Thứ Năm, 18 tháng 12, 2025

Hà Nội những mùa đa thanh

Hà Nội những mùa đa thanh

Đọc xong tiểu thuyết Hà Nội những mùa cổ điển, tôi tự hỏi tác phẩm thuộc thể loại gì? Với cá nhân tôi, thật khó để xếp loại, lịch sử, tự sự, khảo cứu, hay giả tưởng…

Chuyện “hậu trường” của nhà văn, nghề văn

Xuyên suốt tác phẩm, công việc của nhà văn, chuyện nghề văn được nhà văn Uông Triều phản ánh khá chi tiết thông qua nhân vật Uông kể về việc viết lách của mình, quá trình viết cuốn tiểu thuyết, quan điểm về nghề… Qua đó, tác giả cũng nêu lên thực tế phũ phàng, “Về cơ bản, đa số các nhà văn Việt vẫn chưa thể sống bằng nghề, đa số phải mưu sinh bằng công việc khác”, “Những người viết có chính kiến ít nhiều đều chịu cay đắng. Khái Hưng, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Xuân Khánh đều có những quãng giông bão.” Hay “Làm báo thời nay phải tinh quái thì mới sống được”, “Cuốn sách đầu tay bị sáu nhà xuất bản từ chối và đổi tên bảy lần mới được”, “Không nhớ đã đốt bao nhiêu bản thảo trong lò sưởi phòng làm việc”, “Trong giới nhà văn thì vô số đố kỵ, ghen ghét”. Và trên hết là áp lực từ chính các nhân vật mà nhà văn hướng ngòi bút, như trường hợp của Uông. Nhưng không vì thế mà nhà văn chân chính thôi đam mê hay chấp nhận thỏa hiệp.

Với hình ảnh nhân vật nhà văn Khái Hưng, tác giả bày tỏ quan điểm rõ ràng, “Tao không bao giờ làm theo ý chúng mày, đồ khốn kiếp”, “Cứ viết đi, không phải sợ chúng nó”, cây ba toong của ông phải chăng là hiện thân cho sức mạnh của chính kiến, sự kiên định của nhà văn! Tác giả còn chỉ ra kết cục tất yếu của việc bẻ cong ngòi bút qua nhân vật Đinh Văn Nho, từ một tiến sĩ nghiên cứu lịch sử với những bài viết và quan điểm sắc sảo trở thành cây bút nhàn nhạt vô vị và nhận lấy cái kết bi thảm. Chuyện giới văn nhân còn được phản ánh ở hội nghị Liên đoàn Văn chương, “Sôi nổi chưa từng có của nước Việt”, “Nếu có ai phát biểu dở quá, họ vỗ tay rất to để mời xuống; với những người nghiêm túc thì khán giả lại im lặng, phản ứng của họ nói chung là rất khó đoán và bất ngờ.”

Bên cạnh đó, rất nhiều văn sĩ thời trước lẫn thời nay được nhà văn nhắc đến, từ chuyện ăn uống cầu kỳ thành giai thoại của Tản Đà, Nguyễn Tuân, chuyện của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, đến việc giới thiệu các tác phẩm nổi tiếng, Tiêu Sơn tráng sĩ của Khái Hưng, Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh, Giàn Thiêu của Võ Thị Hảo, Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Tâm sự của nước độc của Nguyễn Tuân… Ngoài thể hiện sự đọc rộng của tác giả còn giúp độc giả có cái nhìn về giới văn nhân một thời.

Bất kể lĩnh vực nào, chuyện hậu trường luôn nhận được nhiều sự quan tâm, đặc biệt trong thế giới văn chương. Nhà văn Uông Triều khai thác rất tốt điều đó khi kể về cách làm việc của tờ Văn hóa lịch sử ở nhà số 4 Lý Nam Đế, cách biên tập viên làm việc với cộng tác viên, với cấp trên, những lúc bị “cạo”, những mâu thuẫn với đồng nghiệp… Qua đó, độc giả biết thêm về cách hoạt động của tờ tạp chí uy tín có tuổi đời gần trăm năm, những buổi họp giao ban, họp đột xuất, cách làm sao để vừa lòng cấp trên mà không giảm chất lượng báo, hay chuyện tế nhị về vị lãnh đạo ngày trước gửi bài không được đăng, thù biên tập viên ghét tờ tạp chí, tìm cách đóng cửa tòa soạn… Để viết lên những điều này, tác giả phải có chính kiến và sự dũng cảm trước búa rìu dư luận.

Khi đọc các nhân vật được mô tả trong nhà số 4, tôi cứ tủm tỉm cười với câu hỏi trong đầu, không biết khi “Mậu, Mai, Châu…” đọc tới đoạn nói về mình thì phản ứng thế nào, đặc biệt cảnh tổng biên tập Hoàng bị con chim ị trên đầu, mỗi lần họp nhìn thấy nó lập tực giơ tay che đầu phòng bị. Liệu tác giả có bị đem ra “xử” như nhà văn Dương Hướng trong “Bến không chồng” hay nhà văn Sương Nguyệt Minh trong “Nỗi đau dòng họ”?

Một Hà Nội sinh động và đậm nét

Lấy bối cảnh Hà Nội, nhà văn Uông Triều tả khá chi tiết về những đặc trưng lịch sử, địa danh nổi tiếng cùng quán xá phố phường, những hàng quán ẩm thực nổi tiếng gắn liền với câu chuyện của nhiều văn nhân như, cà phê Nhân nơi Nguyễn Huy Thiệp thường ngồi cùng nhà thơ dân gian Nguyễn Bảo Sinh, cà phê 54 Hòe Nhai… Đồng thời phản ánh những quan sát của bản thân tác giả, cầu Long Biên là cầu duy nhất ở Hà Nội người ta di chuyển bên tay trái, cách đặt tên đường phố Hà Nội, làm sao để nhận ra một con phố trung tâm…

Nếu ai đã đọc Uông Triều, chắc nhớ hai cuốn tản văn về Hà Nội, mà nhà văn có đề cập trong truyện, thể hiện sự am hiểu và kiến giải về Hà Nội theo cách riêng của tác giả. Về điểm này tôi liên tưởng tới nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên. Anh cũng say mê viết về Đà Lạt, qua những cuốn du khảo, biên khảo, rồi viết cuốn tiểu thuyết Ký ức của ký ức, nhân vật “tôi” là một nhà nghiên cứu tìm kiếm tư liệu về Đà Lạt, có những đoạn tái hiện ký ức về một thời trai trẻ sống ở thành phố sương mù. Có lẽ tình yêu và niềm say mê một vùng đất, khiến cho cả hai tác giả đều thấy chưa “đã”, chưa thỏa mãn mà cần một câu chuyện để giải tỏa hết cảm hứng, trí tưởng tượng của mình. Nhà văn Uông Triều từng nói, “Tiểu thuyết làm được hết thảy những gì mà các thể loại khác chưa hoặc không làm được.”

Khơi gợi những vấn đề lịch sử

Hà Nội những mùa cổ điển có nói về lịch sử nhưng không phải là tiểu thuyết lịch sử. Như nhân vật Uông bộc bạch, anh không viết về lịch sử mà chỉ lấy cảm hứng từ đó.

Tác giả đã khơi gợi sự tò mò của độc giả về các nhân vật và sự kiện lịch sử, thông qua dấu chân cùng những suy nghĩ của hai nhân vật nổi trội một thời. Thú thật, khi đọc đoạn Đinh Văn Nho lấy bút danh Hữu Chỉnh cho bài viết ca ngợi Nguyễn Ánh, trong đầu tôi bật ra câu hỏi, Hữu Chỉnh là ai, có quan hệ gì với hai nhân vật này. Với những gợi mở của tác giả, tôi đã tìm hiểu thêm về ông. Chắc không ít độc giả giống như tôi. Nhà văn khéo léo đặt vấn đề, dẫn dắt để độc giả tìm hiểu, chứ không bê nguyên xi, kể lể những điều biên chép trong sử sách.

Là hai vị vua lừng lẫy một thời, hẳn vị nào cũng quan tâm việc hậu thế nghĩ gì về mình, về đối thủ. Còn những người quan tâm lịch sử, chắc cũng từng nghĩ, nếu hai nhân vật ấy gặp nhau vào thời này, thì cuộc đối đầu giữa họ sẽ ra sao. Bằng trí tưởng tượng cùng khả năng tư duy khác biệt, Uông Triều dẫn độc giả phiêu lưu vào hành trình của nhân vật. Tôi đặc biệt thích cách tác giả xây dựng tính cách hai nhân vật này, dù đã thích nghi với cuộc sống hiện đại, cách hành xử vẫn mang đậm cung cách của bậc quân vương, không cho phép người khác nghĩ xấu về mình, dùng quyền lực để áp chế, buộc người khác làm theo ý, nếu không sẽ trừng phạt.

Thông qua những tranh cãi của các nhà nghiên cứu, tác giả cho độc giả cái nhìn hai chiều để tự có quan điểm riêng. “Người ta không công nhận công trạng của Gia Long, nhưng lại tôn vinh những công trình của ông như Hoàng thành, kinh đô Huế là chưa công bằng”, “Nguyễn Huệ có công đánh giặc ngoại xâm còn Nguyễn Ánh có công thống nhất đất nước nhưng lại mang tội cõng rắn cắn gà nhà”, hoặc những luận bàn về việc trả thù nhà Tây Sơn.

Nhiều chi tiết nhỏ tạo hiệu ứng sâu sắc

Trong một số đoạn, nhà văn không ngại đưa nguyên văn câu, từ chửi tục vào tác phẩm. Đọc những chỗ này, tôi luôn khựng lại một chút. Chắc hẳn độc giả có những trải nghiệm khác nhau khi đọc chúng. Có thể có người ngớ ra, có người bực bội, có người vỗ đùi khoái chí… Xét về việc gây ấn tượng, tác giả đã thành công.

Tôi nhớ nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, một người khá thân thiết với tác giả, là nhà văn tiên phong đưa “cứt” vào văn học, không chỉ một mà nhiều tác phẩm như “Trương Chi”, “Chuyện ông Móng”, “Phẩm Tiết”… không chỉ đưa vào mà ông còn đào xới, cầm lên đặt xuống, mô tả rất cụ thể, kỹ lưỡng về nó. Với nhà văn Uông Triều, chắc hẳn tác giả không ngẫu nhiên khi viết như vậy. Trong bài Bắt đầu cất lên tiếng cười, nhà văn Hồ Anh Thái có viết “Tôi biết có những ông nhà văn chỗ tụ bạ trà dư tửu hậu thì nói một câu đệm một câu, trần trụi thô lỗ, nhưng lạ lùng là trong văn ông ấy toàn viết những điều luân lý cao cả. Họ quan niệm thế, đã là văn thì phải: Nghiêm!” Nhà văn Uông Triều đã chứng minh điều ngược lại, như tác giả từng nói về mình: “Lúc viết thì tôi tỏ ra nguy hiểm và ghê gớm thế thôi, chứ thực tế tôi khá hiền, có phần nhút nhát.” Cùng với yếu tố sex được nhắc đến khá nhiều từ đầu đến cuối truyện, thì những câu chửi tục xuất hiện ở phần đầu khiến cho tác phẩm gần gũi hơn, các nhân vật thực hơn và câu chuyện đời như chính nó.

Tính chất kì ảo khá được yêu thích trong các tiểu thuyết của Uông Triều, từ Tưởng tượng và dấu vết, Xã hội loài bò, đến Hà Nội những mùa cổ điển. Ảo đan xen với thật khiến người đọc bị “dẫn dụ”, khó phân biệt đâu là ảo đâu là thật, một chi tiết kết hợp khá thú vị là khi vị vua sai người gửi con gà bị chặt đầu thay lời cảnh cáo, lại giúp Uông có bữa tối thịnh soạn với gà luộc, rượu vang và người đẹp!

Truyện có không ít chi tiết nhỏ khác tạo điểm nhấn lý thú. Tôi đã chạnh lòng với chi tiết bác bảo vệ khu chung cư Vân ở, trước giờ không quan tâm đến chuyện thiên hạ, nhưng lại sầm mặt với Uông, “Người ta chửa đẻ mà không thấy mặt đâu”. Tôi cũng bật cười với sự hoang mang, bối rối của Uông khi nghi ngờ đứa con không phải của mình. Việc bí mật nhưng Uông hết bật mí với Đinh Văn Nho, tới Hoài, rồi Hạnh và cuối cùng nhờ Quyên giúp giám định ADN. Diễn biến tâm lý khá phù hợp khi Uông được mô tả là người nhút nhát, “Đôi khi viết những đoạn gay cấn anh phải đến chỗ đông người”, “Sáu tháng sau ly hôn sáng nào anh cũng khóc”, hay những đoạn anh đau lòng nhớ lại câu nói của người xưa hoặc nghĩ về con gái. Có thể thấy, nhân vật Uông có nhiều điểm tương đồng, là hiện thân vừa thực vừa ảo của chính tác giả. Ngay cả cái tên cũng khiến độc giả suy diễn, Uông có phải là Uông Triều. Điều đó càng khơi gợi tính tò mò, suy đoán, đâu là nhân vật Uông, đâu là nhà văn Uông Triều. Vô hình chung tạo nên sức lôi cuốn cho tác phẩm.

Tôi đặc biệt có cảm tình với hình thức của quyển sách. Một vẻ đẹp cổ điển như cái tên của nó, ngoài tác dụng là sách để đọc còn làm đẹp thêm chiếc kệ mà nó hiện diện. Lẽ thường, cái đẹp dễ khiến người khác ngoái nhìn, lưu tâm, Hà Nội những mùa cổ điển tạo sự thu hút ngay từ ngoại hình của mình. Từ cái đẹp ban đầu, sẽ lôi kéo người đọc tìm hiểu câu chuyện bên trong (ít nhất là tôi nghĩ vậy), cùng với sự khó đoán của mạch truyện, sẽ dẫn dắt người đọc đi đến những dòng cuối cùng của tác phẩm…

24/10/2024

Hoàng Ngọc Thanh

Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cô bé trên mái nhà sàn

Cô bé trên mái nhà sàn Cô bé Lò Thị Chăng đã sống ở chỗ cao nhất trên mái nhà sàn của một gia đình Thái đen gồm 5 người suốt ba ngày đêm. ...