Cho đến nay, trước sau có ba nhạc sĩ Việt Nam tự
nhận mình là người hát rong:
Phạm Duy, Trịnh Công Sơn và
Trần Tiến. Phạm Duy rong ruổi trên con đường cái quan, suốt từ Bắc vào Nam,
rồi ra ngoài đất nước, đi khắp vòng thế giới để cuối cùng, trở về điểm mốc
ban đầu: quê nhà.
Trần Tiến muốn nói lên sự thật về một đất nước thừa nghèo
đói nhưng cũng không thiếu điều nhố nhăng trên những nơi ông đi qua. Còn
Trịnh Công Sơn, người nhạc sĩ của hơn tám trăm ca khúc, đã cùng âm nhạc của
mình lang thang mãi giữa những lằn ranh của nắng-mưa, yêu-ghét, cảm
thông-chối bỏ, sống-chết, đi-về, nhớ-quên, buồn-vui, chiến tranh-hoà bình,
hận thù-ăn năn...
Năm 1991, trong lời bạt của tập bài hát Em còn nhớ hay em đã quên, nhạc sĩ
Văn Cao viết: “Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người ca thơ (chantre) bởi ở Sơn,
nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào chính, cái nào là
phụ. Và bởi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng cuả một đưá con
biết vui tận cùng những niềm vui và đau tận cùng những nỗi đau của Tổ quốc mẹ
hiền... Cái quyến rũ của nhạc Trịnh Công Sơn là ở chỗ không định tạo ra một
trường phái nào, một triết học nào, mà vẫn thấm vào lòng người như suối tưới.
Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc
biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã
chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà cả ở bên ngoài biên
giới nưã”. Như vậy, nhạc sĩ Văn Cao, cũng như nhạc sĩ Phạm Duy trong tập Hồi
ký cuả mình, đã nhắc về Trịnh Công Sơn với những lời lẽ đơn sơ nhưng trân
trọng.
Rất nhiều người khác trong giới văn nghệ sĩ đã đồng ý gọi Trịnh Công
Sơn là nhạc sĩ cuả Tình Yêu-Quê Hương-Thân Phận. Thật vậy, trong sự nghiệp
sáng tác của ông, bên cạnh những tình khúc lãng mạn, những ca khúc phản
chiến, kêu gọi xây dựng đất nước trong hoà bình, còn có những bài hát, như
những dấu chấm hỏi và dấu chấm than về thân phận con người.
Tình khúc của Trịnh Công Sơn, với những cái tựa rất ấn tượng và siêu thực như
Nắng thuỷ tinh, Rồi như đá ngây ngô, Biển nhớ, Hạ trắng, Lời buồn thánh, Hoa
vàng mấy độ... một lần được nghe, sẽ ở lại mãi trong lòng người thưởng thức.
Ca khúc về thân phận cuả ông, đôi bài rất gần với thánh ca, đạo ca, thiền ca,
dân ca, được không ít người suy gẫm: Lời mẹ ru, ở trọ, Xin mặt trời ngủ yên,
Tự tình khúc, Gần như niềm tuyệt vọng, Một cõi đi về, Biết đâu nguồn cội, Bay
đi thầm lặng...
Chỉ có những ca khúc phản đối chiến tranh, kêu gọi hoà bình
của ông thời 1968-1973 và một số bài hát viết sau năm 1975 là tạo nhiều “vấn
đề”, biến ông thành người hát rong giữa những lằn ranh cuả định kiến ý thức
hệ. Trong thời gian sáng tác các ca khúc cuả hai tập Ca khúc da vàng và Kinh
Việt Nam, Trịnh Công Sơn đã phát biểu:
“Tôi phản đối chiến tranh, dù đó là
chiến tranh chính nghiã hay phi nghiã”. Hình ảnh và tiếng nói cuả ông xuất
hiện khắp mọi nơi trên thế giới, nhưng đồng thời, trong nước, một số ca khúc
cuả ông bị cấm phổ biến. Chính quyền miền Bắc, với khẩu hiệu “Chống Mỹ cưú
nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, ra lệnh bỏ tù những ai dám
nghe và hát nhạc Trịnh Công Sơn vì không ít những cán bộ, bộ đội đã vì thế mà
bỏ ngũ, quay lưng quay súng trong các chiến dịch “chiêu hồi”.
Chính quyền
miền Nam, dưới chiêu bài “Bảo vệ Tự Do, chống sự xâm lăng cuả cộng sản phương
bắc”, cấm hàng loạt ca khúc cuả Trịnh Công Sơn vì cho rằng những bài hát này
làm băng hoại tinh thần chiến đấu cuả quân dân miền Nam, khiến binh lính đào
ngũ, người dân biểu tình, bãi thị, bãi khoá... Thế nhưng, ngay giưã Hà Nội,
chính nhạc sĩ Văn Cao đã được nghe những người thanh niên trẻ say mê hát nhạc
phản chiến đến đứt cả dây đàn guitare.
Tại Sài Gòn và các thành thị phiá nam,
bên cạnh những bài hát day dứt, nói lên nỗi thống khổ, tủi nhục, mất mát
trong chiến tranh như Đi tìm quê hương, Em đi trong chiều, Giọt nước mắt cho
quê hương, Gia tài cuả mẹ, những bài hát hừng hực khí thế tuổi trẻ đã được
sinh viên, học sinh và hướng đạo sinh say mê vỗ tay mà hát. Họ mong muốn
những gì? Được Nối vòng tay lớn, Dựng lại người dựng lại nhà và Chờ nhìn quê
hương sáng chói.
Cũng cùng một ý hướng như các nhạc sĩ Phạm Duy và Phạm Đình
Chương khi sáng tác hai trường ca Con đường cái quan và Hội Trùng Dương, nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn mong muốn được nhìn thấy một đất nước Việt Nam thống nhất
trong hoà bình và giàu mạnh khi ông viết các ca khúc rất lạc quan: Huế-Sài
Gòn-Hà Nội quê hương ta, Tôi sẽ đi thăm, Đồng dao hoà bình, những ca khúc
được viết khi ông vưà hát vưà bị rượt đuổi và đang sống lê la trốn lính với
các bạn bè giang hồ. Sinh ở Đắc Lắc, nổi tiếng ở Sài Gòn, nhưng trong hai thời điểm đau thương cuả
miền Nam, 1968 và 1975, Trịnh Công Sơn lại có mặt ở Huế.
Những hình ảnh hãi
hùng cuả Tết Mậu Thân đã để lại nhiều dấu vết trong một số ca khúc cuả ông.
Điạ danh Bãi Dâu, hình ảnh người mẹ hoá điên khi nhìn ra thi thể con mình
trong hầm chôn tập thể, thay vì gào khóc lại vỗ tay reo mừng, hay câu hát Xác
nào là em tôi giưã hố hầm này?, như những đoạn phim thời sự, vạch trần tội ác
chiến tranh và sự tàn bạo cuả những người chung một nòi giống. Sau năm 1975,
Trịnh Công Sơn lại ra sống ở Huế và cứ một năm vài tháng, lại tham gia vào
những chuyến lao động trồng khoai sắn trên những cánh đồng còn gài đầy mìn
tại Cồn Thiện, gần vĩ tuyến 17. Mãi đến năm 1979, ông mới được phép vào sống
cùng gia đình tại Sài Gòn, lúc này đã mang tên thành phố Hồ Chí Minh.
Ca khúc
đầu tiên sau biến động 30.04.1975 được ông vưà đàn vưà tự trình bày trên
truyền hình mang tưạ đề Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui. Bài hát lập tức bị đả
kích ở trong cũng như ngoài nước. Báo chí trong nước lên án bài hát đậm đặc
tính chất tiểu tư sản, những hình ảnh “Tôi nhặt gió trời, mời em giữ lấy, để
mắt em cười tưạ lá bay...
Tôi đợi em về, bàn chân quen quá, thảm lá me vàng
lại bước qua...” không thể nào chấp nhận được trong khi cả nước sôi sục khí
thế lao động và chiến đấu chống Khơ-me đỏ và “bọn bành trướng Bắc Kinh”. Báo
chí cuả người Việt hải ngoại đặt câu hỏi: niềm vui ở đâu ra lắm thế trong khi
quê hương lầm than, nhiều triệu người ly tán, bị tù đày trong các trại cải
tạo hoặc vượt mọi hiểm nguy tìm đường vượt biển. Cũng thế, bài hát Em còn nhớ
hay em đã quên ra đời sau đó cũng không thoát khỏi buá riù dư luận.
Trong khi
chuyện vượt biên còn là điều cấm kÿ, những người bỏ nước ra đi cách này hay
cách khác đều bị khép tội phản quốc, Trịnh Công Sơn viết: “Em ra đi, nơi này
vẫn thế, vẫn có em trong tim cuả mẹ”. Sau khi được Khánh Ly trình bày trên
đài VOA (Voice Of America) trong chương trình phát thanh về Việt Nam, bài hát
liền lập tức bị cấm phổ biến tại quốc nội. ở hải ngoại, bài hát bị lên án là
uỷ mị, làm mủi lòng người lưu vong, trong khi nhạc phẩm Khi xa Sài Gòn (phổ
thơ Kim Tuấn) cuả Lê Uyên-Phương, khi ấy đã định cư tại Hoa Kỳ, lại không bị
chỉ trích, dù nội dung và nhạc điệu buồn bã cuả hai ca khúc tương tự như
nhau.
Chỉ có người Sài Gòn vẫn tiếp tục lén lút phổ biến bài hát, bởi vì nó
gợi lại một thời xưa cũ, bởi vì đó là bài hát đầu tiên ở trong nước, từ sau
ngày 30.04.1975, nhắc đến cái tên Sài Gòn, cái tên mà chính quyền mới đã tìm
đủ mọi cách để làm cho mọi người quên đi. Có lẽ, vào thời điểm đó, chính
người Sài Gòn cũng cảm thấy mình đang sống lưu vong ngay giữa Sài Gòn!
Không chọn con đường quay lưng chống đối, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn quyết định ở
lại với đất nước, dù bạn bè và các em cuả ông lần lượt ra đi. Sau nhiều năm
tháng lao động cải tạo trên những mảnh đất gài đầy mìn, ông viết: “Tôi chọn
nơi này cùng nhau ca hát, để thấy tiếng cười rộn rã bay”. Nhưng như vậy,
không có nghiã là ông tự phản, ông chấp nhận sống chung để cùng thay đổi,
đồng thời, vẫn đi được con đường riêng cuả mình. Nhìn lại những ca khúc cuả
Trịnh Công Sơn được phổ biến trong nước khoảng thập niên 80, người ta thấy,
ngoài những ca khúc viết cho phim truyện và phim tài liệu: Đời gọi em biết
bao lần, Cánh chim cô đơn, Vẫn có em bên đời, Bốn muà thay lá..., ông còn một
số bài hát viết về quê hương, về mẹ, về tuổi mới lớn và tuổi thơ như các bài
Huyền thoại Mẹ, Chiều trên quê hương tôi, Em đến từ nghìn xưa, Tuổi đời mênh
mông,
Em là hoa hồng nhỏ... Vắng bóng những tình ca, nhưng không hề có một
lời xưng tụng chế độ, đảng cầm quyền cũng như những người lãnh đạo. Trong khi
giới truyền thông trong nước kêu gào, thổi phồng tin một số nữ thanh niên
xung phong bị hãm hiếp và giết hại dã man ở biên giới tây nam, Trịnh Công Sơn
sáng tác một ca khúc vui tươi, với những lời lẽ nhẹ nhàng: “Lên nông trường,
ra biên giới, có đôi chân đi không trở lại...”. Viết cho thiếu nhi, khi ấy
vẫn còn bị nhồi nhét lòng căm thù trong các bài học, ông có những câu rất
đẹp: “Trang sách hồng nằm mơ màng ngủ, em gối đầu trên những vần thơ...”.
Và,
rất lâu trước khi các ca khúc lãng mạn về Hà Nội cuả thập niên 90 ra đời, khi
người ta còn bị bắt buộc phải nghĩ đến Hà Nội như nghĩ đến một “thành trì
cách mạng”, với quảng trường Ba Đình và lăng Hồ chủ tịch, nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn mở đầu ca khúc Nhớ muà thu Hà Nội bằng một hình ảnh tương tự như tranh
Bùi Xuân Phái:
Hà Nội muà thu,
Cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ
Phố xưa, nhà cổ, mái ngói thâm nâu...
Hình như mọi người không ngạc nhiên khi biết, từ đầu năm 1975, Trịnh Công Sơn
bắt đầu tìm đến với hội hoạ, và tranh cuả ông có một đường hướng riêng, một
chỗ đứng riêng. Bởi vì, trong các ca khúc, ông đã “vẽ” rất nhiều bằng lời hát
đầy chất thơ cuả mình. Những hình ảnh ngàn cây thắp nến lên hai hàng, chiều
tím loang viả hè, trời ươm nắng cho mây hồng, lòng ta trăm con hạc gầy vút
bay, bàn im hơi bên ghế ngồi... kết hợp cùng âm thanh du dương, tạo nên nét
độc đáo trong âm nhạc Trịnh Công Sơn.
Người nữ, hao hao giống những modèle
cuả Đinh Cường, ẩn hiện trong hàng trăm ca khúc: vai em gầy guộc nhỏ, dài tay
em mấy thuở mắt xanh xao, đôi môi lưả cháy, mi cong cỏ mượt, da thơm quả
ngọt, áo xưa lồng lộng... Tình yêu, cũng vì thế, thường yểu mệnh trong các
bài hát cuả Trịnh Công Sơn, tình vui rất hiếm, tình buồn, Tình xót xa vưà,
Tình xa, Tình nhớ, Tình sầu, nhiều hơn...
Một người nữ khác, người mẹ, cũng xuất hiện khá nhiều trong các nhạc phẩm cuả
Trịnh Công Sơn. Từ hình ảnh thanh bình: Lời mẹ ru đêm vắng, ngón tay hồng,
người mẹ đi qua chiến tranh, tủi phận trong Ca dao Mẹ, hoặc nghẹn ngào thốt
lên: Con ngủ tuổi hai mươi.
Có khi đó là bà mẹ quê, ngơ ngác giưã đoàn người
di tản, với gia tài chỉ vỏn vẹn có mỗi trái bí trên vai. Có khi đó là người
mẹ gan dạ đứng dưới mưa để chờ xoá sạch dấu con về. Sau chiến tranh, tưởng
đâu những người mẹ ấy sẽ yên tâm lên núi tìm xương con mình, hoặc dâng miếng
cau rồi dâng ngọn trầu, nhưng cuộc “nội chiến” vẫn tiếp diễn dưới một hình
thức khác, mẹ vẫn trăn trở giọt ngắn giọt dài, mong lũ con cùng cha quên hận
thù... Hình ảnh mẹ, cuối cùng trở nên huyền ảo: Sương mù, tóc mẹ trôi, Mẹ
chìm dưới cơn mưa, trước khi biến mất hoàn toàn trong tiếng kêu than thống
thiết của đàn con: Mẹ bỏ con đi, đường xa hoạn nạn...
Hình ảnh người mẹ thường gắn liền với lời ru. Nhưng lời ru trong âm nhạc
Trịnh Công Sơn đã chuyển sang thành tiếng những tình nhân thổn thức ru nhau,
hoặc tự ru mình. Nếu tình khúc Tôi ru em ngủ bắt đầu với nhạc điệu êm ả và
lời hát gợi cảnh yên bình: “Tôi ru em ngủ một sớm mùa đông, em ra ngoài ruộng
đồng, hỏi thăm cành luá mới...”, trong những ca khúc khác, như Ru em, Ru em
từng ngón xuân nồng, Ru tình, Rơi lệ ru người, Ru đời đi nhé!, Ru đời đã mất,
Ru ta ngậm ngùi..., lời ru lãng đãng giưã bâng khuâng, nhớ nhung, hoang mang,
ưu phiền, ăn năn cuả tình yêu và sự khắc khoải cuả thân phận trước giấc ngủ
sau cùng, cái chết:
“Ta ru ta ngậm ngùi, xin ngủ dưới vòm cây”. Cái chết, một
chủ đề ám ảnh thường trực hành trình âm nhạc cuả Trịnh Công Sơn. Trong chiến
tranh, cái chết đến với mọi người, ở mọi nơi. Người con gái Việt Nam da vàng
chết trong đêm lạc đạn. Đưá bé ra đồng chết vì mìn gài một buổi sáng muà
xuân. Người phi công gẫy cánh. Đám tang đi qua trái mìn nổ chậm, người chết,
chết hai lần. Những cụm từ xác người, người yêu chết trận xuất hiện đậm đặc
trong các ca khúc bài ca dành cho những xác người,
Hát trên những xác người,
Tình ca người mất trí như sự lập đi lập lại cuả những hồi kinh cầu hồn. Những
người chết, người dân, người lính, cuả “phiá bên này” hay “phiá bên kia”, đôi
khi chết mà không hiểu vì sao mình phải chết. Với bản thân người nhạc sĩ, cái
chết dường như ít khốc liệt hơn, hình như chỉ là nằm chết như mơ, hình như
chỉ đơn giản một hôm lên núi nằm xuống, hay: “Thí dụ, bây giờ tôi phải đi,
tay chia ly cùng đời sống này...”. Trong các sáng tác có tính chất đạo ca cuả
Trịnh Công Sơn, cái chết còn đến rất gần với thuyết luân hồi cuả nhà Phật:
Không có cái chết đầu tiên,
Đâu có cái chết sau cùng...
Có thể nói không một cách không quá đáng rằng Trịnh Công Sơn là một nhà cách
tân ngôn ngữ Việt Nam đương đại. Qua vô số hình ảnh tuyệt vời ông đưa vào lời
hát rất nhiều so sánh, hoán dụ, ẩn dụ đắc giá: tóc trắng như vôi, chập chờn
lau trắng trong tay, biển rộng hai vai, đá lăn vết lăn trầm, tình treo trên
chiếc đinh không, đôi môi rồ dại, giọt máu cuồng điên, nắng khuya, mắt đêm
đèn vàng, tình yêu như trái phá - con tim mù loà, đời sao im vắng như đồng
luá gặt xong, đôi khi thấy trên lá khô một dòng suối, thuyền nào chở mất
thuyền quyên?...
Ông sử dụng tài tình sự tương phản và đôi khi dùng những vế
câu thật đơn giản để đẩy cao hơn điều muốn nói:
người vinh quang mơ ước điạ đàng /
người gian nan mơ ước bình thường
=> làm sao đến gần hy vọng cuộc vui chung?
Dù muà xuân đã đến đây / Vẫn còn tiếng khóc thầm,
Triệu nụ hoa đang thoát thai / Viên đạn vẫn trên nòng...
Tự học nhạc và bắt đầu sáng tác từ khi chưa đến hai mươi tuổi, âm nhạc cuả
Trịnh Công Sơn đi thẳng từ trái tim người sáng tác đến trái tim người nghe,
không bị lệ thuộc vào ảnh hưởng cuả âm nhạc kinh viện, âm nhạc thương mại hay
âm nhạc trình diễn, do đó, chỉ nằm trong các thể điệu slow, slow-rock, blues,
boston, valse hoặc surf, swing, soul chậm và hành khúc mà thôi. Ngoại trừ
nhạc phẩm phổ thơ Trịnh Cung Cuối cùng cho một tình yêu, liên-tiểu-khúc Đoá
hoa vô thường và một số ca khúc sáng tác chung với nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu,
các ca khúc khác cuả ông có giai điệu đơn giản, đôi khi đơn điệu, nhưng luôn
thăng hoa theo lời hát. Đó chính là đặc điểm và cũng chính là giới hạn cuả âm
nhạc Trịnh Công Sơn.
Khởi đầu bằng các ca khúc Ướt mi, Thương một người và kết thúc với Sóng về
đâu?, Đồng dao 2000, suốt hơn bốn mươi năm qua, âm nhạc Trịnh Công Sơn đã đến
với thính giả qua tiếng hát và cách trình bày cuả nhiều thế hệ ca sĩ. Từ Thái
Thanh đến Ý Lan, Quỳnh Hương, Duy Quang, Thái Hiền, Thái Thảo, Thiên Phượng,
Mai Linh. Từ Thanh Thuý, Giao Linh, Lệ Thu, Lê Uyên đến Thanh Lan, Nguyễn
Chánh Tín, Carol Kim, Thuý-Hà-Tú, Tuấn Ngọc, Đức Huy, Hoạ Mi. Từ Vũ Khanh,
Ngọc Lan, Kiều Nga, Hương Lan, ái Vân, Như Mai, Don Hồ, Dalena đến Thanh Hà,
Thuỳ Dương, Huy Tâm, Mỹ Huyền, Lâm Nhật Tiến, Hoàng Nam.
Từ Duy Trác, Quỳnh Giao
đến Nguyễn Thành Vân, Trần Thái Hoà. Từ Lê Dung, Cẩm Vân, Bảo Yến, Lan Ngọc,
Thanh Hải đến Khắc Dũng, Thu Hà, Thanh Lam, Tam ca áo trắng, Mỹ Linh, Bảo
Phúc, Trần Thu Hà... Nhưng có lẽ chỉ có Khánh Ly và Hồng Nhung là hai tiếng
hát đã để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lòng người nhạc sĩ cũng như người
thưởng thức. Ca sĩ Khánh Ly nghĩ rằng bài hát Yêu dấu tan theo có lẽ được
viết riêng cho cô. Bài hát có những câu: “Em theo đời cơm áo, Mai ra cùng phố
xôn xao, bao nhiêu ngày yêu dấu tan theo...”. Ngoài ra, trong một ca khúc
viết lúc cuối đời, “Em đi bỏ mặc con đường”, hình như cũng thấp thoáng đâu đó
đôi lời trách cứ: Bỏ xa xôi yêu và gần gũi, bỏ mặc tôi buồn giưã cuộc vui...
Bỏ tôi hoang vu và nhỏ bé, bỏ mặc tôi ngồi giưã đời tôi”.. Đối với cô bé Bống
Hồng Nhung, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã riêng tặng một tam khúc: Bống bồng ơi,
Bống không là Bống và Thuở Bống là người. Theo Trịnh Công Sơn, Khánh Ly là
người hát hay nhất những sáng tác cuả ông, nhưng nếu Khánh Ly hát cho một
thời vưà lãng mạn vưà đau thương trong chiến tranh đã qua, thì Hồng Nhung làm
mới lại những ca khúc, với cách biểu hiện mới, phù hợp với tiết tấu cuả thời
hiện đại. Ông cũng thường nhắc đến tên ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh, chính là em
gái út cuả ông
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, với đôi mắt kính gọng đồi mồi, với cây đàn guitare và
giọng hát khàn âm hưởng Huế, với cả những điếu thuốc lá và những ly rượu
mạnh, đã đi-qua-cuộc-đời và giã từ chúng ta ở tuổi sáu mươi hai. Bị bệnh tiểu
đường nặng, những ngày cuối cùng, ông phải di chuyển bằng xe lăn, đúng như
câu hát đã viết trước đó hơn hai mươi lăm năm:
Tìm đến chiếc ghế nghỉ ngơi,
Nằm xuống với đất muôn đời...
Xác thân ông đã nằm xuống với đất, về làm cát bụi, nhưng thần trí ông, vưà
giã từ cõi tạm, có lẽ đang bay lượn đâu đó giưã chốn vô cùng, và tất cả, hình
như, chỉ là một lời chia tay mà thôi:
Những hẹn hò từ nay khép lại,
Thân nhẹ nhàng như mây...
Đoá hoa vàng mỏng manh cuối trời
Như một lời chia tay..../.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét