“Mắt sóng” là tập thơ thứ năm của Phạm Thị Phương
Thảo, NXB Văn học năm 2013. Sức sáng tạo dồi dào cùng sự tươi mới của cảm xúc,
tìm tòi trong phong cách thể hiện làm cho thơ của chị luôn mới. Trong tập
“Mắt sóng” có 55 bài nhưng đã có tới 13 bài lục bát, một thể thơ dễ làm
nhưng khó hay, khó làm “mới” nhưng khi đọc người đọc không khỏi
bất ngờ bởi cái mới, cái lạ, mỗi ý thơ, mỗi bài thơ của chị căng đầy một sự dồn
nén, ấp ủ rồi đến một lúc chín muồi con chữ tự tuôn trào thành những vần thơ
trong trẻo, tươi non như những “búp xuân” trên cánh đồng thơ mơn mởn.
Đây là những vần thơ miêu tả hay nỗi lòng của người thơ:
“Dịu dàng ơi búp
thanh tân
Bốn mùa ăm ắp lá mầm
tươi non...
Vui buồn đan kín
ước mơ
Vườn em hoa trái
bốn mùa thầm xanh”
(Ngón xuân)
“Búp thanh tân” cùng sự căng đầy và bao hương sắc của
hoa trái bốn mùa trong sự dâng hiến thầm lặng ấy đem lại cho người đọc một cảm
giác yêu đời và yêu người đến say lòng. Chữ “thầm xanh” thật là nữ
tính và cũng thật là ấn tượng. Cũng trong mạch cảm xúc ấy, Phạm Thị Phương Thảo
trải lòng trong chiêm nghiệm về con người, về cuộc đời:
“Phù sa anh, bến sông
đời
Lênh đênh chở cả một
thời bão giông
Quanh co khúc đục
khúc trong
Tình sông mải
miết ngậm đòng phù sa”
(Tình sông)
“Phù sa anh, bến sông đời” là câu thơ với hai vế đăng
đối chở bao tâm tình nhân thế, sâu xa trong ý tứ, độc đáo trong ẩn dụ, “ngậm
đòng phù sa” làm cho người đọc liên tưởng tới những cánh đồng mầu mỡ có
được từ bao năm tháng phù sa bồi đắp và những “cánh đồng người” có được
qua bao gian lao khó nhọc của bao thế hệ mà từ đó ươm trồng mà nẩy nở những “cánh
đồng thơ”, chị như người đãi chữ tìm những ngọc ngà châu báu mà kết
nên thơ ca cho mình và cho đời. Trong thơ của Phạm Thị Phương Thảo thiên nhiên
hiện lên như một bức tranh lụa mịn màng đầy màu sắc âm thanh trong trẻo
vô ngần, đáng yêu làm sao:
“Giêng Hai hây hẩy tơ
non
Bao tinh khôi vẫn như
còn phôi thai” (Giêng Hai)
Thấy được cái “tinh khôi” “phôi thai” của mùa
xuân trong mùa đông giá rét ấy thật là tinh tế. Ta thấy nhà thơ như đang nâng
niu những “tinh khôi” ấy để rồi reo vui đón xuân sang:
“Mùa xanh lảnh lót
xuân sang
Cỏ mềm ướt lối địa
đàng lãng quên”
Mà không “lãng quên” sao được trước giây phút đất
trời cùng lòng người như giao hòa ngất ngây trong một mùa mơn mởn của sự hoàn
sinh kỳ diệu. Cũng trong cái tứ về mùa xuân, bài “Lắng xuân” không chỉ
miêu tả những “lộc non”, “lá biếc”, “hương vườn”... mà hơn
thế chị còn “thấy” cả những: “Nõn nà lá biếc bập dầm thân khô”,
câu thơ như lắng lại trong một cái nhìn rất phụ nữ và đầy tình người, để rồi
trân quí hơn những gì tạo hóa ban tặng:
“Tiếng xuân khe khẽ
đâu đây
Gọi vòng tay nắng ôm
đầy... mầm xanh”.
Hình tượng “vòng tay nắng” thật là lung linh và cũng
rất sáng tạo, không chỉ giới hạn trong hơi ấm của con người mà của cả đất trời.
Câu thơ nhẹ nhàng, cô đọng nhưng sao mà sâu lắng, lay động hồn người. Trong
bài: “Rụng”, từng cặp lục bát lại đem đến cho người đọc những bất ngờ,
lý thú, suy ngẫm:
“Vỡ ngày chiều rụng
vào đêm
Cây vừa khép mắt rụng
thêm lá vàng
Hạt buồn rụng
xuống nhân gian
Ngang trời nắng
rụng bàng hoàng cỏ cây
Cánh diều rụng
bởi chạm mây
Triều lên sóng
rụng đẫm đầy ngực em
Nhớ ai rụng buốt
tim mềm
Mắt người rụng
tím cả miền mộng mơ
Đa tình bỗng rụng
vào thơ
Ánh trăng rụng
chín cả bờ vai đêm...”.
Bài thơ có tới 10 từ “rụng” nhưng mỗi từ trong một ý
thơ lại mang một sắc thái biểu cảm khác nhau, qua những hiện thực của tự nhiên
chuyển tải những rung động sâu sắc về cuộc đời, về phận người, về giới hạn của
đời người, và nhân tình thế thái. Bài thơ được đẩy dần lên cao trào rồi nhẹ
nhàng đưa người đọc trở lại mạch cảm xúc rất thơ, chan chứa tình người.
Trong những bài lục bát của Phạm Thị Phương Thảo, có những
bài người đọc ấn tượng ngay từ tên bài như: “Câu thơ vớt hôm rằm”, song
không chỉ “lạ” từ cái tên mà còn “lạ” trong lập tứ, lập ngôn:
“Dùng dằng người vớt
câu thơ
Vắt lưng chừng gió
một bờ trăng ngoan”
Biết là “trăng ngoan” mà vẫn ngại ngần, dùng dằng khi
“vỡ câu thơ”, có mâu thuẫn không? Không khi ta hiểu nỗi lòng của tác
giả:
“Thơ như đang tuổi
trăng cài
Dập dìu mở lối thiên
thai giữa rằm”
Thì ra người thơ yêu thơ, say thơ nhưng câu thơ còn đang “tuổi
trăng cài” nên cứ dùng dằng, bồn chồn trên “lối thiên thai”.
Thơ lục bát của Phạm Thị Phương Thảo có nhiều phát hiện mới
trong cách dùng từ, tinh tế trong những biện pháp tu từ, đôi lúc phá cách làm
tăng hiệu quả thẩm mỹ như:
“Nhốt duyên vào lúm
đồng tiền ...
Tháng năm gồng
gánh ưu phiền
Gói tình giấu kín
chữ duyên trong mình
Đồng tiền má lúm
tròn xinh
Mang về gói kỹ
chút tình riêng tôi”
Hoặc trong cái tứ “Khát” Phương Thảo đã rất có duyên
khi diễn tả những điều tưởng như không thể nắm bắt được trở nên hữu hình và
giầu sức gợi:
“Cánh đồng khô khát
cơn mưa
Cánh hoa khát nắng
câu thơ khát tình
Giọt sương khát
ánh bình minh
Rừng cây khát gió
rung rinh gọi mời/
Nỗi buồn khát giọt
lệ rơi
Nỗi nhớ khát uống
môi người mình thương
Tuổi già khát nhớ
quê hương
Tuổi thơ khát
được yêu thương ngọt ngào...”
“Lời yêu khát cánh
bay cao
Nồng nàn khát được
tan vào trong nhau”
Cuộc sống vốn như thế đấy, con người mà không khát khao thì
sẽ tẻ nhạt, vô vị.
Viết về vùng cao, các nhà thơ thường dùng thể thơ tự do để
có thể miêu tả cái gập ghềnh, cheo leo của núi, của đèo, của thác... cùng sự
bảng lảng của mây, sương... Phạm Thị Phương Thảo vẫn chung thủy với thể thơ lục
bát nhưng với nhứng sáng tạo nghệ thuật đã đem lại cho những nơi này một diện
mạo mới như trong bài “Sa Pa”:
“Giang tay vít đám
mây ngàn
Bẻ cụm mây trắng,
hứng làn mây xanh”
Câu thơ pha chút ngang tàng, hóm hỉnh nhưng rồi cái ảo pha
lẫn cái thực của vùng đất ngang trời như “cõi tiên” này làm cho nhà thơ
say lòng tự lúc nào:
“Sa Pa yêu
tự thuở nào
Sáo khèn réo rắt,
trăng sao rụng đầy
Say từ hoa lá cỏ
cây
Say từ phiên chợ
người say đêm nào”
Cách thể hiện không dẫm vào nốt chân những người đi trước mà
vẫn quen thuộc, ăm ắp hơi thở Sa Pa. Còn đây là “Thảo nguyên”: Trong bao
mướt xanh của “nương sắn”, “bãi lau”, “xa xa dãy núi bản làng
nhấp nhô”, nhà thơ nhà thơ còn thấy “sữa bò thơm giữa môi người ngẩn ngơ”
và tự hỏi:
“Cỏ còn xanh đến bao
giờ
Trong sự vận động của xã hội chúng ta đâu chỉ trông chờ vào
thiên nhiên ban tặng, quan trọng hơn phải biết giữ gìn và làm phong phú thêm
cho chính mình và cho mai sau. Câu hỏi tu từ ở cuối bài đầy sự trăn trở, thức
tỉnh nhân tâm và trách nhiệm của mỗi người. “Tháng ba Đà Lạt” lại mang
một hơi thở mới:
“Tháng ba xuân nhả
ngọc ngà
Trời cao nguyên cũng
như òa giọt thương
Bất chợt mưa xéo
ngang đường
Phượng tím thảng
thốt ngậm hương bùi ngùi...”.
“Giọt thương” ẩn chứa cái tính sâu nặng của đất trời
và lòng người kia sao mà day dứt và với hai câu phá cách về niêm luật ở cuối
bài làm cho bài thơ đầy sức nặng, ám ảnh, dư ba...
Thơ lục bát của nhà thơ Phạm Thị Phương Thảo vừa
kế thừa được những nét đẹp của thể thơ truyền thống nhưng với sự dầy công trong
tìm tòi thể hiện,trong sự lao động nghệ thuật nghiêm túc, cẩn trọng trong từng
câu chữ, không gò ép trong khuôn sáo, chị đã thành công ở thể thơ khó tính này.
Trong thơ lục bát của chị không chỉ có vần điệu, không chỉ có mầu sắc, âm thanh
mà còn đầy nhạc điệu, kế thừà mạch nguồn dân gian. Thơ lục bát của chị như con
thuyền chở đầy tâm trạng, mỗi câu, mỗi chữ cứ ngân lên trong lòng người đọc
nhạc khúc của tình yêu và cuộc sống!.
Dương
Hiền Nga





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét