Thứ Bảy, 20 tháng 12, 2025

Những vấn đề tư tưởng triết học phương Tây trong nghiên cứu của Võ Quốc Việt

Những vấn đề tư tưởng triết học
phương Tây trong nghiên cứu
của Võ Quốc Việt

Đến nay, hành trình chữ nghĩa của Võ Quốc Việt chí ít trải ra trên ba chiều kích: nghiên cứu văn hóa dân tộc, lý luận phê bình văn học và nghiên cứu tư tưởng triết học. Với văn hóa dân tộc, Võ Quốc Việt bộc lộ tình yêu quê hương nồng nàn, thắm thiết. Với lý luận phê bình văn học, Võ Quốc Việt đi từ văn học trung cận đại đến văn học hiện đại và ngày càng bắt nhịp với đời sống văn học hôm nay. Với tư tưởng triết học, Võ Quốc Việt dành nhiều quan tâm đến các trào lưu tư tưởng triết học phương Tây hiện đại. Bằng niềm đam mê nghiên cứu, cây bút trẻ Lý luận, Phê bình Văn học họ Võ tiếp tục dấn thân nhiều hơn nữa vào địa hạt tư tưởng triết học. Dường như trên hành trình này, Võ Quốc Việt đã nhìn thấy ở phương xa hình bóng chái bếp sau hè; và khi phóng tầm nhìn đến những bờ bến lạ, Võ Quốc Việt cũng đã phát hiện ở đó những vốn quý trong tư tưởng bình dân của quê hương.
1. Triết học Friedrich Nietzsche
Tiếp cận triết học Nietzsche từ phía nghệ thuật, Võ Quốc Việt đã bắt gặp cổ mẫu hài đồng vĩnh cửu (eternal boy) trong bóng hình Dionysos. Nghệ thuật Dionysos biểu trưng cho hai xung lực cơ bản của đời sống cũng như nghệ thuật: Apollo và Dionysos. Nếu như Apollo đại diện cho sự chuẩn mực, điều hòa và trật tự, thì Dionysos tượng trưng cho sự vượt qua quy phạm và giải phóng. Trong thần thoại Hy Lạp, “Prometheus mang cho nhân loại lửa thiêng và sự sống nhưng chính Dionysos dạy con người biết phải sống một cách đầy đủ và ‘dưới ảnh hưởng của tinh thần Dionysos con người ‘cảm thấy mình là thần linh’” [1].
Dưới ảnh hưởng của tinh thần Dionysos, con người cảm nhận mình như một thực thể thần thánh. Nhưng không phải vấn đề siêu nhiên, nhà nghiên cứu muốn nhấn mạnh vào sức mạnh sáng tạo tự do, mãnh liệt mà Dionysos đại diện. Đồng thời, thông qua triết học Nietzsche, vấn đề được đặt ra là việc xác lập hệ giá trị độc đáo của mỗi cá nhân. “Mình từ nguyên bản sinh ra/ Đến khi thác chẳng thể là bản sao”. Nhấn mạnh tính độc nhất của con người trong việc tự định nghĩa bản thân, suy tư của Võ Quốc Việt về triết học Nietzsche thực chất là một lời kêu gọi bảo tồn tính nhân bản và tính cá nhân sáng tạo trong mỗi con người.
Bên cạnh đó, triết học Nietzsche còn giúp nhà nghiên cứu phơi mở thêm cuộc khủng hoảng hiện sinh hằng có trong tâm tư con người, một khủng hoảng căn cơ nảy sinh từ việc con người hiểu ra thảm trạng bi kịch của đời sống. Từ đó, nghệ thuật do con người sáng tạo ra có thể được hiểu là nghệ thuật của bi kịch. Nghệ sĩ, với tư cách là người cảm thấu sâu sắc đau đớn của cuộc sống, trở thành kẻ chịu đựng bi kịch toàn diện. “Người nghệ sĩ, phải chăng, kẻ đau đời toàn diện. Bản chất có vấn đề, bản chất bi kịch, bản chất bi thương hằng có giữa đời thơ. Sống tức sa lầy. Bi kịch trên hết: mắc kẹt. Thi ca – nghệ thuật đau thương” [2].
Tồn tại nghệ thuật luôn đối mặt với vấn đề nội tại, gắn liền với bản chất bi thương không thể tách rời của đời thơ. Sự sống, trong ý nghĩa này, không khác gì sự sa lầy vào đau khổ, trong đó bi kịch đóng vai trò trung tâm, biểu thị qua cảm giác mắc kẹt. Thông qua triết học Nietzsche, Võ Quốc Việt làm rõ thơ ca và nghệ thuật vì thế chính là những hình thức biểu đạt của nỗi đau. Tuy nhiên, nhận ra và sống với bi kịch đồng nghĩa với việc chuyển hóa nỗi đau thành cái đẹp, biến nó thành nghệ thuật. Và, trong đau thương ấy, ẩn chứa lòng nhân ái, tình thương. Nhà nghiên cứu, ở một mức độ nào đó, thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với những con người có khả năng nhận biết và đối diện với nỗi đau của cuộc sống. Trong suy tư của Võ Quốc Việt, ta thấy: triết lý bi kịch đi vào triết lý nghệ thuật và gắn liền quan niệm nhân sinh vươn mình vượt lên đau thương.
Thêm nữa, Võ Quốc Việt còn nhìn thấy ở triết học Nietzsche những tiền đề tư tưởng cho sự phát triển tư tưởng triết học ở thế kỷ XX, XXI. “Người loạn trí trên đường phố Turin năm ấy, thiên hạ nhận là tổ hiện sinh vô thần, là cánh én hậu hiện đại, là tiền hiền của phản nhân bản luận (antihumanism)” [3]. Theo góc nhìn của Võ Quốc Việt, tình trạng tâm bệnh của Nietzsche dường như chỉ là sự hiện thực hóa những khủng hoảng tư tưởng phương Tây trong thời đại đó. Nhà nghiên cứu đã sử dụng triết học Nietzsche như một điểm khởi đầu cho cuộc hành trình khảo cứu “hồ sơ tâm bệnh” của văn chương. Sự quan tâm của Võ Quốc Việt đến phản nhân bản luận, một trào lưu sôi nổi trong kỷ nguyên hậu hiện đại, được thúc đẩy bởi những mối quan hệ mà chàng trai họ Võ đã nhìn thấy giữa triết học Nietzsche và sự khủng hoảng tư tưởng phương Tây. Những truy vấn mà Nietzsche đặt ra về bản chất con người tiếp tục có giá trị trong bối cảnh hiện đại, khi khoa học và công nghệ đang có những bước phát triển vượt bậc, đặt ra nhiều thách thức mới đối với sự phát triển của nhân tính thời nay. Tất nhiên, nghiên cứu của Võ Quốc Việt chỉ dừng lại mở mức nhận thức-gợi mở, nhưng hứa hẹn nhiều ý tưởng sâu xa hơn nữa trong tương lai.
2. Siêu hình học: Henri Bergson và Peter Ouspensky
Henri-Louis Bergson (1859-1941) phân biệt ba khả năng nhận thức chủ đạo: trí năng, bản năng và trực giác. Theo Bergson, trong quá trình tiến hóa, động vật và con người đã đi theo hai hướng khác nhau, phát triển bản năng và trí thông minh như những công cụ thích ứng riêng biệt để tương tác với thế giới. “Theo Bergson, giải thích tốt nhất về tiến hóa là ở một xung lực sinh tồn, gọi là élan vital (đà sống), là nội lực thúc đẩy mọi sinh vật không ngừng hướng tới những phương thức tổ chức phức tạp hơn và cao hơn. Élan vital là yếu tố nội tại cơ bản của mọi sinh vật – và là lực sáng tạo chuyển động liên tục xuyên suốt mọi sự vật” [4]. Xa hơn, Võ Quốc Việt còn kết nối quan điểm triết học của Bergson với siêu hình học về chiều kích thứ tư của Peter D. Ouspensky (1878-1947). “Bergson đã nhìn thấy được xu hướng cố hữu của tồn tại. Mọi sự tồn tại đều có xu hướng tiến lên một phương thức hiện hữu cao cấp hơn, toàn diện hơn. Cả trên phương diện vật chất lẫn tinh thần. Và kì thực, tinh thần mới là nơi tiếp thông với siêu cấp chiều kích (higher dimensions) – sinh giới đa chiều” [5]. Trực giác, theo Bergson, là một sự phát triển của bản năng, được điều chỉnh và trung gian bởi trí năng. Nó chỉ xuất hiện ở con người và đưa họ lên một cấp độ nhận thức cao nhất, trở thành công cụ mà siêu hình học sử dụng để tiếp cận thực tại thực sự. Ngược lại, khoa học sử dụng trí năng để nghiên cứu thực tại, mặc dù không thể tránh khỏi những sự bóp méo, nhưng lại cần thiết cho đời sống thực tiễn.
Tuy nhiên, phải chăng nhận thấy khái niệm “trực giác” trong triết học của Bergson mang tính mơ hồ, nên Võ Quốc Việt đã kết hợp nó trong quan niệm về đệ tứ chiều kích của Ouspensky. Dẫn lại ý kiến của triết gia người Nga trong trước tác Đệ tam cấu thức luận, Võ Quốc Việt “muốn nói đến sự hạn hẹp của trí năng đã buộc chúng ta cứ “lôi thôi lếch thếch” “quanh đi quẩn lại” trong sinh giới ba chiều” [6]. Tích hợp sự giao cảm trong quan niệm về thực hành nghệ thuật của Henri Bergson với siêu việt tính đến chiều kích thứ tư của Ouspensky, Võ Quốc Việt kiến tạo quan niệm thẩm mỹ lý thú để đánh giá tác phẩm thi ca. “Điều này có vẻ đã nhấn mạnh vào khả năng linh thông của thơ ca đối với chân tính của vạn hữu” [7]. Từ siêu hình học trong quan niệm Ouspensky và Bergson, Võ Quốc Việt còn gợi mở thêm về “điển quang biện chứng pháp” và khả năng vận dụng vào nghiên cứu thi ca. Điển quang biện chứng pháp được xây dựng từ nhãn quan bốn chiều và những thị giảng của Minh Đăng Quang trong bộ kinh Chơn lý.
Từ nghiên cứu của Ouspensky và biện chứng điển quang, nhà nghiên cứu họ Võ phát hiện ra thi ca là phái sinh của ánh sáng khai thị. “Vậy nên, việc tìm kiếm “điển quang” hay nắm bắt siêu cấp chiều kích trong thơ cần phải dựa trên ngôn ngữ nhưng lại phải từ bỏ ngôn ngữ. Có lẽ chúng ta nên quay lại với nguồn khởi xuất ý hướng lập thành thơ ca. […] Bản chất và đặc trưng của thơ ca dường như tạo điều kiện cho sự rũ bỏ lối tư duy thông thường để thoát xác vươn đến một phương thức tư duy đa chiều. Phải chăng thơ ca chính là những khoảnh khắc “thượng phương kim cương” ở cõi trời vô lượng chiều hướng” [8]. Nhưng ngôn ngữ ba chiều không thể mô tả giới vô lượng như thế! Với thi ca, nhà nghiên cứu cho rằng có thể chưng cất, nhào luyện ngôn ngữ có khả năng thướng vượt đến siêu cấp chiều kích. “Ngôn ngữ của chúng ta chỉ có thể huyễn hoặc gán định hiện thể. Đó là cái lưới rách nát chộp bắt hiện thể. […] Nhưng hiện thể bốn chiều cần có ngôn thị. Chỉ có sự phụng hiến của ngôn thị mới đẩy thần trí tìm về hiện thể bốn chiều và siêu cấp chiều kích khác nữa. Ngôn ngữ chộp bắt đối tượng. Ngôn thị mở phơi đối tượng, nó tạo ra một đường dẫn kết liên giữa rơi rớt tinh thần với hiện thể khai triển muôn vàn; nghĩa là khai mở cái trạng huống, cách thể dịch chuyển biến đổi không ngừng của thực hữu, ghi lại được cái đà sống bất tận, những mãi luôn vĩnh hằng của thực hữu. Ngôn thị nằm trong cái chiều hướng khai triển đó của hiện thể” [9]. Sự quan tâm đến của Võ Quốc Việt về phía siêu hình học, có lẽ, là mối quan tâm đến sự bất khả tri của trí năng, nhưng nhà nghiên cứu cho thấy tin tưởng ở khả năng khai mở trí huệ. Và nghệ thuật thi ca chính là một trong số những cách thế có thể trợ lực cho con người vượt qua hạn định trí năng ba chiều và vươn tới trí huệ thượng cấp chiều kích. Thơ Thiền Lý-Trần, thơ ca Basho, Friedrich Nietzsche và Rabindranath Tagore có lẽ một trong số minh chứng cho niềm tin đó của Võ Quốc Việt. Vì thế, nhà nghiên cứu cho rằng khả năng “triết hóa” của thi ca lắm khi còn uyên ủy thâm thúy hơn cả triết học!
3. Hiện tượng học: từ Husserl đến Trần Đức Thảo
Trong nhiều công trình nghiên cứu, Võ Quốc Việt thể hiện mối quan tâm sâu sắc với quan niệm ý hướng tính – một khái niệm trung tâm trong hiện tượng học của Husserl. Võ Quốc Việt nhận thấy rằng hiện tượng học Husserl dựa trên nguyên lý rằng ý thức luôn mang tính ý hướng; nghĩa là, nó không thể không hướng tới một đối tượng nhất định. Điều này hàm ý, trong quá trình nhận thức, chúng ta không đơn thuần tiếp nhận dữ liệu giác quan một cách thụ động, mà còn tích cực tham gia vào kiến tạo và tương tác với thế giới. “Ý thức được mang lại, ý thức là sự xáo động khi một chất điểm tồn hữu linh động trong thế giới. Với ý hướng đó, khi nó chộp lấy được thế giới thông qua các trực quan thu nhận (hay thông qua các hiện tượng), ý hướng trở nên hoàn bị và trở thành “ý thể” (Idéal), hay sự ý thức về thể tính, hay siêu việt tính của nhận thức phổ quát” [10].
Nhà nghiên cứu họ Võ đã luận giải ý tưởng này trong nhiều bài nghiên cứu văn học, nhất là khi phân biệt giữa việc quan sát các đối tượng riêng lẻ – liên quan đến nhận thức giác quan – và việc lĩnh hội bản chất ở mức độ thấu hiểu sâu xa vượt lên trên trải nghiệm giác quan thông thường. Ý thức, trong sự diễn giải của Võ Quốc Việt, không phải trạng thái tĩnh mà là một quá trình, là sự xáo động liên tục khi một điểm tồn tại linh hoạt trong không gian và thời gian. Với tính ý hướng, khi ý thức nắm bắt thế giới thông qua hiện tượng, nó đạt đến sự hoàn thiện và trở thành “ý thể” (Idéal) – sự nhận thức về thể tính hoặc tính siêu việt của tri thức phổ quát. Đáng nói, chàng trai họ Võ đã cho thấy nỗ lực kết nối tư tưởng Đông-Tây, đặc biệt là trong việc phân tích đặc điểm ý hướng tính và liên hệ của nó với nhãn quan của Áo Nghĩa Thư trong truyền thống triết học cổ đại Ấn Độ. “Từ đó, “ý thể” sẽ trở thành “siêu ý thể” khi chính bản thân nó vượt lên trên chính nó xuôi về một nhận thức thuần túy bản chất của tồn hữu bản chất trong tất cả. […] Đây chính là cái ta đang tìm, cái mà chúng ta cần truy vấn và đào sâu. Muốn đạt được mục tiêu, chúng ta phải bắt tay từ chỗ nắm bắt muôn vàn kinh nghiệm thế giới. Nắm bắt để cắt bỏ, để xua đi đám mây mù sương khói hỗn loạn ngõ hầu tìm thấy cõi thinh lặng gốc rễ của nhận thức, mà từ đó, nhận thức thoát thai” [11]. Từ đó, “ý thể” có khả năng trở thành “siêu ý thể” khi nó tự vượt qua chính nó, hướng tới một nhận thức thuần túy về bản chất của tồn tại, bản chất của tất cả mọi vật. Sở dĩ nói đến nỗ lực gắn kết triết lý Đông-Tây, bởi quy nguyên hiện tượng ở đây gần gũi với quy hồi nguyên thức (Brahman) mà nhà nghiên cứu họ Võ đã đề cập trong bản dịch Chí Tôn Ca và trước tác của chân đạo sư Ramana Maharshi. Do đó, bạn đọc có thể thấy: thực hành tư tưởng của Võ Quốc Việt ở tất cả các địa hạt khác nhau cơ hồ đều nhất quán và liên thông.
Từ phía hiện tượng học, Võ Quốc Việt đặc biệt chú tâm đến vấn đề tri nhận, nhất là luận giải quan niệm trực quan bản chất. Nhà nghiên cứu dẫn lại ý kiến quan trọng của Husserl: ““Trong sự trực quan cái hiện tượng thuần túy thì đối tượng không nằm bên ngoài nhận thức, không nằm bên ngoài “ý thức”, trái lại, được mang lại theo nghĩa lí của sự tự-được-mang-lại tuyệt đối của một cái gì được trực quan một cách thuần túy” [12] . Nhà nghiên cứu họ Võ chỉ rõ lập luận của Husserl về khả năng tri nhận bản chất, hoặc những phẩm chất thiết yếu của sự vật, thông qua một quá trình mà Husserl gọi là “trực quan bản chất” (Wesensschau, Wesenserchauung/ l’intuition des essences/ eidetic insight). Đây là nhận thức không chỉ dừng lại ở việc nhận biết đối tượng riêng lẻ như nó xuất hiện trước giác quan, mà còn tiến tới nắm bắt đặc điểm phổ quát và thiết yếu, những gì định hình nên phạm trù hoặc bản chất cụ thể. Nhà nghiên cứu Võ Quốc Việt nhấn mạnh rằng, để đạt được sự hiểu biết sâu sắc này, cần có một phương pháp/thao tác với các dữ liệu kinh nghiệm thế giới được thu thập. Đó là “kỹ thuật biến thể” của trực quan bản chất như công cụ quan trọng trong quy giản hiện tượng học. “Kĩ thuật biến thể (variation, còn gọi là freie Variation/ biến thể tự do hay Phantasievariation/ biến thể tưởng tượng) … từ những dữ kiện cảm tính về những thuộc tính của sự vật, ta có thể tha hồ biến đổi chúng cho đến khi đạt được những gì bất biến và thường tồn trong sự vật, mà nếu không có chúng, sẽ không còn là sự vật ấy nữa” [13] . Phương pháp này được xem là sợi dây dẫn dắt, mở ra khả năng trở về giây phút nguyên thủy của nhận thức – một khoảnh khắc “đốn ngộ”, theo cách diễn đạt của nhà nghiên cứu họ Võ, qua kỹ thuật biến thể để khám phá và thấu hiểu yếu tính sâu xa của thực tại. “Đến đây chúng tôi sẽ bàn đến phương pháp thao tác với những dữ liệu kinh nghiệm thế giới thu thập được. Chúng tôi muốn nói đến kĩ thuật biến thể hay lối trực quan bản chất. Đây cũng là một trong những vấn đề cốt lõi của quy giản hiện tượng học. Và sợi dây xuyên suốt, may ra, có thể dẫn ta về giây phút “hồng hoang” của nhận thức – “sự đốn ngộ” hay phương pháp trực quan bản chất và kĩ thuật biến thể theo cách dùng từ của Husserl” [14].  Hình như Võ Quốc Việt đã dõi theo dòng truyền thừa từ Husserl đến Trần Đức Thảo ở chỗ bàn kỹ về sự phát triển quan niệm trực quan bản chất cùng quan niệm kỹ thuật biến thể của Trần Đức Thảo. Ngoài ra, Võ Quốc Việt còn nhấn mạnh vào vai trò của “trực quan phi cảm tính” đối với sự tri nhận bản chất hiện tượng. Nhờ đó, việc này đã chứng minh cho quá trình diễn hiện từ “ý thể” đến “siêu ý thể” mà Võ Quốc Việt đã trình bày ở nghiên cứu khác liên quan đến ý thể hóa của Trần Đức Thảo (trong liên thông với hiện tượng học Husserl). Và, với quan niệm siêu ý thể, Võ Quốc Việt dường như đã thấu nhập vào cõi thơ-đạo Xuân Thu Nhã Tập, cũng như vận dụng nó để tìm hiểu vận động tiếp nhận trường hợp thể loại văn tế (trường hợp Đặng Đức Siêu) [15]. Nghiên cứu của Võ Quốc Việt cho thấy sự “dịch chuyển tri thức” phương Tây để mở rộng khả năng vận dụng tư tưởng triết học này vào thực tiễn văn học Việt Nam.
Trong quá trình khảo sát sâu hơn về phương pháp hiện tượng học, Võ Quốc Việt đã bàn luận về khái niệm quy giản/quy hồi/quy nguyên/giảm trừ hiện tượng học (réduction phénoménologique). Như Võ Quốc Việt nhận thấy, vì để nắm bắt bản chất của các hiện tượng, Husserl đề xuất phương pháp quy giản bản chất, một quá trình trong đó những chi tiết cụ thể, ngẫu nhiên của các đối tượng được “đặt sang một bên” hoặc tạm thời “đình chỉ”, để lột trần vào bản chất phổ quát của chúng. Võ Quốc Việt, khi vận dụng phương pháp này vào lĩnh vực văn chương, cho rằng “từ muôn vàn kinh nghiệm thế giới, chúng ta sẽ truy tầm, quy lược về cái yếu tính cốt lõi và phát hiện mẫu số chung của tồn hữu” [16]. Phương pháp này cho phép chuyển từ cái cá nhân (cụ thể) sang cái phổ quát (bản chất), mang lại một sự hiểu biết sâu sắc hơn về yếu tính thực tại. Quy giản hiện tượng học là một bước tiến về phương pháp luận trong hiện tượng học Husserl được thiết lập để nghiên cứu cấu trúc thuần túy của ý thức bằng cách gạt bỏ những “kết thằng” ​​về thế giới bên ngoài. Nó cho phép phân tích chặt chẽ cách thức mọi thứ xuất hiện với ta, khám phá cách thức thực tế được cấu thành trong kinh nghiệm. Sau khi hoàn thành quá trình giản lược, nhà nghiên cứu có thể quay trở lại “thế giới sống” (Lebenswelt) – cõi trần ai với muôn vàn nẻo hướng – thế giới của trải nghiệm trực tiếp, với hiểu biết mới về cách thức các đối tượng và trải nghiệm được cấu thành trong ý thức. Điều này cung cấp những hiểu biết sâu sắc về các cấu trúc lập nghĩa làm nền tảng cho mọi trải nghiệm.
4. Toàn tâm luận
Có thể nói ngay rằng, toàn tâm luận không hoàn toàn trào lưu tư tưởng phương Tây, bởi yếu tính của nó đã bộc lộ hầu như xuyên suốt triết lý phương Đông; nhưng Võ Quốc Việt đã tiếp cận trào lưu tư tưởng này như lĩnh vực học thuật và thực nghiệm trong dòng chảy triết học phương Tây hiện đại.
Do đó, xuất phát từ mối liên hệ giữa toàn tâm luận (panpsychism) và các xu hướng tư tưởng đương đại, đặc biệt trong lĩnh vực sinh thái học nhân văn và hậu nhân luận, Võ Quốc Việt nhận thấy rằng toàn tâm luận là một lý thuyết triết học có bề dày lịch sử, với sự hiện diện trong cả truyền thống trí tuệ phương Đông lẫn phương Tây. Quan điểm này cho thấy toàn tâm luận không chỉ là một ý tưởng mới lạ mà thực chất là một khái niệm triết học đã được định hình và phát triển qua nhiều thế kỷ, ảnh hưởng đến nhiều trường phái tư tưởng khác nhau. “Toàn tâm luận vốn đã hiện diện trong đời sống tư tưởng Đông Tây xưa nay. Hệ thuyết này trở lại với đời sống tư duy nhân loại bởi mối liên hệ với hai trào lưu được quan tâm hiện nay: sinh thái học nhân văn (human ecology) và hậu nhân luận (posthumanism)” [17]. Sự hiện diện ở mức độ khác nhau của toàn tâm luận trong các hệ tư tưởng, cùng với việc nó được tái diễn giải trong bối cảnh văn hóa và tư tưởng đương đại, cho thấy rằng toàn tâm luận đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành cách tiếp cận mới đối với các vấn đề về bản thể học, nhận thức luận, và đặc biệt là các mối quan hệ liên quan đến sinh thái học và hậu nhân luận. Nghiên cứu của Võ Quốc Việt về toàn tâm luận và quan niệm đạo đức sinh thái của người bình dân Nam Bộ (nhất là trong bối cảnh công nghệ và tư tưởng hiện nay) càng cho thấy tiềm năng của lý thuyết này trong việc cung cấp một khung lý thuyết toàn diện cho các vấn đề phức tạp về sự kết nối giữa con người-tư nhiên-công nghệ.
Mối liên hệ giữa toàn tâm luận (panpsychism) và hệ sinh thái con người thể hiện qua quan điểm ý thức toàn hiện, được coi là yếu tố lan tỏa khắp thế giới tự nhiên. Trong bối cảnh sinh thái học nhân văn, vốn nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và môi trường, toàn tâm luận cung cấp một khung lý thuyết vượt qua phân tích có tính cách nhị nguyên giữa con người và thiên nhiên. Lý thuyết này đề xuất rằng mọi thực thể, dù là con người, động vật, thực vật hay thậm chí các đối tượng vô tri vô giác, đều sở hữu một dạng ý thức hoặc đời sống tinh thần nhất định. Quan điểm này khuyến khích một mối quan hệ tích hợp và tôn trọng hơn với môi trường, sao cho phù hợp với các nguyên tắc sinh thái, nhấn mạnh liên kết và giá trị nội tại của mọi sinh vật trong hệ sinh thái; vì thế Võ Quốc Việt nhận ra khả năng của lý thuyết này trong bàn luận về tình trạng khủng hoảng môi trường hiện nay. Ngoài ra, toàn tâm luận trong nghiên cứu của Võ Quốc Việt cũng có mối liên hệ chặt chẽ với hậu nhân luận (vốn là trào lưu tư tưởng vượt qua quan điểm truyền thống lấy con người làm trung tâm. Toàn tâm luận củng cố các quan niệm hậu nhân bằng cách làm rõ ý thức không chỉ là đặc quyền của con người mà là thuộc tính cơ bản của mọi hiện thể. Quan điểm này tương thích với mục tiêu của hậu nhân luận, là nâng cao ý thức tôn trọng và công nhận quyền tự chủ cũng như giá trị của các thực thể không phải con người.
Trong bản thân luận thuyết này, nó có chí ít hai khuynh hướng: Panexperientialism (xem trải nghiệm nhận thức là căn bản và phổ biến) và Pancognitivism (xem tư niệm là căn bản và phổ biến). Và chàng trai họ Võ nhận ra lý thuyết phương xa hóa ra đã sẵn có trong tâm hồn người dân quê bình dị tại quê hương mình. Điều đó càng vui đắp tình yêu quê nhà và niềm hứng thú nghiên cứu học hỏi. Toàn tâm luận hẳn khiến không ít người nghĩ tới lý thuyết phương Tây nặng tính học thuật. Quả vậy, nhưng biểu hiện toàn tâm luận một cách nhuần nhị, uyển chuyển lại có thể được nhìn thấy trong cuộc sống người lao động bình dân phương Nam. “Nhưng thay vì khảo cứu hệ thuyết nghiêm ngặt của nền khoa học Tây phương đương đại, bạn có thể trở lại quê nhà, hòa mình vào dòng nước Cửu Long đỏ nặng phù sa và nhận ra: người dân quê mình vốn đã sống với vạn vật bằng tình quyến thuộc thủy chung. […]
Quan niệm đạo đức thống nhất hành vi ứng xử. Cho nên, thay vì cứu xét hệ thuyết toàn tâm/hệ thuyết vật linh/hệ thuyết hậu nhân; có lẽ bạn chỉ cần hòa mình vào đời sống dân gian, “cảm” và “nghiệm” để thấu hiểu nghĩa lý đơn sơ của nền nhân bản quê mùa ẩn chứa và sẵn có bao vẻ đẹp mến thương mà nền luận thuyết phương xa vẫn gắng sức minh định” [18]. Trên tinh thần không ngừng cập nhật học hỏi nhưng Võ Quốc Việt không lao theo trào lưu mà ngược lại, nhận thấy ở những hệ thuyết phương xa là cốt lõi vốn có trong thực hành đời sống của người dân quê mình. Người bình dân không lập thuyết, không trường quy mà chính đời sống thường nhật của họ đã là luận thuyết.
Mối quan tâm của Võ Quốc Việt đến toàn tâm luận kỳ thực là mối quan tâm dành cho thực tiễn nhân tính trong bối cảnh biến đổi mau lẹ của thế giới và những vấn nạn mà con người đang phải đối diện trên chính mảnh đất quê hương hôm nay. “Toàn tâm luận chịu dèm pha phải chăng vì nó đã giáng đòn vào quan niệm “con người trung tâm”. Do đó, nó cũng đánh động việc tái thiết khái niệm nhân tính-nhân văn-nhân bản. Trong đó, hệ thuyết này buộc con người nhìn lại các phạm trù đạo đức-luân lý. Đơn giản, nếu xem xét vũ trụ hữu thức vạn vật hữu linh, việc khai thác tài nguyên, sử dụng nguồn năng lượng, cũng như toàn bộ tập quán đối đãi với cây cối, loài vật xưa nay của con người đều vướng phải nguy cơ phản/vi phạm luân lý” [19]. Trang nghiên cứu nhằm chuyển tải thông điệp đạo đức ứng xử giữa người với người; giữa người với vạn vật.
Nhìn rộng hơn, Võ Quốc Việt cho rằng sự quan tâm trở lại với toàn tâm luận trong các nghiên cứu hiện đại không phải là ngẫu nhiên, mà bắt nguồn từ sự liên kết mật thiết của nó với vấn nạn môi trường trên toàn cầu. Khả năng tích hợp toàn tâm luận với sinh thái học nhân văn và hậu nhân luận phản ánh một phong trào tư tưởng rộng lớn hơn, hướng đến việc tái cấu trúc các mối quan hệ giữa nhân tâm, vật chất và môi trường. Mối liên hệ này nêu bật vai trò quan trọng của toàn tâm luận trong việc thúc đẩy hiểu biết tổng hợp và đầy đủ hơn về thế giới. Điều này ngày càng trở nên thiết yếu trong việc giải quyết các thách thức sinh thái và đạo đức của thế kỷ XXI, trong bối cảnh phát triển công nghệ và biến đổi môi trường phức tạp hiện nay.
5. Hậu nhân luận
Như đã nói ở trên, mối quan tâm về hậu nhân luận (posthumanism) khởi đi từ mối quan tâm của nhà nghiên cứu họ Võ đối với vấn nạn môi trường. Từ khủng hoảng môi trường, Võ Quốc Việt truy vấn vào bản chất khủng hoảng nhân tính thời hiện đại. Do đó, tư tưởng hậu nhân luận trong nghiên cứu của Võ Quốc Việt trước hết đề cập đến một số vấn đề liên quan đến tác động môi trường của các hoạt động của con người, nền tảng tư tưởng về quyền lực tối cao của con người và những hàm ý rộng hơn đối với mối quan hệ của con người với thiên nhiên. “Càng văn minh, khả năng – mức độ – phạm vi tác động của con người đến môi trường càng sâu rộng. Khoa học kỹ nghệ càng phát triển, quan niệm con người trung tâm (human-centered) hay duy nhân luận (Anthropocentrism/homocentricism) hoặc thậm chí cực đoan hơn là tư tưởng thượng tôn nhân loại (ideology of human supremacy/ human supremacism) càng khiến mặt đất trần gian thương tật, kiệt quệ. Vì đâu phát sinh cực đoan tư tưởng như vậy? Có phải vì chấp ngã ngày một nặng nề khiến loài người khủng bố tự nhiên?” [20]. Sau khi nói qua khái niệm “Anthropocene”, một thuật ngữ được đề xuất bởi nhà hóa học Paul Jozef Crutzen, Võ Quốc Việt phân tích làm rõ hoạt động của con người đã gây ra tác động sâu rộng như thế nào đến hệ sinh thái Trái đất. Trọng tâm là quan niệm lấy con người làm trung tâm. Chính tư duy “lấy con người làm trung tâm” là nguyên nhân chủ yếu đằng sau sự suy thoái môi trường.
Bước đầu tìm hiểu hậu nhân luận, Võ Quốc Việt thể hiện tinh thần phê phán sâu sắc bá quyền tối thượng của con người, vốn đã được củng cố bởi những tiến bộ vượt bậc trong khoa học và công nghệ. Tư duy về quyền lực siêu phàm của con người, đặt nhu cầu và mong muốn của con người lên hàng đầu, đã dẫn đến việc khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại môi trường trên quy mô toàn cầu. Khi truy vấn vào tư tưởng cực đoan “thượng tôn nhân loại”, Võ Quốc Việt nhấn mạnh rằng tư tưởng này bắt nguồn từ thói ích kỷ và ý muốn kiểm soát phục vụ cho lòng tham không đáy của con người. Từ đó, Võ Quốc Việt nêu ra một số truy vấn và hệ lụy đạo đức của chủ nghĩa vị kỷ. Cho nên nói, khủng hoảng môi trường thực ra chính là khủng hoảng trong chính tâm tính con người. Do đó, việc giải quyết cuộc khủng hoảng môi trường đòi hỏi phải xử lý những vấn đề cốt lõi về tư duy và hành vi của con người. Trong bối cảnh này, hậu nhân luận được Võ Quốc Việt nêu ra như khuôn khổ lý thuyết: vừa kháng cự quan niệm con người trung tâm vừa tìm cách điều chỉnh lại mối quan hệ của con người với toàn bộ những gì không phải con người, bằng cách tích hợp và tôn trọng.
Sau nữa, những nghiên cứu của Võ Quốc Việt đặc biệt nhấn mạnh mối quan hệ đạo đức giữa con người và các thực thể phi nhân loại, để đi tới đánh giá những tác động tiềm tàng đối với căn tính người và tương lai sự sống. Theo Võ Quốc Việt, chủnghĩa nhân văn truyền thống, khi đặt con  người vào vị trí trung tâm, có khuynh hướng tính loại trừ, coi nhẹ, thậm chí hạ thấp, những gì không phải con người. Sự loại trừ này khoét sâu vực thẳm nhị nguyên giữa nhân loại và phi nhân loại. “Truy vấn này là hình thức tái tư duy về đặc trưng và giới hạn con người. Chính nó cho thấy nhân luận truyền thống đã loại trừ và gián tiếp tạo ra cái khác (otherness); cũng như gạt cái khác ra khỏi trung tâm. Hơn thế, hậu nhân luận còn chỉ ra con người không thể tách rời tồn tại khác (gồm cả giới hữu sinh lẫn vô sinh, vật chất lẫn phi vật chất). Nhân loại không thể và không có quyền xâm lược để toàn quyền khai thác giới phi nhân. Trên phương diện căn tính, hệ thuyết này không chỉ truy vấn khả thể người mà còn phản ánh viễn cảnh lai ghép người thành dạng sống mà hiện nay khó có thể tưởng tượng” [21]. Trong khi đặt ra những câu hỏi đạo đức quan trọng về trách nhiệm của con người đối với sinh vật khác và hệ sinh thái, thì Võ Quốc Việt cũng bàn đến thực tiễn “cơ giới hóa” thân thể con người đời nay. Nhà nghiên cứu nhận thấy cần phải tái thiết khái niệm thân người và tính người. Nhà nghiên cứu chất vấn chính khái niệm căn tính người theo cách hiểu truyền thống, cho rằng hậu nhân luận không chỉ phê phán ý tưởng về danh tính người cố định, mà còn gợi mở viễn tượng con người có thể kết hợp với các hình thức sống khác, dẫn đến sự hình thành các dạng tồn tại lai ghép. Do đó, trang nghiên cứu của Võ Quốc Việt chứa đựng những câu hỏi triết học sâu sắc về ý nghĩa của việc trở thành con người và xác định căn tính người trong tương lai gần. Đặt ra những vấn đề đạo đức, căn tính và tương lai hậu nhân, nghiên cứu của chàng trai họ Võ thể hiện nỗ lực rộng lớn nhằm tái định vị chỗ đứng của con người trong thế giới và khám phá tiềm năng hình thức tồn tại mới; từ đó gợi mở triển vọng khả dĩ và thách thức tiềm ẩn trong xã hội tương lai.
Bằng sự không ngừng cập nhật và tinh thần học hỏi, cầu thị; Võ Quốc Việt tập trung nghiên cứu vào một số vấn đề cấp thiết liên quan đến sự phát triển nhanh chóng và tác động của khoa học công nghệ đến cuộc sống con người. “Từ 2000 đến nay, hậu nhân luận phát triển nhanh chóng và mang lại nhiều đóng góp, tạo nên trào lưu học thuật liên ngành sôi nổi. Với trường động lực cách mạng công nghiệp 4.0, xã hội hậu nhân và nền văn hóa hậu nhân trở thành thực tiễn không thể tránh né. Cuộc chạy đua số hóa, chạy đua trí tuệ nhân tạo, chạy đua vào không gian… tiếp tục khuếch trương văn hóa hậu nhân. Với khả năng luận giải thực tiễn và tiên lượng tương lai, hậu nhân luận mở rộng ảnh hưởng vào văn học, văn hóa, kinh tế, chính trị, đạo đức, tôn giáo… Dù muốn dù không, gia tốc công nghệ ngày càng lớn khiến con người đã và đang tiếp tục tiến bước vào nền văn hóa hậu nhân” [22]. Võ Quốc Việt nhấn mạnh rằng công nghệ không chỉ là một cuộc đua mà thực sự đã trở thành một cuộc chiến, với các yếu tố như cuộc chạy đua kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo và khám phá không gian đóng vai trò then chốt trong việc mở rộng nền văn hóa hậu nhân loại. Những công nghệ này không chỉ tái định hình căn tính người mà còn văn hóa xã hội người. Việc mở rộng văn hóa hậu nhân loại thông qua các tiến bộ công nghệ này có thể mang lại những thách thức không lường trước, bao gồm tình thế tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, bất bình đẳng xã hội và khủng hoảng nhân tính.
Nhưng quá trình chuyển đổi sang nền văn hóa hậu nhân, được thúc đẩy bởi những tiến bộ công nghệ, dường như không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra lo ngại về quyền tự quyết của con người: liệu các cá nhân và xã hội có thể tự lựa chọn cách họ tham gia vào văn hóa hậu nhân, hay con người sẽ bị cuốn theo những lực lượng công nghệ nằm ngoài tầm kiểm soát. Khi hậu nhân luận tiếp tục mở rộng tầm ảnh hưởng, nó cũng mang đến những câu hỏi cốt tủy về ý nghĩa đời người. Chẳng hạn, ý nghĩa của việc làm người trong thế giới hậu nhân loại là gì? Làm thế nào để chúng ta đảm bảo rằng những tiến bộ công nghệ mang lại lợi ích cho toàn nhân loại, thay vì gia tăng bất bình đẳng? Võ Quốc Việt nhấn mạnh rằng cần thiết phải có một quá trình suy ngẫm liên tục và đối thoại về căn tính người, đồng thời thực hành đạo đức để đối phó với những thách thức này.
Có thể nói, trong tình hình Lý luận, Phê bình Văn học Việt Nam hiện nay, Võ Quốc Việt là một trong số ít nhà nghiên cứu đã trình bày có hệ thống và sâu sắc về hậu nhân luận – một trào lưu tư tưởng phương Tây đương đại – nhằm làm rõ sự phát triển nhanh chóng cũng như ảnh hưởng sâu rộng của công nghệ đến đời sống con người. Võ Quốc Việt với sức trẻ cùng khát vọng tìm tòi học hỏi và đam mê nghiên cứu khoa học mang ý hướng vươn mình về phía tương lai, hứa hẹn những nghiên cứu đáng kể trong thời gian tới!.
Chú thích:
[1] Võ Quốc Việt (2017). Nghệ thuật Dionysos với chất “Đen” và “Mọi” trong thơ Thanh Tâm Tuyền. Tạp chí khoa học Đại học Văn Hiến – Vol.5, No.4, tr.70 (68-74).
[2] Võ Quốc Việt (2023). Trường Thơ Loạn qua mỹ quan Dionysos. Trang thông tin Văn nghệ Quảng Ngãi. Trích xuất ngày 02.11.2023. Nguồn: https://vanhocnghethuat.quangngai.gov.vn/.
[3] Võ Quốc Việt (2024). Văn chương dưới góc nhìn tâm bệnh học. Trang thông tin Hội Nhà văn Việt Nam. Trích xuất ngày 28.8.2024. Nguồn: https://vanvn.vn/van-chuong-duoi-goc-nhin-tam-benh-hoc/
[4] Võ Quốc Việt (2020). Chiều kích thứ tư trong Mưa nguồn và Lá hoa cồn của Bùi Giáng. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm TPHCM – Tập 17, Số 1 (2020), tr.38 (37-48).
[5] Võ Quốc Việt (2020). Chiều kích thứ tư trong Mưa nguồn và Lá hoa cồn của Bùi Giáng. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm TPHCM – Tập 17, Số 1 (2020), tr.38 (37-48).
[6] Võ Quốc Việt (2020). Chiều kích thứ tư trong Mưa nguồn và Lá hoa cồn của Bùi Giáng. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm TPHCM – Tập 17, Số 1 (2020), tr.39 (37-48).
[7] Võ Quốc Việt (2020). Chiều kích thứ tư trong Mưa nguồn và Lá hoa cồn của Bùi Giáng. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm TPHCM – Tập 17, Số 1 (2020), tr.40 (37-48).
[8] Võ Quốc Việt (2020). Chiều kích thứ tư trong Mưa nguồn và Lá hoa cồn của Bùi Giáng. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm TPHCM – Tập 17, Số 1 (2020), tr.38 (37-48).
[9] Võ Quốc Việt (2020). Chiều kích thứ tư trong Mưa nguồn và Lá hoa cồn của Bùi Giáng. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm TPHCM – Tập 17, Số 1 (2020), tr.45 (37-48).
[10] Võ Quốc Việt (2020). Chối bỏ hệ giá trị và ý hướng tính lập thành sự hiện hữu thế tính trong tiểu thuyết “Mù khơi” của Thanh Tâm Tuyền. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh – Tập 17, Số 7 (2020), tr.1191 (1189-1205).
[11] Võ Quốc Việt (2020). Chối bỏ hệ giá trị và ý hướng tính lập thành sự hiện hữu thế tính trong tiểu thuyết “Mù khơi” của Thanh Tâm Tuyền. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh – Tập 17, Số 7 (2020), tr.1191 (1189-1205).
[12] Edmund Husserl (2016). Ý niệm hiện tượng học: Năm Bài Giảng (Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải). TPHCM: Nxb. Đại học quốc gia TPHCM & Nxb. Trẻ, tr.74.
[13] Jocelyn Benoist và Michel Espagne (chủ biên, 2013). Hành trình Trần Đức Thảo – Hiện tượng học và chuyển giao văn hóa (nhiều người dịch). Hà Nội: Nxb. Đại học Sư phạm, tr.440.
[14] Võ Quốc Việt (2020). Chối bỏ hệ giá trị và ý hướng tính lập thành sự hiện hữu thế tính trong tiểu thuyết “Mù khơi” của Thanh Tâm Tuyền. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh – Tập 17, Số 7 (2020), tr.1194-1195 (1189-1205).
[15] Võ Quốc Việt (2018). Người đọc tiềm ẩn trong một số bài văn tế của Đặng Đức Siêu. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm TPHCM – Tập 15, Số 11 (2018), tr.45-60.
[16] Võ Quốc Việt (2020). Chối bỏ hệ giá trị và ý hướng tính lập thành sự hiện hữu thế tính trong tiểu thuyết “Mù khơi” của Thanh Tâm Tuyền. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh – Tập 17, Số 7 (2020), tr.1193 (1189-1205).
[17] Võ Quốc Việt (2023). Cây cỏ vườn nhà hay là toàn tâm luận của người bình dân Nam Bộ. Tạp chí Nhà văn & Cuộc sống – Số 16 Bộ mới (61) tháng 9, 10.2023, tr.184 (184-189).
[18] Võ Quốc Việt (2023). Cây cỏ vườn nhà hay là toàn tâm luận của người bình dân Nam Bộ. Tạp chí Nhà văn & Cuộc sống – Số 16 Bộ mới (61) tháng 9;10.2023, tr.186 (184-189).
[19] Võ Quốc Việt (2023). Cây cỏ vườn nhà hay là toàn tâm luận của người bình dân Nam Bộ. Tạp chí Nhà văn & Cuộc sống – Số 16 Bộ mới (61) tháng 9;10.2023, tr.185 (184-189).
[20] Võ Quốc Việt (2023). Đạo Phật: Nhân tính và môi sinh. Tạp chí Văn hóa Phật giáo. Trích xuất ngày 03.8.2023. Nguồn: https://tapchivanhoaphatgiao.com/.
[21] Võ Quốc Việt (2024). Từ hậu nhân luận đến phê bình hậu nhân. Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TPHCM – Tập 21, Số 4 (2024), tr.652 (650-664).
[22] Võ Quốc Việt (2024). Từ hậu nhân luận đến phê bình hậu nhân. Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TPHCM – Tập 21, Số 4 (2024), tr.652 (650-664). Tài liệu tham khảo Jocelyn Benoist và Michel Espagne (chủ biên, 2013). Hành trình Trần Đức Thảo – Hiện tượng học và chuyển giao văn hóa (nhiều người dịch). Hà Nội: Nxb. Đại học Sư phạm. Edmund Husserl (2016). Ý niệm hiện tượng học: Năm Bài Giảng (Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải). TPHCM: Nxb. Đại học quốc gia TPHCM, Nxb. Trẻ. Võ Quốc Việt (2017). Nghệ thuật Dionysos với chất “Đen” và “Mọi” trong thơ Thanh Tâm Tuyền. Tạp chí khoa học Đại học Văn Hiến – Vol.5, No.4, tr.68 -74. Võ Quốc Việt (2018). Người đọc tiềm ẩn trong một số bài văn tế của Đặng Đức Siêu. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm TPHCM – Tập 15, Số 11 (2018), tr.45-60.
Võ Quốc Việt (2020). Chiều kích thứ tư trong Mưa nguồn và Lá hoa cồn của Bùi Giáng. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm TPHCM – Tập 17, Số 1 (2020), tr.37-48.
Võ Quốc Việt (2020). Chối bỏ hệ giá trị và ý hướng tính lập thành sự hiện hữu thế tính trong tiểu thuyết “Mù khơi” của Thanh Tâm Tuyền. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh – Tập 17, Số 7 (2020), tr.1189-1205.
Võ Quốc Việt (2023). Cây cỏ vườn nhà hay là toàn tâm luận của người bình dân Nam Bộ. Tạp chí Nhà văn & Cuộc sống – Số 16 Bộ mới (61) tháng 9,10.2023, tr.184 -189.
Võ Quốc Việt (2023). Trường Thơ Loạn qua mỹ quan Dionysos. Trang thông tin Văn nghệ Quảng Ngãi. Trích xuất ngày 02.11.2023. Nguồn: https://vanhocnghethuat.quangngai.gov.vn/.
Võ Quốc Việt (2024). Từ hậu nhân luận đến phê bình hậu nhân. Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TPHCM – Tập 21, Số 4 (2024), tr.650-664.
Võ Quốc Việt (2024). Văn chương dưới góc nhìn tâm bệnh học. Trang thông tin Hội Nhà văn Việt Nam. Trích xuất ngày 28.8.2024. Nguồn: https://vanvn.vn/.
3/10/2024
Trần Bảo Định
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nguyễn Đình Toàn, người mở cửa khu vườn bí mật

Nguyễn Đình Toàn, người mở cửa khu vườn bí mật Trong cái chớp mắt của cõi nhân gian, lại bàng hoàng nhận ra một cái tên quen thuộc nữa đã ...