Thứ Năm, 17 tháng 3, 2016

Cách dùng tiếng "đâu" trong Truyện Kiều - Nguyễn Hiến Lê

Cách dùng tiếng "đâu" 
trong Truyện Kiều - Nguyễn Hiến Lê
Ngoài giá trị vô song về mặt văn học, truyện Kiều còn có một giá trị rất lớn về ngôn ngữ học mà chúng ta mới nhận chân và bắt đầu khai thác từ mấy chục năm nay. Khi soạn bộ Tự Điển V.N. và ngữ pháp V.N., muốn qui định ý nghĩa của những hư từ, bán hư từ, ta phải dẫn văn thơ cổ nhân làm tỉ dụ, mà trong những áng văn thơ nôm còn lưu truyền tới nay, truyện Kiều có giá trị nhất về cả hai phương diện lượng và phẩm: lượng vì nó vừa dài lại vừa tả nhiều tình tiết, cảnh ngộ, cảnh vật, do đó giúp ta được nhiều tỉ dụ[1]; phẩm vì cách dùng tiếng của Nguyễn Du đúng hơn hết mà lời của ông lại có giọng bình dị, không chịu ảnh hưởng quá nhiều của Trung Hoa như Hoa Tiên hoặc Cung Oán ngâm khúc.
Hội Khai Trí Tiến Đức đã nhận thấy như vậy nên trong bộ Việt Nam tự điển đã trích nhiều câu trong truyện Kiều để dẫn vào phần Văn liệu. Nhưng có lẽ vì thiếu người, thiếu tiền, Hội chỉ mới kịp sơ thảo thôi, hình như nhớ đâu trích dẫn đó, hoặc không lục soát kĩ để tìm đủ các nghĩa và cách dùng của mỗi tiếng.
Theo chỗ chúng tôi biết, người đầu tiên có công lục soát ấy là Phan Khôi. Trong cuốn Việt ngữ nghiên cứu (Nhà xuất bản Văn nghệ, 1955), chương “Hư tự trong truyện Kiều”, ông viết:
“Dùng hư tự [2], theo tôi thấy, truyện Kiều của Nguyễn Du dùng đúng hơn hết, ta lấy đó làm gương mẫu. Tôi bèn đọc cả cuốn truyện, gặp mỗi hư tự thì lục riêng từng chữ ra với nhau, có chữ dùng năm ba lần hay mươi, mười lăm lần, có chữ dùng đến năm bảy chục lần. Xong rồi tôi soát đi soát lại từng chữ, qui nạp nó vào một nghĩa hay mấy nghĩa và tìm cái qui luật ứng dụng nó…” (trang 130)
Dùng phương pháp ấy, ông phân tích được ý nghĩa và cách dùng những tiếng: bao, bây, bấy, đâu, dầu, đưa ra được nhiều nhận xét mới mẻ và gợi cho chúng ta suy nghĩ, tìm tòi thêm.
Chính vì đọc chương “Hư tự trong truyện Kiều” đó mà chúng tôi mới có bài viết này. Số là đọc đoạn ông viết về tiếng Đâu, chúng tôi thấy những nhận xét của ông tuy đại khái thì đúng song có chỗ chưa được minh bạch. Nhưng đọc kĩ lại những chỗ lập luận của ông, chúng tôi không tìm ra được cái lẽ vì đâu mà đoạn ấy không làm cho chúng tôi hoàn toàn mãn ý. Rốt cuộc chúng tôi đành bỏ lập luận của ông, đi lại bước đường của ông đã đi, nghĩa là lục hết những tiếng đâu trong truyện Kiều để rán tìm ý nghĩa và cách dùng của nó; và chúng tôi thấy Nguyễn Du đã dùng tiếng ấy khoảng chín chục lần, theo những nghĩa dưới đây:
I. “ĐÂU” diễn tả ý bất định

Trong trường hợp này chỉ gặp độ mười lần trong truyện Kiều:
1. Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào                1170 [3]
2. Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh    2020
3. Dón chân đứng núp độ đâu nửa giờ        1996
4. Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này              406
5. Tiểu thư lại giở những lời đâu đâu          1582
Mấy câu trên là những câu thường, không phải là câu hỏi hoặc câu cảm thán. Trong hai câu đầu, “đâu” trỏ một nơi nào đó. Câu 3 “đợi đâu nửa giờ” nghĩa là đợi khoảng nửa giờ.
Câu 4 “cũng đâu thế này” là cũng đại khái như thế này. Câu “những lời đâu đâu” là những lời bâng quơ, không có căn cứ. Vậy “đâu” hoặc “đâu đâu” trong những tỉ dụ đó có một nghĩa chung là trỏ cái gì bất định.

6. Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy      1517
7. Lạ tai nghe chửa biết đâu                            947
8. Khắp thế giới đâu đâu cũng có chiến tranh (câu này chúng tôi đặt ra, truyện Kiều không dùng “đâu dâu” theo nghĩa khắp mọi nơi như vậy).
Ý nghĩa câu 6 và 7 là phủ định hẳn hòi, mà phủ định là vì có tiếng “chẳng”  (câu 6), tiếng “chửa” (câu 7), còn tiếng “đâu” trong hai câu vẫn chỉ có cái nghĩa không xác định (indéterminé): (chẳng) đi đâu = (chẳng) vì một lẽ nào; (chửa) biết đâu = (chửa) biết điều này hay điều khác. Rõ ràng nhất là câu 8 diễn ý khẳng định, “đâu đâu” nghĩa là nơi này hay nơi khác = ở mọi nơi.
So sánh hai tỉ dụ này:
a- đi đâu cũng gặp nó
b- không tìm đâu ra nó,

thì ta thấy “đâu” vì có nghĩa là khắp nơi, nên ở trong một câu khẳng định (a) thì làm sao cho ý khẳng định mạnh lên, mà ở trong một câu phủ định (b) thì làm cho ý phủ định mạnh lên; chứ bản chất nó, trong trường hợp [4] này, không có nghĩa khẳng định mà cũng không có nghĩa phủ định, chỉ có nghĩa là nơi này hay nơi khác, là khắp nơi, rốt cuộc cũng là cái nghĩa bất định
II. “ĐÂU” dùng trong một câu hỏi, nghĩa là: ở chỗ nào?
Tỉ dụ:
1. Hỏi rằng “Này khúc ở đâu?”                  2573
2. Nàng trong khê các đâu mà đến đây?    296
3. Phận tôi đành vậy, vốn người ở đâu?   1147
Trong truyện Kiều chúng tôi thấy có năm, sáu tiếng “đâu” dùng theo nghĩa đó. Câu 2 “đâu mà đến đây” = ở đâu đến đây: lược trạng từ ở. Câu 3 “vốn người ở đâu”, “đâu” từ cái nghĩa ở chỗ nào? chuyển ra cái nghĩa để làm gì? như ta thường nói: “Túi khôn của anh để đâu?” = để làm gì mà không đem ra dùng? “Đâu” trong trường hợp này đều đi với một động từ.
III. “ĐÂU” dùng trong một câu vừa có ý hỏi vừa có ý phủ định mà ý phủ định lấn ý hỏi.
Trường hợp này dùng nhiều nhất, trên bốn chục lần. “Đâu” cũng đi với một trạng từ [5] thường là đứng sau, cũng có khi đứng trước mà không phải là do sự bó buộc vì luật bằng trắc trong thơ.
a- Đứng sau trạng từ (trên ba chục lần)
Tỉ dụ:
1. Còn tình đâu nữa, là thù đấy thôi            3156
2. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?    1244
3. Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa!             336
4. Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu!      262
Trong những câu đó, ý hỏi đã rất nhẹ, gần như chỉ còn ý phủ định: Còn tình đâu nữa = không còn tình nữa; cảnh có vui đâu = cảnh không vui; trẻ thơ đã biết đâu = trẻ thơ không biết gì; thấy gì nữa đâu = không thấy gì nữa.
Câu 2 có ý hỏi mạnh hơn ba câu kia là vì có thêm tiếng “bao giờ”; bỏ tiếng này đi thì ý hỏi sẽ chỉ còn rất nhẹ, mà để nó thì ý hỏi cũng chỉ ngang ý phủ định thôi.
Chính vì ý phủ định lấn ý hỏi, nên cuối những câu 1, 3, 4 ta không nên đáng dấu hỏi (?) mà nên đánh dấu cảm thán (!). Ngay như câu 2, đánh dấu cảm thán cũng vẫn được
Tuy nhiên ý hỏi không phải là mất hẳn, mà hỏi thì có nghĩa là nghi ngờ, cho nên những câu đó không phủ định mạnh bằng những câu dùng tiếng “không”, chẳng hạn: không còn tình nữa; người buồn cảnh cũng không vui; trẻ thơ không biết gì; không trông thấy gì nữa.
So sánh với Hoa ngữ, chúng ta thấy rằng câu “Quỉ thần an năng tri thử sự” xây dựng cũng y như câu “Quỉ thần không biết được việc đó” của ta. Về điểm ấy, hai ngữ pháp giống nhau.
b. Đứng trước trạng từ (chúng tôi chỉ đếm được bốn lần, có thể còn bỏ sót, nhưng dù sao, trường hợp này cũng hiếm).
1. Nguyên người quanh quất đâu xa           147
2. Cũng người một hội một thuyền đâu xa   202
3. Tin xuân đâu dễ đi về cho năng                368
4. Nhân duyên đâu lại còn mong[6]             1927
Cũng như trường hợp nêu trên (đứng sau trạng từ), ý phủ định lấn hẳn ý hỏi: đâu xa: không xa; đâu dễ = không dễ; đâu lại còn mong = không còn mong.
Đặt tiếng “đâu” trước trạng từ như vậy, không phải là muốn trọng luật bằng trắc, vì trong lời nói hằng ngày, chúng ta thường nghe: Tôi đâu muốn vậy - việc đó đâu phải dễ - Đâu có xa gì…
Ý phủ định trong trường hợp (b) này hình như có mạnh hơn trong trường hợp (a) một chút.
Tựu trung về ý nghĩa, trường hợp này cũng như trường hợp trên: “đâu” từ cái ý bất định biến ra ý hỏi, rồi biến lần nữa, thành ý phủ định. Luật đó chúng ta có thể kiểm soát được: tìm những câu tạo như những tỉ dụ trên (nghĩa là dùng tiếng “đâu” có ý hỏi mà như phủ định), nhưng có thêm một tiếng phủ định nữa, xem nghĩa có hóa ra khẳng định không, vì hai phủ định thành một khẳng định.
Trong truyện Kiều chúng tôi kiếm được hai câu (có thể chúng tôi bỏ sót vài ba câu thôi, chứ không nhiều), xin chép lại đây:
1. Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh?    158
                       (= phải biết chứ)
2. Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?          444
                       (= sẽ là chiêm bao)
Hai câu ấy đều có ý khẳng định cả. Tất nhiên, tùy cách cấu tạo của mỗi câu, tùy những tiếng trong câu, mà cái ý khẳng định, câu 1 còn chứa thêm ý trách móc; câu 2 diễn thêm ý nghi ngờ, tuy khẳng định nhưng chỉ có thể là chiêm bao thôi, chứ không nhất định là chiêm bao, vì trong câu dùng tiếng “biết đâu” mà tiếng này trỏ sự phỏng đoán (biết đâu = biết đâu chừng). Ta thấy câu 2 tạo thêm một ngữ pháp giống với Trung Hoa. Chẳng hạn câu: “Tái ông thất mã, an tri phi phúc” cũng dùng tiếng “an tri” tương đương với “biết đâu” và cũng dùng tiếng “phi” tương đương với “chẳng”, mà dịch câu đó ra tiếng Việt, ta phải nói: “Ông lão ở biên cương mất ngựa, biết đâu chẳng là phúc”.
Vậy ta có thể tin rằng luật nêu trên là đúng: ý hỏi biến ra ý phủ định.
Ngược lại, chúng tôi còn thấy ý phủ định và ý bất định dùng trong câu hỏi. Những tiếngkhông, chẳng, chưa, vốn là những tiếng phủ định:
Nó không ăn
Nó chẳng uống
Nó chưa làm

rồi lần lần biến ra ý hỏi:
Nó ăn hay không ăn? -> Nó ăn hay không? -> Nó ăn không?
Nó uống hay chẳng uống? -> Nó uống hay chẳng? -> Nó uống chăng [7]?
Nó làm hay chưa làm? -> Nó làm hay chưa? -> Nó làm chưa?
Thì ra có một liên lạc mật thiết giữa ý hỏi và ý phủ định: hỏi thành phủ định, phủ định thành hỏi; hai ý đó chuyển lẫn cho nhau và chúng ta có thể viết: hỏi ∞ phủ định.
IV. “ĐÂU” dùng với một ý hỏi rất nhẹ, nhất là với ý gần như hoang mang, ngạc nhiên, cảm thán. Dùng như vậy, “đâu” thường biểu thị nhiều tình cảm.
Trường hợp này rất thường gặp trong truyện Kiều, trên ba chục lần; có một điểm giúp ta phân biệt được với trường hợp III là tiếng “đâu” không đi với một trạng từ mà thường đi với một thể từ (nom).
Tỉ dụ:
1. Duyên đâu chưa kịp một lần trao tơ               540
2. Gió đâu dịch bức mành mành                        213
3. Khúc đâu Hán, Sở chiến trường                    473
4. Kiệu hoa đâu đã đến ngoài                            778
5. Người đâu gặp gỡ làm chi?                           181
6. Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi      2169
7. Thoát đâu thấy một tiểu kiều                          187
8. Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay              120
Những câu trích ấy tuyệt nhiên không có nghĩa phủ định, có thể là hàm ý một chút cái nghĩa hỏi, nhưng là ngạc nhiên mà hỏi, hay hoang mang mà hỏi. Câu 1 diễn cái ý chua xót; câu 2 trỏ cái ý hơi ngạc nhiên; câu 3, 4 có giọng cảm thán; câu 5 có nghĩa hỏi nhưng nghĩa ấy do bốn tiếng cuối “gặp gỡ mà chi”, còn tiếng “đâu” cũng như ở câu 1 thôi; ba câu cuối khác hẳn với những câu trên, “đâu” đi với “bỗng, thoắt, phút”, chỉ còn diễn cái ý ngạc nhiên.
Tới đây, ta có thể bổ túc luật ở đoạn III: tiếng “đâu” trỏ một ý bất định, đã biến nghĩa, diễn cái ý hỏi rồi ý phủ định, sau cùng lại biến một lần nữa, diễn cái ý ngạc nhiên, cảm thán, và ta có thể viết:
Chúng tôi còn nhận thấy luật đó chỉ đúng với tiếng đâu, mà còn đúng cả với những tiếng khác cũng trỏ một ý bất định, như ai, chi, gì, nào, sao. Chúng tôi xin dẫn chứng:
a. Ý bất định:
1. Ai có thân nấy lo, ai có bò nấy giữ           (tục ngữ)
                 (Ai = không trỏ người nào)
2. Làm chi cũng chẳng làm chi                    (tục ngữ)
3. Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao
                 (chi và gì = bất kì cái gì)
4. Muốn cách nào cũng được (= bất kì cách nào)
5. Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi              1274
                 (= làm bất kì cách nào cho sỉ nhục…)
b. Ý hỏi:
1. Nào người tích lục tham hồng là ai?                90
2. Vào luồn ra cuối, công hầu làm chi?            2468
3. Nhà huyên chợt tỉnh hỏi “Cơn cớ gì?”            224
4. Mặc lòng nghĩ lấy, muốn xin bề nào?           2546
5. Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên                2600
c. Ý phủ định nhiều hơn ý hỏi:
1. Một cây[8] một buộc, ai giằng cho ra?            1288
          (= không ai giằng cho ra)
2. Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình            1542
          (= không tốt)
3. Thiệt đây mà có ích gì đến ai?                         340
          (= không ích gì)
4. Nỗi gần nào biết đường xa thế này?              1790
          (= không biết)
5. Còn mang lấy kiếp má hồng được sao?          798
          (= không được)
Trong trường hợp (c) này, nếu dùng thêm một tiếng phủ định nữa thì hóa ra khẳng định (cũng như trường hợp III của tiếng đâu); tỉ dụ:
1. Ai mà chẳng hiểu điều đó? (= ai cũng hiểu)
2. Làm chi mà chẳng được (= làm gì cũng được)
3. Anh bảo gì mà nó chẳng nghe?  (= bảo gì thì nó cũng nghe)
4. Vẻ nào chẳng mặn, nét nào chẳng ưa?      1282
         (= vẻ nào cũng mặn, vẻ nào cũng ưa)
5. Nghĩ mình chẳng hổ mình sao?                   3103
         (= thật hổ mình)
d. Diễn một cảm thán:
1. Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay!                  326
         (ý mừng và cảm động)
2. Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây                 282
         (ý mừng)
3. Những mình nào biết ý xuân là gì?              1240
         (ý buồn tủi)
4. Nào hay con tạo trêu ngươi   (Cung oán)
         (ý buồn và tức)
5. Còn nhiều nợ lắm sao mà thác cho!            1269
         (ý than thở)

Nguyễn Hiến Lê
Theo http://www.maxreading.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XXXXXXThơ 1-2-3, thể thơ độc đáo của nghệ thuật ngôn từ đương đại

Thơ 1-2-3, thể thơ độc đáo của nghệ thuật ngôn từ đương đại Bảo Bình là nhà giáo, nhà thơ, nhà nghiên cứu giảng dạy ở Trường Cao đẳng cộng...