Hà Nội, con thuyền, phù sa
Đôi
khi tôi tự hỏi cái ngày Lý Công Uẩn đến vùng bờ bãi phù sa ven sông Hồng, thấy
những ráng mây vàng như một con rồng bay vút lên, chính ngày đầu tiên ấy ông đã
ngắm con rồng Thăng Long trên mình ngựa hay trên thuyền?
Hình ảnh một
con thuyền có lẽ hợp hơn với người đầu tiên đến chọn đất xây dựng nên Thăng
Long. Không loại trừ sự tô vẽ của người đời rằng ông ngồi hùng dũng trên một thớt
voi hoặc một con ngựa chiến. Nhưng dải đất phù sa nâu đỏ ven dòng sông cũng đỏ
đòi người đến khám phá ra nó phải cưỡi trên một con thuyền đè trên đầu sóng. Những
hồ nước khắp Thăng Long cũng muốn rằng người đầu tiên đến đây phải có một con
thuyền. Phải là thuyền. Mãi đến thời Hồ Quý Ly, như nhà văn Nguyễn Xuân Khánh
miêu tả, cả vùng Thăng Long vẫn còn mênh mông hồ nước. Phương tiện phổ biến và
an toàn vẫn là thuyền. Những con thuyền chập chờn luồn lách trong sương, qua
lau sậy, mang chở trên đấy bao nhiêu nỗi niềm, cả những mưu đồ bá vương.
Phải là thuyền.
Sông dài bãi rộng. Trên bến dưới thuyền. Chài lưới. Canh tác lúa nước. Buôn bán
vùng kẻ chợ. Người ấy cảnh ấy kéo dài ra đến một nghìn năm, đến bây giờ. Người
bây giờ ngồi mà hình dung cứ tự đoan chắc với mình rằng Lý Công Uẩn ngày đầu đến
đây bằng thuyền.
Chắc là thế.
Bằng thuyền.
***
Có lần tôi
ngồi nghe chuyện nhà văn Tô Hoài, cũng là một nhà Hà Nội học trực nghiệm đáng
tin cậy. Nhân chuyện người Hà Nội gốc, ông nói rằng hiếm có lắm, Hà Nội gốc họa
chăng chỉ có mấy anh chàng đánh cá ven sông Tô Lịch.
Ngay như nhà
văn Tô Hoài đấy thôi. Ông vẫn được coi là một nhà văn hiếm hoi người Hà Nội từ
đầu thế kỷ trước còn lại với chúng ta, nhưng mà trước năm 1945 vùng Nghĩa Đô
quê ngoại ông hằng đi về vẫn còn thuộc tỉnh Hà Đông(*). Hà Nội khi ấy chỉ là một
mảnh bé tí của nội thành Hà Nội bây giờ.
Hà Nội gốc
bây giờ tạm chấp nhận tiêu chuẩn có ba đời sinh ra ở Hà Nội. Ông nội tôi sinh
ra ở đây, cha tôi sinh ra ở nơi đây, tôi nữa cũng sinh ra ở nơi đây. Thế thì
tôi là người Hà Nội, cho dù những năm chiến tranh ly tán, cha mẹ tôi có phải bỏ
Hà Nội dắt dìu nhau đi kháng chiến chống Pháp, cho dù những năm chống Mỹ có phải
bồng bế tôi đi sơ tán về miền quê. Cho dù gốc gác tôi ở Nghệ An, Quảng Bình, Thừa
Thiên, hay từ những tỉnh đồng bằng Bắc bộ không xa. Hay từ những nơi thật xa
Nam bộ.
Nghe thế thì
hiểu rằng người Hà Nội gốc ba đời ở móng chân vẫn còn giắt bùn sông Hồng. Đầu
thế kỷ XX vùng phố cổ bây giờ nước sông Hồng vẫn còn mấp mé liếm vào bến đỗ, rồi
theo thời gian nước mới dùng dằng rút dần ra xa. Người Hà Nội gốc khi ấy vẫn phải
làm nghề chài lưới. Bà buôn vẫn phải lăn xả xuống bến lội bùn lấy hàng lên. Ông
đồ ông ký sao cũng có lúc phải lội nước trèo lên thuyền hoặc lội qua bãi sông
ngập nước mà về nhà. Hà Nội gốc mà móng chân vẫn giắt bùn là như vậy. Lá ngọc
cành vàng, danh gia vọng tộc thật là một huyễn tưởng mong manh.
Thế thì người
Hà Nội là những ai? Cũng như mọi thủ đô trên thế giới này thôi. Chưa đến London
cứ tưởng người London nói tiếng Anh theo kiểu thủ đô rất chuẩn. Chưa đến Paris
cứ tưởng người Paris chỉ toàn người sinh trưởng ở thủ đô hoa lệ. Những đô thị ở
nước Mỹ thì không phải nói, New York, Chicago, San Francisco, Los Angeles… Tất
cả đều là những tụ điểm tập hợp dân tứ chiếng hay người tứ xứ cũng vậy. Khó mà
tìm ra ở họ một mẫu số chung.
Hà Nội có lẽ
cũng vậy thôi. Gốc gác ba đời ít ỏi đã nói ở trên. Đa số người Hà Nội bây giờ
là “ngoại kiều”. Những Thanh kiều, Nghệ kiều từ miền Trung ra. Từ Hải Phòng,
Nam Định, Hải Dương, Thái Bình lên. Từ phương Nam tập kết đến. Tinh hoa gốc rễ
hun đúc ở đây. Tinh hoa từ mọi miền mang đến, giao kết hợp chủng mà tạo nên người
Hà Nội. Lâu dần cứ cái gì thanh lịch, hào hoa, cao nhã, tinh tế… thì mặc nhiên
đều được coi là của người Hà Nội. Chẳng cần phải rạch ròi phân định “của tôi trả
tôi” làm gì.
Người Hà Nội
là người sống trên dải đất ven sông Hồng. Người Hà Nội cũng là người Việt đến tận
từng phân vuông vậy.
Những nơi đô
thị như Paris, London, New York là nơi quần cư của người tứ xứ. Tiếng Anh tiếng
Pháp đại trà ở những nơi ấy khó mà coi là khuôn vàng thước ngọc. Hà Nội thì
sao? Xu hướng đô thị hóa và quản lý đô thị khá lỏng lẻo mấy chục năm qua cũng
đang làm tiếng Hà Nội có phần nào hỗn độn. Như giao thông. Như nếp sống bày bừa
làng xã đang biến Hà Nội thành một cái làng có đường phố, sự quá tải về số lượng
người nếu không điều tiết sớm, một ngày nào đó người ra vào thành phố hàng ngày
biết đâu cũng bị hạn chế như phải đăng ký xe máy hôm nay.
Còn nhớ đầu
thập kỷ 1980 người ta nhận thấy hiện tượng này: những người líu lo “Hà Nội
thanh nịch”, “Hà Lội lên thơ” thuộc hai loại: hoặc là dân
ngoại thành, hoặc là dân chợ giời. Các chàng các nàng chíp chíp kiu kiu trong
vòng bán kính mười lăm kilômét tính từ Bờ Hồ, ban ngày cấy lúa trồng rau trồng
hoa, tối đến huỳnh huỵch đạp xe đến vũ trường, cứ dép lê mũ cối mà đăngxinh. Vừa
nhảy vừa bô bô một thứ tiếng Hà Nội đố nhau xem đó là nờ cao hay nờ
nùn.
Nhưng tại
sao lại là dân chợ giời nữa? Đám thanh niên chúng tôi hồi ấy tự giải thích thế
này: đa số dân chợ giời cũng từ các miền quê mới đổ đến. Ngay cả dân gốc gác
vài đời định cư ở chợ giời cũng quen dần lời ăn tiếng nói kiểu này. Một người
khách mang hàng vào chợ là một con mồi. Cả một toán người ùa đến quây con mồi
vào giữa, mồm năm miệng mười, mua tranh bán cướp. Những kẻ trả giá dìm giá ấy
chỉ là “chân gỗ”, có nhiệm vụ uy hiếp cho con mồi hoang mang nhụt chí. Rốt cuộc
chỉ có một kẻ chủ mưu đứng ra mua giá hời. Đám “chân gỗ” hầu như đều cố tình phạm
lỗi phát âm e lờ en nờ, gây cảm tưởng quê kệch chất phác. Bao nhiêu người đã
phát khóc giữa chợ giời vì cái thứ tiếng “hà lội” quê mùa ngớ ngẩn ấy.
Nhưng bây giờ
có thể coi là Hà Nội đang tràn ngập cái thứ tiếng mà cách đây vài ba chục năm
còn là tiếng ngoại thành, tiếng chợ giời.
Nói như thế
không có nghĩa là ca sĩ ngày nay không còn luyện thanh phát âm nhả chữ theo giọng
Hà Nội. Tiếng Hà Nội vẫn còn đấy. Hồn Việt tiếng Việt vẫn phải nương vào giọng
phát âm Hà Nội để biểu đạt âm thanh ở mức đẹp nhất. Một thứ tiếng trong trẻo,
nhẹ nhõm, nhẹ đến mức phạm luật phát âm, người nghe khó phân biệt xờ với sờ, chờ
với trờ – “xắt xon chung hiếu”, “chương chình xản xuất”. Nhưng cái nhẹ nhõm khiếm
khuyết vẫn được yêu, như người ta yêu cái dịu dàng có phần yếu đuối của thiếu nữ.
Các diễn viên thanh nhạc mọi miền khi hát lên vẫn hát bằng tiếng Hà Nội. Hai tiếng
Hà Nội phát ra đẹp nhất có lẽ là từ giọng soprano Lê Dung khi chị hát Hướng
về Hà Nội của nhạc sĩ Hoàng Dương. Sinh thời Lê Dung nói với đồng nghiệp:
“Tôi không phải là người Hà Nội, chúng ta đây cũng hiếm có ai gốc Hà Nội, nhưng
hai tiếng Hà Nội khi hát lên thì nhất thiết phải sang phải đẹp”.
Đâu phải ai
cũng nghĩ được và làm được như vậy. Ca sĩ đằng trong nếu không nỗ lực một cách
có ý thức thì phát âm vẫn ngòng ngọng, chơn chớt, như Tây nói tiếng ta, như
“Tây Annam nói tiếng Annam”. Khán giả không sành thì lấy làm thích thú cái giọng
phát âm ngồ ngộ “như Tây”. Đến lượt một số ca sĩ sinh trưởng Hà Nội có sẵn giọng
nói trời cho, ảo vọng ăn khách xui họ cũng nắn tiếng méo giọng theo kiểu ca sĩ
Nam hát giọng Bắc. Nghe họ hát mà có cảm giác bị pha tiếng. Sự báng bổ xúc phạm
nhất còn không bằng pha tiếng cơ mà.
Còn nữa, có
một vị chức sắc lên tivi nói: “Hôm nay tôi hoan nghênh các i-em làm
xanh sạch đi-ẹp chi-o thành phố”. Tiếng địa phương mang vào Hà Nội
thì tiếng nào cũng nặng, nhưng nghe một nhà quản lý ở thủ đô “yêu quê hương qua
từng âm tiết nhỏ” như thế, lại ưu tư: giá mà điều chỉnh từ cái nho nhỏ như phát
âm cho dân dễ nghe hơn? Một chính khách đúng nghĩa còn là một diễn viên, một
nhà hùng biện. Nhập gia tùy tục thì đâu có sợ tự làm mất gốc.
Tiếng Hà Nội
không ngừng phát triển, như mọi sinh ngữ khác. Tiếng Hà Nội 1954, tiếng Hà Nội
1975. Hai thứ tiếng ấy vào đến phương Nam có bảo tồn đến mấy cũng không trụ vững
được trước sức xâm nhập của môi trường và sự phát triển của ngôn ngữ. Lạ. Người
Nam bộ tập kết ra Bắc hai mươi mốt năm ít thấy pha tiếng, nhưng người Bắc vào
Nam dăm bảy năm tiếng đã cưng cứng khê khê như giọng Thanh. Lạ nữa. Tiếng Hà Nội
‘54 vào Nam rồi du cư sang Tây sang Mỹ, xa cách thế càng quyết tâm bảo lưu bảo
tồn bảo thủ. Đi khỏi Hà Nội 1954, rời khỏi Sài Gòn 1975, ngôn ngữ sống trong
lòng đôi ba người như một tiêu bản sống chia rẽ chiến tuyến. Một người phiên dịch
trong cộng đồng mở miệng nói: Ngôi nhà này rất hiện đại. Bị chấn chỉnh ngay: Đấy
là nói giọng Cộng, phải nói là: Tòa binđinh tân kỳ. Nói sông núi đẹp tươi
thì bị chỉnh thành ngôn ngữ của nửa thế kỷ trước: non sông cẩm tú… Cố níu giữ
tính chiến tuyến và giai cấp của ngôn ngữ. Còn giọng, nhiều ông bà già Việt Kiều
đến bây giờ vẫn còn nói giọng 1954. Nghe lạ. Buồn cười. Quê quê thế nào. Tên cụ
là Dư, chắc thế, cứ nhất quyết đòi viết đúng trong văn bản là Rư, phát âm cũng
rung bần bật cả lưỡi lên, R-R-R-Ư, ngày xưa nhà cụ ở phố Thợ Ruộm, chứ không phải
Thợ Nhuộm. Nhà văn Tô Hoài cười: Tiếng Hà Nội ngày xưa đấy. Vậy ư? Nhưng tiếng
Hà Nội bây giờ khác rồi: tròn, sáng, trong, vang, sang, nhẹ. Lại vẫn nhà văn Tô
Hoài: Nhưng hơi điệu.
Điệu. Có lẽ
vì véo von ngữ điệu. Lại nhẹ nữa. Tiếng nói càng phát triển lại càng nhẹ nhõm
đi, trong khi thời đại thì ngày càng vạm vỡ, xô bồ. Cái ăn Hà Nội trong văn Vũ
Bằng, Thạch Lam, thanh cảnh tinh tế là vậy, nhưng bây giờ… đến cả các nàng nói
giọng nhẹ nhàng yểu điệu cũng đã có văn hóa ẩm thực khác.
Món ăn Hà Nội
thời nay có lẽ cũng là sản phẩm của một thứ “hợp chủng thị”. Đã dậy mùi sặc sỡ
như Trung. Đã nhiều gừng nhiều ớt như Nam. Đã nhiều sả như Thái, ngọt như Tàu,
gây gây như Ý… Chuyện ở trên, các ca sĩ Hà Nội cố uốn giọng phát âm như ca sĩ
Nam hát giọng Bắc. Chuyện ở đây, ẩm thực mọi miền được tiếp thu dễ dàng. Cả hai
chuyện đều cho thấy người Hà Nội thật cởi mở, thật dễ tiếp thu những gì ở bên
ngoài mình.
Miếng ngon Hà Nội vẫn còn đấy. Nhưng đời sống đô thị chuyển vần
tốc độ chóng mặt, thức ăn khó mà chỉ dành cho thiểu số người ngâm nga nhấm nháp
bên lề dòng chảy. Ăn uống cũng nhanh lên, mạnh lên, hùng hục, quần quật. Nhiều
sáng kiến ẩm thực cho phù hợp thế sự. Bát phở thời bao cấp không phải ai cũng
có tiền mà ăn mỗi tháng một lần, đến độ trí thức không còn nhớ định nghĩa phở
là gì. Vào quán phở chỉ ăn thuần phở thôi cũng đã là một sự kiện. Đôi ba người
phe phẩy, giàu có nhờ buôn bán, gọi thêm vào bát phở quả trứng gà chần, thứ nhất
để tăng lượng prôtit bổ béo, thứ hai để chứng minh đẳng cấp có tiền. Bát phở đẳng
cấp cứ thế mấy chục năm, giờ thành món quen vị quen miệng. Phở trứng. Người
sành ăn thì không sao quen được cái thứ phở giàu xổi tanh tanh ấy. Phở không chịu
dừng lại, mấy bà bán phở còn sáng kiến thả những viên thịt vào bát phở gà phở
bò thành phở tổng hợp, phở mọc. Phở còn đi xa hơn, sang cộng đồng người Việt ở
Âu Mỹ. Món ăn Âu ăn Thái vào Việt Nam phải điều chỉnh thế nào cho vừa miệng dân
ta thì phở Việt Nam ở Paris ở Cali cũng phải biến đổi như thế. Khối lượng cũng
phải tăng lên ngồn ngộn trong những cái bát to như cái chậu. Phở ăn nóng cho đến
thìa nước dùng cuối cùng là điều không thể thực hiện được trong cái bát phở
không còn là bát ô tô mà bát phở xe lửa phở tàu bay.
Các chàng
các nàng yểu điệu bây giờ ăn rau sống là ăn cả cây húng cây kinh giới um tùm
sum suê. Xà lách rau diếp món chính thì ít. Rau thơm ăn hương ăn hoa thì thành
món chính rậm rạp. Trong ẩm thực giá trị cũng bị đảo ngược, bị đánh tráo khái
niệm như cách lập ngôn trong phê bình văn học thời thượng. Ẩm thực thịt vịt thịt
ngan cưỡi lên cả đám giỗ đám cưới. Ban đầu nó được các cô ôsin giúp việc “thế
nào cũng được” hồn nhiên mua bán nấu nướng bày lên. Dần dần nó được các ông bà
chủ nhà “để yên xem sao” quen mắt quen miệng. Lâu lâu sau nó được người Hà Nội
“nhẹ dạ dễ dãi” chính thức cho gia nhập văn hóa ẩm thực thủ đô.
Nói thế biết
thế, nhưng miếng ngon Hà Nội vẫn còn. Trong những người sành, thanh tao. Hiếm lắm.
Nhưng hồn cốt văn hóa bao giờ cũng được bảo tồn nhờ một số ít. Dường như vậy.
Gia phong
trong những nhà số ít ấy giờ đây ngẫm lại thực ra lại mang tính toàn cầu. Trọng
trung hiếu lễ nghĩa. Biết lắng nghe người đối thoại, biết đàm phán và biết thuyết
phục. Không thuyết phục được thì khôn khéo biết để cho đối tượng ra đi trong
danh dự. Ăn thanh tao, mặc thanh lịch, bước đi dáng đứng thanh nhã. Chữ thanh
thường làm đầu. Bao giờ xử sự cũng tự nhiên, tự nhiên như người Hà Nội. Thoải
mái. Tự tin. Không thích kẻ thu mình. Ăn uống không xô bồ hấp tấp nhưng cũng
không cảnh vẻ kiểu cách. Bát cơm bát phở phải ăn bằng hết, không được bỏ thừa một
chút làm phép. Chúng ta ngày ấy được giáo dục bằng chữ thanh, vào đời làm ăn là
ổn. Ra nước ngoài bỡ ngỡ chưa biết rõ tập quán địa phương, chỉ việc xử sự như
cha ông dạy bảo là hòa nhập tự tin được. Hiếm khi bị sốc văn hóa. Hiếm khi bị mặc
cảm mình vụng về quê mùa.
Chữ thanh
đôi khi hiểu thái quá mà thành ra sáo ra sĩ. Sĩ diện. Thời bao cấp có nhà buôn
gian bán lận, cơm gà cá gỏi nhưng rổ rác phải phủ rau vụn lên trên để che xương
cá xương gà, sợ hàng xóm dị nghị. Mốt kín đáo. Thời thuộc Pháp thì trái lại, có
giai thoại người Hà Nội nghèo, trước khi mang sọt rác ra đổ nơi công cộng lại
phải phủ lên trên vài ba cái vỏ trứng. Ra điều ta không nghèo. Mốt sĩ.
Người bốn
phương tụ về, chỉ mượn cái bãi đất sông Hồng mà làm nên Hà Nội. Người ở đâu về
đây lâu, rồi cũng dần dần ra người dễ chan hòa, khoáng đạt. Trong cả nếp nghĩ.
Trong cả nếp sống. Dễ. Thảng hoặc dễ đến mức không kiên quyết bảo vệ điều mình
tin. Nhiều khi dễ, gặp cái gì hơi khó là lảng là chuồn. Thật êm. Dễ thì xơi khó
thì lặn một hơi. Nam chuồn Hà lủi Thái thì bay. Hà ở đây là chỉ người Hà Nội.
Nhưng dễ bên
này dao động sang phía bên kia quả lắc thành ra khó. Người khó thì thật là quyết
liệt. Thời tiết khí hậu không ôn hòa bình ổn như phương Nam. Nóng đến điên người
mà rét có thể chết người. Cư dân chịu tác động khí hậu ấy địa lý ấy nên cũng
không phóng túng sơ giản nồng nhiệt như người phương Nam. Cái kiểu tuẫn tiết của
người anh hùng miền Trung trong thành Hà Nội là đúng kiểu Hà Nội. Ôm bom ba
càng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh dường như cũng là cách chết thật là Hà Nội.
Chết vì tình cũng phải là kiểu lá ngọc cành vàng, là kiểu chết tương tư Tố Tâm
tiểu thuyết. Trong văn chương cái quyết liệt Hà Nội dễ thấy trong khí phách
Nguyễn Trãi. Trong chua xót tận cùng Nguyễn Du. Trong cay chua vẻ ngoài khao
khát bên trong Hồ Xuân Hương. Những người vừa nhắc tên dường như chứng minh cho
một giả thiết dân gian: người Hà Nội thành danh đều phải là kết tinh văn hóa mọi
miền; người tứ xứ, người khu Tư khu Năm muốn thành danh đều phải xa quê mà đến
với Hà Nội. Như thời nay người muốn làm ăn đều phải quy về đầu mối Sài Gòn. Hà
Nội nữa.
Tôi có lần
ra giữa sông Hồng dự một đám tang đặc biệt. Của một nhà thơ. Đặc biệt. Vì mong
muốn cuối cùng của người quá cố là sau khi hỏa táng, di cốt ông được thả xuống
sông Hồng. Hình như mong muốn ấy chỉ có ở một con người thật lãng mạn. Tôi chắc
là ông cũng đã biết nhiều về Phật giáo, Hindu giáo và văn minh Ấn Độ. Người Ấn
từ thượng cổ gắn với những dòng sông lớn. Họ gọi đó là sông thiêng. Sinh ra được
rửa tội trong dòng sông thiêng là may mắn lớn. Cả đời người một lần tắm nước
sông thiêng là được giải thoát. Chết đi thì tro than nhất thiết phải về với
sông. Về với sông tức là về với sông cha đất mẹ.
Chắc là ông
nhà thơ đất Việt kia cũng an nghỉ với giấc mơ lần cuối cùng phiêu du trên dòng
sông Cái màu đỏ. Tôi tuổi tứ tuần vương vấn mãi từ chuyến tiễn đưa trên sông Hồng
hôm ấy. Không có ai được dự đám tang mình. Nhưng dường như tôi đang tiễn đưa
chính mình trong hành trình cuối cùng. Giống như thế. Con cháu tôi sẽ mang cái
bình gốm ấy trên tay ra bờ sông Hồng. Nhúm tro ấy sẽ tan hòa trong dòng nước.
Cũng có thể là một con thuyền giấy sẽ chở nhúm tro tàn ấy trôi một quãng sông Hồng.
Chiếc thuyền giấy sẽ rơi vào một xoáy nước, bị dìm đắm, kết cục tất nhiên cho bất
cứ một con thuyền nào hôm nay vẫn còn thong dong trên sông. Chính ở chỗ chiếc
thuyền giấy buông mình đầu hàng số phận, tôi sẽ li ti lắng xuống cho một lớp
phù sa sẽ tôn lên thành bờ bãi mới. Cũng có thể vào bụng cá, cá thì cũng lại về
với sông cha đất mẹ.
Người mê tín
bảo đừng có hỏa táng. Nóng lắm. Gọi hồn không được. Hồn nào về được cũng đều
kêu nóng lắm. Chẳng hóa ra niềm tin tâm linh của người Ấn khiến họ chẳng có một
linh hồn nào còn lại từ đống tro tàn hỏa táng hay sao? Chẳng hóa ra những người
được mai táng gọi hồn lên không có ai kêu dưới ba thước đất nằm rất lạnh? Bị cả
triệu triệu sâu bọ côn trùng quấy nhiễu? Giấc ngủ nghìn thu có cả cá trê bẹp đầu
sùng sục xông vào?
Người Hà Nội
bây giờ có mê tín hơn xưa? Tiền cho vàng mã khói hương ngày một ngày rằm đã
thành một ngăn dành riêng trong vỏ não? Người Hà Nội ấy có vẻ khó quen với việc
rải tro xương xuống sông Hồng. Thì cũng phải dành lại một phần mộ, một chỗ nho
nhỏ cho con cháu tưởng nhớ. Như thể không có một nấm đất con con thì đời sau sẽ
không còn ký ức. Thì chẳng lẽ lại đem tro đi rải xuống sông, chết là xóa sạch mọi
dấu vết? Như thể còn nhìn thấy một tấm bia thì người chết vẫn còn.
Không, người
có danh lẫn người vô danh khi đến thế gian này đều chỉ là đứa hài nhi vô danh.
Vậy khi ra đi cũng nên vô danh như hài nhi của một vòng đầu thai mới. Cái gì
còn lại đều là cái khó nhìn thấy. Chẳng phải cứ tượng đài bia đá là còn.
Tôi lại vẫn
nghĩ rằng hành trình cuối cùng của Lý Công Uẩn cũng là trên một con thuyền. Sau
đó là dòng sông Hồng. Sau đó là phù sa.
Chú thích:
(*) Nhà
văn Tô Hoài sinh năm 1920 và đã qua đời ngày 6.7.2014 tại Hà Nội.
Hà Nội, 10/6/2003
Hồ Anh Thái
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét