Thứ Ba, 8 tháng 7, 2014

Một góc nhìn về nhạc phẩm “Đóa hoa vô thường”

Một góc nhìn về nhạc phẩm “Đóa hoa vô thường”

“Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn” (ns.TCS): âm thanh của cái tên này quen thuộc đối với người Việt. Sự quen thuộc sâu hay nông tùy vào con đường hạnh duyên của từng người với ông. Đa số người biết ông nhờ đã vô tình hoặc hữu ý nghe nhạc Trịnh, nghe rồi có người “để gió cuốn đi”, có người lẩm nhẩm hát theo hoặc học thuộc vài bài tủ … thường là thế ! 
Cũng có những người vượt quá hình thức hâm mộ trên, họ hướng lòng theo nhạc sĩ, thả trí theo gió sương, khắc khoải – đòi đoạn cùng tác giả và mong muốn cùng ông Trịnh đạt đến một sự hòa điệu…  thế là, họ lôi các di cảo của Ngài Trịnh ra nghiên cứu.
Có tìm thì có thấy, có làm thì có được. Vâng, đã có nhiều bài viết về ns.TCS: người thì để ý về tư tưởng – triết lý của ông, người khác chú tâm về ca từ, có người tâm đắc về giai điệu – tiết tấu bài hát, cũng có người mê chất thơ… kết quả là có nhiều phát hiện liên quan đến TCS được đưa ra. Nhưng nhiều điều chưa phải là đủ! Vì “Duyên của hiền nhân TCS” không chỉ có thế! Người viết cũng thuộc hàng ái mộ ns, nên đã suy tưởng về ông và các nhạc phẩm. Vừa may, đọc được bài của tác giả Trương Hồng Quang viết về ca từ của TCS trên nhipcautamgiao.net (1).
Nội dung bài viết quá súc tích, có tính khoa học, có sử dụng nhiều ý kiến của các đấng bậc đáng kính… rất tuyệt vời! Tuy nhiên, dù là hậu bối, người viết vẫn có những ý kiến riêng chưa giống với tác giả về tác phẩm “Đóa Hoa Vô Thường”. Nay vì lòng ái mộ ngài Trịnh, vì muốn thể hiện một chút tình cảm cá nhân với ông và vì nhận thấy điều sắp bày tỏ chưa được đề cập kỹ ở các văn bài đã đăng… Người viết xin phép đọc lại tác phẩm trên theo góc nhìn cá nhân. 
Tổng quan về ca từ của nhạc phẩm “Đóa Hoa Vô Thường”
Ca từ của tác phẩm là một bài thơ gồm mười hai khổ thơ. Người viết nhìn bài thơ này như lời kể, lời tâm sự của TCS về tình yêu – hôn nhân – sinh ly tử biệt – đau khổ - giải pháp của ông trước những nghịch cảnh. Chúng ta cùng nghe tâm sự của ông qua ca từ của bài.
1. Mẫu người yêu lý tưởng và hành trình đi tìm người yêu của TCS:
Ba khổ thơ đầu (1,2,3): ông nói về quá trình đi tìm “khúc xương sườn của mình” như sau:
Ở khổ thơ thứ 1: mẫu người yêu lý tưởng của TCS. Chúng ta cùng ngâm thơ với ông:
“Tìm em tôi tìm
Mình hạc sương mai
Tìm trên non ngàn
Một cành hoa khôi
Nụ cười mong manh
Một hồn yếu đuối
Một bờ môi thơm
Một hồn giấy mới”.
Rõ ràng ông có chủ định đi “tìm em”, em là ai? Em như thế nào? Ông chưa nhận diện được. Ông chưa biết cô gái này nhưng ông có tiêu chuẩn chọn và tìm người yêu. Cụ thể là cô gái đó phải “mình hạc sương mai” có nghĩa là cô phải có vóc dáng thân hình từ gầy đến vừa, không thuộc tuýp “dư mỡ”. Kế đến, cô gái đó phải đẹp cỡ “hoa khôi hay hoa hậu” vì “một cành hoa khôi” là tiêu chuẩn thứ hai. Người đẹp này gia thế và bản thân không ở cấp bình dân, vì hình ảnh “một cành” khiến ta liên tưởng đến câu “kim chi ngọc diệp”. Tiêu chuẩn thứ tư là cô gái đó phải thật nhẹ nhàng, tế nhị sâu sắc, vén khéo, kín đáo… cô phải có ít nhất những đức tính trên thì cô mới có được “nụ cười mong manh” (yểu điệu thục nữ). Đó mới chỉ là hình thức bề ngoài.
Còn nội tâm của cô gái phải có các đức tính: có nội tâm sâu sắc, sự tinh tế hiểu người, sự khiêm nhường,… những yêu cầu trên ông thể hiện ở câu “một hồn yếu đuối” (tâm hồn nhạy cảm). Chưa hết! TCS muốn là nếu có cô gái đã hội đủ những yếu tố trên rồi thì cô ta không phải là “một vị thánh!” Vì vị thánh thì còn gì dành cho ông! Ông muốn một tình yêu đôi lứa có tính dục, có “một bờ môi thơm” đàng hoàng, đầy đủ. Có nghĩa là phải có được tình yêu trai gái giữa ông và cô ấy. Tiêu chuẩn cuối cùng của ông về người yêu lý tưởng là “một hồn giấy mới”. Câu này cho người viết hiểu là: đối với cô gái thì tình yêu dành cho ông chính là “mối tình đầu của cô”, cô gái phải ngọc khiết băng trinh theo nghĩa ngây thơ, trong sáng, chưa biết sự gì… Điểm qua khổ thơ thứ nhất, cho chúng ta thấy mẫu người yêu lý tưởng của TCS. Kể ra thì tiêu chuẩn vượt sao!. Vâng, chúng ta khỏi cần cân nhắc chuyện đồng ý hay không đồng ý với người viết, vì TCS đã thú nhận rằng:  “đúng…”. Xin mời cùng xem lời than thở vất vả của TCS ở khổ thơ thứ hai:
“Tìm em tôi tìm
 Nhủ lòng tôi ơi
 Tìm đêm chưa từng
 Tìm ngày tinh khôi
 Tìm chim trong đàn
 Ngậm hạt sương bay
 Tìm lại trên sông
 Những dấu hài”
Ông tự nhủ lòng phải đi tìm “cô ấy”. Cô ấy là ai? ông chưa biết, chưa thấy thì phải đi tìm… tìm từ sáng… đến trưa… đến tối… chưa thấy! hết ngày này sang ngày khác cứ đi tìm “nhủ lòng tôi ơi”. Bỗng ông ngộ ra còn có những nơi chỗ mình chưa tìm, đó là “tìm đêm chưa từng – tìm ngày tinh khôi”. Xin quý độc giả thử đặt mình vào tâm trạng của TCS xem. Ban ngày, trời sáng là lúc mọi người làm việc – hiện diện với nhau, đó là cơ hội để TCS tìm người yêu tiêu chuẩn. Tìm hoài không thấy!!! Ông tự vấn và phát hiện có những khoảnh khắc ông đã không để ý: “lúc mọi người đi ngủ - ông cũng đi ngủ!” biết đâu lúc ông ngủ thì cô ấy xuất hiện!!! Vậy thì phải tìm cô ấy cả trong đêm, cả trong đầu ngày. Vất vả thêm rồi đây!
Nhạc sĩ  Trịnh Công Sơn & Nguyễn Hữu Thái Hòa 
Ảnh: tcs-home.org
Nhưng dường như ông đã mệt mỏi tìm người yêu nơi phố chợ, nên trí tưởng của ông lại mượn triết lý “Bánh xe luân hồi của Phật giáo” để nghĩ “Biết đâu em đang là cánh chim “ngậm hạt sương bay” trong một đàn chim đang bay trên bầu trời mà ông ngẫu nhiên nhìn thấy. Rồi ông lại mượn quan niệm của Đạo Lão với “Ngọc Hoàng – Tiên – Bụt” để hy vọng rằng: “biết đâu em là nàng tiên trên trời đã xuống tắm ở một bãi sông…rồi đánh rơi chiếc hài! “Tìm lại trên sông - những dấu hài”.
Nói chung lại là ông Trịnh nhà minh đi tìm người yêu vất vả bằng cả thân – trí – tâm và tròn vẹn thời gian.
Ở khổ thơ thứ ba, ông nói rõ hơn về những dặm trường của công cuộc tìm kiếm: “tìm em xa gần” là tìm ở mọi nơi. Tìm trong “đất trời rộn ràng” là tìm trong mùa xuân rộn ràng, hay cũng có thể hiểu là tìm trong đất trời nổi cơn giông bão. “Tìm trong sương hồng” là tìm trong giá rét ban đêm và mù sương lúc mặt trời thức giấc. Hoặc tìm em “trong chiều bạc mệnh” là tìm cả trong nỗi đau thể lý, tâm lý của mình hay trong những cuộc sinh ly tử biệt của kiếp người.
Tìm em xa gần, đất trời rộn ràng 
 Tìm trong sương hồng, trong chiều bạc mệnh 
 Trăng tàn nguyệt tận chưa từng tuyệt vọng đâu em
Tìm em thâu đêm, từ lúc trăng lên đến lúc trăng tàn, tìm em từ tháng nguyệt - Tết Nguyên Tiêu đến đêm ba mươi tết “nguyệt tận”… Quá vất vả cho ông Trịnh.
Chúng ta không nghe ông nói đến bạn tri kỷ, bạn đường cùng đi với ông, nên người viết ngồi nghĩ đến ông mà thấu cảm với những cố gắng kiên trì của ông. Dĩ nhiên, “người độc hành” ấy có niềm tin thật vững vàng vì ông “chưa từng tuyệt vọng - đâu em”. Bái phục – bái phục.
2. Tương phùng (khổ thơ 4 và 5)
Tìm trong vô thường” câu thơ đầu của khổ thơ 4, cho người đọc cảm nhận là: Ông TCS chịu ảnh hưởng của triết lý Nhà Phật với khái niệm vô thường và thường hằng. Những vật – những cảnh – những ý tưởng ta đang nhìn thấy, đang cảm, đang niệm…thảy vô thường (luôn thay đổi, không trường cửu), Cõi Phật mới là cảnh giới thường hằng. Ông Trịnh dùng câu thơ trên muốn mượn ý “vô thường” để giới thiệu bối cảnh ông gặp được “cô ấy”, ý khác là câu mở đầu khổ thơ số 4 để dẫn người nghe vào cuộc “tương phùng” của ông với nàng. Khung cảnh ông muốn nói tới là “một ngôi chùa”. Chúng ta hãy đọc tiếp câu sau “có đôi dòng kinh”. Vâng, ông muốn diễn tả rằng: trong chùa đang có người cầu kinh, số người đang cầu kinh là từ hai người trở lên (có đôi …) Đôi dòng kinh cũng có thể hiểu là: tác giả và cô ấy cùng cầu kinh trong chùa, ngẫu nhiên. Và Trời đã ra tay tạo duyên bằng cơn mưa dài và nặng hạt, câu “sấm bay rền vang” nói lên điều đó. Người Trung Quốc có câu nói “vũ vô năng tỏa – năng lưu khách” (mưa không có sức kiềm chế - nhưng lại có khả năng lưu khách ở lại) thật quả hợp với cảnh huống đầy duyên nợ của hai người mà chúng ta đang đề cập đến.
Xin mời tiếp tục nghe lời tâm sự của tác giả.
"Bỗng tôi thấy em – dưới chân cội nguồn”. Nếu chúng ta đã thấu cảm với TCS về quá trình “đi tìm” của ông được nói tới ở ba khổ thơ đầu, thì chúng ta mới có thể ước lượng được sức nặng của niềm vui vỡ òa trong ông khi reo lên câu thơ đầy choáng ngợp “BỖNG TÔI THẤY EM”. Tìm trong mọi nơi, tìm trong mọi sự, tìm trong mòn mỏi mà không tuyệt vọng… Nay “tôi thấy em”, người viết không đủ từ ngữ để nói hết được tâm trạng của ông, nhưng hình dung được cảm giác căng phồng - ngộp thở - thảng thốt trong niềm vui kín hồn của tác giả.
Con tim của nhạc sĩ từ nay đã có chủ và ông tự nguyện dâng tình yêu nồng nàn nhất cho nàng dưới chân bàn thờ qua câu “dưới chân cội nguồn”. Có thể chúng ta nghĩ tôi khiên cưỡng trong lý luận này. Xin phép nói thêm vài lời: hai người cùng cầu kinh, đây là hoạt động của niềm tin – cả hai là “tổng hòa của những vô thường”, cầu kinh là cầu với các Đấng Thường Hằng ở trên bàn thờ. Vậy hai người đang quỳ dưới đất kia không phải là đang ở “dưới chân cội nguồn” sao!
Đến đây, chúng ta xác định được: TCS đã “thấy” người yêu lý tưởng rồi. Vấn để tiếp theo là: chinh phục nàng. Ông dùng bốn câu thơ cuối của khổ thơ thứ năm để nói lên công phu chinh phục.
Tôi mời em về đêm gội mưa trong 
Em ngồi bốn bề thơm ngát hương trầm 
Trong vườn mưa tạnh, tiếng nhạc hân hoan 
Trăng vàng khai hội một đóa hoa quỳnh
Xin điểm sơ vài chiêu: ông bắt chuyện cầu thân  – nhờ mưa dai nên chuyện trò dài – tận dụng lợi thế thiên thời là bầu trời đêm sạch sẽ và mát mẻ se se lạnh sau cơn mưa (đêm gội mưa trong) – mời nàng đến một nơi hết sức lãng mạn và ấm cúng “thơm ngát hương trầm” – rồi ngâm thơ, dệt nhạc tặng nàng (tiếng nhạc hân hoan) – rồi nhờ dịp khai hội trăng vàng… Nói chung là, để chinh phục được tình yêu tinh khôi của nàng. Ông phải tỏ thành ý hết sức… những điều trên cho người viết suy nghĩ và ngộ được nhiều ý rất hay, xin nêu một số cảm nhận: Ông yêu cô ấy, nhưng cũng cần thể hiện thế nào để cô ấy cũng tự nguyện yêu ông. Đây là một tình yêu song phương cần có tình cảm từ cả hai người. Tình yêu của họ càng có tính nhân văn ở chỗ là cả hai “tự nguyện và tôn trọng nhau”, chứ không phải là tình chiếm đoạt. Kết quả: một mối tình đẹp đã chớm nở và ông đặt tên cho mối tình này là “MỘT ĐÓA HOA QUỲNH”. Tại sao lại là tên đó?! 
3. Tình yêu say đắm và hạnh phúc lứa đôi
Chúng ta cùng ông TCS đi vào khổ thơ số 6, xin góp tên cho khổ thơ là ‘Trăng mật”. Vì ở khổ thơ này, cho chúng ta biết hạnh phúc của họ có những gì. “từ nay tôi đã có người – có em đi đứng bên đời líu lo” hai câu lục bát này đối chỉnh và cân phương. Đối với tác giả thì “đã có người”, có nghĩa là ông đã thỏa mãn... Còn đối với “người” của ông thì sao? Chúng ta thấy ngay trạng huống tinh thần rất phấn khởi, rất yêu đời, rất hạnh phúc của nàng, qua hai động từ “đi và đứng” trong niềm vui từ nội tâm dâng trào sóng nhạc. Ngài Trịnh quả là bậc thầy trong tu từ, khi diễn tả tâm trạng hạnh phúc của người yêu bằng lối hành văn kỳ cục mà cực kỳ biểu ý. Xin cùng nghiền ngẫm câu thơ “có em đi đứng bên đời líu lo”. Em đi hay em đứng thường hàm nghĩa hoạt động đi tới hoặc đứng lại, nghĩa cơ bản nó là thế. “Líu lo” là từ láy thường được dùng để nói về tiếng chim hót líu lo (chim có khỏe mạnh, có no lòng, có sạch sẽ, có hứng khởi ... thì mới hót và hót líu lo với nhiều giọng hót và nhiều cung bậc, đặc biệt là những bài hót có âm vực cao). Hoặc một đứa trẻ nếu có được sự thương yêu chăm sóc chu đáo của cha mẹ, giúp cho bé có được tâm lý tự nhiên, cởi mở dẫn đến hành vi nói líu lo, nói liên tu, nói về bất cứ mọi chuyện cho cha mẹ nghe. Ở câu thơ này, ngài Trịnh lại ghép những hoạt động đời thường với biểu hiện líu lo bên đời của nàng. Líu lo trong câu làm trạng ngữ bổ ngữ cho động từ “đi – đứng”. Dùng từ và đặt câu như thế, buộc chúng ta phải hiểu rằng: “cô ấy đi đứng mà vui hát líu lo” như chim hót líu lo, hoặc như em bé nói líu lo vì cảm giác an toàn từ cha mẹ đem lại. Cái hay của câu ở chỗ: cô ấy vui sống bên đời không phải chỉ vì tự thân cô ta vui thỏa mãn mà còn là nhờ bạn tình của cô đã làm “chỗ dựa an toàn tuyệt hảo cho cô. Khéo quá ngài Trịnh ơi !
Từ nhận định trên, chúng ta nhìn vào bốn câu cuối để đồng thuận cùng tác giả là: “từ nay tôi đã có tình – có em yêu dấu lẫy lừng nói thưa – từ em tôi đã đắp bồi – có tôi trong dáng em ngồi trước sân”. Họ trao tình yêu của bản thân cho bạn tình và được nhận lại trọn vẹn từ bạn tình. Họ luôn “tương kính như tân”, luôn chăm lo vun đắp cho cuộc sống lứa đôi. Ý của tác giả hẳn nhiên là thế, nếu ai còn nghi ngờ thì xin mời tìm nghe nhạc phẩm này và để ý đến đoạn tiết tấu trình bày vui vẻ, rộn ràng nhất của nhạc phẩm với loại nhịp 2/4.
Tìm hiểu đến đây, có lẽ có độc giả nghĩ, tình yêu đôi lứa mà chỉ có “trăng mật” thì hơi hiếm trên đời. Nếu có ai nghĩ thế thì xin cho người viết được bắt tay đồng thuận. Đúng vậy, vì cuộc sống “chung” của hai con người trước đây hoàn toàn lạ nhau, chắc chắn sẽ có “đụng”. Vâng, TCS cũng rất thành thực khi nói về kinh nghiệm “sống chung và đụng”. Vấn đề là, khi tìm hiểu khổ thơ thứ bảy và thứ tám, chúng ta sẽ tìm hiểu luôn cách thức giải quyết của họ khi có “đụng”.
“Mùa đông cho em nỗi buồn
Chiều em ra đứng hát kinh đầu sông
Tàn đông con nước kéo lên
Chút tình mới chớm đã viên thành(khổ thơ 7)
Chúng ta thấy từ “buồn” xuất hiện, buồn vì mùa đông u ám và lạnh giá, đó là nói theo khách quan của thời tiết. Nhưng câu “chiều em ra đứng hát kinh đầu sông” lại cho chúng ta thấy một lý do “buồn” chủ quan từ trong lòng cô gái. Buổi chiều cô ra đứng hát kinh đầu sông. Câu này mở ra cho người đọc những thắc mắc:
1/ Em ra đứng hát kinh là chỉ mình em ra đứng chứ không phải cả hai người ra đứng hát kinh, mà đã nói hát kinh thì có nghĩa đó là một hoạt động của niềm tin tôn giáo. Từ đó ta suy ra cô nàng có niềm tin tôn giáo, còn anh chàng là người không tín ngưỡng hoặc không cùng tín ngưỡng với cô nàng! Và nói theo ngôn ngữ hiện đại thì hai anh chị này có một cuộc hôn nhân liên tôn.
2/ Cô nàng ra hát kinh ở “đầu sông”. Sao lại chọn đầu sông? Vâng, đầu sông hay cuối sông để sau này xét. Giờ chúng ta xét đến việc cô đứng đầu sông hát kinh vào mùa đông, xin nhìn vào hai câu tiếp “tàn đông con nước kéo lên – chút tình mới chớm đã viên thành”. Mùa đông đến em buồn, tàn đông sang xuân em vui. Huề.
Mùa đông ra hát kinh đầu sông gởi nước đem đi một thông điệp nào đó đến phía cuối sông, tàn đông con nước kéo lên, có nghĩa là có “hồi âm” hoặc sinh khí mùa xuân. Vậy là vui. Đã vui thì còn đâu buồn! thế nên “chút tình mới chớm đã viên thành”. Theo người viết hiểu từ “viên thành” là thành công viên mãn. Nói cách khác là họ bắt đầu hòa hợp nên một. Chúng ta cùng mừng cho tình yêu của hai người đã viên thành.
“Từ nay anh đã có nàng
 Biết ơn sông núi đáp đền tiếng ca
 Mùa xuân trên những mái nhà
 Có con chim hót tên là ái ân (khổ thơ 8)
Toàn bộ khổ thơ số tám, cho chúng ta thấy hạnh phúc của họ. Nào là: có nàng, biết ơn sông núi, tiếng ca, mùa xuân, mái nhà, chim hót, ái ân. Ở đoạn này người viết xin dừng lại một chút ở câu “biết ơn sông núi đáp đền tiếng ca”. Vấn đề gây suy nghĩ là: sao chàng đang yêu và được nàng yêu say đắm, lại không nói “biết ơn em” mà lại nói biết ơn sông núi ? Xin thưa, chàng là người có lòng biết ơn - đây là một đức tính tốt. Chàng biết ơn nàng là tất nhiên, nhưng nàng từ đâu mà có? Chàng nghĩ nàng từ đất nước - sông núi mà có. Có quê hương thì mới có nàng. Vậy chàng biết ơn sông núi và sáng tác nhạc ca ngợi sông núi gọi là đáp đền ơn sâu. Qua câu này cũng cho người nghe hiểu rằng “Chàng theo truyền thống Nho gia”.
4. Tình yêu ngọt ngào - hạnh phúc dâng cao - điềm báo
Chúng ta cùng lắc lư thật chậm theo nhịp 6/8 và âm giai Trưởng, ca từ của khổ thơ thứ 9 được vang lên, du dương, bay bổng.
“Sen hồng một nụ - Em ngồi một thưở - Một thuở yêu nhau - có vui cùng sầu - từ rạng đông cao - đến đêm ngọt ngào - Sen hồng một độ - Em hồng một thuở xuân xanh - Sen buồn một mình - Em buồn đền trọn mối tình”.
Người viết nhận ra, với tiết tấu đặc biệt khác so với các đoạn tiết tấu khác trong bài, với âm giai Trưởng, với nhịp điệu 6/8 hiếm gặp trong âm nhạc, tiết tấu đong đưa đu võng, du dương lãng mạn…Có vẻ đây là đoạn nhạc tác giả viết để dành tặng riêng cho Vợ Yêu Dấu. Xét về ca từ, xin có những ghi nhận sau: Cô gái ấy tên là Sen Hồng, hay Chàng gọi nàng là Sen Hồng qua hai câu cuối “Sen buồn một mình – Em buồn …” .
Ý thứ hai: Chàng biết nàng rất yêu chàng, nhưng chàng cũng biết nàng vẫn luôn mang một nỗi buồn một mình mà chàng không thể sẻ chia!! Sao tôi biết ? Nhạc sĩ nói “em buồn một mình” đấy.
Ý thứ ba, đã thấy dấu hiệu của vô thường ngay trong lúc hạnh phúc nhất! “Em hồng một thuở xuân xanh”. Vâng, chỉ một thuở… mà thôi!
5. Sinh ly tử biệt: khổ thơ thứ 10
“Một chiều em đứng cuối sông
 Gió mùa thu rất ân cần
Chở lời kinh đến núi non
Những lời tình em trối trăn…
Đã có một sự thay đổi vị trí, những khổ thơ trên nói “em đứng đầu sông”, nhưng giờ “em đứng cuối sông”. Phải chăng, tác giả muốn dùng hình ảnh dòng chảy của con sông để ẩn dụ về sức khỏe của vợ mình, hoặc ẩn dụ về quê gốc của nàng.
Cộng thêm thời khí “gió mùa thu rất ân cần” có nghĩa là mùa thu thì lá vàng rơi, mà lá càng nhanh rời cành khi có gió, lá càng nhanh rơi về cội hơn vì gió quá ân cần (gió mạnh!) thật khâm phục tài hoa dùng từ của ngài Trịnh. Nói là nàng yếu đau gì gì đó rồi chết… thì là văn quèn của tôi, dễ hiểu … mà dễ quên! Văn như của ngài Trịnh mới là văn.
Nàng đã suy kiệt rồi thì lời kinh của nàng lại chuyển hướng! trước đây thì “đứng hát kinh đầu sông” (là còn hát được và còn đứng ở đầu sông, là ở đầu nguồn, là nơi của núi non cao) còn giờ thì “đứng cuối sông” chở lời kinh đến núi non là làm công việc chèo ngược dòng, khó khăn lắm thay!
Câu “những lời tình em trối trăn” khiến người viết suy nghĩ vẩn vơ: Mái nhà hạnh phúc của hai người là ở đầu sông, nàng đứng ở cuối sông, vậy chàng ở đâu? Chưa biết! Nhưng khi nàng nói “trối trăn” thì tất nhiên phải có chàng nghe, chứ không lẽ có người khác nghe mà không phải là chàng! Vậy suy ra: chàng cũng ở cuối sông cùng nàng. Vậy cuối sông đây có ý nghĩa gì? Xin mời chúng ta cùng đọc bốn câu sau của khổ thơ số 10.
Một thời yêu dấu đã qua
 Gót hồng em muốn quay về
 Dù trần gian có xót xa
 Cũng đành về với quê nhà”   
Chết rồi! nàng đã chết rồi! nhưng ông không nói từ “chết” mà lại mượn ý của thành ngữ “sinh ký tử qui”. Chết là “về! về với quê nhà”. Cách dùng từ như trên cũng nói lên ý tưởng của tác giả về Vợ Yêu là: “Em là nàng tiên giáng trần, vì yêu anh nên đã sống với anh một thời gian, rồi lại phải trở gót về tiên cảnh”.
Chúng ta là người ngoài cuộc nên trước cái chết của nàng, chúng ta có buồn đôi chút và có nỗi niềm vọng hướng chia sẻ niềm đau với tác giả, rồi xong, vì người chết thì đã chết, người sống thì vẫn phải tiếp tục sống. Thế nhưng, tác giả là người trong cuộc, là người trực tiếp đón nhận nỗi niềm tử biệt. Ông có phản ứng nào?
6. Đau khổ và thương nhớ suốt đời:
Tiêu đề trên đại diện cho cả khổ thơ số 11:
“Từ đó trong vườn khuya
 Ôi áo em xưa là
 Một chút mây phù du
 Đã thoáng qua đời ta
 Từ đó trong hồn ta
 Ôi tiếng chuông não nề
 Ngựa hí vang rừng xa
 Vọng suốt đất trời kia
 Từ đó ta ngồi mê
 Để thấy trên đường xa
 Một chuyến xe tựa như
 Vừa đến nơi chia lìa
Ông Trịnh đã không đi tìm một người yêu khác, ông chỉ sống để yêu và tưởng nhớ nàng, nỗi đau gào thét trong ông như tiếng ngựa lẻ bạn hí vang não nề vang rừng khuya, nỗi đau làm tê liệt hoàn toàn mọi cảm xúc, để chỉ còn ngồi mê … Cũng trong niềm đau, ông nhìn ra “tính phù du của mọi sự”. Hợp rồi tan, đời người như một chuyến xe – đi rồi sẽ phải đến.
7. Giải pháp của nhạc sỹ
Ở khổ thơ thứ 11, diễn tả niềm đau chôn kín của tác giả, dường như vô phương giải tỏa. Thật may, tác giả đã tìm được lối ra cho mình. Chúng ta cùng nghiền ngẫm khổ thơ 12:
“Từ đó ta nằm đau
Ôi núi cũng như đèo
Một chút vô thường theo
Từng phút cao giờ sâu …”     
Ở đây, càng chỉ rõ ông đã nhận ra bản chất vô thường của vạn vật. Ngay núi non hay đèo cao là biểu tượng trường tồn cũng không còn thường hằng như ông nghĩ. Giờ đây ngay núi cũng như đèo cũng vương một chút vô thường, là núi mòn, đèo hư. Ông đã có kinh nghiệm một thời để yêu. Ông có thể cùng với bạn tình trải qua những đau khổ của kiếp người: sinh – lão – bệnh, cùng trải qua bằng tình yêu và bản lãnh của cả hai người. Nhưng đứng trước “cái chết”, bạn tình của ông thúc thủ và ông cũng bó tay. Vô thường trước đây chỉ như một thử thách để rèn luyện chí làm trai, giờ vô thường được thể hiện ngay trên chuyện sinh tử của chính bạn tình! Tác giả chỉ còn biết rên “từ đó ta nằm đau!!!”. Nằm mà nhớ những thời khắc thăng hoa “phút cao” hay ngay trong góc kín của tâm hồn “giờ sâu” mà đau đớn cho cái vô thường. Trên đây là nói về cái ngộ của tác giả: về VÔ THƯỜNG.
Nói về bạn tình “Sen Hồng” của tác giả.
Nàng đã chết! âm dương cách biệt! không còn thấy nhau. Ông Trịnh biết rõ điều đó. Vấn đề là: ông không muốn điều đó. Xem chừng nhận định của người viết có vẻ ngang ngược quá!. Vâng, nói phải có chứng, và tôi có bằng chứng như sau.
“từ đó hoa là em
Một sớm kia rất hồng
Nở hết trong hoàng hôn”    
Ba câu này ông nói về ai? Ai cũng dễ trả lời là nói về người ấy. Nhưng cô ấy chết rồi mà, làm sao lại biến thành hoa? Trong triết lý Nhà Phật có chuyện người luân hồi thành hoa không? Dứt khoát không có. Vậy cái ý niệm “hoa là em” của ông Trịnh từ đâu mà có? Ông đã làm “bất tử hóa” bạn tình bằng tư tưởng của Đạo Nho (Đạo Lão) là chủ trương bất tử, tức là quan niệm con người lúc chết, sự sống con người được thay đổi chứ không mất đi. Vậy “từ đó hoa là em” có nghĩa là “em biến thành hoa”.
Tất nhiên, có thể hiểu, ông đã có một cuộc đối thoại liên tôn trong nội tâm giữa tư tưởng Nhà Phật và triết lý Đạo Nho. Người viết không dám có ý ngược gì cả, chỉ mong tìm hiểu, suy nghĩ và lý luận để hiểu được nội tâm của tác giả “Đóa Hoa Vô Thường” mà thôi.
Thế là em bất tử, luôn ở cùng anh dưới hình dáng hoa quỳnh. Vậy ông yêu bạn tình quá cố hay giờ ông yêu hoa quỳnh?. Vâng, hai tình yêu này của ông nồng say như nhau. Và đây chính là lý do người viết nói ở cuối mục số 2/: ông đặt tên cho mối tình này là “MỘT ĐÓA HOA QUỲNH”.
Bởi vì hoa quỳnh chỉ nở về đêm, nở nhanh và tàn nhanh, Ngài Trịnh lại bất tử hóa người yêu bằng ý niệm nàng biến thành hoa quỳnh nở hết trong hoàng hôn - đợi gió vô thường lên – từ đó em là sương – rụng mát trong bình minh. Rồi, thế là Người Yêu của Ngài Trịnh đã bất tử: ban đêm là hoa quỳnh, ban ngày là sương. Thi vị quá, lãng mạn quá, liêu trai lắm, chung thủy trọn đời ông Trịnh nhỉ.
Phần ông Trịnh Công Sơn: “từ đó ta là đêm” vâng ông là đêm để hoa quỳnh nở, không có đêm thì không có hoa quỳnh. Vậy ông là đêm để nàng sống bất tử dưới dạng thức hoa quỳnh: đây vừa là giải pháp cho tình yêu chung thủy của ông, vừa là nguyên lý cho sự bất tử của vợ ông, lại cũng là lý do tồn tại và yêu “đêm” trong các tác phẩm khác của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Kết luận
“Đóa Hoa Vô Thường” là đóa hoa không trường cửu, hoa quỳnh vào ban đêm mau nở mau tàn là một minh chứng rất rõ cho tính chất vô thường của vạn vật và con người. Nhưng khi hoa nở thì là hoa đang hiện hữu, khi hoa tàn thì lại biến thành sương vào ban ngày, bản chất của sương là nước. Vậy thì sương hay nước vẫn là những dạng thức tồn tại vào ban ngày, dẫu là cũng có một chút vô thường theo.
Đến đêm hoa quỳnh lại nở …Vậy phải chăng đóa hoa vô thường của nhạc sĩ họ Trịnh vẫn mang trong mình cái gì đấy thuộc miên trường?
BVHH

Phụ chú:  Đôi nét về hoa quỳnh
Cây hoa quỳnh có tên khoa học Epihyllum oxypetalum (D.C.) Haw. Thuộc họ xương rồng (Cactaceae). Cây không có lá, thân dẹp dài uốn lượn và có khía, hoa mọc từ khía. Cây có nguồn gốc từ Châu Mỹ [agriviet.com]
Hoa nở về đêm trắng toát, thơm, hoa ăn được….
Trong thú chơi quỳnh, các cụ cũng uống rượu chờ hoa nở, vì hoa nở có giờ, khoảng 9 - 10 giờ đêm, hoa nở rất nhanh, xòe ra 1 - 2 giờ rồi cụp lại …
Quỳnh thường được trồng vào chậu để khiêng đi khiêng lại xem hoa dễ dàng. Trồng bằng cách cắm cành vào mùa xuân. Trồng ra bồn, ra đất đều được. Chịu nắng chịu hạn rất tốt. [agriviet.com/nd/640-cay-hoa-quynh]

Theo truyền thuyết, thời nhà Tùy, Tùy Dạng Đế hôn quân vô đạo, trác táng, xa hoa, phung phí, đêm nọ nằm mơ thấy một cây trổ hoa đẹp. Đúng lúc đó, ở chùa Dương Ly thành Dương Châu đang đêm bỗng có ánh sáng như sao sa và hương thơm sực nức lạ lùng khiến dân chúng đổ xô đến xem. Cạnh giếng nước trong sân chùa mọc lên một cây lạ, nở một đóa hoa ngũ sắc với 18 cánh to ở trên, 24 cánh nhỏ ở dưới, hương ngào ngạt bay tỏa khắp nơi nơi. Dân chúng đặt tên là hoa Quỳnh.[yume.vn/nguyenthanhtrunghg/article/sac-mau-cuoc-song-hoa-quynh-quynh-huong.35D3B6B3.html]


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Đội Mũ Lệch Thả vỏ quýt ăn mắm ngấu Hai năm nay, Cả Lĩnh làm ăn phát đạt. Chẳng thế mà hắn ta lại dựng ngay ở phố chính một tòa nhà ...