Huy Cận – Lửa vẫn còn thiêng
Từ độ Nguyễn Du lục bát hóa đời Kiều để ngự trên ngôi báu
thi ca, chừng như long mạch thơ nước Việt đã mấy lần rót về Hà Tĩnh, khơi nguồn
cho những dòng thơ lớn khác xuất hiện : Nguyễn Công Trứ, Xuân Diệu và Huy Cận.
Sau tám năm từ độ ra đời, Thơ Mới (1932-1945) đang cuồn cuộn chảy như một
dòng sông lắm ghềnh nhiều thác, lúc ẩn, lúc hiện, chợt bùng lên rồi lắng lại
sững sờ, như ngẩn ngơ, như luyến tiếc cội nguồn? Kể
cũng lạ, khi dòng Thơ Mới cuộn chảy, gầm reo tới cao trào với Xuân Diệu thì
cũng là lúc nó chợt phình ra giống một cái hồ cho mưa nguồn chớp bể trong hồn
sông nước được nghỉ ngơi, trầm lắng, ưu tư mà hoài cổ. Khúc sông giống hồ nước
của dòng Thơ Mới ấy chính là Huy Cận với tập "Lửa Thiêng " gồm 50
bài thơ ra mắt năm 1940.
Nếu không có khúc sông hóa hồ nước Huy Cận giúp Thơ Mới có
cơ hội lắng xuống, thảnh thơi và điềm tĩnh, chùng chình và mênh mông lại, biết
đâu nó đã chẳng chảy tuột vào bề thẳm Tây phương ? Chừng như hình thức
complet, cravate của Phương Tây Huy Cận khoác lên người không mang nổi hồn
vía Đông phương u uẩn, thẳm vời trong ông? Sau khi nhà thơ từng thổn thức nỗi Verlaine,
cái hồn ấy phiêu du ông về vạn cổ, kéo ông lạc vào Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du... ngay giữa lòng thế kỷ XX ồn ào phố xá...Thành ra, trong
dòng thơ mới sục sôi với tầng tầng lớp lớp thi nhân, Huy Cận tuy không khăn đống
áo the như Đông Hồ, không nâu sồng dân dã như Nguyễn Bính, nhưng hồn ông
đã ràng buộc với thất ngôn và lục bát xưa.
Ông hóa nỗi buồn xưa mà lênh đênh nguồn cội, một mình bơ vơ
ngay giữa "Hội trùng dương"Thơ Mới, bơ vơ ngay giữa hồn mình. Có thể
nói, Huy Cận cô đơn ngay cả trong niềm nồng cháy ban đầu Xuân Diệu. Vì sao một
gã trai mười
chín đôi mươi lại có một tâm hồn nghìn tuổi, một niềm thơ vạn cổ rất tân thời
như "Lửa thiêng "59 năm trước ?
Ta bắt gặp trong "Lửa Thiêng" một Huy Cận buổi
"Tựu trường-Thơ Mới", tuy không mê đắm đến điên cuồng "Hỡi
xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi" như Xuân Diệu, nhưng cũng rất tinh khôi
niềm yêu đời, một niềm cách tân cả ý tưởng đến hồn vía :"Tủ mới đánh và
lòng trai thơm ngát" ( Tựu trường). Chiếc tủ - hình - thức - Tây phương
vừa đánh verni, tưởng chỉ có thể treo những
bộ áo quần tân thời ý tưởng như câu thơ rất Tây trong bài "Tình tự
":" Sáng hôm nay hồn em như tủ áo / Ý trong veo là lượt xếp từng
đôi". Huy Cận đi giữa tủ, rương như đi giữa những thời đại bảo tàng, những
thời đại ngọc ngà dễ vỡ, tưởng chừng ông toan biến đời mình thành chiếc rương
cất giữ vẻ tân kỳ hôm nay :" Rương nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc"
( Tựu trường). Một cậu trai thuần khiết "Quần áo trắng đẹp như lòng mới
mẻ" thuở ấy ai ngờ lại có thể viết được những câu thơ rất mới, rất
Tây :" Anh hãy bận hồn em màu sáng chói"( Tình tự )..."Lòng
giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng"( Đi giữa đường thơm ) ...hoặc " Bắt
gặp mùa tươi lên rún rẩy" (Xuân)...Huy Cận chìa câu thơ thất ngôn truyền
thống ra như chìa bàn tay mình để bắt tay ngọn gió mới Tây phương, bằng cách
đột ngột gieo một liên từ làm vần cuối câu thơ thứ hai, khiến câu thơ vừa đứt,
vừa nối, vừa chênh vênh, hụt hẫng lại vừa an nhiên, tự tại :" Khi
bóng hoàng hôn phủ núi xa / Khi niềm tư tưởng vướng chân, và..."(Em về
nhà). Ta còn có thể bắt gặp trong "Lửa thiêng" nhiều vẻ đẹp Tây
phương mới lạ của Huy Cận, nhất là trong 15 bài thơ 8 chữ khá phóng túng của
ông như bài "Trò chuyện " :"Phố không cây thôi sầu
biết bao chừng "," Buồn vạn lớp trên mái nhà dợn sóng",
"Chiều hiu hiu khêu gợi nhớ nhung hờ", "Hồn bơ vơ không biết tựa
vào đâu / Mây không bay thương nhớ cũng không màu / Nắng không xế và lòng sầu
mất hướng"...Huy Cận thậm chí Tây không kém gì Xuân Diệu với nỗi sầu, nỗi
chết ban đầu với tận cùng cảm giác kiểu "Tay bồng thân, và tay nữa ôm mồ
"( Trình bày ) ..."Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường"
..."Xương cọ vào xương bớt nỗi hàn" ( Ngủ chung)...hoặc " Ôi
chiều buồn sao nắng quá mong
manh"(Nhạc sầu).
Ta có một Huy Cận hướng ngoại tới tận trời tượng trưng
Verlaine cả trong buồn, vui, sống, chết, trong thế giới khả giác lúc nào như
cũng muốn nổi da gà. Có khi, Huy Cận thử tìm tới tất cả, thử vồ vập tất cả
nhưng vì sao ông chưa thỏa nỗi rưng rưng, dù khi ông viết về tình yêu thời đi
học với những câu thơ hay đến kinh ngạc :" Một hôm trận gió tình
yêu lại / Đứng ngẩn trông vời áo tiểu thơ "(Học sinh). "Trận
gió tình yêu" mới mẻ phương Tây rất nồng nhiệt kia đã
thổi bay đi tất cả niềm vui mong manh chớm hé. Chỉ còn lại nhà thơ "Đứng
ngẩn trông vời..." hiện tại, dù hiện tại kia, tình yêu kia kỳ diệu tới mức,
lãng mạn tới mức thần tiên :" Em lùa gió biếc vào trong tóc / Thổi
lại phòng anh cả núi non "(Áo trắng). Nhờ "Em", nhờ ngọn
gió tóc kia mà căn phòng anh được nới rộng ra cả đất trời? Hay chính là
"Em" đã nhốt núi non, nhốt cái sừng sững cao vời vào căn phòng thi
ca anh để vô hạn hóa cái hữu hạn ? Niềm vui tình đầu Huy Cận đẹp thế, hay thế
nhưng chỉ là gió thổi qua, chỉ là thoáng chốc. Trong thơ, Huy Cận cần một
cách giải thoát khác Xuân Diệu.
Huy Cận đi từ "Ngẩn " tới "Vời":"Đứng
ngẩn trông vời...", đi từ tha nhân đến bản thân mình, từ niềm vui đến nỗi
cô đơn, như chiếc thuyền trong bài "Mưa" sau :" Lòng êm
như chiếc thuyền trên bến / Nghe rét thu về hạ bớt mui ". Câu thơ
này mới đích thực thần thái Huy Cận; nó hay một cách hoang vắng, se se, tồi tội,
khẽ khàng, hiu hắt. Tâm hồn Huy Cận là chiếc thuyền miền sơn cước thi ca, lặng
lẽ "hạ bớt mui" khi rét thu về, lặng lẽ rút vào tranh thủy mặc xa
xưa mà u tịch. Nếu Xuân Diệu nhảy bổ vào tình yêu như nai kia khát nước nhảy
bổ vào nguồn suối, lăn xả vào đời sống con người mà choàng ôm tất cả, mà mê
cuồng, say đắm tất cả thì Huy Cận ngược lại, cứ một mình thui thủi tìm về nơi
hoang vắng, tránh xa nơi phồn hoa đô hội. Huy Cận tĩnh bên một Xuân Diệu động.
Huy Cận xưa bên một Xuân Diệu nay. Huy Cận buồn bên một
Xuân Diệu vui, dù cả hai đều "Hai chàng thi sĩ choáng hơi men"
(Tình trai-X.D.). Những bài thơ hay nhất trong "Lửa thiêng" là những
bài Huy Cận thu hồn về ở ẩn trong một thiên nhiên hoang vắng, thẫn thờ, như
thể ông đã bị cuộc đời dồn đến trước lầu "Ngưng Bích", cùng Thuý Kiều
lẫn vào "Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung "(Kiều). Trong 50 bài
"Lửa thiêng", chỉ có 8 bài thơ lục bát :" Buồn đêm mưa",
" Trông lên", "Chiều xưa", "Đẹp xưa", "
Thuyền đi", "Xuân ý ", "Thu rừng" và "Ngậm
ngùi". Nhưng nếu không có 8 bài thơ lục bát này, "Lửa thiêng "
dù có nhiều bài thất ngôn hay ví như "Tràng giang" thì cũng chưa thể
làm nên một Huy Cận vượt thời gian như đã có. Nguyễn Du đại thiên tài lục
bát, đã đưa nhịp sáu tám Việt Nam lên tới đỉnh mây trời nhân loại.
Nguyễn Du từng ít nhiều ảnh hưởng lục bát ca dao, ảnh hưởng lục bát của Đoàn Thị
Điểm, Nguyễn Gia Thiều để làm ra hàng nghìn câu thiên thu tuyệt diệu riêng
mình. Thấm đẫm hồn thơ cha ông,
Huy Cận đã hiện đại hóa câu thơ sáu tám Việt Nam. Ông như người kế thừa
trung thành của phả hệ lục bát Nguyễn Du rồi phát triển nó về u tịch. Đọc thơ
lục bát Huy Cận, cơ hồ như hồn Nguyễn Du phảng phất đâu đây, như thể bút thần
xưa được hậu thế cầm lên viết tiếp, như bài " Đẹp xưa":
"Ngập ngừng mép núi quanh co
Lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang...
Vi vu gió hút nẻo vàng
Một trời thu rộng mấy hàng mây nao
Dừng cương nghỉ ngựa non cao
Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon
Đi rồi khuất ngựa sau non
Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu
Trơ vơ buồn lọt quán chiều
Mái nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người..."
Câu thơ "Lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang"
trên của Huy Cận làm ta nhớ đến "Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia "của
Tố Như xưa. Huy Cận lấy hồn muôn năm trước mà hiện đại hóa câu thơ lục bát
bây giờ, như gió xưa vàng đẫm lá thu nay :" Vi vu gió hút nẻo vàng ".
Ngọn gió Huy Cận mặc áo vàng nghìn thu mà hun hút, mà nghiêng nghiêng mái chữ,
mái-hiên-người, cũng là mái thơ :" Mái nghiêng nghiêng gởi buồn
theo hút người". Cũng như bài "Đẹp xưa", bài lục bát "Buồn
đêm mưa" và bài "Chiều xưa" hay đến từng câu từng chữ. Cái buồn
Huy Cận nơi đây đẹp đến rụng rời, đẹp đến ngơ ngác, hoang vu.
Viết về nỗi bơ vơ kiếp người, về nỗi buồn bản thể, nỗi buồn
xa vắng, mù tăm tưởng không ai bằng Huy Cận :"...Lòng run thêm lạnh nỗi
hàn bao la / Tai nương nước giọt mái nhà/ Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn
buồn (Buồn đêm mưa).Tưởng chừng Huy Cận phải đội trên đầu cả vòm
"Trời nặng nặng" mà nghe "Ta buồn buồn", rồi thơ thẩn đi
hết cõi "Lửa thiêng", để nghe trọn vẹn trong hư không :" Những
chân xa vắng dặm mòn lẻ loi", "Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ ".
Huy Cận gom mình về thành quách xưa mà cô đơn một thuở với trời đất; tuy ông
vẫn để ngỏ các cửa thành cho gió ngàn năm bơ phờ cư ngụ :" Gió về,
lòng rộng không che". Thổi hiu hiu, thổi u u trong lục bát Huy Cận loài
gió hạc vàng, gió tùng bách, gió khói sóng. Những hồn gió liêu trai từng thổi
qua Đường thi, Tống thi, thổi qua sao Khuê ở ẩn Nguyễn Trãi, qua vầng trăng xẻ
nửa Nguyễn Du mà thành bờ "lau thưa" Huy Cận:
"Buồn veo theo gió bên hồ
Đèo cao quán chật, bến đò lau thưa
Đồn xa quằn quại bóng cờ
Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về
Ngàn năm sực tỉnh, lê thê
Nhà ẩn sĩ của nỗi buồn xưa để tâm hồn mình trôi qua hai bờ
lục bát như bóng cờ kia quằn quại trôi qua đôi bờ trời chiều và " Thành
son nhạt", càng trôi càng sững lại, càng phải vật vã với gió mà níu lấy
hồn xưa ngơ ngẩn. Phải chăng tinh thần của "Lửa thiêng " là tinh thần
của lá cờ quá vãng ăn toàn gió xưa mà tồn tại, mà nghi ngút khói mây :"Phất
phơ buồn tự thời xưa thổi về " ? Huy Cận mang hồn Nguyễn Du để làm
nên giọng điệu lục bát rất riêng, rất mới của mình như bài
"Thu rừng " sau đây:
"...Nai cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về
Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi lá rụng cành nghe lạnh lùng..."
Hai cặp lục bát trên đều đi nhịp đôi khe khẽ, rón rén, thi
thoảng, theo kiểu cứ một bước sương lại một bước khói, như trời thu theo nai
xuống núi, theo "chim đi" vì không nỡ bay sợ làm động vỡ hồn thu.
Huy Cận mượn bút vẽ Tề Bạch Thạch mà vẽ bức thuỷ mặc lục bát "Thu rừng"
có một không hai. Chỉ thấy nai, thấy chim, thấy sắc trời, thấy lá rụng, tuyệt
nhiên không thấy người đâu, mà không đâu không ám ảnh hồn người. Cảm giác, ấn
tượng của những câu thơ trên mạnh tới nỗi rùng mình, người đọc chợt được hòa
tan vào từng câu chữ, khiến bài thơ như chợt vượt ra ngoài trang giấy
mà hóa vô biên thu, hóa vô tận rừng, hóa mênh mông hồn thu Huy Cận.
Nói đến lục bát Huy Cận, không thể không nhắc tới
"Ngậm ngùi". Bài "Ngậm ngùi " tuy không tuyệt bích như
các bài "Thu rừng", "Đẹp xưa", "Buồn xưa",
"Buồn đêm mưa"; nhưng nó mang yếu tố mới của thơ
tình, trước đó thơ ta chưa có chuyện người đàn ông "hầu quạt"
ru người con gái ngủ. Bài thơ mang được phẩm chất sầu mộng của thời đại, được
phổ nhạc thành bài hát rất hay, rất quen thuộc nên người ta dễ nhớ hơn những
vần lục bát thần diệu trên. Thơ thất ngôn Huy Cận đạt tới tuyệt đỉnh với
"Tràng Giang", với nỗi buồn hoài cổ tầng tầng lớp lớp sóng, lớp lớp
mây tâm trạng, như thể nhà thơ đã kéo dài mạch chảy của những dòng sông thi
ca Vương Bột, Thôi Hiệu ..., những dòng sông thi ca "Trông vời trời nước
mênh mang" Nguyễn Du xưa mà trải hồn mình ra nghìn dặm xưa sau. Huy Cận
là nỗi buồn tiếp nối ông cha :"Vạn lý sầu lên núi tiếp mây", như thể
ngàn xưa còn vọng mãi nỗi niềm rơm rớm nắng mưa nay :"Nắng đã xế về bên
xứ bạn / Chiều mưa trên bãi nước sông đầy"(Vạn lý tình). Hãy đọc thất
ngôn Huy Cận lên để nghe không gian chùng xuống đến tận cùng dây tơ thời gian
:" Ôi ! nắng vàng sao mà nhớ nhung / Có ai đàn lẻ để tơ chùng ?"(Nhớ hờ).
Huy Cận với "Lửa thiêng" còn ở bên trời "đàn
lẻ", là nỗi buồn xưa, hồn xưa lưu lạc tới hôm nay vẻ hiu hắt, ngậm ngùi
kiếp người. Ông mang đến cho thi đàn một nỗi buồn đẹp như quê hương, như nước
mắt trời xanh. Hình như sự vĩnh cửu từng níu lấy áo Huy Cận mà kéo ông về bất
tử thi ca ngay từ thuở vừa ngoài tuổi đôi mươi. "Lửa thiêng " có lẽ là
tập thơ toàn bích nhất trong các tập thơ ra đời từ 1932-1945 trong
phong trào Thơ Mới ? Cây cổ thụ Huy Cận sẽ còn xanh tươi mãi trong vườn thơ
dân tộc như câu thơ ông từng viết trong bài "Họa điệu":"Cây
không đi mà tình cũng nghiêng nghiêng".
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét