Trần Bạch Đằng - cuộc đời và ký ức:
Tháng ngày trôi dạt
Ba mẹ tôi sinh tất thảy bảy người con, song
hầu hết anh chị tôi mất sớm, còn lại người chị thứ ba và tôi là út. Vì lý do
chính trị - cha tôi thuộc xu hướng dân tộc chủ nghĩa, từng ở tù vì xu hướng ấy,
mặc dù, theo tôi hiểu sau này, ông rất ôn hòa - chính quyền thực dân cho phép
gia đình chúng tôi định cư mỗi tỉnh không quá năm năm, vì lý do sinh sống,
chúng tôi trôi dạt khắp Nam bộ.
Giấc mơ “an cư” của mẹ
Ở Bến Bạ (quận Giồng Riềng, tỉnh Rạch Giá), mẹ
tôi nấu rượu bán cho người Miên hoặc cho chú Phồi, một Hoa kiều quanh năm chỉ
mặc chiếc quần lỡ gối lưng vận, ở trần, chủ tiệm chạp phô ngay đầu xóm. Tôi nhớ
nồi rượu vì hai lẽ. Mỗi khi nấu xong, mẹ tôi thưởng tôi một tô hèm trộn chuối
chát và đường tán. Bây giờ thì tôi không ăn được món ấy, nhưng khi tôi bằng
tuổi cháu ngoại tôi hiện nay thì đó là món ăn ngon.
Lẽ thứ hai, phức tạp hơn: một hôm, giữa lúc mẹ
tôi đang canh nồi rượu, tôi ngồi cạnh bà, nhìn giọt rượu chảy vào chai để chờ
được tô hèm thì một người Miên - vẫn thường mua chịu rượu - hớt hải chạy đến
báo tin: tào cáo sắp vào khám... Tôi chưa đánh giá hết độ nguy hiểm của “tào
cáo” - miền Bắc gọi là Tây đoan. Còn mẹ tôi, bà quýnh quáng dụi lửa, bưng cả
nồi, ống trấm quăng xuống xẻo. Ông người Miên giúp mẹ tôi chuyển nguyên cái
khạp đựng men, long qua xẻo, giấu dưới biền. Tôi khóc đòi ăn hèm. Nhưng, tôi
nín liền, nép vào mẹ tôi: lão Tây tào cáo lỗ mũi đỏ lưỡng đã sục vào nhà, cùng
một số người nữa dùng chiếc batoong chọc vào lu hũ, thúng gạo và xì xồ khá lâu
trước bếp lửa tuy đã dụi mà vẫn còn rất nóng.
Tôi soát lại trí nhớ và rõ là mẹ tôi chưa một
lần dạy tôi yêu nước. Chưa một lần bà nói cái gì thuộc về chính trị với tôi.
Thỉnh thoảng, bà kể cho tôi nghe về gia tộc tôi - ông cố tôi, ông nội tôi, ông
chú tôi, những người cho bà niềm hãnh diện: ông cố tôi làm phó tướng cho Nguyễn
Tri Phương, ông nội tôi là tri phủ Nam triều “treo ấn từ quan”, ông chú tôi là
nghè. Bà làm dâu trong một gia đình như thế - chưa bao giờ dám ngồi đối mặt với
cha chồng - nhưng bà không phàn nàn một câu. Tất nhiên, bà hãnh diện vì cha
tôi: một người giỏi chữ Nho, không chịu làm việc cho “nhà nước Pháp”, cắp cây
dù và cuốc bộ, trong chiếc áo dài đen đến tiệm thuốc Bắc coi mạch cho toa, đôi
khi xa nhà hàng chục cây số.
Năm 1942, bà phát hiện những lần vắng nhà bất
thường của tôi, những cuộc gặp gỡ của tôi với bạn bè. Bà không một lời ngăn cản
mặc dù tình cờ tôi vẫn bắt gặp bà thở dài...
Tôi rời nhà năm 1942. Lần đó, tôi không còn trở
lại sống cạnh mẹ tôi nữa - lâu lâu tạt về thăm bà, chỉ có thể ở nhà vài hôm
thôi. Trước khi đi, tôi trồng một gốc ổi cạnh giếng - chiết từ một cây ổi ngon
ở nhà thằng bạn. Mẹ tôi tiễn tôi bằng cặp mắt lo âu và lời dặn dò: “Coi chừng
coi đỗi nghe con!”. Dẫu sao, tôi chưa quá tuổi vị thành niên - vừa 16. Tháng
3-1945, tôi ghé nhà, đó là lần ghé nhà chót của tôi: bà hái mấy quả ổi, tự tay
xẻ, ngồi nhìn tôi ăn. Suốt đời, không bao giờ tôi quên được cái nhìn của mẹ.
Năm 1949, tôi rơi vào tay giặc. Mẹ tôi tìm tôi
qua các khám giam mà không sao tận mặt tôi. Tháng 11 năm đó, bà đến chợ Giồng
(Gò Công) tìm tôi, đúng vào hôm sau ngày chúng tôi vượt ngục.
Ba năm sau, chúng tôi - tôi và vợ tôi - gặp lại
bà. Bà đã về Giồng Riềng ở với chị tôi. Chúng tôi mang cho bà đứa cháu nội mà
bà ao ước.
Năm 1954, hòa bình chỉ thoáng qua. Tôi ra chiến
khu. Vợ tôi cũng vậy. Hoàn cảnh bí mật không cho phép chúng tôi sống chung với
mẹ. Ngay việc gửi gắm con tôi, chúng tôi cũng giấu bà. Một lần, bà đến thăm hai
cháu, chúng đã được tổ chức đưa đi xa, rất xa. Bà khóc tắt tiếng. Và từ đó,
vĩnh viễn mẹ tôi không nhìn được con trai, dâu và cháu nội lần nào nữa, dù mẹ
tôi cố sống đến tận năm Mậu Thân.
Tôi nhớ mẹ tôi có một ao ước: được ở yên nơi nào
đó. Cho đến khi mất, ao ước đơn giản của bà không đạt được.
Năm 1931, nếu tôi nhớ không lầm, chúng tôi đến
Biên Hòa. Chúng tôi: ba tôi, một nhà nho; mẹ tôi, một phụ nữ lao động; và tôi,
chú bé 5 tuổi đầu. Ba tôi thuộc xu hướng Thiên địa hội - sau này tôi mới biết.
Khi gia đình tôi chuyển lên Biên Hòa, ba tôi nổi tiếng khắp quận vì ông “tẩy
chay” các phương tiện đi lại, chuyên đi bộ từ làng Tân Phú xuống tận Sài Gòn và
trở về, trong chiếc áo the đen...
Ông bị thực dân kết án “tù biệt xứ” - không được
ở một chỗ. Chúng tôi rời cái xẻo heo hút của tỉnh Rạch Giá chính vì đã đến hạn
ba tôi phải chuyển đến chỗ khác.
Chúng tôi trú ngụ trong một ngôi chùa nhỏ ngó ra
sông Đồng Nai. Ba mẹ tôi làm mướn cho chủ chùa - một ông thầy cúng, theo cách
nói phổ thông. Ông thầy cúng từ đâu đó xiêu dạt tới đây, lấy vợ sinh con và
hành nghề tụng kinh cho các đám ma, đám kỵ kèm luôn nghề bán nhang. Công việc
của ba mẹ tôi không nhẹ nhàng: hằng ngày hai người phải thay nhau dùng chân cật
lực kéo đẩy một dao cầu bằng sắt trên một chiếc thuyền tán cũng bằng sắt,
nghiền nát những thỏi trầm hương và mạt cưa để cho ra bột nhang.
Đời sống chúng tôi vất vả. Tôi cảm thụ cái đó
qua bữa cơm; thường tôi ăn chưa no.
Cám cảnh khổ của chúng tôi đồng thời phục ba tôi
là “người làm quốc sự”, bà Sáu Thiếp bảo gia đình tôi dọn về nhà bà, một ngôi
nhà ngói ba căn hai chái, nền đúc, có vẻ gia tài của cha ông để lại cho bà.
Về chỗ mới, mẹ tôi in ngói mướn. In ngói tức là
nhồi đất sét, ôm cục đất khá nặng đập vào cái khuôn gỗ đã rải một lớp tro, dùng
chân đạp tém các mí đất, dùng cần cung dây thép cắt đất, trút viên ngói ra sân.
Mẹ tôi bắt đầu in khi mặt trời lặn và độ 9, 10 giờ đêm thì xong phần khoán, lối
200 viên. Bà lại tranh thủ nấu một nồi xôi để sáng hôm sau gánh đi bán. Từ đó,
người trong làng gọi mẹ tôi là bà Ba Xôi và tôi là con bà Ba Xôi. Ba tôi làm
một nghề “trí thức” hơn: viết liễn. Ông có hoa tay và viết đại tự rất đẹp.
Tôi học lớp đồng ấu ở Trường Tân Phong, cũng nhờ
bác Bảy: tôi không có khai sinh, bác cho mượn khai sinh của thằng Hổ. Nếu học
bạ Trường Tân Phong niên học 1934 - 1935 mà còn, có tên tôi: Phạm Văn Hổ. Thầy
giáo - thầy Giá - tuy mặc Âu phục trắng song đi dạy bằng chiếc xe song mã, tự
thầy cầm cương.
Tôi học không đến nỗi tồi, nhưng phải rời Trường
Tân Phong bởi một “sự cố” buồn cười. Giờ ra chơi, tôi cầm một cái “yoyo”, thích
thú biểu diễn trước bạn bè. Con thầy giáo, cùng lớp với tôi, giật cái “yoyo” và
từ trên thềm nó vụt mạnh vào đầu tôi. Không nhịn, tôi chụp cái “yoyo” và cũng
vụt mạnh vào trán nó. Điều nguy hiểm cho tôi là đầu tôi tuy u song được mái tóc
che, còn trán của thằng con ông thầy lại có một cục bầm to tướng.
Thầy giáo chẳng hỏi chẳng rằng, khi tôi ngồi vào
bàn, hầm hầm xông tới, thẳng cánh tát tôi. Để tự vệ, tôi thụp tránh, thầy tát
trật tôi nhưng lại trúng bình mực, mực nhuộm lem bộ quần áo Tây của thầy. Càng
nổi nóng hơn, thầy chụp cây thước bảng và tôi khôn vong, co giò phóng ra khỏi
trường, phóng một mạch về nhà… Tôi bị đuổi. Tên Phạm Văn Hổ không còn được học
Trường Tân Phong nữa.
Ba tôi “chuộc” khai sinh cho tôi. Một tên Tiệu
chết trẻ không khai tử, cùng lứa tuổi mà cũng trùng họ với tôi được gán cho tôi
và tôi mang tên đó cho đến hết bậc sơ học.
Trong ký ức, cái hiện lên rõ, dù đã gần nửa thế
kỷ qua, là những buổi diễn thuyết của các chiến sĩ đệ tam quốc tế tại Gò Dê.
Mỗi ngày tôi phải lội bộ chừng năm cây số từ nhà đến Trường Bến Cá, mang theo
mo cơm nhồi của mẹ, bữa ăn trưa của tôi. Thường chúng tôi đi thành bộ ba: Quảng
(Nam Phòng), Huệ và tôi. Con đường đá rợp bóng sao cao vút, trước khi đến ngã
ba Bình Ý thì có một lối mòn băng tắt qua Cái Gò - rừng chồi, mả lạng, nơi người
ta thả dê ăn.
Tại “tam kỳ lộ” đó, đảng bộ cộng sản vùng Phước
Vĩnh Hạ dựng một giàn cao, treo băng cờ. Các cuộc mittinh diễn ra tại đây khá
thường, khi thì người tại chỗ nói, khi thì rước các anh dưới Sài Gòn lên. Dân
chúng đứng nghe chật cả gò. Thỉnh thoảng, chúng tôi chen vào nhìn, chủ yếu là
vì thấy lạ. Quảng hiểu hơn tôi và Huệ - mãi sau này tôi mới biết ông già của
Quảng là đảng viên.
Tôi học lớp nhất, Khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ.
Phong trào vùng Phước Vinh Hạ không mạnh, tuy cũng trống mõ, cũng cướp nhà làng
Tân Phú, Thiên Tân trong đêm.
Mấy hôm sau, làng lính kéo về khủng bố. Ba của
Quảng bị bắt. Nhiều người khác cũng hoặc bị bắt hoặc phải lánh mặt. Thầy Thời
gọi tôi lên bàn viết, nói thật nhỏ:
Đó là tập vở 100 trang gồm các bài viết “quốc
sự” - thật ra là các bài văn thơ yêu nước chung chung của nhóm học sinh chúng
tôi mà do khiếu về văn và sử, tôi được anh em đề cử như cái mà bây giờ chúng ta
gọi là tổng biên tập! Tôi mang tập vở ra sau vườn đốt, đốt và tiếc hùi hụi.
Bài học vỡ lòng bao giờ cũng sống dai dẳng trong
chúng ta, nó quyết định hướng đi cho cả cuộc đời. Biên Hòa giữ vai trò như vậy
trong tôi. Cho nên không ngẫu nhiên khi tập thơ đầu tay của tôi mang tên Theo
sóng Đồng Nai và quyển tiểu thuyết đầu tay của tôi - Chân dung
một quản đốc - lấy bối cảnh chính ở Biên Hòa.
TRẦN BẠCH ĐẰNG
(*) Trích Trần Bạch Đằng - cuộc đời và ký ức (NXB
Trẻ). Tựa lớn và tựa nhỏ trong loạt bài do Tuổi Trẻ đặt.









Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét