy nhà trong xóm. Những đêm thanh vắng, cố ngồi một mình bên chiếc đàn bầu gãy những làn điệu dân ca như bài “Cây trúc xinh”, “Lý cây đa”. Nhiều đêm ngồi học bài nghe tiếng đàn của cố lòng tôi xao xuyến nhớ nhà. Không biết giờ này mẹ đang xay lúa hay đọc thư của bố. Bà nội có ngủ ngon giấc hay cứ nhắc đến bố tôi. Mấy đứa em ngủ hầm có bị muỗi đốt không. Làng quê có bớt tiếng bom rền đêm đêm hay không? Bao nhiêu nỗi nhớ cứ ùa về làm cho sống mũi tôi cay cay. Có những tối, học bài xong tôi ngồi bên cố nghe cố đánh đàn và muốn cố bày cho. Cố tâm sự. Cố không có con cháu. Cố nuôi thím Hiệt tôi từ nhỏ. Bây giờ già về ở với chú thím. Tôi thấy thương cố. Tôi xem cố như người ông thân thương của tôi. Cố thiệt thòi không con cháu. Tôi lớn lên ông nội, ngoại đã không còn nên tình cảm tôi và cố như có sợi dây gắn kết.
Nhiệm vụ chính của tôi là lên lớp, học baì. Chúng tôi chỉ còn 2 tháng miệt mài bù đắp để hoàn thành chương trình lớp 3, năm học 1967-1968. Những đứa bạn cùng xã chúng tôi được về học chung một lớp. Là tuổi con nít nên chúng tôi mau quen nhau. Chúng tôi có cùng hoàn cảnh nên hòa đồng, dễ  thông cảm và dễ thân quen. Lớp 3 chúng tôi được cô Viêm làm chủ nhiệm và dạy. Cô vui tính, tươi cười. Năm tôi lên lớp 4, cô chủ nhiệm và dạy chúng tôi là cô Châu. Cô đang còn trẻ, chưa có chồng. Cô có nước da trắng hồng, xinh gái. Mấy đứa học trò nghịch ngợm, bướng bỉnh thỉnh thoảng trêu chọc làm cho cô phát khóc. Mỗi lần cô quay mặt vào bảng chùi nước mắt chúng tôi thấy thương cô và thôi đùa nghịch.
Ngoài giờ học về nhà tôi giúp thím Hiệt chơi với hai đứa em để thím đi làm đồng. Đó là Thái khoảng 4 tuổi và Sơn khoảng 2 tuổi. Cu Thái thì lầm lỳ, nhưng cũng nghịch lắm. Nhiều khi nói không nghe tôi thường mắng em tội nghiệp. Cu Sơn thì đang còn nhỏ đi đâu cũng phải bế bồng. Tôi thường đưa các em qua nhà hàng xóm chơi. Nhà hàng xóm định cư ở đây lâu rồi nên có mít, nhãn xoài để ăn. Nhà tôi ở mới chuyển về nên cây ăn quả mới trồng bé tý. Chỉ có cây bưởi trước sân là to như cột nhà, nhưng quả không được ngọt lắm. Mấy đứa bạn cùng lớp, ở cùng xóm với tôi nhà nào cũng có trâu, bò nên chúng nó buổi đi học, buổi đi chăn trâu, bò. Tôi ít có dịp được chơi với bạn bè.
Rồi Tết năm 1969 cũng đến. Mấy đứa bạn K8 trong xóm rủ nhau tụ tập. Nhắc đến Tết quê, đứa nào cũng khóc vì nhớ nhà. Cứ mong hết chiến tranh để với với bố mẹ, với người thân. Chúng tôi rủ nhau đi bộ gần 10 cây số sang bên bến phà Kiểu sông Mã để chụp ảnh gửi về cho gia đình.
Thời gian thấm thoắt thoi đưa. Vậy mà cũng hết năm học 1968-1969. Tôi đã học xong lớp 4. Một năm học lần đầu tiên trên miền Bắc không thi chuyển cấp mà xét điểm. Lớp tổng kết vui cũng có mà buồn cũng có vì có bạn không được lên lớp, chúng khóc sợ ba mẹ biết chuyện buồn phiền.
Được biết, sau Tổng nổi dậy Mậu Thân 1968, đế quốc Mỹ thất bại trên nhiều mặt trận, quân ta thừa thế tấn công trên nhiều lĩnh vực.  Mỹ buộc phải tuyên bố ném bom hạn chế miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra kể từ ngày 32/3/1968 và đến ngày 1/11/1968, Mỹ ngừng ném bom, bắn phá miền Bắc. Ngày 10 tháng 6 năm 1969, Tổng thống Mỹ Ních – xơn tuyên bố rút 25.000 quân Mỹ khỏi Việt Nam. Thì cũng trong ngày 10/6/1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố thành lập. Lúc này ở Quảng Bình đã tạm thời đình chiến, làng quê đã tạm vắng tiếng bom đạn địch. Thế là các ông bố bà mẹ ở quê có điều kiện thân chinh ra Thanh Hóa đưa con em “trốn” về quê, vì lúc này chưa có kế hoạch đưa học sinh sơ tán được về. Tôi được bác ruột đưa về cùng với anh con bác và một số bạn trong xóm. Đó là một ngày vào khoảng đầu tháng 7 năm 1969. Sau đó khắp nơi,  con em đi sơ tán Thanh Hóa lần lượt được bố mẹ đưa về.
Ngày tôi  về quê, tôi xin phép gia đình chú thím cho về nghỉ hè xong là sẽ ra lại. Ngày về, thím Hiệt có cho tôi 10 đồng bạc đi đường mua quà. Tôi chia tay các em Thái, Sơn trong nổi buồn, trong sự ngơ ngác của các em vì lúc đó các em còn nhỏ không biết gì. Rồi lời hẹn ngày trở lại không thực hiện được vì làm sao mà trở lại trong điều kiện bất khả kháng.
Năm mươi lăm đã trôi qua, những đứa trẻ K8 chúng tôi ngày nào giờ đã thành ông, thành bà.  Mái tóc đã lốm đốm hoa râm. Suốt những năm tháng chiến tranh ác liệt, những “đứa con K8” đã được những người cha, người mẹ thứ 2 nuôi nấng, bao bọc bằng tất cả tình thương yêu. Dẫu cuộc sống còn lắm vất vả, gian truân nhưng họ đã nhường cơm, sẻ áo, chăm sóc những đứa con nuôi trong vất vả, ốm đau hay an ủi, vỗ về mỗi khi nhớ nhà, nhớ quê. Cuộc sống thời chiến vốn đã thiếu thốn trăm bề nhưng dù sao, nghĩa tình người dân miền Bắc vẫn luôn dành trọn cho những đứa con của miền Trung ruột thịt.
***
Dịch Covid-19 đã đẩy lùi.  Ăn tết xong, tôi a lô cho vợ chồng chú Thái để hẹn ngày ra thăm. Cô Lý, vợ chú Thái nghe điện thoại vui mừng lắm. Ngày 17 tháng 2 tôi theo ô tô về thành phố Thanh Hóa. Thành phố Thanh Hóa bây giờ sầm uất, nhiều dãy nhà cao tầng mọc lên, không còn bóng dáng lụp xụp của  thời chiến tranh ngày xưa. Đã sang xuân, nhưng trời tưng tửng trở rét. Cái rét mùa đông còn rớt lại đọng vào từng tế bào phế quản làm cho tôi tỉnh táo hơn sau chặng dường dài gần 350km. Theo chỉ dẫn của cô Lý, tôi lên xe buýt về cầu Kiểu, sẽ có người nhà đi đón. Chặng đường từ thành phố Thanh Hóa đến cầu Kiểu không xa, chỉ có kỷ niệm xa vời tháng năm trong tôi cứ ùa về. Tôi không tưởng tượng ra được nơi mình đang đến vì sự đổi khác quá nhiều sau nửa thế kỷ. Nhà cao, ngói mới. Xe cộ như mắc cưỉ. Phó xá, đường quê nhộn nhịp người qua lại.
Xe dừng ở gần cầu Kiểu. Tôi đang ngỡ ngàng như bị lạc vào dòng người xuôi ngược thì nghe tiếng một người phụ nữ từ xe máy bước xuống gọi: “Anh Duẫn! Có phải là anh không?”. Như thể từng quen biết đã lâu, tôi à lên một tiếng: “Đúng là cô Lý rồi. Là anh đây! Sao em lại biết anh mà gọi”. “Thấy người là biết anh liền. Có ai đứng ngơ ngác, tìm kiếm người ngoài anh”. Tôi lên xe theo cô Lý  về nhà. Vừa đi hai anh em vừa vui vẻ trò chuyện.
Về nhà tôi dạo quanh một vòng, ngắm nhà, ngắm vườn. Căn nhà hai tầng rộng rãi, có  đầy đủ tiện nghi sinh hoạt cho một gia đình nông thôn. Không sang trọng nhưng ấm áp. Trong lòng mừng thầm cho cô, chú có nơi đi về nghỉ ngơi sau một ngày làm việc. Tôi đi ra đường và xác định tọa độ nơi này. Nhưng không thể xác định được. Cô Lý cho biết đây là con đường ngày xưa anh đi học ngang qua. Tối đến, cả gia đình quây quần tíu tít trò chuyện. Hai anh em tôi và Thái ôm chầm nhau một hồi lâu. Được biết chú Thái có ba người con gái, 4 cháu ngoại đuề huề. Đứa gái út chưa xây dựng gia đình. Cuộc sống không giàu sang, phú quý nhưng ấm áp tiếng cười sau mỗi ngày làm về. Rồi bao nhiêu kỷ niệm một thời ùa về. Phải phục trí nhớ của chú ấy. Tuy lúc đó Thái mới 4- 5 tuổi mà vẫn còn nhớ những kỷ niệm về ngày xưa của hai anh em tôi, được chú kể lại vanh vách.
Sáng ngày 18 tháng 2 năm 2023, tôi theo Thái lên mộ thắp hương cho chú  thím. Khu nghĩa địa xã nằm trên đồi cao, xung quanh là cây bóng mát, cây cảnh thật dẹp mắt. Có đường đi lối lại đổ bê tông. Khu mộ chú thím được xây tường, mộ đắp bằng đá ốp, khá chắc chắn. Tôi thắp hương lên mộ chú Giữ, thím Hiệt và hai người vợ kế của chú. Tôi thầm khấn chú, thím tha lỗi cho tôi, giờ mới về bên chú, thím tuy có muộn màng. Cầu mong chú, thím an nghỉ suối vàng phù hộ cho con cháu.
Thắp hương xong tôi ra ngôi bên mộ chú, thím để hồi tưởng lại những ký ức. Thái cho biết: Năm 1970 ba mẹ sinh thêm em trai. Đến 1973 mẹ sinh thêm em gái nữa. Sau khi sinh em, mẹ bị bệnh ruột thừa, bụng đau quằn quại. Nhưng bệnh viện bảo chắc là sót nhau. Đến khi ruột thừa bị vỡ, nhiễm trùng rồi mẹ qua đời. Lúc đó chúng em đang còn quá nhỏ, ba vất vả lo toan nuôi chúng em ăn học. Em gái ốm rồi cũng qua đời. Ba buồn lắm, cảnh gà trống nuôi con vò vỏ. Rồi ba lấy vợ kế để đỡ đần cuộc sống gia đình. Sinh được một em gái. Năm 1978, mẹ kế lại qua đời. Nỗi khổ chồng lên nỗi mất mát. Được các con động viên, mọi người góp ý, ba lại đi bước nữa mong có thêm người lo toan cuộc sống cùng ba. Nhưng ông trời đâu có thương ba. Năm 1995 người vợ kế thứ hai cũng bỏ ba ra đi, để lại cho ba một mình nuôi năm đứa con nhỏ đại, trong hoàn cảnh khó khăn. Nghe Thái kể chuyện về chú, thím mà lòng tôi nghẹn thắt lại. Còn Thái ngoảnh mặt, lau giọt nước mắt đang nhỏ xuống. Ba buồn lắm. Có nhiều khi ba cũng muốn về quê sinh sống với anh em ruột thịt trong đó. Chúng em đã cùng ba vào quê tìm lại cội nguồn và tìm nơi để về. Nhưng rồi ý định về quê cũng không thực hiện được. Mảnh đất này đã níu chân ba lại. Nơi đó có những kỷ niệm gắn bó với cuộc đời ba, nơi có người thân yêu của ba đã yên nghỉ. Thế rồi năm 2009, ba cũng  đi về với mẹ, với các dì hưởng thọ 79 tuổi. Rồi Thái nhìn tôi như có điều gì nghẹn lại khi tôi nhắc đến cố San: “Anh à! Chỉ một điều làm em cứ day dứt đó là không đưa mộ cố San về an táng nơi nghĩa trang này được. Dù sao em cũng chỉ là cháu ngoại, mọi việc phụ thuộc bên họ nội. Em không quyết được. Bây giờ thấy ân hận lắm, nhưng không biết làm sao”. Nhắc đến Cố San, tôi không thể nào quên được kỳ nghỉ hè năm học 1968 – 1969, đó là những đêm đi cất vó với ông. Nhiều đêm hai ông cháu bắt được nhiều cá nên về khuya. Tôi xách giỏ mắt nhắm mắt mở. Có khi vấp mô đất ngã nhào, cá văng ra ngoài giỏ. Hai ông cháu cầm đèn chai tìm bắt. Có đêm khát nước, tôi lủi vào vườn mía của phụ lão “bẻ trộm” mấy cây ăn cho qua cơn khát. Rồi nhớ đến chú Giữ những ngày trên nông trường Sao Vàng, hai chú cháu đi nhổ sắn chú trồng để “tự túc” lương thực. Tôi gánh một gánh sắn nặng, đường xa, thế là chú phải san qua gánh của chú. Đêm về mổi nhừ, rên hừ hự không ngủ được chú lấy cao sao vàng xoa bóp cho. Giờ nghĩ lại những hình ảnh ấy sao mà gần gủi thân thương như người cha của tôi vậy. Tôi cứ nhớ có những lần thím Hiệt bảo tôi đi hái chè rồi đưa ra chợ Đồn bán. Có bữa tôi bớt một hào mua thuốc lá tập hút theo mấy đứa bạn. Thím biết. Thím không mắng nhưng nhắc nhở, cháu muốn thì xin thím, đừng làm thế mà quen rồi sinh hư. Mà hút thuốc lá là không tốt tý nào. Tôi ân hận lắm vì mình làm điều xấu. Tôi thành thật xin lỗi, rồi thím bỏ qua. Tuy tôi sống với gia đình chú thím hơn một năm thôi, nhưng những kỷ niệm, những tình cảm yêu thương thì không thể nào kể hết. Giờ nhắc lại tôi cảm ơn rất nhiều đến Cố San, đến chú thím người đã quan tâm nuôi nấng, dạy dỗ tôi để tôi trở thành người như hôm nay.
Sau khi đi trên mộ chú thím về, Thái dẫn tôi về lại nơi khu nhà cũ. Ngôi nhà cũ giờ đây là nơi ở của chủ mới. Như những đứa con xa quê lâu ngày trở lại,  đôi chân líu ríu lần bước theo từng mảng ký ức khi nhớ, khi quên. Tôi tìm lại kỷ niệm nơi ngôi nhà tôi ở ngày trước . Bây giờ đã khác xưa nhiều lắm. Nhưng tôi vẫn còn xác định được vị trí. Nhắc đến những nhà xung quanh. Tôi còn nhớ tên các thành viên từng nhà mà tôi đã từng đưa hai em Thái , Sơn đi chơi. Tôi gặp lại môt số người trong xôm. Họ và tôi không nhận ra nhau.Nhưng khi nhắc đến tên tôi thì ai cũng nhắc về kỷ niệm. Hình ảnh mấy đứa trẻ sơ tán người Quảng Bình xưa vẫn đang hiển hiện trong tâm khảm họ. Thật xúc động biết bao. Rồi tôi đi thăm nhà cô Thủy. Nhà ngày xưa nuôi bạn Hoạt cùng học một lớp với tôi. Cô Thủy xinh đẹp ngày xưa có nhiều bài hò Xứ Thanh giờ cũng đã 80. Bà đang còn khỏe mạnh, đẹp lão. Cái vị nồng nồng trầu cau làm cho đôi môi bà thắm hơn. Bà nhắc lại những kỷ niệm mà ngày xưa tôi thường được bà cho sang hái mận nhà bà. Ngày đó chồng bà đi bộ đội xa. Con trai bà lúc đó mới 5 tuổi bây giờ cũng sắp lên chức ông. Tôi vào nhà tâm sự với ông nhà chồng bà. Ông cho biết, ngày xưa ông từng đóng quân ở Quảng Bình quê tôi. Ông kế về nổi cơ cực của người dân quê tôi phải chịu cảnh đạn bom, nghèo khổ. Ông nói lúc đó về đóng quân ở nông trường Phú Quý, ông có gặp bố và anh của Hoạt.
Qua những  lời tâm sự của những người hàng xóm nơi tôi đến thăm, lòng tôi thấy như mình đang mắc nợ với mảnh đất này. Mảnh đất ấy vẫn vậy, vẫn hồn hậu và yêu quý chúng tôi như mấy chục năm về trước, vẫn đầy ắp nghĩa tình như ngày chúng tôi còn nhỏ. Ngày đó, tôi chưa hiểu hết tình cảm mà người dân vùng đất Yên Định, tỉnh Thanh Hóa dành cho học sinh K8 chúng tôi. Giờ đây khi đã làm bố mẹ, làm ông bà chúng tôi mới hiểu được những vất vả của cuộc sống gia đình, mới hiểu hết tình cảm thiêng liêng mà họ đã dành cho chúng tôi. Nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày ấy, chúng tôi không bao giờ quên được những năm tháng chiến tranh đau thương và oanh liệt; không bao giờ quên ân tình sâu nặng của người dân Xứ Thanh đã đùm bọc, nuôi dạy, bồi đắp cho chúng tôi những giá trị văn hóa của miền phù sa sông Mã anh hùng. Để sau này lớn lên, những giá trị tinh thần ấy dã truyền thêm cho tôi sức mạnh trong cuộc sống.
Chiều, hai anh em rủ nhau thưởng ngoạn núi rùa. Nhìn từ xa, ta tưởng tượng  núi như hình con rùa đội đất sừng sững một mình xung quanh đầm lầy. Đường lên núi rùa giờ đã bê tông hóa, không còn con đường đất mấp mô ngày xưa. Dưới chân núi, những bãi cỏ sữa xanh tốt, thay cho những ruộng mía của các cụ phụ lão xưa. Hai anh em men theo lối mòn trèo lên sườn núi. Núi lô nhô đá tai mèo, ghi dấu năm tháng chống chọi với thiên nhiên. Phong cảnh không còn hoang sơ như trước đây. Cây cối đã bị chặt phá, loang lổ như từng vạt áo vá víu. Chỉ còn lại cây táo dại cổ thụ to như cột nhà còn ghi dấu năm tháng. Chú Thái cho biết. Có năm người ta hái cả tạ quả về làm thuốc.. Đầm lầy xưa giờ đây đã không còn. Đất đá đã bồi đắp cao thêm. Hàng ngàn cây thiên tuế sum suê xanh ngắt dưới chân núi. Hai anh em chui vào hang núi. Hang chật, ngắn. Ngày xưa, tại hang này có mạch nước chảy ri rỉ. Rùa nhiều lắm. Chúng bò lổm ngổm trên những bậc đá. Có thể rùa ở đây nhiều nên người ta gọi là núi rùa chăng? Sau một trận mưa, rùa bò ra xung quanh núi để ăn lá non, uống những giọt nước đọng lại trên lá cây. Chúng tôi cứ thế bắt về nấu chuối, mẻ.  Một bữa ăn tuyệt vời. Bây giờ hang không còn mạch nước chảy, không còn rùa. Thấy tiêng tiếc thế nào ấy. Nơi đầm ngày xưa, tôi và Cố San cất vó giờ đã cải tạo thành đồng ruộng. Lúa vừa bén rể trải một màu xanh non thật đẹp mắt. Nhìn sang bên kia khoảng cây số là núi Bân. Núi Bân giờ đang khai thác lấy đá, nhìn xa như có những cái miệng cá sấu đang ngoác to chực đớp mồi. Thăm núi rùa, lòng mình còn đó những ký ức đi bắt rùa, đi mò cua, cất vó mà cứ thấy bồi hồi với những năm tháng tuổi thơ. Cảnh cũ đã khác, chỉ có lòng người còn lưu luyến ngày xưa.
Hai ngày cũng đã trôi qua. Giờ chia tay cũng đến. Hai ngày để gặp lại người thân quá ít ỏi so với thời gian nửa thế kỷ chia xa. Nhưng vì công việc nên tôi không thể nán thêm lại thêm. Chú Thái nhìn tôi hờn dỗi nói: “Bữa sau mà như thế này thì anh đừng ra nữa. Ít nhất để em còn đưa anh đi chơi đây đó cho thỏa nguyện sau bao năm xa cách”. Tôi chỉ biết cười xòa, để chú thông cảm.
Chia tay gia đình vợ chồng hú Thái, cô Lý và các cháu ra về mà lòng cứ bịn rịn. Những tình cảm nồng ấm như máu mủ không bao giờ phai. Hẹn gặp lại một ngày không xa. Chào hai em, chào các cháu, chào Xứ Thanh yêu dấu, Nơi nồng ấm tình thương yêu.
Sau chiến tranh, chúng tôi đều trưởng thành, đang chung tay xây dựng lại quê hương hoặc tỏa đi khắp mọi miền đất nước, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Giờ đây, những học sinh K8 chúng tôi đã thành ông, thành bà. Nhưng trong tâm khảm chúng tôi luôn khắc ghi công ơn của Bác Hồ, của Đảng và Chính phủ và các địa phương đã thực hiện một chủ trương đúng đắn, sáng suốt, không chỉ có ý nghĩa chiến lược mà còn đầy tính nhân văn cao cả. Điều đó luôn nhắc nhở chúng tôi phải sống thật xứng đáng, cống hiến hết mình cho đất nước, cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam.
29/4/2023
Nguyễn Đại Duẫn
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Có một tiếng ve

Có một tiếng ve

Mới đó, mà đâu hay em đã lớn/ Nhẹ nhàng bước, trên cỏ non mơn mởn/ Hát khúc mai này, sâu lắng – chia tay/ Có một tiếng ve ẩn ức, dâng đầy…
Có một tiếng ve
Gian tuổi mộng, ngạc nhiên em mười sáu
Có chàng trai, cầm vần thơ khờ khạo
Dán lên tường loang lổ nắng an nhiên
Gió lộng đưa, không gợn chút ưu phiền       
Con đường quen, có gì đâu vướng bận
Bước chậm bước mau, hồn nhiên thơ thẩn
Nắng đổ loang mờ, bóng nhỏ liêu xiêu
Có ai đang xớ rớ, mộng hoang chiều  
Lơ đãng bước, một tháng năm gợi nhớ
Bất chợt, tiếng ve mồ côi òa vỡ
Ngắt ngứ ngang chiều, hòa giọng say sưa
Gã đi theo sau, lính quýnh đổ thừa…   
Bẵng một nỗi, kìa em nay mười tám
Tiếng ve ngân, trái tim non thấu cảm
Một nỗi buồn vô cớ, biết vì đâu?
Cánh phượng rưng rưng, như cũng phai màu 
Mới đó, mà đâu hay em đã lớn
Nhẹ nhàng bước, trên cỏ non mơn mởn
Hát khúc mai này, sâu lắng – chia tay
Có một tiếng ve ẩn ức, dâng đầy…
Phượng tím bên đường 
Lặng lẽ
Bên đường
Chùm hoa phượng tím
Đà Lạt
Run
Trong ly rượu
Xây chừng
Góc phố
Dốc quanh co
Đong hoài niệm
Nơi đó
Ngày nào
Ta đã xoay lưng…
Dấu Xưa
Lắng trong đâu đó, ân tình
Trưa tròn, nắng đọng bóng hình quanh đây
Đường xa chiều đổ bóng ngày
Còn nguyên tình đợi, hao gầy dấu xưa
Đậu thuyền trên bãi Hồng Phong
Đêm đắm đuối, treo ngang trời
Mảnh trăng khuyết, sóng gọi mời nước lên
Thuyền neo bãi vắng bập bênh
Bâng quơ nỗi nhớ, rộng thênh khoang nằm.
30/4/2023 
Lê Thanh Hùng
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Phùng Văn Khai

Nghệ thuật trong tiểu thuyết
lịch sử Phùng Văn Khai

Tiểu thuyết lịch sử Phùng Văn Khai đã tạo được phong cách và tiếng nói nghệ thuật riêng đặc sắc, giàu giá trị thẩm mỹ; đã góp mặt trong dòng chảy chung đa giọng điệu của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ năm 1975 đến nay. Lựa chọn khuynh hướng “Lịch sử hóa tiểu thuyết” với lối viết chương hồi, nhà văn góp phần làm sống lại một thời lịch sử đã xa, từ ngôn ngữ đến hình tượng nhân vật. Càng đọc tiểu thuyết lịch sử của ông, ta càng thấy sự cố gắng và khả năng trau dồi kĩ thuật viết được nâng lên qua từng tác phẩm.
Nghệ thuật xử lý chất liệu lịch sử
Lựa chọn viết về đề tài lịch sử là nhà văn phải lựa chọn cách xử lý mối quan hệ giữa hư cấu nghệ thuật và tính chân thực lịch sử. Hư cấu nghệ thuật ở đây là bồi đắp chỗ trống trong các trang chính sử. Đối với Phùng Văn Khai, ông rất tôn trọng tính chân thực lịch sử và cũng rất coi trọng phần hư cấu, tưởng tượng nghệ thuật bởi điều đó sẽ làm nên giá trị văn chương cho tác phẩm: “Văn học lịch sử của chúng ta bị chậm do chúng ta không dám hư cấu. Thực ra các vĩ nhân trong lịch sử cũng là con người, cũng có lúc sai, có điểm xấu nhưng khi viết về một vị vua thì nhà văn cầm bút có hư cấu gì cũng là để tôn vinh nhân vật, đưa nhân vật trở về đời thường nhưng không được thóa mạ, không bôi đen lịch sử, làm giảm nhuệ khí người Việt… Hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử dù gì cũng phải hư cấu trên nền dân tộc, nền nhân dân và nền tiến bộ”.
Phùng Văn Khai có cách xử lý lịch sử rất đa dạng. Trên nền tiểu thuyết, lịch sử được khắc họa bởi bàn tay tinh tế, tài hoa của một người cầm bút tài năng. Những yếu tố cố định, yêu cầu nhà văn phải đảm bảo tính chính xác là các nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử, bối cảnh lịch sử đến cách ăn nói, trang phục, ngôn ngữ… của từng thời kì nhất định. Rõ ràng, tác giả không thể tùy tiện thay đổi phục trang của người hiện đại cho những người ở giai đoạn trước, cũng không thể có các từ ngữ quá tân thời cho con người trong quá khứ. Phùng Văn Khai đã rất cẩn trọng, kỹ lưỡng trong việc thể hiện tính chân xác lịch sử. Các nhân vật Lý Bí, Lý Thiên Bảo, Lý Phật Tử, Triệu Việt Vương… đều có thật. Các sự kiện, địa danh được nhắc đến đều được ghi chép và diễn ra trong chính sử. Chính điều này góp phần đảm bảo tính xác thực của lịch sử, tạo nên độ tin cậy cao trong các tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai.
Bên cạnh đó, nhà văn cũng không coi nhẹ hư cấu, các nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử đã được nhà văn sáng tạo một cách hợp lí. Lý Thiên Bảo hiện lên còn “chân thực” hơn cả Lý Thiên Bảo trong chính sử. Vì Lý Thiên Bảo trong lịch sử là đối tượng còn nhiều khoảng trống bỏ ngỏ. Chính sử nhắc đến ông khá ít, còn Lý Thiên Bảo dưới ngòi bút của Phùng Văn Khai là một con người đời thường với đầy tâm tư, hành động trong gần 500 trang tiểu thuyết.
Phùng Văn Khai còn có cách xử lí lịch sử đầy phóng khoáng. Bên cạnh tái hiện nhân vật có thật, tiểu thuyết gia không quên tô vẽ thêm nhân vật hư cấu bằng sự tưởng tượng của nhà văn. Ông đã đưa vào tác phẩm khá nhiều yếu tố tâm linh, kỳ ảo. Đây là nhân tố đã góp phần tạo nên diện mạo mới, sắc thái mới cho tiểu thuyết Phùng Văn Khai, giúp ông có thể phản ánh hiện thực đa dạng, phong phú, tinh tế, sâu sắc và biến ảo hơn.
Tính hư cấu ở trong những cuốn tiểu thuyết lịch sử được nhà văn Phùng Văn Khai viết trên nguyên tắc nền tảng lịch sử, hư cấu trên một sự thật lịch sử, khoa học lịch sử. “Nam Đế Vạn Xuân” ra đời đã lý giải được tính khoa học lịch sử của việc Lý Nam Đế lên ngôi lập nhà nước Vạn Xuân, lập chùa Trấn Quốc. Tính tự chủ của người Việt hết sức mãnh liệt và không lệ thuộc vào phương Bắc. Với tư cách là người yêu thích lịch sử, nhà văn cho rằng: “triều chính Việt Nam không có việc giải trí. Chúng ta không có thời gian nhiều cho giải trí”.
Nếu đặt Phùng Văn Khai với Nguyễn Xuân Khánh và Hoàng Quốc Hải, ta thấy Phùng Văn Khai có hướng đi riêng của mình. Nguyễn Xuân Khánh luôn coi trọng chất tiểu thuyết trong tiểu thuyết lịch sử. “Tiểu thuyết lịch sử trước hết phải là tiểu thuyết, mang đầy đủ đặc trưng thể loại. Vì vậy một mặt nhà văn tôn trọng sự chân thực lịch sử mặt khác coi trọng sự hư cấu, sáng tạo”. Hoàng Quốc Hải quan niệm: “Tiểu thuyết nói chung kể cả tiểu thuyết lịch sử đều phải lấy hư cấu làm phương tiện nghệ thuật và tiểu thuyết lịch sử cũng không có ngoại lệ. Vấn đề là phải hư cấu như thế nào đạt đến chân thực lịch sử và chân thực cuộc sống. Chân thực đến mức người đọc phải thừa nhận đây mới là lịch sử. Cũng không có nghĩa là sự bịa tạc, mà là sự tìm tòi đi đến chân thực”. Điều này hoàn toàn khác với tư tưởng tôn trọng lịch sử của Phùng Văn Khai, ông chấp nhận sự hư cấu nhưng phải có giới hạn và tuyệt đối không “bôi nhọ” lịch sử. Chính điều này đã mang lại sự đóng góp rất lớn của cây bút với lịch sử nước nhà.
Kết cấu và cốt truyện
Tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai được triển khai theo kết cấu chương hồi. Ở một góc độ nào đó, có thể coi Phùng Văn Khai là người có công phục sinh và làm mới tiểu thuyết chương hồi, đưa chúng lại gần với độc giả đương đại. Tác giả chọn tiểu thuyết chương hồi vì thể loại này mang nhiều ưu điểm cho phép nhà văn đảm bảo nguyên tắc vừa tôn trọng lịch sử vừa thoát khỏi lịch sử để tự do sáng tạo; vừa bao quát được hiện thực lớn vừa quản lý được nhân vật, tường thuật một cách mạch lạc, đảm bảo cốt truyện phát triển hợp lô gíc. Theo mô hình tiểu thuyết chương hồi, mỗi cuốn sách của Phùng Văn Khai gồm nhiều hồi. Mỗi hồi kể về một chuyện và có thể tách ra thành từng truyện ngắn độc lập nhưng đều được triển khai xoay quanh nhân vật trung tâm.
Phùng Văn Khai đã kế thừa truyền thống của kết cấu tác phẩm. Nhưng trong tiểu thuyết của mình, nhà văn đã sử dụng hình thức kết cấu sự kiện, lấy nhân vật và sự kiện lịch sử làm trục chính. Tác giả đã sử dụng kết cấu theo kiểu này hết sức thành công đã lôi cuốn sự hấp dẫn của bạn đọc. Người đọc nếu chỉ đọc lướt qua sẽ không thể phát hiện cái hay của tiểu thuyết lịch sử Phùng Văn Khai. Trong các tác phẩm của ông có rất nhiều tình tiết đáng nhớ. Đọc xong bộ bốn tác phẩm thời Tiền Lý, độc giả sẽ thấy được sự sắc sảo khi sử dụng các tình tiết, có sự sắp đặt hợp lý khiến bạn đọc thêm tò mò. Nếu độc giả đọc kĩ, độc giả sẽ thấy được các sự kiện nối tiếp nhau một cách sâu sắc và đầy đủ, thấy được toàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, đây là một giai đoạn lịch sử Bắc thuộc mà chính sử còn nhiều khoảng trống. Từ đó, giúp độc giả thấu hiểu và thêm yêu, thêm trân trọng công lao của ông cha ta.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Nhân vật là chủ thể làm nên các sự kiện, các diễn tiến của lịch sử. Để phản ánh bức tranh hiện thực lịch sử đương thời, tác giả Phùng Văn Khai đã thâu nạp số lượng đồ sộ nhân vật. Các nhân vật này đại diện khá đầy đủ các loại người, các tầng lớp, các kiểu nhân cách khác nhau. Các nhân vật đó chỉ cần nhắc tên là người đọc có thể hình dung ra điệu bộ, cử chỉ, quan điểm sống, nhân cách, như: Lý Bí, Lý Đào Lang Vương, Lý Phật Tử, Triệu Việt Vương, Phạm Tu, Triệu Túc, Tinh Thiều, Phùng Thanh Hòa, Nhã Lang, Triệu Quốc Chính, Trần Bá Thường, Lý Thiệu Long, Trịnh Tông Hàn, Dương Đình Lập,… Có một số nhân vật được tác giả khắc họa kỹ như bốn vị hoàng đế, quân vương của Vương triều Tiền Lý nhưng cũng có các nhân vật chỉ xuất hiện qua một vài chi tiết mà khiến người ta nhớ mãi như Nhã Lang, Hoàng hậu Su Man Trinh, Từ sư phụ, Triệu Thái sư,… Đạt được điều đó là bởi tài khắc họa nhân vật của tác giả. Ông chứng tỏ những cố gắng và năng lực nghệ thuật của mình: ông đã đem đến trước mắt người đọc những bức tranh chân dung sinh động: đắp da đắp thịt cho nhân vật, để người đọc thấy những số phận, hình hài, tâm lí, tính cách, những hành động cùng chi tiết cụ thể trong cuộc sống, chứ không phải những tên người, tên việc trần trụi.
Các nhân vật lịch sử thông qua ngòi bút nhà văn trở thành hình tượng văn học với cá tính, phẩm chất riêng. Ở “Nam Đế Vạn Xuân”, qua lối kể chuyện hấp dẫn cùng mạch truyện uyển chuyển, với nhiều tình tiết đan xen nhưng vẫn trên một trật tự tuyến tính, không bị đứt gẫy, Phùng Văn Khai đã thể hiện sự tiến bộ nhuần nhuyễn trong bút pháp của mình.
Kết hợp đối thoại, Phùng Văn Khai sử dụng văn phong tiểu thuyết để miêu tả và dựng lại bối cảnh phù hợp. Bạn đọc có thể thấy ngôn ngữ và hành động thể hiện lên tính cách nhân vật và hoàn cảnh lúc bấy giờ. Cùng với văn phong miêu tả ấy kết hợp độc thoại nội tâm, Phùng Văn Khai còn tôn lên được đặc điểm tâm lí của nhân vật.
Có thể nói, bằng ngôn ngữ, Phùng Văn Khai đã phục dựng được cả không gian văn hóa của nhà nước Vạn Xuân. Ông đã đem đến cho bạn đọc những tri thức mới mẻ, hấp dẫn về đất nước và con người Việt Nam thời Tiền Lý và các thời đại trong tiểu thuyết lịch sử mà ông đã công bố.
30/4/2023
Lại Ngọc Anh Thư
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Qua miền tuổi thơ

Qua miền tuổi thơ

Mình lớn lên cùng trái bần chua trưa hè chọi sình/ trầm nghịch/ tiếng rao thương hồ mặn mòi con nước/ đợi chuyến ghe hàng mua bịt cốm gạo… trần thân.
Qua miền tuổi thơ
Tôi và anh sinh ra giữa miền châu thổ
dải phù sa phương Nam mưa nắng hai mùa
nửa đời người không màng chuyện hơn thua
thương quê mình như rặng trâm bầu bám rễ sâu vào đất
 
hồn nhiên mùa nước lên bông súng nở đầy đồng
mỗi vụ mùa mừng cây lúa oằn bông
hạt phù sa ửng vàng buồng chuối chín
Mình lớn lên cùng cung đờn tài tử
câu vọng cổ khua nước bến sông gầy
câu ví dầu nhịp cầu khỉ lung lay
giọt mồ hôi của má tảo tần gánh nắng
Mình lớn lên cùng trái bần chua trưa hè chọi sình
trầm nghịch
tiếng rao thương hồ mặn mòi con nước
đợi chuyến ghe hàng mua bịt cốm gạo… trần thân
Mười bốn tuổi tôi rời quê theo chuyện học hành
hai chục năm hơn buồn vui cùng ánh đèn phố thị
cơn ngủ vẹn nguyên hình hài rơm rạ
chập chờn giấc trăng quê
Anh nghỉ học ở lại quê nhà mơ ước ruộng đồng hiền hoà mưa nắng
chiếc xuồng câu thanh thản cần lao
đôi mắt trong veo dù bụi trần mấy lượt
Mỗi lần về thăm ba má tôi đều ghé anh chơi
anh hít hà nhìn tôi áo sơ mi quần tây mướt rượt
Tôi nhìn tôi
bờ tóc sương pha ánh chiều vàng vọt
nắng ngập ngừng bông so đũa hoàng hôn
Anh mơ về tôi?
tôi mơ về…
tuổi thơ nón rách lưng trần!
Miền hạ
Em có về với tháng Tư
hoa kèn hồng ướp nắng phương Nam
cung đường ve buông giai khúc nồng nàn
mưa sang mùa trong veo vắt ngang miền nhớ
Em có về với miền quê
sợi khói hoàng hôn đùa chái bếp
liềm trăng nghiêng vàng hoa mận trắng
giọt đờn tài tử hoang hoải ngân dọc dài châu thổ thăng trầm
Em có về miền hạ cùng anh
câu hò chung đôi mà xuân thì lỡ lầm đánh mất
quên vui buồn… tủi hờn… khắc khoải…
góp nhặt yêu thương qua hết cuộc người
Em có về
hạ mùa này đã chín…
Ngọn gió đi qua
Ngọn gió nào
từ đâu?
Gió mùa thu xa xôi
ầu ơ cổ tích
thơm đầy giấc tuổi thơ
khát khao vươn vai Phù Đổng
Tan trường
đồng lúa non im lìm ngủ nắng
chị cõng em về
chân trần bờ ruộng quen
Hò hẹn thanh xuân
gió không tên ngủ ngoan giữa miền tóc biếc
trời xuân thăm thẳm
trăng gầy hôn nhẹ chiếc sao trôi
Sáo diều bồng bềnh
phượng vĩ ướp tình mùa hạ
những con tàu giương buồm ra khơi
hành trình hoài bão
Mùa giông tố
gió vô tình
ngả nghiêng
vụn vỡ
lặng câm
Những ngọn gió vô thường
không màu
không vị
bay qua cõi nhân sinh…
1/5/2023
Nguyễn Trần Hoàng Viện
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Chợt thương ngọn gió sau nhà

Chợt thương ngọn gió sau nhà

Mai này về tới quê anh/ cùng em bẻ nhánh trăng xanh lót nằm.
Chợt thương ngọn gió sau nhà
sầu anh rải xuống dòng sông
mốt mai đến hẹn mùa vông nở đầy
đưa tay hái một chùm mây
gởi theo hương tóc đắm say bên nhà
nghe chiều tím đẫm hồn hoa
mà lòng bỗng ngã nghiêng sa một đời
thấy em thả mộng lên đồi
màu lan đã hết đơn côi trên cành
xin dành riêng khoảng trời xanh
cho em trả lại tình anh đem về
tháng hai có ánh trăng thề
chợt thương ngọn nắng đứng kề bên hoa
chợt thương ngọn gió sau nhà
theo anh đến tận giang hà mới thôi
đêm chờ sương rụng sao rơi
anh đi nhặt hết đem phơi để dành
mai này về tới quê anh
cùng em bẻ nhánh trăng xanh lót nằm.
Xin cho nợ một làn môi
mùa này gió cũng buồn hơn
mưa nhiều tóc rối dỗi hờn lên vai
gió làm lạ bước chân ai
để chiều ga quạnh trôi dài đôi tay
mùa này lá cũng xa cây
tóc bay cứ ngỡ màu mây la đà
em còn vang giọng tình ca
của mưa nhiệt đới băng sa giữa rừng
mùa này trăng cũng muôn trùng
cho môi em sáng bão bùng lên cây
về thương tóc thả vai gầy
tương tư mắt biếc heo may thuở nào
mùa này trời cũng hanh hao
xôn xao mấy nhánh chiêm bao phổ phường
em đi gởi nắng qua đường
trên tay còn vọng mười phương hẹn chờ
mùa này bến cũng xa bờ
làm con sóng vỗ vu vơ mạn thuyền 
đêm sâu màu mắt lam tuyền
se đưa từng sợi thuyền quyên luyến chờ
mùa này mưa cũng hững hờ
để cho ngọn gió dại khờ chìm trôi
xin cho nợ một làn môi 
của em và của muôn đời đắm say.
Ấy là thuở của đôi mươi
nghe chiều lên tận bờ vai
mà sầu xưa đã úa phai mất rồi
ngóng về dĩ vãng mây trôi
thấy hoa đua nở trên môi một người
ấy là thuở của đôi mươi
lúc em chưa chiếm hồn tôi bên đường
hai lòng cách một niềm thương
mà cây hoa gạo đỏ hường bên sông
nhớ khi về tới cánh đồng
tiếng chim tu hú lạc dòng nước trôi
đừng tìm màu mắt xa xôi
để thương trăng lỡ mù khơi hướng nào
em đi mùa lá xôn xao
như con bướm lượn vườn đào ngẩn ngơ
chờ tay em hái mộng mơ
cho anh góp lại bài thơ thành lời
rồi về nhặt cánh hoa rơi
mùi hương tóc mãi còn khơi giữa lòng.
1/5/2023
Huỳnh Liễu Ngạn
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Những nhân vật "Ấm ớ" trong kiệt tác văn học

Những nhân vật "Ấm ớ"
trong kiệt tác văn học

Nhân vật chính của hàng trăm tiểu thuyết lớn nhất của nhân loại từ bi kịch Hy Lạp đến nay, hầu hết đều là những con người ấm ớ, con người muôn mặt, đa nhân cách mang tính bi hài kịch vô cùng tận.
Tác phẩm lớn nhất thế giới của thời đại Phục Hưng là tiểu thuyết “Don Quijote” của đại văn hào Miguel de Cervantes Tây Ban Nha (1547-1616), nhân vật chính là một kẻ ấm ớ toàn phần. Don Quijote là một kẻ dở người chính hiệu, một hiệp sĩ, một anh hùng rơm. Người anh hùng tốt bụng, ngây ngô, mắc bệnh hoang tưởng, luôn luôn tưởng tượng ra những kẻ thù kỳ quái như cối xay gió để anh ta chiến đấu.
Anh ta cưỡi trên lưng một con nghẽo gầy trơ xương nửa ngựa, nửa lừa có tên là Roxinante, dắt theo một đệ tử chưa thật tính người là Sanchopanza đi giải phóng thế giới khỏi áp bức, mang tự do về cho giun dế, muỗi ruồi, người ngợm, thề thực hiện giấc mơ giải phóng đàn cừu. Don Quijote xưng tụng một mụ nạ dòng xấu như ma thành tuyệt thế giai nhân là Dulcinea để suốt đời chiến đấu bảo vệ trinh tiết và sắc đẹp của nàng. Hết chiến dịch chiến đấu chống bọn giặc cối xay gió, đến chiến dịch bảo vệ Đức Mẹ đồng trinh, Don Quijote lập được rất nhiều chiến thắng ảo, và tự hào mình đang bảo vệ thế giới, không có chàng ta ma quỷ sẽ ăn thịt hết người Tây Ban Nha và cả loài người…
Nhân vật Don Quijote của đại văn hào Cervantes
Ở triết thuyết ấm ớ này, Cervantes đã báo trước những bi kịch khủng khiếp, thảm khốc của nhân loại. Đó là tính bi hài kịch con người phải chiến đấu với những ảo tưởng vô cùng tận của chính mình, có thể biến địa cầu thành địa ngục đớn đau.
Bên kia biển Manche, kịch tác gia vĩ đại nhất thời Phục Hưng là William Shakespeare (1564-1616) đã cho ra đời những vở kịch lớn như: “Hamlet”, “Othello”, “Vua Lea”, “Romeo và Juliet”… Tất cả các nhân vật của kịch Shakespeare đều là những người “ấm ớ vĩ đại”. Hamlet chẳng hạn. Chàng luôn nghi ngờ mình chưa có thật, không có thật, là chính chàng đây hay là cái bóng của chàng? “Tồn tại hay không tồn tại”, câu hỏi của Hamlet với chính mình có phải là triết thuyết vĩ đại nhất của con người nước đôi, con người ấm ớ?
Thời cổ đại Hy Lạp có một thi sĩ, một kịch tác gia vĩ đại là Sophocles (496-406 TCN) đã viết vở bi kịch “Oedipus làm vua” để phơi bày tính cách loạn luân vô cùng tận của loài người thời dã man. Do những điều kiện lịch sử loạn lạc, Oedipus đã thất lạc cha mẹ, làm con nuôi hết người này đến người khác. Lớn lên, Oedipus lao vào chiến trận liên miên và đã vô tình giết chết cha mình. Sau đó, Oedipus lên ngai vàng làm vua và đã lấy nhầm mẹ mình làm vợ. Mẹ Oedipus đâu biết người chồng đang làm vua vốn là con trai mình, và bà đã sinh ra cho Oedipus 2 đứa con gái. Sau này, Oedipus phát hiện ra sự thực, chàng đã chọc mù con mắt mình và sau đó tự sát, vì chàng đã ngu ngốc và hèn hạ, bẩn thỉu hơn loài ngựa. Nhân vật Oedipus từ đó được gọi tên là “mặc cảm loạn luân hay mặc cảm Oedipus”, một nhân vật ấm ớ nhất của văn học châu Âu và thế giới.
Kinh Thánh của Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo đã kể ra nhân vật ấm ớ đầu tiên của loài người đó là nhân vật Cain, con trai đầu của Adam và Eva, đã trở thành tên ấm ớ đầu tiên của nhân loại: kẻ đã giết chết em trai mình. Từ đó, có một tên gọi để chỉ hành vi huynh đệ tương tàn: “anh em nhà Cain”.
Từ sự tích này, đại văn hào Nga là Fyodor Mikhaylovich Dostoyevsky (1821-1881) cuối đời đã viết ra một cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất thế giới là “Anh em nhà Karamazop”. Tất cả các nhân vật trong cuốn tiểu thuyết này đều là những nhân vật nửa người nửa quỷ, trừ vị thiên sứ đi lạc vào gia đình thiên lôi này là cậu út Eliosa.
Có thể nói, tất cả các nhân vật trong hệ thống tiểu thuyết đi tận cùng cái ác để gặp cái thiện của Dostoyevsky đều là những nhân vật ấm ớ, nửa người nửa ma, nửa khôn nửa dại, nửa chống Chúa Trời nhưng vẫn sợ Chúa và tìm cách lẩn như chạch để thoát khỏi sự quan phòng của Thiên Chúa toàn năng.
Người có công đầu đã kéo hồi chuông báo kết thúc thời trung cổ là đại thi hào ”ấm ớ” nhất thế giới: Alighieri Dante (1265-1321). Với một sự ấm ớ đến gần như liều mạng, Dante đã cho ra đời tác phẩm lớn nhất đời mình là “Thần khúc” – một tinh thần dị giáo (trái với các nguyên lý đạo đức Kitô) xuất hiện trong cuộc thám hiểm vào ba cõi: địa ngục, lò luyện tội và thiên đường. Dante đã nhờ thi sĩ La Mã cổ đại (một người dị giáo) là Virgile (70-19 TCN) dẫn ông tham quan 9 tầng địa ngục và lò luyện ngục. Ở đấy, Dante đã gặp khá nhiều giáo hoàng và hồng y phạm tội bị lưu đày địa ngục. Sau này, khi “Thần khúc” được in ra, Giáo hoàng Boniface đã truy tìm Dante để thiêu sống ông trên dàn hỏa nhưng ông đã trốn thoát.
Dante còn bị giáo hội Roma kết án vì ông đã nhờ tình nhân, nàng Beatrice xinh đẹp dắt ông tham quan thiên đàng, gặp được Thiên Chúa và Đức Mẹ Maria. Nâng một người đàn bà bình dân lên ngang Đức Mẹ là tính nhân văn ca ngợi con người của Dante nhưng lại “phạm thượng” trong tinh thần Thiên Chúa giáo; bởi thiên đàng đâu có chấp nhận đôi trai gái bồ bịch thế tục leo lên làm ô uế cõi thiêng…
AQ – một nhân vật “ấm ớ” của nhà văn Lỗ Tấn
Như vậy ba đỉnh cao của thời đại Phục Hưng mở đầu với Dante, Cervantes và Shakespeare đều chọn các nhân vật mang tính ấm ớ để đưa vào văn học sự khai phóng tinh thần nhân văn cho toàn châu Âu và thế giới tiến sang thế kỷ Ánh sáng.
Tiền bán thế kỷ thứ 19, châu Âu với hai đỉnh cao V.Hugo lãng mạn và H. Balzac hiện thực lại đưa ra toàn những nhân vật ấm ớ làm nhân vật chính của văn học. Jean Valjean trong “Những người khốn khổ” (Les Misérables) là một ông già tốt bụng ấm ớ toàn tập. Các nhân vật: anh gù Quasimodo và cô gái Bohémiens xinh đẹp trong “Nhà thờ Đức Bà Paris” đều là những nhân vật dị thường rất chi là ấm ớ vậy.
Hầu hết hàng trăm nhân vật trong “Tấn trò đời” vĩ đại của đại văn hào hiện thực H. Balzac đều là những người ấm ớ, yêu đương ấm ớ, buôn bán ấm ớ, gái mãi dâm ấm ớ, anh hà tiện ấm ớ, linh mục ấm ớ, cảnh sát ấm ớ, quan tòa ấm ớ, du côn ấm ớ…
Nhân vật bác sĩ Faust của đại thi hào Đức Johann Wolfgang Goethe (1749-1832) là một chàng ấm ớ nhất trong văn học châu Âu thế kỷ thứ 19. Faust đã bán linh hồn mình cho quỷ Mephisto để đổi lấy sự khôn ngoan. Anh ta đã trở thành cái máy cho quỷ sai khiến. Một con người mà không có linh hồn, con người ấy chẳng ấm ớ vô cùng lắm sao?
Nhà văn “du thủ du thực” Nga M. Gorky với bộ ba tác phẩm tự truyện viết trước năm 1917: “Tuổi thơ”, “Kiếm sống”, “Những trường đại học của tôi” viết về chính ông là một con người vô địch ấm ớ, vô địch liều mạng, vô địch sống và vô địch chết… như một kiệt tác của văn học Nga, bên cạnh các nhân vật ấm ớ của Gogol, Dostoevsky…
Ngó sang Trung Quốc, ta thấy kiệt tác “AQ chính truyện” của Lỗ Tấn có nhân vật ấm ớ nhất trong nền văn học thế giới. Anh AQ mắc căn bệnh của dân Trung Hoa “phép thắng lợi tinh thần”, dù bị đánh nhưng anh ta rất sướng với quan niệm: mày đánh tao như mày đánh bố mày vậy.
Chí Phèo, Lão Hạc của Nam Cao, Giang Minh Sài của Lê Lựu, là những kiệt tác văn học mà tính ấm ớ của nhân vật chính phải nói là không hề thua tính ấm ớ của anh AQ của Lỗ Tấn bên Trung Quốc. Các nhân vật trong “ Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng như Xuân tóc đỏ, bà Phó Đoan, ngài Típ phờ lờ… thảy đều là những nhân vật ấm ớ. Nhân vật Tám Bính, Năm Sài Gòn trong “ Bỉ vỏ” của Nguyên Hồng cũng là những con người ấm ớ trong hoàn cảnh ấm ớ… Một số nhân vật trong truyện ngắn lừng danh của Nguyễn Huy Thiệp, có nhân vật có cá tính đặc sắc, “ấm ớ” khôn tả xiết!.
1/5/2023
Trần Mạnh Hảo
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

  Lời ru của mẹ – Chùm thơ của Hà Lam 5 Tháng Ba, 2023 Giấc nồng trên mắt con tôi/ Nụ cười vẫn nở trên đôi môi hồng/ Cánh cò chấp chới t...