Có lẽ khi quân Nam Chiếu chiếm
Giao châu thành Đại La mới được xây cất hoặc tu bổ (đầu tk IX) bên tay phải
sông Hồng, như vậy phòng ngự vững hơn vì giặc muốn vây thành phải qua sông. Khi
Cao Biền dẹp được quân Nam Chiếu (865), cho đắp thành Đại La cao rộng hơn nhiều, sau này thành Thăng Long do sư Vạn Hạnh kiến nghị cũng nằm ở khu vực Đại La.
Cao Biền vừa làm tướng vừa là nhà phong thủy nên việc lựa chọn Đại La làm trị sở
phải vừa mang lợi điểm chiến lược, vừa mang ưu thế phong thủy. Đất Đại La-Thăng
Long bên bờ sông Hồng lại có sông Tô Lịch bao quanh (Cao Biền cho khơi lại
sông Tô Ḷich), lấy Tây Hồ làm não bộ, mạn xa một bên ba ngọn Tản Viên, một
bên ba ngọn Tam Đảo, đều làm án bảo vệ kinh thành, sau này núi Nùng được đắp
lên trong khu hoàng thành với mục đích tụ khí mạch, nhưng có người cho tên núi
Nùng là núi Tản Viên. Khi Hoàng Phúc theo quân Minh sang cũng phải nhận đấy là
thế đất "La thành bất loạn". Quốc đô Thăng Long thế
đất " Phượng chủy, long bàn " tức mỏ phương mình rồng, có
thần hoàng Bạch Mã tức thần núi Nùng (núi Long Đỗ) phù trợ, tương
truyền núi có khe thông xuống đất sâu tiếp nhận khí thiêng trời đất hội tụ,
cung điện nhà Lý được xây trên núi này.
Thời
thuộc Minh, nhà phong thuỷ cừ khôi Tầu là Hoàng Phúc khi sang đất Việt khoảng
1407-1427, đã mang theo cuốn Địa Lý của Cao Biền đời Đường để làm bản đồ nghiên
cứu phong thuỷ nước ta. Thời xưa, sách Địa Lý đúng là một tài liệu quân sự, ghi
rõ hình thể sông, núi, đồi, gò, cao điểm, hạ lưu, mạch núi, thời tiết...nên
Hoàng Phúc đã tới những linh địa mà Cao Biền ghi nhận. Một trong những linh địa
ấy là Tam Đảo gần đền Hùng. Núi Tam Đảo gồm ba ngọn cao thẳng đột khởi gần như
đối xứng với ba ngọn Ba Vì (Tản Viên) bên kia sông Hồng, hợp với Thăng Long,
thành ba đỉnh tam giác đều. Tam Đảo tay long, cao hơn Ba Vì 300 mét (1591m) với
ngọn cao nhất là Phù Nghĩa, ngọn giữa cao vót gọi là Kim Thiên hay Thạch Bàn có
bia Cao Biền dựng, ngọn bên tả là Thiên Thị. Trên đỉnh núi có ngôi chùa Đồng
đúc toàn bằng đồng rất cổ, sườn núi có chùa đá khắc chữ Địa Ngục Tự, suối nước
vàng chói từ khe cửa chảy ra nhập vào suối Giải Oan. Trên tầng núi
khá cao, khoảng 3 dặm, có một khoảng đất bằng phẳng, với ba nền đất dài, tám
phiến đá vuông và một tấm bia lớn khắc vỏn vẹn bốn chữ lớn "La
Thành Bất Loạn" bên cạnh có dòng chữ nhỏ "Minh Thượng
Thư Hoàng Phúc cẩn đề".
Cả
Cao Biền lẫn Hoàng Phúc, hai danh thủ Phong thủy Trung Hoa, cách nhau hơn 500
năm đều dựng bia ở Tam Đảo, vậy có thể suy diễn là về phương diện địa lý hẳn
nơi đây kết long mạch đặc biệt. Điều này tác giả Vũ Trung Tùy Bút, Phạm Đình Hổ,
từ thế kỷ XVIII đã luận giải như sau:
" ...Mạch
núi Côn Lôn chạy vào (Trung Hoa ) chia làm ba cán Long: một đằng theo sông Hoàng
Hà chạy về phía Bắc,... một đằng theo núi Mân Sơn chạy về phía Đông,...một
đằng theo sông Hắc Thủy chạy về phía Nam...phía Đông sông Hắc Thủy là những
tỉnh Vân Nam, Quí Châu, Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây và Lão Qua kéo dài tới tận
núi Tiểu Côn Lôn lại biệt lập một chi thiếu tô, Chi này chạy sang nước
ta lại chia làm ba:
- Chi
bên hữu chạy qua sông Đà Giang là những tỉnh Hưng Hóa, Sơn tây, Sơn Nam, rồi
chạy vào Nghệ An, Thanh Hóa, cho đến Thuận, Quảng thì tản ra các cù lao gần biển...
- Chi
bên tả thì qua Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Yên rồi qua đến biển
là Hồng Đàm, đảo Đại Nhân...
- Chi
giữa tự núi Tam Đảo trở xuống, mênh mông liên tiếp thành ra những tỉnh
Thái Nguyên, Kinh Bắc, Trung Đô, Hải Dương, Sơn Nam ... " (
tr. 46-47 ).
Tác
giả kết luận "Địa thế nước ta, toàn thể giống Trung Hoa,
chỉ có nhỏ hơn mà thôi ".
Nhìn
tổng quát như vậy ba ngọn Tam Đảo là chi giữa, làm tổ sơn cho toàn châu thổ Hồng
Hà, là mạch xuất phát đổ khí lực vào Thăng Long, trong khi núi Ba Vì thuộc chi
hữu mà Nguyễn Trãi, tác giả Dư Địa Chí và mọi nhà lý số, đều gọi là tổ sơn của
cả nước.
Chính
vị thế phong thuỷ của đại địa ấy mà vua Lí Thái Tổ, theo lời khuyên của sư Vạn Hạnh
đã nhắm việc chuyển đô về lại trung tâm trời đất, trung tâm dân cư.
CHIẾU RỜI ĐÔ (Thiên Đô Chiếu) của vua Lý Thái Tổ
Ngày dời đô mùa Thu tháng Bảy
Canh Tuất- 1010
Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần rời kinh
Nhà Chu đến vua Thành Vương
cũng rời đô ba lần,
Các vua đời Tam Đại phải đâu
theo í riêng mà tự tiện chuyển đổi, chỉ vì
muốn đóng đô ở nơi trung tâm để mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con
cháu.
Cho nên, trên vâng mệnh Trời,
dưới theo í dân, thấy tiện lợi thì thay đổi, khiến vận nước được lâu dài, phong
tục được phú thịnh.
Thế mà hai nhà Đinh, Lê, lại
theo í riêng tư, coi nhẹ mệnh trời, không biết noi theo Thương, Chu, cứ yên bề ở
nơi quê quán, khiến triều đại không được lâu bền, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao
tổn, muôn vật chẳng thích nghi.
Trẫm rất đau lòng, không thể
không rời đổi.
Thành Đại La là kinh đô cũ của
Cao vương, nằm giữa trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, đã đúng vị
Đông Tây Nam Bắc, lại tiện hướng trước nhìn sông, sau dựa núi, thế đất rộng mà
bằng, cao mà thoáng, dân cư không chịu khổ ngập lụt, mà muôn vật cực kì phong
phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta, chỉ có đất này là thắng địa.
Chính nơi đây tụ hội trọng yếu
bốn phương trời đất
Chốn đế kinh bậc nhất muôn đời,
Trẫm muốn dựa vào thế
đất thuận lợi ấy để định nơi ở, chư khanh nghĩ sao?
Ghi chú: nguyên bản chữ Nho, nhiều bản phiên âm và dịch sang quốc ngữ,
chúng tôi tổng hợp lại. Bài Chiếu cho biết 3 đặc điểm phong thuỷ của mạch đất
Thăng Long:
Trạch thiên địa khu vực chi
trung -nằm giữa trung tâm trời đất.
Đắc long bàn hổ cứ chi
thế -được thế rồng cuốn hổ ngồi
Vạn thế đế vương chi thượng
đô - đất đế vương vạn thế bậc nhất.
RỒNG XUỐNG-RỒNG LÊN-RỒNG
THĂNG HOA
Sau
khí mạch hùng vĩ Trường Sơn, đất nước lại mở ra một đại địa mới với trường
giang Cửu Long làm chủ mạch. Sông Cửu Long dài 4180 cây số, là một trong những
con sông dài nhất thế giới, chảy qua Lào, Miên, Việt 2700 cây. Cùng với Hoàng
Hà và Dương Tử Giang, sông Cửu cũng phát nguyên từ cao nguyên Tây Tạng, mang lại
cho Đông dương một khí mạch tương dương với Trung Hoa. Điểm đặc biệt của dòng
sông này là đổ ra biển theo hướng Đông Nam (giống sông Missippsippi của Hoa Kỳ
), cung Thìn, tượng trưng là rồng, vì thế cổ nhân gọi là Long và Cửu là cực
số thành tượng trưng mức tiến hóa cao tột huyền diệu ( không có nghĩa là 9
cửa sông, tương tự như nói chín tầng mây, cửu trùng đài, chín suối.. ), Cửu
Long từ xưa đã được nhìn bằng nhãn quan phong thủy mà đặt tên, tất là trường mạch
đầy khí lực của Đông Nam Á. Miền núi Tây Ninh (900 m) làm tay long, miền núi
Thất Sơn làm tay hổ, tại hai nơi này chấn phát lên hai giáo phái lớn.
Đất
Saigon Gia Định nằm giữa 4 con sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây, Sông Saigon, Sông
Đồng Nai, bốn dòng sông này chảy ra biển Đông như một vòng cung từ Vũng Tầu tới
Gò Công, là đất kết phát. Nhìn chung, ưu điểm phong thủy địa lý miền Nam là
sông dài, rộng, đất phẳng, triển nở sinh lực, cây cỏ tươi nhuận, nên là đất
lành ít tai ương binh lửa, gọi là Phật địa cũng không ngoa Vì sông
nước êm đềm, núi thấp, nên âm thịnh, vùng Gò Công (đất Giồng Sơn qui)
đã là đất phát vương hậu triều Nguyễn.
ĐẠI THẾ LẠC VIỆT
Có thể kết luận rằng cổ nhân
khi nhìn toàn cảnh phong thuỷ đã viễn kiến ba đại giai đoạn phát huy Lạc Việt
cho con dân Âu Cơ-Lạc Long:
Đại vận Hạ Long, rồng hạ
cánh xuống biển Đông với huyền thoại 50 con lên núi, 50 con xuống biển- lập
quốc.
Đại vận Thăng Long, rồng
gặp mây chấn phát bay cao dựng nước an dân-
Đại vận Cửu Long là
giai đoạn dựa vào xương sống cứng mạnh Trường sơn mà Nam tiến mở mang bờ cõi
theo hướng biển, tới đây đất nước hoàn chỉnh một giải đất dài, Rồng tới cực điểm
(số chín) gọi là Cửu Long, vươn vai thoát bóng đen trùm phủ Trung Hoa, chấn
phát riêng một vòm trời Đông Nam Á vậy.
Kể từ 2010 tới 2012 đại vận
chuyển biến thế giới.
1954-2014 là chu kỳ 60 năm
Việt sử, chuyển sang hội Long Hoa Vạn Xuân Lạc Việt.
(Xin xem rõ chi tiết trong
Việt Sử Siêu Linh xb 1999 LVV)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét