“Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn” (ns.TCS): âm thanh của
cái tên này quen thuộc đối với người Việt. Sự quen thuộc sâu hay nông tùy vào
con đường hạnh duyên của từng người với ông. Đa số người biết ông nhờ đã vô
tình hoặc hữu ý nghe nhạc Trịnh, nghe rồi có người “để gió cuốn đi”, có người
lẩm nhẩm hát theo hoặc học thuộc vài bài tủ … thường là thế !
Cũng có những người vượt quá hình thức hâm mộ
trên, họ hướng lòng theo nhạc sĩ, thả trí theo gió sương, khắc khoải – đòi đoạn
cùng tác giả và mong muốn cùng ông Trịnh đạt đến một sự hòa điệu… thế là,
họ lôi các di cảo của Ngài Trịnh ra nghiên cứu.
Có tìm thì có thấy, có làm thì có được. Vâng, đã
có nhiều bài viết về ns.TCS: người thì để ý về tư tưởng – triết lý của ông,
người khác chú tâm về ca từ, có người tâm đắc về giai điệu – tiết tấu bài hát,
cũng có người mê chất thơ… kết quả là có nhiều phát hiện liên quan đến TCS được
đưa ra. Nhưng nhiều điều chưa phải là đủ! Vì “Duyên của hiền nhân TCS” không
chỉ có thế! Người viết cũng thuộc hàng ái mộ ns, nên đã suy tưởng về ông và các
nhạc phẩm. Vừa may, đọc được bài của tác giả Trương Hồng Quang viết về ca từ của TCS trên nhipcautamgiao.net (1).
Nội dung bài viết quá súc tích, có tính khoa
học, có sử dụng nhiều ý kiến của các đấng bậc đáng kính… rất tuyệt vời! Tuy nhiên,
dù là hậu bối, người viết vẫn có những ý kiến riêng chưa giống với tác giả về
tác phẩm “Đóa Hoa Vô Thường”. Nay vì lòng ái mộ ngài Trịnh, vì muốn thể hiện
một chút tình cảm cá nhân với ông và vì nhận thấy điều sắp bày tỏ chưa được đề
cập kỹ ở các văn bài đã đăng… Người viết xin phép đọc lại tác phẩm trên theo
góc nhìn cá nhân.
* Tổng quan về ca từ của nhạc phẩm “Đóa
Hoa Vô Thường”
Ca từ của tác phẩm là một bài thơ gồm mười hai
khổ thơ. Người viết nhìn bài thơ này như lời kể, lời tâm sự của TCS về tình yêu
– hôn nhân – sinh ly tử biệt – đau khổ - giải pháp của ông trước những nghịch
cảnh. Chúng ta cùng nghe tâm sự của ông qua ca từ của bài.
1. Mẫu người yêu lý tưởng và hành trình đi tìm
người yêu của TCS:
Ba khổ thơ đầu (1,2,3): ông nói về quá trình đi
tìm “khúc xương sườn của mình” như sau:
Ở khổ thơ thứ 1: mẫu người yêu lý tưởng của TCS.
Chúng ta cùng ngâm thơ với ông:
“Tìm em tôi tìm
Mình hạc sương mai
Tìm trên non ngàn
Một cành hoa khôi
Nụ cười mong manh
Một hồn yếu đuối
Một bờ môi thơm
Một hồn giấy mới”.
Rõ ràng ông có chủ định đi “tìm em”, em là ai?
Em như thế nào? Ông chưa nhận diện được. Ông chưa biết cô gái này nhưng ông có
tiêu chuẩn chọn và tìm người yêu. Cụ thể là cô gái đó phải “mình hạc sương
mai” có nghĩa là cô phải có vóc dáng thân hình từ gầy đến vừa, không thuộc
tuýp “dư mỡ”. Kế đến, cô gái đó phải đẹp cỡ “hoa khôi hay hoa hậu” vì “một
cành hoa khôi” là tiêu chuẩn thứ hai. Người đẹp này gia thế và bản thân
không ở cấp bình dân, vì hình ảnh “một cành” khiến ta liên tưởng đến câu “kim
chi ngọc diệp”. Tiêu chuẩn thứ tư là cô gái đó phải thật nhẹ nhàng, tế nhị sâu
sắc, vén khéo, kín đáo… cô phải có ít nhất những đức tính trên thì cô mới
có được “nụ cười mong manh” (yểu điệu thục nữ). Đó mới chỉ là hình thức
bề ngoài.
Còn nội tâm của cô gái phải có các đức tính: có
nội tâm sâu sắc, sự tinh tế hiểu người, sự khiêm nhường,… những yêu cầu trên
ông thể hiện ở câu “một hồn yếu đuối” (tâm hồn nhạy cảm). Chưa hết! TCS
muốn là nếu có cô gái đã hội đủ những yếu tố trên rồi thì cô ta không phải là
“một vị thánh!” Vì vị thánh thì còn gì dành cho ông! Ông muốn một tình yêu đôi
lứa có tính dục, có “một bờ môi thơm” đàng hoàng, đầy đủ. Có nghĩa là
phải có được tình yêu trai gái giữa ông và cô ấy. Tiêu chuẩn cuối cùng của ông
về người yêu lý tưởng là “một hồn giấy mới”. Câu này cho người viết hiểu
là: đối với cô gái thì tình yêu dành cho ông chính là “mối tình đầu của cô”, cô
gái phải ngọc khiết băng trinh theo nghĩa ngây thơ, trong sáng, chưa biết sự
gì… Điểm qua khổ thơ thứ nhất, cho chúng ta thấy mẫu người yêu lý tưởng của
TCS. Kể ra thì tiêu chuẩn vượt sao!. Vâng, chúng ta khỏi cần cân nhắc chuyện đồng ý hay không đồng ý với người viết, vì TCS đã thú
nhận rằng: “đúng…”. Xin mời cùng xem lời than thở vất vả của TCS ở khổ
thơ thứ hai:
“Tìm em tôi tìm
Nhủ lòng tôi ơi
Tìm đêm chưa từng
Tìm ngày tinh khôi
Tìm chim trong đàn
Ngậm hạt sương bay
Tìm lại trên sông
Những dấu hài”
Ông tự nhủ lòng phải đi tìm “cô ấy”. Cô ấy là
ai? ông chưa biết, chưa thấy thì phải đi tìm… tìm từ sáng… đến trưa… đến tối…
chưa thấy! hết ngày này sang ngày khác cứ đi tìm “nhủ lòng tôi ơi”. Bỗng
ông ngộ ra còn có những nơi chỗ mình chưa tìm, đó là “tìm đêm chưa từng –
tìm ngày tinh khôi”. Xin quý độc giả thử đặt mình vào tâm trạng của TCS
xem. Ban ngày, trời sáng là lúc mọi người làm việc – hiện diện với nhau, đó là
cơ hội để TCS tìm người yêu tiêu chuẩn. Tìm hoài không thấy!!! Ông tự vấn và
phát hiện có những khoảnh khắc ông đã không để ý: “lúc mọi người đi ngủ - ông
cũng đi ngủ!” biết đâu lúc ông ngủ thì cô ấy xuất hiện!!! Vậy thì phải tìm cô
ấy cả trong đêm, cả trong đầu ngày. Vất vả thêm rồi đây!
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn &
Nguyễn Hữu Thái Hòa
Ảnh: tcs-home.org
Ảnh: tcs-home.org
Nhưng dường như ông đã mệt mỏi tìm người yêu nơi
phố chợ, nên trí tưởng của ông lại mượn triết lý “Bánh xe luân hồi của Phật
giáo” để nghĩ “Biết đâu em đang là cánh chim “ngậm hạt sương bay” trong
một đàn chim đang bay trên bầu trời mà ông ngẫu nhiên nhìn thấy. Rồi ông lại
mượn quan niệm của Đạo Lão với “Ngọc Hoàng – Tiên – Bụt” để hy vọng rằng: “biết
đâu em là nàng tiên trên trời đã xuống tắm ở một bãi sông…rồi đánh rơi chiếc
hài! “Tìm lại trên sông - những dấu hài”.
Nói chung lại là ông Trịnh nhà minh đi tìm người
yêu vất vả bằng cả thân – trí – tâm và tròn vẹn thời gian.
Ở khổ thơ thứ ba, ông nói rõ hơn về những dặm
trường của công cuộc tìm kiếm: “tìm em xa gần” là tìm ở mọi nơi. Tìm
trong “đất trời rộn ràng” là tìm trong mùa xuân rộn ràng, hay cũng có
thể hiểu là tìm trong đất trời nổi cơn giông bão. “Tìm trong sương hồng”
là tìm trong giá rét ban đêm và mù sương lúc mặt trời thức giấc. Hoặc tìm em “trong
chiều bạc mệnh” là tìm cả trong nỗi đau thể lý, tâm lý của mình hay trong
những cuộc sinh ly tử biệt của kiếp người.
“Tìm em xa gần, đất trời rộn ràng
Tìm trong sương hồng, trong chiều bạc mệnh
Trăng tàn nguyệt tận chưa từng tuyệt vọng đâu em”
Tìm trong sương hồng, trong chiều bạc mệnh
Trăng tàn nguyệt tận chưa từng tuyệt vọng đâu em”
Tìm em thâu đêm, từ lúc trăng lên đến lúc trăng
tàn, tìm em từ tháng nguyệt - Tết Nguyên Tiêu đến đêm ba mươi tết “nguyệt tận”…
Quá vất vả cho ông Trịnh.
Chúng ta không nghe ông nói đến bạn tri kỷ, bạn
đường cùng đi với ông, nên người viết ngồi nghĩ đến ông mà thấu cảm với những
cố gắng kiên trì của ông. Dĩ nhiên, “người độc hành” ấy có niềm tin thật vững
vàng vì ông “chưa từng tuyệt vọng - đâu em”. Bái phục – bái phục.
2. Tương phùng (khổ thơ 4 và 5)
“Tìm trong vô thường” câu thơ đầu của khổ
thơ 4, cho người đọc cảm nhận là: Ông TCS chịu ảnh hưởng của triết lý Nhà Phật
với khái niệm vô thường và thường hằng. Những vật – những cảnh – những ý tưởng
ta đang nhìn thấy, đang cảm, đang niệm…thảy vô thường (luôn thay đổi, không
trường cửu), Cõi Phật mới là cảnh giới thường hằng. Ông Trịnh dùng câu thơ trên
muốn mượn ý “vô thường” để giới thiệu bối cảnh ông gặp được “cô ấy”, ý khác là
câu mở đầu khổ thơ số 4 để dẫn người nghe vào cuộc “tương phùng” của ông với
nàng. Khung cảnh ông muốn nói tới là “một ngôi chùa”. Chúng ta hãy đọc tiếp
câu sau “có đôi dòng kinh”. Vâng, ông muốn diễn tả rằng: trong chùa đang
có người cầu kinh, số người đang cầu kinh là từ hai người trở lên (có đôi …)
Đôi dòng kinh cũng có thể hiểu là: tác giả và cô ấy cùng cầu kinh trong chùa,
ngẫu nhiên. Và Trời đã ra tay tạo duyên bằng cơn mưa dài và nặng hạt, câu
“sấm bay rền vang” nói lên điều đó. Người Trung Quốc có câu nói “vũ vô
năng tỏa – năng lưu khách” (mưa không có sức kiềm chế - nhưng lại có khả
năng lưu khách ở lại) thật quả hợp với cảnh huống đầy duyên nợ của hai
người mà chúng ta đang đề cập đến.
"Bỗng tôi thấy em – dưới chân cội nguồn”.
Nếu chúng ta đã thấu cảm với TCS về quá trình “đi tìm” của ông được nói tới ở
ba khổ thơ đầu, thì chúng ta mới có thể ước lượng được sức nặng của niềm vui vỡ
òa trong ông khi reo lên câu thơ đầy choáng ngợp “BỖNG TÔI THẤY EM”. Tìm trong
mọi nơi, tìm trong mọi sự, tìm trong mòn mỏi mà không tuyệt vọng… Nay “tôi thấy
em”, người viết không đủ từ ngữ để nói hết được tâm trạng của ông, nhưng hình
dung được cảm giác căng phồng - ngộp thở - thảng thốt trong niềm vui kín hồn
của tác giả.
Con tim của nhạc sĩ từ nay đã có chủ và ông tự
nguyện dâng tình yêu nồng nàn nhất cho nàng dưới chân bàn thờ qua câu “dưới
chân cội nguồn”. Có thể chúng ta nghĩ tôi khiên cưỡng trong lý luận này. Xin
phép nói thêm vài lời: hai người cùng cầu kinh, đây là hoạt động của niềm tin –
cả hai là “tổng hòa của những vô thường”, cầu kinh là cầu với các Đấng Thường
Hằng ở trên bàn thờ. Vậy hai người đang quỳ dưới đất kia không phải là đang ở “dưới
chân cội nguồn” sao!
Đến đây, chúng ta xác định được: TCS đã “thấy” người
yêu lý tưởng rồi. Vấn để tiếp theo là: chinh phục nàng. Ông dùng bốn câu thơ
cuối của khổ thơ thứ năm để nói lên công phu chinh phục.
“Tôi mời em về đêm gội mưa trong
Em ngồi bốn bề thơm ngát hương trầm
Trong vườn mưa tạnh, tiếng nhạc hân hoan
Trăng vàng khai hội một đóa hoa quỳnh”
Em ngồi bốn bề thơm ngát hương trầm
Trong vườn mưa tạnh, tiếng nhạc hân hoan
Trăng vàng khai hội một đóa hoa quỳnh”
Xin điểm sơ vài chiêu: ông bắt chuyện cầu thân – nhờ mưa dai nên chuyện
trò dài – tận dụng lợi thế thiên thời là bầu trời đêm sạch sẽ và mát mẻ se se
lạnh sau cơn mưa (đêm gội mưa trong) – mời nàng đến một nơi hết sức
lãng mạn và ấm cúng “thơm ngát hương trầm” – rồi ngâm thơ, dệt nhạc tặng nàng (tiếng
nhạc hân hoan) – rồi nhờ dịp khai hội trăng vàng… Nói chung là, để
chinh phục được tình yêu tinh khôi của nàng. Ông phải tỏ thành ý hết sức… những
điều trên cho người viết suy nghĩ và ngộ được nhiều ý rất hay, xin nêu một số
cảm nhận: Ông yêu cô ấy, nhưng cũng cần thể hiện thế nào để cô ấy cũng tự
nguyện yêu ông. Đây là một tình yêu song phương cần có tình cảm từ cả hai
người. Tình yêu của họ càng có tính nhân văn ở chỗ là cả hai “tự nguyện và tôn
trọng nhau”, chứ không phải là tình chiếm đoạt. Kết quả: một mối tình đẹp đã
chớm nở và ông đặt tên cho mối tình này là “MỘT ĐÓA HOA QUỲNH”. Tại sao lại là
tên đó?!
3. Tình yêu say đắm và
hạnh phúc lứa đôi
Chúng ta cùng ông TCS đi
vào khổ thơ số 6, xin góp tên cho khổ thơ là ‘Trăng mật”. Vì ở khổ thơ này, cho
chúng ta biết hạnh phúc của họ có những gì. “từ nay tôi đã có người – có em đi đứng bên đời líu lo” hai câu
lục bát này đối chỉnh và cân phương. Đối với tác giả thì “đã có người”, có nghĩa là ông đã thỏa
mãn... Còn đối với “người” của ông thì sao? Chúng ta thấy ngay trạng huống tinh
thần rất phấn khởi, rất yêu đời, rất hạnh phúc của nàng, qua hai động từ “đi và đứng” trong niềm vui từ nội tâm
dâng trào sóng nhạc. Ngài Trịnh quả là bậc thầy trong tu từ, khi diễn tả tâm
trạng hạnh phúc của người yêu bằng lối hành văn kỳ cục mà cực kỳ biểu ý. Xin
cùng nghiền ngẫm câu thơ “có em đi
đứng bên đời líu lo”. Em đi hay em đứng thường hàm nghĩa hoạt động đi
tới hoặc đứng lại, nghĩa cơ bản nó là thế. “Líu lo” là từ láy thường được dùng để nói về tiếng chim hót líu
lo (chim có khỏe mạnh, có no lòng, có sạch sẽ, có hứng khởi ... thì mới hót và
hót líu lo với nhiều giọng hót và nhiều cung bậc, đặc biệt là những bài hót có
âm vực cao). Hoặc một đứa trẻ nếu có được sự thương yêu chăm sóc chu đáo của
cha mẹ, giúp cho bé có được tâm lý tự nhiên, cởi mở dẫn đến hành vi nói líu lo,
nói liên tu, nói về bất cứ mọi chuyện cho cha mẹ nghe. Ở câu thơ này, ngài
Trịnh lại ghép những hoạt động đời thường với biểu hiện líu lo bên đời của
nàng. Líu lo trong câu làm trạng ngữ bổ ngữ cho động từ “đi – đứng”. Dùng từ và
đặt câu như thế, buộc chúng ta phải hiểu rằng: “cô ấy đi đứng mà vui hát líu
lo” như chim hót líu lo, hoặc như em bé nói líu lo vì cảm giác an toàn từ cha
mẹ đem lại. Cái hay của câu ở chỗ: cô ấy vui sống bên đời không phải chỉ vì tự
thân cô ta vui thỏa mãn mà còn là nhờ bạn tình của cô đã làm “chỗ dựa an toàn
tuyệt hảo cho cô. Khéo quá ngài Trịnh ơi !
Từ nhận định trên, chúng
ta nhìn vào bốn câu cuối để đồng thuận cùng tác giả là: “từ nay tôi đã có tình – có em yêu dấu lẫy
lừng nói thưa – từ em tôi đã đắp bồi – có tôi trong dáng em ngồi trước sân”.
Họ trao tình yêu của bản thân cho bạn tình và được nhận lại trọn vẹn từ bạn tình.
Họ luôn “tương kính như tân”, luôn chăm lo vun đắp cho cuộc sống lứa đôi. Ý của
tác giả hẳn nhiên là thế, nếu ai còn nghi ngờ thì xin mời tìm nghe nhạc phẩm
này và để ý đến đoạn tiết tấu trình bày vui vẻ, rộn ràng nhất của nhạc phẩm với
loại nhịp 2/4.
Tìm hiểu đến đây, có lẽ
có độc giả nghĩ, tình yêu đôi lứa mà chỉ có “trăng mật” thì hơi hiếm trên đời.
Nếu có ai nghĩ thế thì xin cho người viết được bắt tay đồng thuận. Đúng vậy, vì
cuộc sống “chung” của hai con người trước đây hoàn toàn lạ nhau, chắc chắn sẽ
có “đụng”. Vâng, TCS cũng rất thành thực khi nói về kinh nghiệm
“sống chung và đụng”. Vấn đề là, khi tìm hiểu khổ thơ thứ bảy và thứ tám, chúng ta sẽ tìm hiểu luôn cách thức giải quyết của họ khi có “đụng”.
“Mùa đông cho em nỗi buồn
Chiều
em ra đứng hát kinh đầu sông
Tàn
đông con nước kéo lên
Chúng ta thấy từ “buồn”
xuất hiện, buồn vì mùa đông u ám và lạnh giá, đó là nói theo khách quan của
thời tiết. Nhưng câu “chiều em ra đứng
hát kinh đầu sông” lại cho chúng ta thấy một lý do “buồn” chủ quan từ
trong lòng cô gái. Buổi chiều cô ra đứng hát kinh đầu sông. Câu này mở ra cho
người đọc những thắc mắc:
1/ Em ra đứng hát kinh
là chỉ mình em ra đứng chứ không phải cả hai người ra đứng hát kinh, mà đã nói
hát kinh thì có nghĩa đó là một hoạt động của niềm tin tôn giáo. Từ đó ta suy
ra cô nàng có niềm tin tôn giáo, còn anh chàng là người không tín ngưỡng hoặc
không cùng tín ngưỡng với cô nàng! Và nói theo ngôn ngữ hiện đại thì hai anh
chị này có một cuộc hôn nhân liên tôn.
2/ Cô nàng ra hát kinh ở
“đầu sông”. Sao lại chọn đầu
sông? Vâng, đầu sông hay cuối sông để sau này xét. Giờ chúng ta xét đến
việc cô đứng đầu sông hát kinh vào mùa đông, xin nhìn vào hai câu tiếp “tàn đông con nước kéo lên – chút tình mới
chớm đã viên thành”. Mùa đông đến em buồn, tàn đông sang xuân em vui.
Huề.
Mùa đông ra hát kinh đầu
sông gởi nước đem đi một thông điệp nào đó đến phía cuối sông, tàn đông con
nước kéo lên, có nghĩa là có “hồi âm” hoặc sinh khí mùa xuân. Vậy là vui. Đã
vui thì còn đâu buồn! thế nên “chút
tình mới chớm đã viên thành”. Theo người viết hiểu từ “viên thành” là
thành công viên mãn. Nói cách khác là họ bắt đầu hòa hợp nên một. Chúng ta cùng
mừng cho tình yêu của hai người đã viên thành.
“Từ nay anh đã có nàng
Biết
ơn sông núi đáp đền tiếng ca
Mùa
xuân trên những mái nhà
Có
con chim hót tên là ái ân” (khổ thơ 8)
Toàn bộ khổ thơ số tám,
cho chúng ta thấy hạnh phúc của họ. Nào là: có nàng, biết ơn sông núi, tiếng ca, mùa xuân, mái nhà, chim hót, ái ân.
Ở đoạn này người viết xin dừng lại một chút ở câu “biết ơn sông núi đáp đền tiếng ca”. Vấn đề gây suy nghĩ là: sao
chàng đang yêu và được nàng yêu say đắm, lại không nói “biết ơn em” mà lại nói
biết ơn sông núi ? Xin thưa, chàng là người có lòng biết ơn - đây là một đức
tính tốt. Chàng biết ơn nàng là tất nhiên, nhưng nàng từ đâu mà có? Chàng nghĩ
nàng từ đất nước - sông núi mà có. Có quê hương thì mới có nàng. Vậy chàng biết
ơn sông núi và sáng tác nhạc ca ngợi sông núi gọi là đáp đền ơn sâu. Qua câu
này cũng cho người nghe hiểu rằng “Chàng theo truyền thống Nho gia”.
4. Tình yêu ngọt ngào -
hạnh phúc dâng cao - điềm báo
Chúng ta cùng lắc lư
thật chậm theo nhịp 6/8 và âm giai Trưởng, ca từ của khổ thơ thứ 9 được vang
lên, du dương, bay bổng.
“Sen hồng một nụ - Em ngồi một thưở - Một thuở yêu nhau - có vui cùng
sầu - từ rạng đông cao - đến đêm ngọt ngào - Sen hồng một độ - Em hồng một thuở
xuân xanh - Sen buồn một mình - Em buồn đền trọn mối tình”.
Người viết nhận ra, với
tiết tấu đặc biệt khác so với các đoạn tiết tấu khác trong bài, với âm giai
Trưởng, với nhịp điệu 6/8 hiếm gặp trong âm nhạc, tiết tấu đong đưa đu võng, du
dương lãng mạn…Có vẻ đây là đoạn nhạc tác giả viết để dành tặng riêng cho Vợ
Yêu Dấu. Xét về ca từ, xin có những ghi nhận sau: Cô gái ấy tên là Sen Hồng,
hay Chàng gọi nàng là Sen Hồng qua hai câu cuối “Sen buồn một mình – Em buồn
…” .
Ý thứ hai: Chàng biết
nàng rất yêu chàng, nhưng chàng cũng biết nàng vẫn luôn mang một nỗi buồn một
mình mà chàng không thể sẻ chia!! Sao tôi biết ? Nhạc sĩ nói “em buồn một mình” đấy.
Ý thứ ba, đã thấy dấu
hiệu của vô thường ngay trong lúc hạnh phúc nhất! “Em hồng một thuở xuân xanh”.
Vâng, chỉ một thuở… mà thôi!
5. Sinh ly tử biệt: khổ
thơ thứ 10
“Một chiều em đứng cuối sông
Gió
mùa thu rất ân cần
Chở
lời kinh đến núi non
Những
lời tình em trối trăn…”
Đã có một sự thay đổi vị
trí, những khổ thơ trên nói “em đứng
đầu sông”, nhưng giờ “em đứng
cuối sông”. Phải chăng, tác giả muốn dùng hình ảnh dòng chảy của con
sông để ẩn dụ về sức khỏe của vợ mình, hoặc ẩn dụ về quê gốc của nàng.
Cộng thêm thời khí “gió mùa thu rất ân cần” có nghĩa là
mùa thu thì lá vàng rơi, mà lá càng nhanh rời cành khi có gió, lá càng nhanh
rơi về cội hơn vì gió quá ân cần (gió mạnh!) thật khâm phục tài hoa dùng từ của
ngài Trịnh. Nói là nàng yếu đau gì gì đó rồi chết… thì là văn quèn của tôi, dễ
hiểu … mà dễ quên! Văn như của ngài Trịnh mới là văn.
Nàng đã suy kiệt rồi thì
lời kinh của nàng lại chuyển hướng! trước đây thì “đứng hát kinh đầu sông” (là còn hát được và còn đứng ở đầu sông,
là ở đầu nguồn, là nơi của núi non cao) còn giờ thì “đứng cuối sông” chở lời kinh đến núi non là làm công việc chèo
ngược dòng, khó khăn lắm thay!
Câu “những lời tình em trối trăn” khiến
người viết suy nghĩ vẩn vơ: Mái nhà hạnh phúc của hai người là ở đầu sông, nàng
đứng ở cuối sông, vậy chàng ở đâu? Chưa biết! Nhưng khi nàng nói “trối trăn”
thì tất nhiên phải có chàng nghe, chứ không lẽ có người khác nghe mà không phải
là chàng! Vậy suy ra: chàng cũng ở cuối sông cùng nàng. Vậy cuối sông đây có ý
nghĩa gì? Xin mời chúng ta cùng đọc bốn câu sau của khổ thơ số 10.
“Một thời yêu dấu đã qua
Gót
hồng em muốn quay về
Dù
trần gian có xót xa
Cũng
đành về với quê nhà”
Chết rồi! nàng đã chết
rồi! nhưng ông không nói từ “chết” mà lại mượn ý của thành ngữ “sinh ký tử
qui”. Chết là “về! về với quê nhà”. Cách dùng từ như trên cũng nói lên ý tưởng
của tác giả về Vợ Yêu là: “Em là nàng tiên giáng trần, vì yêu anh nên đã sống
với anh một thời gian, rồi lại phải trở gót về tiên cảnh”.
Chúng ta là người ngoài
cuộc nên trước cái chết của nàng, chúng ta có buồn đôi chút và có nỗi niềm vọng
hướng chia sẻ niềm đau với tác giả, rồi xong, vì người chết thì đã chết, người
sống thì vẫn phải tiếp tục sống. Thế nhưng, tác giả là người trong cuộc, là
người trực tiếp đón nhận nỗi niềm tử biệt. Ông có phản ứng nào?
6. Đau khổ và thương nhớ
suốt đời:
Tiêu đề trên đại diện
cho cả khổ thơ số 11:
“Từ đó trong vườn khuya
Ôi
áo em xưa là
Một
chút mây phù du
Đã
thoáng qua đời ta
Từ
đó trong hồn ta
Ôi
tiếng chuông não nề
Ngựa
hí vang rừng xa
Vọng
suốt đất trời kia
Từ
đó ta ngồi mê
Để
thấy trên đường xa
Một
chuyến xe tựa như
Vừa
đến nơi chia lìa”
Ông Trịnh đã không đi
tìm một người yêu khác, ông chỉ sống để yêu và tưởng nhớ nàng, nỗi đau gào thét
trong ông như tiếng ngựa lẻ bạn hí vang não nề vang rừng khuya, nỗi đau làm tê
liệt hoàn toàn mọi cảm xúc, để chỉ còn ngồi mê … Cũng trong niềm đau, ông nhìn
ra “tính phù du của mọi sự”. Hợp rồi tan, đời người như một chuyến xe – đi rồi
sẽ phải đến.
7. Giải pháp của nhạc sỹ
Ở khổ thơ thứ 11, diễn
tả niềm đau chôn kín của tác giả, dường như vô phương giải tỏa. Thật may, tác
giả đã tìm được lối ra cho mình. Chúng ta cùng nghiền ngẫm khổ thơ 12:
“Từ đó ta nằm đau
Ôi
núi cũng như đèo
Một
chút vô thường theo
Từng
phút cao giờ sâu …”
Ở đây, càng chỉ rõ ông
đã nhận ra bản chất vô thường của vạn vật. Ngay núi non hay đèo cao là biểu
tượng trường tồn cũng không còn thường hằng như ông nghĩ. Giờ đây ngay núi cũng
như đèo cũng vương một chút vô thường, là núi mòn, đèo hư. Ông đã có kinh
nghiệm một thời để yêu. Ông có thể cùng với bạn tình trải qua những đau khổ của
kiếp người: sinh – lão – bệnh, cùng trải qua bằng tình yêu và bản lãnh của cả
hai người. Nhưng đứng trước “cái chết”, bạn tình của ông thúc thủ và ông cũng
bó tay. Vô thường trước đây chỉ như một thử thách để rèn luyện chí làm trai,
giờ vô thường được thể hiện ngay trên chuyện sinh tử của chính bạn tình! Tác
giả chỉ còn biết rên “từ đó ta nằm
đau!!!”. Nằm mà nhớ những thời khắc thăng hoa “phút cao” hay ngay trong
góc kín của tâm hồn “giờ sâu” mà đau đớn cho cái vô thường. Trên đây là nói về
cái ngộ của tác giả: về VÔ THƯỜNG.
Nói về bạn tình “Sen
Hồng” của tác giả.
Nàng đã chết! âm dương
cách biệt! không còn thấy nhau. Ông Trịnh biết rõ điều đó. Vấn đề là: ông không
muốn điều đó. Xem chừng nhận định của người viết có vẻ ngang ngược quá!. Vâng, nói phải có chứng, và tôi có bằng chứng như sau.
“từ đó hoa là em
Một
sớm kia rất hồng
Nở
hết trong hoàng hôn”
Ba câu này ông nói về
ai? Ai cũng dễ trả lời là nói về người ấy. Nhưng cô ấy chết rồi mà, làm sao lại
biến thành hoa? Trong triết lý Nhà Phật có chuyện người luân hồi thành hoa
không? Dứt khoát không có. Vậy cái ý niệm “hoa là em” của ông Trịnh từ đâu mà có? Ông đã làm “bất tử hóa”
bạn tình bằng tư tưởng của Đạo Nho (Đạo Lão) là chủ trương bất tử, tức là quan
niệm con người lúc chết, sự sống con người được thay đổi chứ không mất đi. Vậy
“từ đó hoa là em” có nghĩa là
“em biến thành hoa”.
Tất nhiên, có thể hiểu,
ông đã có một cuộc đối thoại liên tôn trong nội tâm giữa tư tưởng Nhà Phật và
triết lý Đạo Nho. Người viết không dám có ý ngược gì cả, chỉ mong tìm hiểu, suy
nghĩ và lý luận để hiểu được nội tâm của tác giả “Đóa Hoa Vô Thường” mà thôi.
Thế là em bất tử, luôn ở
cùng anh dưới hình dáng hoa quỳnh. Vậy ông yêu bạn tình quá cố hay giờ ông yêu
hoa quỳnh?. Vâng, hai tình yêu này của ông nồng say như nhau. Và đây chính là
lý do người viết nói ở cuối mục số 2/: ông đặt tên cho mối tình này là “MỘT ĐÓA
HOA QUỲNH”.
Bởi vì hoa quỳnh chỉ nở về đêm, nở nhanh và tàn
nhanh, Ngài Trịnh lại bất tử hóa người yêu bằng ý niệm nàng biến thành hoa
quỳnh “nở
hết trong hoàng hôn - đợi gió vô thường lên – từ đó em là sương – rụng mát
trong bình minh”. Rồi,
thế là Người Yêu của Ngài Trịnh đã bất tử: ban đêm là hoa quỳnh, ban ngày là
sương. Thi vị quá, lãng mạn quá, liêu trai lắm, chung thủy trọn đời ông Trịnh
nhỉ.
Phần ông Trịnh Công
Sơn: “từ đó ta là đêm”
vâng ông là đêm để hoa quỳnh nở, không có đêm thì không có hoa quỳnh. Vậy ông
là đêm để nàng sống bất tử dưới dạng thức hoa quỳnh: đây vừa là giải pháp cho
tình yêu chung thủy của ông, vừa là nguyên lý cho sự bất tử của vợ ông, lại
cũng là lý do tồn tại và yêu “đêm” trong các tác phẩm khác của nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn.
Kết luận
“Đóa Hoa Vô Thường” là
đóa hoa không trường cửu, hoa quỳnh vào ban đêm mau nở mau tàn là một minh
chứng rất rõ cho tính chất vô thường của vạn vật và con người. Nhưng khi hoa nở
thì là hoa đang hiện hữu, khi hoa tàn thì lại biến thành sương vào ban ngày,
bản chất của sương là nước. Vậy thì sương hay nước vẫn là những dạng thức tồn
tại vào ban ngày, dẫu là cũng có một chút vô thường theo.
Đến đêm hoa quỳnh lại nở
…Vậy phải chăng đóa hoa vô thường của nhạc sĩ họ Trịnh vẫn mang trong mình cái
gì đấy thuộc miên trường?
BVHH
Phụ
chú: Đôi nét về hoa quỳnh
Cây hoa quỳnh có tên
khoa học Epihyllum oxypetalum (D.C.) Haw. Thuộc họ xương rồng (Cactaceae). Cây
không có lá, thân dẹp dài uốn lượn và có khía, hoa mọc từ khía. Cây có nguồn
gốc từ Châu Mỹ [agriviet.com]
Hoa nở về đêm trắng
toát, thơm, hoa ăn được….
Trong thú chơi quỳnh, các cụ cũng uống rượu chờ hoa nở, vì hoa nở có giờ, khoảng 9 - 10 giờ đêm, hoa nở rất nhanh, xòe ra 1 - 2 giờ rồi cụp lại …
Quỳnh thường được trồng vào chậu để khiêng đi khiêng lại xem hoa dễ dàng. Trồng bằng cách cắm cành vào mùa xuân. Trồng ra bồn, ra đất đều được. Chịu nắng chịu hạn rất tốt. [agriviet.com/nd/640-cay-hoa-quynh]
Trong thú chơi quỳnh, các cụ cũng uống rượu chờ hoa nở, vì hoa nở có giờ, khoảng 9 - 10 giờ đêm, hoa nở rất nhanh, xòe ra 1 - 2 giờ rồi cụp lại …
Quỳnh thường được trồng vào chậu để khiêng đi khiêng lại xem hoa dễ dàng. Trồng bằng cách cắm cành vào mùa xuân. Trồng ra bồn, ra đất đều được. Chịu nắng chịu hạn rất tốt. [agriviet.com/nd/640-cay-hoa-quynh]
Theo
truyền thuyết, thời nhà Tùy, Tùy Dạng Đế hôn quân vô đạo, trác táng, xa hoa,
phung phí, đêm nọ nằm mơ thấy một cây trổ hoa đẹp. Đúng lúc đó, ở chùa Dương Ly
thành Dương Châu đang đêm bỗng có ánh sáng như sao sa và hương thơm sực nức lạ
lùng khiến dân chúng đổ xô đến xem. Cạnh giếng nước trong sân chùa mọc lên một
cây lạ, nở một đóa hoa ngũ sắc với 18 cánh to ở trên, 24 cánh nhỏ ở dưới, hương
ngào ngạt bay tỏa khắp nơi nơi. Dân chúng đặt tên là hoa Quỳnh.[yume.vn/nguyenthanhtrunghg/article/sac-mau-cuoc-song-hoa-quynh-quynh-huong.35D3B6B3.html]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét