Bài
thơ “Quê Hương” của Giang Nam
Nhà thơ Giang Nam tên thật
là Nguyễn Sung, sinh năm 1929, tại Ninh Hòa (Khánh Hòa). Các tác phẩm tiêu biểu
như: Tháng Tám ngày mai (1962), Quê hương (1965), Người
anh hùng Đồng Tháp (1969), Vầng sáng phía chân trời (NXB Văn học
Giải phóng TP.HCM 1975), Hạnh phúc từ nay (NXB Tác phẩm mới Hà Nội
1978), Thành phố chưa dừng chân (NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1985), Rút
từ sổ tay chiến tranh (truyện ngắn và ký, NXB Văn nghệ TP.HCM 1987), trường
ca Sông Dinh mùa trăng khuyết…
Trải qua mấy chục năm hoạt động
cách mạng và thơ ca, ông được trao một số giải thưởng cao quý như: Giải ba về
truyện ngắn của báo Thống Nhất năm 1960, Giải nhì về thơ tạp chí Văn Nghệ năm
1961, Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Giang Nam
Quê Hương
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến
trường
Yêu quê hương qua từng trang
sách nhỏ
“Ai bảo chăn trâu là khổ?”
Tôi mơ màng nghe chim hót
trên cao
Những ngày trốn học
Mẹ bắt được
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích…
Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ, tôi đi
Cô bé nhà bên (có ai ngờ)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương quá đi
thôi)
Giữa cuộc hành quân không
nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu
nhìn lại
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm
mãi…
Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía,
luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa
Vẫn khúc khích cười khi tôi
hỏi nhỏ
Chuyện chồng con (khó nói lắm
anh ơi!)
Tôi nắm bày tay nhỏ nhắn ngậm
ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi
nóng bỏng
Không tin được dù đó là sự
thật
Giặc bắn em rồi, quăng mất
xác
Chỉ vì em là du kích em ơi!
Đau xé lòng tôi, chết nửa
con người…
Xưa quê hương vì có chim, có
bướm
Có những ngày trốn học vị
đòn, roi
Nay yêu quê hương vì trong từng
nắm đất
Có một phần xương thịt của
em tôi.
Nguồn trích dẫn bài thơ
“ Thơ Việt nam 1945-1975”
Chúng
tôi xin cung cấp thêm một số tư liệu mang tính “bếp núc” xung quanh bài
thơ này để bạn đọc thêm thông tin; đặc biệt thông tin về xuất xứ bài
thơ.
1. Bài thơ Quê hương chính
là bài thơ đã đạt giải nhì về thơ của Tạp chí Văn nghệ. Theo Hoài
Thanh, người có mặt trong BGK cho biết thì lẽ ra bài thơ đạt giải
nhất, nhưng lại có quan điểm không cho giải, hoặc chỉ khuyến khích vì
bài thơ dù hay, nhưng bi luỵ không cổ vũ được phong trào chiến đấu giải
phóng miền Nam lúc ấy. Cuối cùng, sau tranh luận mãi và BGK quyết
định giải pháp trung dung, trao tặng giải nhì cho tác phẩm này.
2. Nhân vật “cô bé nhà
bên” là nhân vật có thật và không chết như trong bài thơ. Đó chính là
phu nhân của nhà thơ Bà Phạm Thị Triều, nguyên mẫu của “cô bé nhà bên”.
Trước đây trong hgoatj động cách mạng ông bà yêu nhau một thời gian khá
dài, khi ông có tên trong đoàn sĩ quan liên bộ đình chiến vừa thành lập sắp
lên đường ra Bình Định tập trung để chuẩn bị cho việc ký kết Hiệp định Genevơ;
tổ chức mới gợi ý để ông bà làm đám cưới. Ở với nhau được hai đêm thì ông lên
đường ra vùng tự do, Bà từ căn cứ sinh cô con gái và trở về Nha Trang hoạt động.
Năm 1959.trong một đêm, địch ập vào bắt mẹ con bà giải đi, dù lúc đó đứa con
gái đầu còn đỏ hỏn.
Theo lời kể của nhà thơ,
cũng vào một buổi tối của năm 1960, ông được cấp trên thăm hỏi động
viên rồi thông báo tin dữ: vợ và con gái ông đã bị địch giết hại trong nhà tù
Phú Lợi, Sài Gòn.
Đau đớn đến bàng hoàng, ngay
đêm hôm đó, tại căn cứ bí mật của Tỉnh ủy Khánh Hoà đóng dưới chân núi Hòn Dù
phía tây thành phố Nha Trang, bên ngọn đèn thắp bằng nhựa cây, trong xúc cảm của
niềm đau đớn tột cùng ông đã viết nên bài thơ “Quê hương” như vẽ nên một sự thật
đau xót: Giặc bắn em rồi quăng mất xác. Chỉ vì em là du kích em ơi. Đau xé lòng
anh chết nửa con người… Sau này bài thơ đoạt giải nhì giải thưởng thơ năm
1960-1961 của Tạp chí Văn nghệ và đã trở thành một dấu mốc trong cuộc đời ông.
Nhưng năm 1962, sau 3 năm bị
bắt, vợ và con gái được thả về do không tìm ra căn cứ kết tội. Sau giải
phóng 1975, ông bà sống bên nhau trong căn nhà nhỏ số 46, đường Yersin, thành
phố Nha Trang. Và bà đã ra đi mãi mãi vào tháng 4-2013 ở
tuổi 82. Còn nhà thơ đã 83 tuổi nhưng vẫn cặm cụi đánh vật với chữ
nghĩa, những hội thảo văn chương, những trang hồi ký viết dở…
Nguyễn Đình Minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét