"Tiếng Việt", bài thơ "Của một người
yêu nước mình" đến vô
cùng
Có thể nói, tác phẩm là cảm hứng về tiếng Việt nhưng cũng là cảm hứng về đất nước. Đọc bài thơ người ta thấy dặm dài của dân tộc đau thương và quật cường; của truyền thống văn hóa Việt Nam qua những vần thơ bất hủ, qua ca dao – cổ tích, qua lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Năm 2000, nhà văn Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) được Nhà nước
truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về lĩnh vực sân khấu nghệ thuật.
Sự nghiệp của Lưu Quang Vũ thành danh phần lớn là ở lĩnh vực
sân khấu. Ông là ngôi sao sáng nhất trên bầu trời sân khấu thế kỷ XX với những
vở kịch giàu tính hiện thực và nhân văn, đồng thời in đậm dấu ấn của thời đại.
Tuy chỉ có 40 tuổi đời ngắn ngủi nhưng ông đã để lại cho chúng ta một khối lượng
tác phẩm đồ sộ với hơn 50 vở kịch. Đương thời, kịch của Lưu Quang Vũ “ngự trị”
trên sân khấu của toàn quốc, trong đó nhiều tác phẩm xứng đáng là đại diện cho
nền kịch nói Việt Nam (“Hồn Trương Ba da hàng thịt”, “Tôi và chúng ta”, “Bệnh
sĩ”, “Lời thề thứ chín”, “Khoảnh khắc và vô tận”, “Ông không phải là bố tôi”…).
Nhiều tác phẩm của Lưu Quang Vũ đến nay vẫn còn giữ nguyên
tính thời sự và vẫn được công chúng nồng nhiệt yêu thích. Nhưng chúng ta cũng
biết, trước khi nổi tiếng là một nhà viết kịch thì Lưu Quang Vũ đã được mọi người
biết đến là một trong những cây bút tài hoa vào loại bậc nhất của thơ trẻ chống
Mỹ. Thơ của Lưu Quang Vũ rất bay bổng và giàu cảm xúc nhưng cũng ẩn chứa nhiều
dằn vặt, đau xót, cô đơn bởi những năm tháng dông bão cuộc đời, trong tình cảnh
khó khăn chung của đất nước chiến tranh.
Ngày nay, đọc lại thơ của Lưu Quang Vũ, người ta thấy bên cạnh
những bài thơ trữ tình, lãng mạn hay dằn vặt, đau đớn thì cũng có nhiều bài thể
hiện được nguồn cảm hứng dạt dào về đất nước, về nhân dân của một con người suốt
đời tôn kính, yêu quý, chịu ơn đến nặng lòng, tha thiết.
Bài thơ “Tiếng Việt” là một trong những tác phẩm như thế.
Tiếng Việt
(Lưu Quang Vũ)
Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm
Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về
Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm
Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre.
Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng
Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya
Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng
Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê.
Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa
Khi hun thuyền gieo mạ lúc đưa nôi
Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ
Nón ai xa thăm thẳm ở bên trời.
“Đá cheo leo trâu trèo trâu trượt…”
Đi mòn đàng dứt cỏ đợi người thương
Đây muối mặn gừng cay lòng khế xót
Ta như chim trong tiếng Việt như rừng.
Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ.
Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
Như gió nước không thể nào nắm bắt
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.
Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy
Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn
Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối
Tiếng heo may gợi nhớ những con đường.
Một đảo nhỏ xa xôi ngoài biển rộng
Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta
Tiếng chẳng mất khi Loa Thành đã mất
Nàng Mỵ Châu quỳ xuống lạy cha già.
Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng
Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi
Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán
Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời.
Trái đất rộng giàu sang bao thứ tiếng
Cao quý thâm trầm rực rỡ vui tươi
Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim người
Như tiếng sáo như dây đàn máu nhỏ.
Buồm lộng sóng xô, mai về trúc nhớ
Phá cũi lồng vời vợi cánh chim bay
Tiếng nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay
Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt.
Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết
Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi
Như vị muối chung lòng biển mặn
Như dòng sông thương mến chảy muôn đời.
Ai thuở trước nói những lời thứ nhất
Còn thô sơ như mảnh đá thay rìu
Điều anh nói hôm nay, chiều sẽ tắt
Ai người sau nói tiếp những lời yêu?
Ai phiêu bạt nơi chân trời góc biển
Nhớ quặn lòng tiếng Việt tái tê
Ai ở phía bên kia cầm súng khác
Cùng tôi trong tiếng Việt quay về.
Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá
Tiếng Việt ơi tiếng Việt ân tình.
(Theo Ngữ văn lớp 9, tập hai, Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc
sống, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2024).
Lưu Quang Vũ sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước chiến
tranh liên miên. Bởi thế, cũng như nhiều người cùng thời, nhà thơ phải nếm trải
“ngọn gió dữ của rừng già khắc nghiệt” và mang nỗi đau về thân phận con người với
những âu lo, trăn trở, khát vọng: “không ngừng lo âu không ngừng phẫn nộ/
bởi vô biên là khát vọng của con người” (Những đám mây ban sớm). Sinh thời
Lưu Quang Vũ mới chỉ in được nửa tập thơ, tập “Hương cây – Bếp lửa”, in chung với
nhà thơ Bằng Việt, Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 1968.
Phần lớn các tác phẩm thơ của Lưu Quang Vũ được in sau khi
nhà thơ đã mất.
“Tiếng Việt” là bài thơ “hiếm hoi của Lưu Quang Vũ được đăng
trên báo trong những năm người ta từ chối thơ anh”. Và, “để đăng được trên Báo
Văn nghệ, nhà thơ Phạm Tiến Duật khi đó phải biên tập sửa ba chỗ”. Một chút
“trích ngang” bài thơ như thế để ta hiểu thêm về bối cảnh rất dễ “nhạy cảm” khi
“Tiếng Việt” chào đời.
Đọc bài thơ người ta thấy cảm xúc bao trùm tác phẩm là tình
yêu tiếng Việt (cũng chính là tình yêu quê hương, đất nước) tha thiết của Lưu
Quang Vũ. Cảm xúc ấy được vận động theo một bố cục chặt chẽ của bài thơ với bốn
phần cụ thể như sau: Phần thứ nhất (khổ thơ 1, 2, 3, 4): Nói về sự gần gũi thân
thương của tiếng Việt trong cuộc sống hàng ngày. Phần thứ hai (khổ thơ 5, 6,
7): Nói về vẻ đẹp độc đáo của tiếng Việt. Phần thứ ba (khổ thơ 8, 9,10, 11,
12): nói về sự trường tồn của tiếng Việt. Phần thứ tư (khổ thơ 13, 14, 15): Nhà
thơ bộc lộ tình yêu, lòng biết của mình với tiếng Việt.
Ngay trong phần mở đầu của thi phẩm, nhà thơ Lưu Quang Vũ đã
cụ thể hóa cho người đọc thấy được sự gần gũi, thân thương và phong phú của tiếng
mẹ, tiếng Việt qua những thanh âm luôn hiện hữu ở quanh bên mình: “Tiếng mẹ
gọi trong hoàng hôn khói sẫm”, “Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng”, “Tiếng gọi
đò sông vắng bến lau khuya”, “Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng”, “Tiếng dập
dồn nước lũ xoáy chân đê”, “Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ”, “Tiếng cha dặn
khi vun cành nhóm lửa”, tiếng than “Đá cheo leo trâu trèo trâu trượt”…
Tái hiện những âm thanh phong phú này nhà thơ đã sử dụng nghệ
thuật liệt kê và điệp ngữ để cho người đọc thấy được tần số xuất hiện cùng với
sự thân quen, gần gũi của tiếng Việt với mọi người; đồng thời cũng thể hiện một
ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc của mình về cái thứ âm thanh quen thuộc hàng ngày ấy.
Có thể thấy qua phép liệt kê của tác giả người đọc thấy tiếng Việt xuất hiện ở
mọi nơi (từ cánh đồng làng cho đến bãi sông bến vắng…) mọi lúc (từ quá khứ
trong những câu ca dao đến hiện tại trong tiếng mẹ, tiếng cha…).
Hơn thế nữa, nhà thơ còn cho người đọc thấy được sự kỳ diệu của
tiếng Việt. Lưu Quang Vũ đã tái hiện cho người đọc thấy sự kỳ diệu của tiếng Việt
trong những vần thơ tựa như những bức tranh về cuộc sống của con người qua các
thời đại. Dường như lắng nghe những thanh âm phong phú của tiếng Việt mà nhà
thơ đã cảm nhận được thế giới của “tiếng đời” cùng với thiên nhiên đang trở
mình, cựa quậy.
“Tiếng mẹ gọi” mở ra một bức tranh làng quê hiện lên trong
khung cảnh êm ả, thanh bình với những cảnh vật vô cùng quen thuộc ở nông thôn:
cánh đồng, đàn cò trắng, con nghé, gió thổi hàng cau tre. “Tiếng kéo gỗ” gợi
lên cuộc sống mưu sinh lam lũ, vất vả, nhọc nhằn của những người lao động. “Tiếng
gọi đò” làm ta liên tưởng đến người lữ khách cô đơn trên bến sông cô liêu, hiu
hắt. “Tiếng lụa xé” làm hiện hình những âm thanh của tiếng thoi đưa trên các
khung cửi.
“Tiếng dập dồn nước lũ” làm người ta hình dung ra cảnh sông
nước ngập tràn mênh mông bờ bãi với dòng lũ cuốn ầm ầm xoáy cuộn vào những chân
đê. “Tiếng cha dặn” cách vun cành nhóm lửa để hun thuyền, gieo mạ, đưa nôi vừa
gợi lên một tình cảm thiêng liêng vừa gợi lên cách dạy bảo ân cần, cẩn thận,
chu đáo để trao truyền những kinh nghiệm sống của thế hệ trước cho thế hệ sau.
“Tiếng mưa dội” trên mái cọ làm người ta nhớ đến âm thanh của những cơn mưa
trên vùng đất trung du rừng cọ đồi chè cùng với hình bóng thân thương của một
ai đó (người mẹ, người thương…) qua hình ảnh chiếc nón “thăm thẳm ở bên trời”.
Tiếng Việt trong lời than “Đá cheo leo trâu trèo trâu
trượt…” gợi cho người đọc nhớ đến nỗi đau đớn của chàng trai khi bị tan vỡ
tình yêu: “Đá cheo leo trâu trèo trâu trượt/ Ngựa trèo ngựa đổ/ Tiếc công
anh lao khổ/ Tự cổ chí kim/ Mất em đi anh khó kiếm khó tìm/ Cũng giả tỉ như cây
kim mà lòn sợi chỉ/ Sao em không biết nghĩ biết suy/ Em ham nơi quyền quý, em
không có nghĩ gì đến anh/ Hoa kia gió thổi lìa cành/ Mẹ cha ép gả, em đành chịu
sao” (ca dao).
Tiếng Việt trong hình ảnh “đi mòn đàng dứt cỏ” gợi lên tiếng
lòng của một chàng trai đang tha thiết trong tình yêu “Công anh đi xuống
đi lên/ Mòn đường chết cỏ bậu nên nghĩa tình”.
Tiếng Việt trong hình ảnh “muối mặn gừng cay” gợi lên mối
tình thủy chung son sắt của đôi lứa trong xa cách: “Muối ba năm muối vẫn
còn mặn/ Gừng chín tháng gừng hãy còn cay/ Đôi ta nghĩa nặng tình dày/ Có xa
nhau đi nữa cũng ba vạn sáu nghìn ngày mới xa” (ca dao).
Tiếng Việt trong hình ảnh “lòng khế xót” gợi lên nỗi lòng
thương nhớ của đôi trai gái yêu nhau nhưng đang phải xa cách: “Trèo lên
cây khế nửa ngày,/ Ai làm chua xót lòng này khế ơi!/ Mặt trăng sánh với mặt trời/
Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng./ Mình ơi! Có nhớ ta chăng?/ Ta như sao Vượt
chờ trăng giữa trời” (ca dao).
Có thể nói tiếng Việt vô cùng phong phú. Nó diễn tả được mọi
cảnh vật, thể hiện được mọi cung bậc của cảm xúc. Điều chú ý trong phần thứ nhất
này là âm thanh tiếng Việt được nhà thơ tái hiện. Tất cả các âm thanh ấy đều là
những lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân lao động. Đó là thứ ngôn ngữ được
bắt nguồn từ chính những cuộc sống lao động và đời sống tình cảm của những con
người suốt ngày đang phải dầm mưa dãi nắng, một nắng hai sương.
Có lẽ, phát hiện ra sự đẹp đẽ và phong phú của tiếng Việt như
thế, nhà thơ phải là người rất yêu tiếng Việt; không chỉ có sự hiểu biết sâu sắc
về tiếng mẹ đẻ mà còn rất thấu hiểu những tâm tư tình cảm; chia sẻ cảm thông cuộc
với sống còn đầy nhọc nhằn, lam lũ của những người lao động.
Chưa hết, đọc phần thứ nhất của bài thơ, chúng ta không chỉ
thấy Lưu Quang Vũ tái hiện và gợi cho chúng ta nhận ra sự gần gũi, thân thương
của tiếng Việt mà còn cảm nhận được sự điêu luyện trong cách sử dụng tiếng Việt
để diễn tả, khắc họa sự vật. Đó là, ngoài nghệ thuật liệt kê, điệp ngữ, tác giả
còn dùng các biện pháp tu từ nhân hóa (cò trắng rủ nhau về, đau lòng thoi sợi
trắng), đảo ngữ (xạc xào gió thổi), so sánh (Ta như chim trong tiếng Việt như rừng)
để thể hiện.
Hình ảnh “cò trắng rủ nhau về” trên cánh đồng gợi lên cảnh
thanh bình, ấm ấp của đồng quê trong buổi chiều hôm. Cảm giác “đau lòng thoi sợi
trắng” gợi lên những đắng cay của cuộc đời lao động vất vả. Hình ảnh đảo ngữ gợi
lên thanh âm của tiếng gió. Đặc biệt hình ảnh so sánh “ta như chim trong tiếng
Việt như rừng” đã gợi lên sự phong phú của tiếng Việt; sự gần gũi, gắn bó của
những người cùng nói tiếng Việt.
Tiếng Việt giàu có, phong phú như rừng. Ta như chim có nghĩa
là một thành viên trong khu rừng. Trong khu rừng có rất nhiều chim. Những con
chim ấy cùng có chung một tiếng nói, cùng góp phần làm cho khu rừng ngày càng
phong phú.
Phần thứ hai của bài thơ nói về vẻ đẹp độc đáo của tiếng Việt.
Ngay từ câu thơ mở đầu Lưu Quang Vũ đã đưa ra nhận xét của mình về sự hoàn thiện,
hoàn mỹ của tiếng Việt: “Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói”. Từ “vẹn
tròn” có nghĩa là đầy đủ, đây là cách nói khái quát. Cùng với từ “vẹn tròn” câu
thơ còn sử dụng cặp từ hô ứng “chưa … đã …” để nhấn mạnh, làm nổi bật cái sự đầy
đủ, hoàn thiện từ rất sớm của tiếng Việt, hoàn thiện ngay từ khi mới hình
thành, kể cả khi chưa có chữ viết. Và để làm nổi bật cái vẻ đẹp diệu kỳ của tiếng
Việt ấy nhà thơ đã dùng những hình ảnh “vầng trăng”, “cá lặn”, “sao mờ” để gợi
người đọc nhớ đến câu ca dao “Đêm qua ra đứng bờ ao/Trông cá, cá lặn,
trông sao, sao mờ/ Buồn trông con nhện giăng tơ/ Nhện ơi nhện hỡi, nhện chờ mối
ai?/ Buồn trông chênh chếch sao Mai,/ Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ?/ …” nhằm
diễn tả khả năng biểu đạt những rung động, những cảm xúc rất tinh tế của tiếng
mẹ đẻ.
Đặc biệt, Lưu Quang Vũ đã sử dụng nghệ thuật so sánh để cho
người đọc thấy vẻ đẹp của tiếng Việt hiện lên một cách cụ thể: “Ôi tiếng
Việt như bùn và như lụa/ Óng tre ngà và mềm mại như tơ”.
Đó là thứ tiếng mang đậm “phù sa” (như bùn), mềm mại (như lụa,
như tơ) giàu hình ảnh, sắc màu (óng ả). Cùng với nghệ thuật so sánh câu thơ còn
sử dụng một thán từ “ôi” để thể hiện sự ngạc nhiên, thán phục của nhà thơ trước
vẻ đẹp của tiếng Việt.
Ở trong phần hai của bài thơ có câu thơ “Ôi tiếng Việt
như bùn và như lụa” khi in trên báo “Văn nghệ’ đã được sửa thành “Ôi tiếng
Việt như đất cày, như lụa”. Bản in bài thơ này sử dụng đúng chữ gốc ban đầu của
nhà thơ. Theo nhà phê bình văn học, PGS.TS Lưu Khánh Thơ (em gái Lưu Quang Vũ)
chia sẻ: “Nhiều người đọc chữ “bùn” thường liên tưởng đến “hôi tanh mùi bùn”,
nhưng với quan niệm của Lưu Quang Vũ, “bùn” cũng là một thứ “phù sa”. Từ lớp
“phù sa” ấy đã sinh ra bao nhiêu thứ có ích. Ngay cả loài hoa cao quý và tinh
khiết cũng mọc lên từ bùn… cũng như Tiếng Việt là linh hồn của dân tộc Việt
Nam. Nó đã trải qua bao thăng trầm, bầm dập để kết tinh thành thứ ngôn ngữ
trong sáng được lưu truyền qua bao thế hệ” (“Tiết lộ bất ngờ về bản thảo bài
thơ ‘Tiếng Việt’ của Lưu Quang Vũ”, Báo “Tiền phong” ngày 4.7.2016).
Rồi để minh chứng cho mọi người thấy rõ hơn đặc điểm âm thanh
của tiếng Việt trong việc diễn tả thanh sắc của cuộc sống muôn màu nhà thơ đã sử
dụng rất nhiều các từ láy và nghệ thuật so sánh: “tha thiết”, “ríu rít”, “nói
thường nghe như hát”, “như gió nước không thể nào nắm bắt”. Các từ láy và biện
pháp so sánh đã giúp cho người đọc thấy được sự nhẹ nhàng, trong trẻo, thánh
thót, êm ái và tính nhạc du dương hết sức vi diệu của tiếng Việt.
Không dừng lại ở đó, Lưu Quang Vũ còn chỉ ra sự diệu kỳ của
tiếng Việt qua các dấu thanh: “Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh”, “Dấu hỏi
dựng suốt ngàn đời lửa cháy”. Dấu huyền khi phát âm giọng xuống thấp tạo
dư âm trầm lắng, bình lặng. Thanh ngã khi phát âm giọng lên cao nhất gợi cảm
xúc bay bổng, chênh chao. Thanh hỏi khi phát âm giọng xuống rồi lại lên. Dấu hỏi
này cùng với hình ảnh “ngàn đời lửa cháy” còn gợi lên cảm hứng về đất nước với
lịch sử oanh liệt ngàn năm dựng nước và giữ nước.
Tiếng Việt trong cảm hứng của Lưu Quang Vũ hiện lên thật diệu
kỳ. Những con chữ hay từ âm đến nghĩa. Chúng có khả năng gợi hình, gợi cảm và tạo
lên những sự liên tưởng thú vị trong lòng người đọc/ nghe. Một chữ (tiếng) “vườn”
thôi nhưng làm cho nhà thơ như được đắm mình trong một không gian xanh bóng rợp
cành “rợp bóng lá cành vươn” hay một tiếng (chữ) “suối” cũng gợi lên cảm giác
“mát lịm ở đầu môi” bởi như được uống nước đầu nguồn trong lành hoặc tiếng “heo
may” cũng gợi lên hình ảnh của một con đường mùa thu với lá vàng rơi rất đẹp
trong tiết trời se lạnh.
Đọc phần hai của bài thơ này bất giác ta lại nhớ đến bài tiểu
luận “Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc” của GS Đặng Thai
Mai: “Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay. Nói
thế có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt là thứ tiếng hài hòa về mặt âm hưởng,
thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu. Nói như thế
không có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm,
tư tưởng của người Việt Nam và để thỏa mãn cho yêu cầu của đời sống văn hóa nước
nhà qua các thời kỳ lịch sử”.
Trở lại với phần hai của bài thơ “Tiếng Việt” ta thấy minh chứng
về sự giàu đẹp của tiếng Việt thật sinh động. Phải chăng đây cũng là một nghị
luận về tiếng Việt bằng thơ rất trữ tình của Lưu Quang Vũ.
Phần thứ ba, nhà thơ khẳng định về sự trường tồn của tiếng Việt.
Khẳng định sự trường tồn của tiếng Việt cũng là nói về sức sống bất diệt của
dân tộc Việt Nam. Để khẳng định sức sống này Lưu Quang Vũ đã nhìn nhận vấn đề
trên các góc độ: Địa lý, lịch sử, thực tiễn trong cuộc sống đầy gian khó, thực
tiễn trong sự hòa nhập với thế giới, giữa hiện tại với tương lai.
Trên góc độ không gian địa lý, Lưu Quang Vũ cho thấy tiếng Việt
tồn tại không chỉ trong đất liền mà cả ở ngoài đảo xa: “Một đảo nhỏ xa xôi
ngoài biển rộng/ Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta”. Dù có xa xôi
cách biệt đến bao nhiêu thì đảo xa vẫn có tiếng Việt, vẫn nói tiếng Việt. Xét
trên góc độ này văn bản hiện sử dụng dùng nghệ thuật đối (đảo nhỏ với biển rộng)
kết hợp với từ láy (xa xôi) để nhấn mạnh phạm vi không gian sử dụng tiếng Việt.
Câu thơ “Một đảo nhỏ xa xôi ngoài biển rộng” trong
văn bản gốc của nhà thơ khi chưa sửa nguyên văn như sau: “Một đảo nhỏ
ngoài khơi nhiều kẻ nhận”. Có lẽ đương thời câu thơ gợi lên tính thời sự
mà nhà thơ Phạm Tiến Duật khi duyệt bài đã sửa lại để tránh yếu tố nhạy cảm.
Nhìn trên góc độ lịch sử, Lưu Quang Vũ nhận ra tiếng Việt vẫn còn tồn tại cả
khi đất nước bị rơi vào tay kẻ giặc: “Tiếng chẳng mất khi Loa Thành đã mất”.
Ở đây nghệ thuật đối một lần nữa được nhà thơ sử dụng rất hiện
quả. Không những thế câu thơ của Lưu Quang Vũ còn gợi người đọc nhớ đến truyền
thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy. Cái chết của Mỵ Châu và cuộc đời sau khi thành ngọc
trai tiếp tục bị “cát vùi sóng dập” gợi lên cái hoàn cảnh nước mất nhà tan.
Nhưng trong cảnh ngộ ấy tiếng Việt không mất, vẫn bền bỉ giữ hồn dân tộc: “Tiếng
thao thức lòng trai ôm ngọc sáng”.
Đó chính là sức sống mạnh mẽ, trường tồn của tiếng Việt. Từ
thực tiễn trong cuộc sống đầy gian khó, còn bất công của những người phải “ăn cầu
ngủ quán”, của những kẻ “phá cũi sổ lồng”, tiếng Việt không phải vì thế mà bị mất
đi. Trái lại càng cơ cực, ngang trái tiếng Việt càng tỏa sáng, chất chứa tình
thương, phóng khoáng bay bổng.
Câu thơ của Lưu Quang Vũ nhắc đến Nguyễn Du lại gợi cho ta nhớ
đến cuộc đời “thập tải phong trần” (mười năm gió bụi): “Cũng có kẻ nằm cầu
gối đất/ Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,/ Thương thay cũng một kiếp người,/
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan” để tận mắt được chứng kiến cuộc sống
xa hoa, sự thống trị áp bức của giai cấp phong kiến thối nát cùng đời sống lam
lũ, những đau khổ cùng cực vì nghèo đói và bất công của tầng lớp dân nghèo; nhắc
đến ý thơ của Nguyễn Hữu Cầu “Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu hán/ Phá vòng vây,
bạn với kim ô”.
Tất cả điều đó cho thấy tiếng Việt có khả năng vô tận trong
việc thể hiện các sắc thái tình cảm phong phú của con người. Trong thực tiễn
hòa nhập với thế giới giữa sự đa dạng ngôn ngữ của các sắc tộc, tiếng Việt của
chúng ta hiện lên một cách sang trọng, phong phú, đẹp đẽ, chứa đựng bản sắc và
tâm hồn người Việt Nam. Diễn tả nét đẹp này của tiếng Việt, Lưu Quang Vũ sử dụng
một loạt biện pháp tu từ: Liệt kê (cao quý, thâm trầm, rực rỡ), so sánh (như tiếng
sáo như dây đàn nhỏ máu, như đời mẹ đắng cay, như tâm hồn dân tộc Việt), nhân
hóa (mai về trúc nhớ) cùng các từ láy (rung rinh, vời vợi, nghẹn ngào, trong trẻo).
Bấy nhiêu thôi, hẳn chưa thể nào nói hết nhưng nhà thơ đủ chứng
minh cho mọi người thấy được một dáng nét riêng của tiếng Việt, tâm hồn Việt. Một
thứ tiếng thiết tha, êm ái, ngọt ngào, trong trẻo như tiếng sáo, tiếng đàn. Nó
là tiếng nghẹn ngào nhưng cũng là yêu thương với những khát vọng được bay bổng,
tự do.
Tiếng Việt như thế tự hào thay! Nhìn trên góc độ hiện tại và
tương lai của tiếng Việt, nhà thơ thấy nó đã và đang là một sinh ngữ sống động
được người Việt ở khắp mọi nơi sử dụng để trao đổi thông tin, kết nối tâm tư:
“Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết/ Người qua đường chung tiếng Việt cùng
tôi”.
Với tác giả, nhà thơ cảm thấy được sống giữa những người cùng
chung một tiếng nói như thế là một điều vô cùng hạnh phúc. Dường như người ta
thấy tiếng nói giống nhau đã làm cho mọi người gần gũi với nhau hơn, thân thiết
với nhau hơn. Cảm giác như một gia đình, thật ấm áp.
Đặc biệt nhà thơ còn sử dụng nghệ thuật so sánh để nói về sự
rộng lớn, đông đảo của cộng đồng sử dụng tiếng Việt; qua đó thể hiện niềm tin
vào sức sống trường tồn, bất diệt của tiếng Việt: “Như vị muối chung lòng biển
mặn/ Như dòng sông thương mến chảy muôn đời”.
Phần cuối cùng của bài thơ, Lưu Quang Vũ bộc lộ tình yêu,
lòng biết của mình với tiếng Việt. Tiếng Việt, tiếng nói của dân tộc không phải
đến Lưu Quang Vũ mới được đề cập. Trước đó, thời Thơ Mới nhà thơ Huy Cận cũng
đã từng thể hiện những tiếng lòng của mình với thứ tiếng thiêng liêng của dân tộc
ấy: “Nằm trong tiếng nói yêu thương/ Nằm trong tiếng Việt vấn vương một đời/ Sơ
sinh lòng mẹ đưa nôi/ Hồn thiêng đất nước cũng ngồi bên con” (Nằm trong tiếng
nói).
Trở lại với bài thơ này, chúng ta thấy tình cảm yêu quý với
tiếng Việt thì vẫn thế nhưng ý thức về tiếng Việt thì lại được nâng lên một tầm
cao mới. Mối tình sâu nặng với tiếng Việt của Lưu Quang Vũ được thể hiện trên
các giác độ.
Thứ nhất là nỗi băn khoăn, lo lắng sau này ai sẽ là người giữ
gìn và phát triển. Thứ hai là nỗi mong mỏi những người bên kia chiến tuyến,
cùng chung một thứ tiếng sẽ quay trở về với nhau trong nghĩa đồng bào (cùng một
bọc, cùng một bào thai). Thứ ba là nỗi niềm biết ơn sâu nặng tiếng Việt.
Ở giác độ biểu hiện thứ nhất, nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật
điệp ngữ (lặp lại đại từ phiếm chỉ: Ai), câu hỏi tu từ (Ai người sau nói tiếp
những lời yêu?) để nói lên những suy tư, lo lắng, trăn trở của mình về tương
lai của tiếng Việt.
Ở giác độ thứ hai nhà thơ vẫn sử dụng nghệ thuật điệp ngữ (lặp
lại đại từ phiếm chỉ: Ai), câu hỏi tu từ để gợi lên cảnh ngộ của những người
tha hương, những người bên kia chiến tuyến. Nhắc đến những đối tượng này nhà
thơ dùng các động từ, tính từ diễn tả hành động, tính chất ở mức độ rất mạnh
(nhớ quặn lòng, tái tê) để thể hiện nỗi lòng thương nhớ đến nhau của những người
cùng chung một ngôn ngữ; sự thương nhớ tiếng mẹ đẻ.
Ở giác độ thứ ba, nhà thơ vẫn sử dụng biện pháp điệp ngữ
(quên, quá), biện pháp nhân hóa (tiếng Việt ơi), đặc biệt là sử dụng thán từ
(ôi) để thể hiện tình cảm sâu nặng của mình với tiếng Việt, sự biết ơn của mình
với tiếng Việt. Cứ như thế mà tiếng Việt hiện lên như một con người với biết
bao tình cảm thân thiết, gần gũi khiến cho nhà thơ trong lòng không khỏi chất
chứa những nỗi niềm thiết tha : “Tiếng Việt ơi tiếng Việt ân tình”. Thực ra,
trong câu thơ cuối của bài thơ đã được sửa lại khi đăng báo. Nguyên văn ban đầu
là “Tiếng Việt ơi tiếng Việt xót xa tình”. Theo văn bản gốc, vẫn là tiếng lòng
sâu nặng ân tình với tiếng Việt những nỗi niềm nghe như có gì đau đớn, chua xót
hơn.
Đọc phần cuối của bài thơ chúng ta thấy Lưu Quang Vũ thể hiện
tình yêu, lòng biết ơn tiếng mẹ đẻ một cách trân trọng, tôn vinh. Cao hơn thế,
đây là một ý thức trách nhiệm đối với tiếng nói yêu thương của dân tộc. Đó cũng
là trách nhiệm công dân cao cả, là tình yêu nước chân thành, sâu lắng của nhà
thơ gửi vào tiếng Việt yêu thương.
“Tiếng Việt” là một bài thơ rất hay. Bài thơ không chỉ ngợi
ca và tôn vinh tiếng Việt mà còn thể hiện một trình độ điêu luyện trong việc sử
dụng tiếng Việt. Qua thi phẩm người ta thấy tiếng Việt hiện lên vừa giàu vừa đẹp.
Hơn thế, người ta còn nhận ra một tâm hồn Việt, hiện lên qua những con chữ đầy
yêu thương với biết bao cung bậc cảm xúc khác nhau trên hành trình dựng nước và
giữ nước của cha ông.
Có thể nói, tác phẩm là cảm hứng về tiếng Việt nhưng cũng là cảm hứng về đất nước. Đọc bài thơ người ta thấy dặm dài của dân tộc đau thương và quật cường; của truyền thống văn hóa Việt Nam qua những vần thơ bất hủ, qua ca dao – cổ tích, qua lời ăn tiếng nói của nhân dân. “Tiếng Việt” ra đời từ năm 1978, đến nay đã gần nửa thế kỉ đi qua nhưng ý nghĩa của bài thơ vẫn còn nguyên vẹn. Bài thơ đúng là tâm tình của một dòng máu Việt; “của một người yêu nước mình” đến vô cùng, vô tận. Vẻ đẹp trong sáng đó mãi là một sức hấp dẫn và sẽ trường tồn trong lòng người đọc.
24/10/2024
Đào Hiền
Nguồn: Văn Hóa Phát Triển
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét