Thứ Bảy, 20 tháng 12, 2025

Thơ tứ tuyệt Hải Bằng

Thơ tứ tuyệt Hải Bằng

Có nhiều nhà thơ viết về mưa Huế, nhà thơ Hải Bằng không chỉ gắn bó với quê Huế, đất Huế mà còn gắn bó với mưa Huế từ trong sâu thẳm tâm hồn. Mưa Huế với Hải Bằng như là cố nhân, nhà thơ từng ao ước: nếu như gói được mưa Huế để tặng người phương xa. Mưa Huế ngấm vào hồn thơ Hải Bằng đến mức có đến 203 bài thơ tứ tuyệt về mưa thì quả là hiếm có trong lịch sử văn chương về mưa Huế.
1. Kí ức về nhà thơ Hải Bằng trong tôi là căn nhà của ông ở Khu tập thể Phát hành sách đường Nguyễn Chí Diễu, nơi đó từ ngoài ngõ đã có những bộ rễ cây tạo hình; tôi mân mê từng bộ rễ cây tre được tạo hình với những hình thù đẹp mắt, trong những lần mà ba tôi và nhà thơ đang chuyện trò say sưa về chữ nghĩa.
Có lần, trong buổi hội thảo văn học ở Hội Văn học Nghệ thuật Bình Trị Thiên, tôi ngồi bên cạnh nhà thơ, cuối buổi nhà thơ tặng tôi bức ký họa tôi. Tôi vô cùng xúc động bởi nét phác bút tài hoa của ông. Thời gian đã làm thất lạc kỷ niệm hiếm hoi đó… tiếc vô cùng. Năm 2015, cùng Phòng Văn nghệ đài truyền hình VTV Huế làm chương trình “Mưa Huế và thơ”, tôi nói về mưa Huế trong thơ Hải Bằng. Thú thực, tôi đọc được rất ít, vì bấy giờ khá bận rộn…
Giờ đây khi cầm cuốn “Hải Bằng – tuyển thơ, tác phẩm & dư luận, tự sự & đối thoại, vĩ thanh”, tôi mới giật mình, thì ra nhà thơ có đến 203 bài thơ tứ tuyệt về mưa Huế và 79 bài thơ tứ tuyệt với đề tài phong phú; trong số đó có những bài thơ tặng bạn – là những nhà văn, nhà thơ có tên tuổi: Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Quang Dũng, Văn Cao, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Dần, Nguyễn Khoa Điềm, Lâm Mỹ Dạ, Hồ Thế Hà, Trần Thùy Mai, Tô Nhuận Vỹ, Ngô Minh, Phùng Quán… dường như cả một – thế-  giới – văn – nhân vụt hiện lên trong những dòng thơ của ông.
“Sương phủ quanh trời đất lặng thinh/ Ngoài vườn gió nhấc lá rung rinh/ Bốn câu khép nắng vào khung cửa/ Mở cánh hoàng hôn lại thấy mình” (Thơ tứ tuyệt). Hiểu rõ thi pháp thơ tứ tuyệt như thế, có thể cho rằng nhà thơ Hải Bằng đã ghi dấu ấn của mình đối với thể loại tứ tuyệt văn học Việt Nam đương đại. Thời đại bùng nổ thông tin, với 4 câu dễ nhớ, dễ thuộc, thơ tứ tuyệt tự nhiên trở nên chiểm ưu thế khi nhà thơ khai phóng sáng tạo của mình. Thơ tứ tuyệt hàm súc về mặt ngôn từ, có cấu trúc cân đối, hài hòa, ổn định, đắc dụng trong việc thỏa mãn nhu cầu “tốc ký nội tâm” và “câu tuy ngắn nhưng ý thì dài, lời tuy ngắn nhưng nghĩa lại xa”; thơ ngắn, kiệm lời, một dạng thức cô chặt để bùng nổ là xu hướng thơ vừa mang tính cổ điển (bất biến), vừa hiện đại (khả biến). Viết ngắn bởi cảm xúc bất chợt, nén chặt và đúc kết thành khối – “càng nhỏ thì càng lớn, càng gấp thì càng khoan”.
“Suốt đời viết mãi cuộc chia ly/ Hằng triệu câu thơ chẳng nghĩa gì/ Chỉ tủi thời gian khi bạc tóc/ Em cầm tuổi trẻ của tôi đi” (Lời tựa). Người thơ Hải Bằng nhận ra bi kịch giữa thời gian hữu hạn đời người với thời gian vô thủy vô chung của vũ trụ qua 2 câu thơ cuối khá độc đáo. Bài thơ tứ tuyệt đọc xong mà ý tình chưa hết, như là tổng kết đời thơ, cũng là ngậm ngùi tiếc nuối. Nhà thơ Ngô Minh từng viết: “Thơ đã đưa ông từ một cậu thiếu niên con quan, dòng hoàng tộc đến với cách mạng… rồi cũng chính thơ kéo ông về với nỗi cô đơn, đau khổ nơi làng quê heo hút… Ông mang vác thơ trên thân hình khô gầy của mình như bức tượng người dân Chúa còng lưng vác cây thập giá khổng lồ nhọc nhằn đi trên con đường đức tin thăm thẳm mà tôi từng thấy ở nhà thờ nọ! Đó là hình ảnh đẹp nhất của một nô bộc tận tụy, thủy chung của Đấng Thi Ca linh hiển”( ).
Cái nhìn về thi ca của ông chan chứa tình người, tình bạn văn chương, không hiềm khích, đố kị với những ẩn dụ mang tính ngụ ngôn: “Tối sáng là lẽ thường bạn nhỉ/ Đèn khơi dầu cạn vẫn lu mờ/ Rồi đây tất cả đều thi sĩ/ Nhìn lại tay mình chỉ có thơ!” (Nghĩ về thơ). Say thơ, mê thơ, xuất khẩu thành thơ, thi sĩ Hải Bằng xem thơ là lẽ sống “Chẳng biết bao lâu tới được bờ/ Trót yêu đành chịu nỗi bơ vơ/ Em xui tôi sống làm thi sĩ/ Bắt mọi đau buồn phải hóa thơ” (Trót yêu). Nhà văn phải “đau” ở đâu đó thì viết mới hay, vì em – nàng thơ – xui – khiến cho “cuộc đời ông trọn vẹn chìm nổi với thơ”, và đó cũng là một kiểu hạnh phúc trong sự “cô lẻ, đơn độc” của riêng ông: “Trót yêu đành chịu nỗi bơ vơ”. Theo lời nhà thơ Ngô Minh thì nhà thơ Hải Bằng từng tâm sự: “Sống chết với thơ nên chẳng mấy khi tôi được yên ổn. Nhờ không được yên ổn nên tôi mới có thơ” (sđd – (2).
Có nhiều bài thơ có bất chợt từ thi ảnh lạ mà thành thi tứ: “Em vẫy ai mà ngỡ vẫy tôi/ Nhìn trời mà tưởng nắng san đôi/ Nửa này: em bảo giờ đưa tiễn/ Nửa ấy: e chừng để lại thôi” (Đưa tiễn). Cái nhìn, điểm nhìn của thi nhân vừa đa tình mà cũng vừa hóm hỉnh, như là em mà như cũng là tôi. “Ai ví em như gió trở mùa/ Chập chờn cái ráng giữa mây thưa/ Khi nhìn rõ nét giai nhân ấy/ Tôi bỗng sa vào trận bão mưa!” (Tình yêu). Mới nhìn rõ bóng giai nhân mà đã rơi vào mưa bão thì quá đa đoan và đa tình. Có thể thấy, hơi hướng cái tôi trữ tình trong Thơ Mới như vương vấn tâm hồn thi nhân, để rồi dẫu nhà thơ chơi thân với Nguyễn Bính, biết nhà thơ “chân quê”: “Yêu suốt cuộc đời chẳng chán yêu”, thì chính ông cũng mắc bẫy bão giông bởi cái tình bất chợt, cái nhìn si mê.
Từ năm 1956, nhà thơ Hải Bằng đã cùng nhà thơ Nguyễn Bính làm trong tờ báo “Trăm hoa” tại Hà Nội, lúc đó nhà thơ Nguyễn Bính đã làm thơ tặng ông: “Rộn rã xuân về giữa thủ đô/ Hồn đơn gác lẻ đón giao thừa/ Nhà ai hàng xóm khoe mầu cúc/ Vườn cũ mai vàng biết nở chưa/ Câu thơ đứt giữa lòng trang giấy/ Mắt rượu mờ trong mái tóc thề/ Đất Bắc phải đâu là đất khách/ Sao lòng mãi nặng mối tình quê/ Ngày muộn mẹ già hong tóc trắng/ Khác nào mây núi đỉnh Trường Sơn/ Mẹ ơi giữ lấy vườn mai nhé/ Cho trái vàng xuân đẹp bước con” (Xuân nhớ – tặng V.Tôn – Nguyễn Bính, Hà Nội, 1956). Nguyễn Bính hiểu Hải Bằng nhớ Huế, nhớ quê đến thế nào thì bài thơ “Tình trăm bến” của nhà thơ Hải Bằng đã nói được nỗi khao khát yêu đương trong thơ Nguyễn Bính thế ấy; tương xứng với tình bạn tri kỉ, tri âm giữa hai thi nhân: “Yêu suốt cuộc đời chẳng chán yêu/ Hương xanh đồng nội nối trăng chiều/ Tình chia trăm bến đường dang dở/ Rượu ngấm bao lần, nợ bấy nhiêu” (tưởng nhớ anh Nguyễn Bính)
Bài thơ “Hồn thơ” (Tưởng nhớ anh Quang Dũng) của nhà thơ Hải Bằng quả là tài hoa và trí tuệ: “Đêm vượt lên mây nghìn thước núi/ Tiếp nghìn thước xuống chạm bình minh/ Đường đi Tây Tiến mềm chân bước/ Lúc rẽ vào thơ, nắng gập ghềnh”. Thi ảnh “nắng gập ghềnh” phải nói là tuyệt bút, bởi không chỉ là đường đi mà còn là đường đời – “Lúc rẽ vào thơ”, dường như nhà thơ viết cho Quang Dũng mà cũng là viết cho mình. Nắng thì ấm đấy, mà nắng gập ghềnh, đó là con đường các thi sĩ phải dấn thân qua hai cuộc kháng chiến, qua biết bao “khúc quanh” của số phận.
Bài thơ “Thời gian tím” (Tặng anh Hữu Loan), tím cả trang thơ Hải Bằng: “Rời cánh hoa sim tím phố phường/ Rời dòng sông Mã tím sông Hương/ Đôi giày bết bụi hành quân ấy/ In dấu thời gian mọc tím đường”. Màu tím có ngôn ngữ riêng của nó trong nhiều nền văn hóa. Chỉ 4 câu thơ mà nhà thơ Hải Bằng phần nào đã giải mã được duyên tình và định mệnh trong bài thơ “Màu tím hoa sim” của nhà thơ Hữu Loan.
“Tám khúc thời gian” (để nhớ Phùng Quán – 39 năm qua) sâu lắng tình thơ, tình đời, tình bạn tri kỉ, tri âm. Mỗi khúc thơ là một câu chuyện đời của nhà thơ Phùng Quán. Viết về Phùng Quán mà đọc được Hải Bằng – âu cũng là “cùng một lứa bên trời lận đận”. “Nhà trọ Phà Đen chiều nắng khép/ Sóng sông Hồng bủa đẫm trăng lên/ Bài thơ – lời mẹ – nhòe trang viết/ Một góc quê người chẳng ngủ yên” (Đêm sông Hồng – khúc 1). Bài thơ “Lời mẹ dặn” của nhà thơ Phùng Quán là “chấn động” văn chương hiểu theo nhiều nghĩa trong suốt mấy chục năm trời. Bài thơ “Em nữ cứu thương người Pháp” của nhà thơ Hải Bằng cũng khiến ông “lên bờ xuống ruộng”, dẫu bài thơ thấm đẫm tính nhân văn và mang tầm quốc tế. Cả hai thi nhân cùng “đồng bệnh tương liên”.
Bài thơ “Khóc bạn – khúc 8” quá ư hiểu bạn: “Thắp nén hương nhen vào khóe mắt/ Đầu xoay gió đắng, giọt mưa chua/ Hồ Tây lật bóng đêm huyền thoại/ Một nấm mồ xuân nổi trước mùa”. Không khóc bạn vì “tử biệt sinh ly”; mà khóc bạn bởi “nấm mồ xuân” ở “Hồ Tây”. Thế mới biết tiếng khóc này đau đớn biết mấy, thương bạn lận đận, cơ cực trong suốt mấy chục năm bởi cái án văn chương “Lời mẹ dặn”. Trong nền thơ ca dân tộc đã từng có bài thơ “Khóc Dương Khuê” nổi tiếng của Nguyễn Khuyến, khóc bạn cảm động, xót xa. Đọc bài thơ “Khóc bạn” của nhà thơ Hải Bằng càng nhận ra tài thơ tứ tuyệt của ông, chỉ 4 câu mà thương xót, ai oán, thấu cảm…
2. Có nhiều nhà thơ viết về mưa Huế, nhà thơ Hải Bằng không chỉ gắn bó với quê Huế, đất Huế mà còn gắn bó với mưa Huế từ trong sâu thẳm tâm hồn. Mưa Huế với Hải Bằng như là cố nhân, nhà thơ từng ao ước: nếu như gói được mưa Huế để tặng người phương xa. Mưa Huế ngấm vào hồn thơ Hải Bằng đến mức có đến 203 bài thơ tứ tuyệt về mưa thì quả là hiếm có trong lịch sử văn chương về mưa Huế. Tính hiện đại trong thơ tứ tuyệt về mưa Huế thể hiện khá rõ ở vị trí câu thơ thứ 4, thường đưa bài thơ hướng tới những đột ngột, bất ngờ, tạo sức vang. Mưa trong không gian, thời gian; mưa trong tâm tưởng, mưa từ tuổi thơ, mưa thời hiện tại, mưa trong kí ức… với các cung bậc: mưa dầm, mưa xối xả, mưa lâm thâm…
Mỗi bài thơ là một bản tốc ký tâm trạng về mưa, nơi đó lắng đọng cảm xúc thương cảm, chứa chan tình người trong cái nhìn tinh tế và nhân văn. “Biết bao nhà thơ đã đến nơi đây/ Đều viết về mùa mưa da diết/ Khi ra đi có cái gì luyến tiếc/ Không được cầm mưa như hành lý để chia tay” (Bài 1) – một kiểu lập tứ quá hay – vì “Không được cầm mưa” nên mới quyến luyến, day dứt và mong ước trở lại xứ mưa.
Mô điển quen thuộc trong thơ ca hiện đại khi viết về chia tay là: “Mưa – sân ga – đưa tiễn” khi vào thơ mưa của Hải Bằng thật mới, dường như nhà thơ muốn vĩnh viễn hóa khoảnh khắc chia ly để ôm trọn cái nhớ trong cảm xúc của cái tôi trữ tình: “Mưa dồn toa lại, sân ga Huế/ Áo ướt ra đi lại ướt về/ Mưa kéo tiếng còi như xé ruột/ Tàu đi, ga ở, nón quên che” (Bài 102). Thi ảnh “áo ướt, tiếng còi tàu” đủ để diễn tả tâm trạng đưa tiễn: nhớ mong, chia xa… “Cơn mưa chuyền từ bàn tay sang bàn tay/ Chiếc áo hoa hiện màu ráng đỏ/ Tiếng còi thổi – tàu đi – ga ở/ Dọc đường chớ để ướt mưa nghe” (Bài 28). Chia xa quyến luyến, bịn rịn bởi màu áo đỏ hay lời dặn dò, nhắc nhở “Dọc đường chớ để ướt mưa nghe”. “Chia tay ngày ấy những buồn đau/ Mưa gió lồng theo vệt khói tàu/ Hy vọng khoanh tròn trong chiếc nón/ Vô tình để ướt buổi xa nhau” (Bài 180). Xa nhau trong mưa gió vói cái nhìn theo “vệt khói tàu” thật ấn tượng.
Văn hóa Huế ngấm vào thi nhân, để khi viết về mưa Huế, không chỉ gợi cảnh mà còn gợi tình, cái tình sông nước cùng ca Huế: “Mưa Nam ai bùi ngùi giọng hát/ Ngàn dặm Nam bình mưa lắng sâu/ Kim tiền ấn phím bình minh dậy/ Sanh nhịp lời em nhạc mở đầu” (Bài 186). Thi tứ luyến láy gợi về các làn điệu ca Huế (Nam ai, Nam bình, Kim tiền); từ điệu Nam man mác buồn sang điệu Bắc vui tươi. Phép liệt kê giàu hình tượng cùng các tính từ: bùi ngùi, lắng sâu… đã diễn tả mưa Huế có cung, có bậc, có nhịp, có phách – là sự tinh tế trong lựa chon ngôn ngữ.
Nghe mưa nhớ mẹ thường trực trong tâm hồn nhà thơ: “Thương con đường chạy suốt mùa mưa dầm/ Con đường ấy đưa ta vào tình mẹ/ Con đường ấy không một lời kể lể/ Có đi về mới hiểu được lòng nhau” (Bài 7). Các thi ảnh được cấu tứ vào 3 điểm: “mưa dầm – con đường – tình mẹ”, và câu thơ thứ tư là điểm nhấn trong cảm xúc của thi nhân – có trải qua mưa dầm xứ Huế mới hiểu thấu về nhau. Mưa ngấm vào ngày tang tóc, mưa tím cả nước mắt khóc mẹ: “Ai đã liệm mưa vào quan tài ngày đưa mẹ ra đi/ Giờ bước trong mưa mới hiểu thêm đời mẹ/ Nếu không có mùa mưa xứ Huế/ Thì mai sau con chẳng biết nắng là gì” (Bài 100). “Hơn nửa kiếp rồi, chẳng chán mưa/ Đất này có phải cội nguồn thơ/ Mẹ đi thuở ấy trời se lại/ Tóc trộn mưa dầm, gió bạc phơ” (Bài 104). Hai câu thơ cuối thật ấn tượng, mưa là cái cớ để thi nhân nhìn về mẹ trong cái nhìn thương cảm về mái tóc bạc của mẹ trộn lẫn trong gió mưa. Phép nội đối trong câu thơ thứ tư quá tài tình: “Tóc trộn mưa dầm >< gió bạc phơ”. “Nhà dột nên chi nước gõ nhịp suốt đêm/ Nghe giọt nước biết trời còn nặng hạt/ Giọt nước to thì sáng mai sẽ lụt/ Cảnh nghèo mới biết hết những mùa mưa (Bài 36). Mưa mới thấm cái nghèo “nhà dột”, cái cảm giác lo âu hằn trong ánh mắt “giọt nước to – sẽ lụt”, ai đã từng trải qua cảnh mưa lụt ở Huế mới thấm những câu thơ của Hải Bằng.
Mưa là nơi chốn, là nguyên cớ để giải bày tâm sự của Hải Bằng, từ chuyện xa nhà đi kháng chiến từ kí ức tuổi thơ không bao giờ phai nhạt bởi “con đò giấy” trôi trong mưa “Tôi đã tắm tuổi thơ vào mùa mưa Huế thương”(Bài 48)  đến tuổi 15 “Thuở chia tay, Huế vào mùa mưa tầm tã” (Bài 84)… Dẫu mưa Huế  buồn nhưng thi tứ như tràn trề hi vọng: “Mùa mưa dầm xui con mắt buồn theo/ Mắt lặng lẽ chia vui từng bông nở/ Cành trĩu mưa không lời than thở/ Đợi nắng lên, ngọn lá lại thầm reo” (Bài 12).
Nhà thơ từng nếm trải qua nhiều lận đận, vượt qua được những khúc quanh của số phận để say sưa sáng tác văn chương và mĩ thuật, ắt hẳn trong trái tim ông luôn lạc quan và tâm hồn luôn hy vọng. Đọc thơ ông, tôi nhớ người cha thân thương của mình cũng từng động viên chúng tôi trong những năm tháng khó khăn của đất nước thời bao cấp, ông không nói bằng thơ mà tinh thần và khẩu khí y như nhà thơ Hài Bằng: “Đợi nắng lên, ngọn lá lại thầm reo”.
Cái nhìn của thi nhân chan chứa tình yêu: “Ai hong áo sau nhà để gió ngoài hiên ngừng thổi/ Làm ngọn đèn ngơ ngác giữa không gian” (Bài 17). Với tài quan sát và liên tưởng, hình tượng thơ trong bài thơ số 20 (Mưa Huế) sinh động, tuổi thơ mà đọc được những thi phẩm như thế này thì thú vị biết bao: “Con gà ấp mưa dưới gốc cam/ Nghe tí tách tưởng chừng lúa rụng/ Có tiếng gọi, hạt vàng rắc sân rộng/ Gà vô tình mổ cả hạt mưa rơi”. Hình tượng thơ trong bài 96 kì diệu, từ thi ảnh “quả hồng đỏ lựng” đã chuyển sang “nắng đã đậu tròn tay”, các ký hiệu thẩm mĩ quen thuộc qua tài thơ của thi nhân đã trở nên lung linh, ảo điệu: “Nước chảy mềm trên đòn gánh tròn vai/ Lặng lẽ em gánh cả mùa mưa đi chợ/ Mở thúng ra, quả hồng đỏ lựng/ Mưa chưa ngừng, nắng đã đậu tròn tay”. Viết về mưa mà thấm đẫm triết lý nhân sinh: “Con kiến chui vào chiếc lá khô/ Trên chiếc lá, trời làm cơn phẫn nộ/ Lá không to, kiến thì quá nhỏ/ Nhưng gặp bão bùng đủ sức chở che nhau” (Bài 61). Thi ảnh ẩn dụ: “con kiến, ông trời” khá quen thuộc trong văn học dân gian, nay qua tứ thơ tứ tuyệt Hải Bằng trở nên sâu sắc, khơi giợi bao suy tư về nhân tình thế thái.
Hai câu kết ở bài thơ 203 là giả định, là tưởng tượng: “Nếu mưa hóa kiếp làm thi sĩ/ Tôi sẽ quay về phía nắng lên”. Trên thực tế là, không có chuyện “Mưa hóa kiếp làm thi sĩ” được, và vậy nên kéo theo là “Tôi sẽ (không bao giờ) quay về phía nắng lên”. Do đó, cả hai cái giả định trên chỉ là một kiểu khẳng định, tôi và mưa sẽ cùng song hành. Mưa cứ làm mưa, còn tôi mãi mãi cứ làm thi sĩ để viết về mưa. Rốt cuộc thì, nếu còn mưa Huế, thì thơ tôi vẫn sẽ còn Huế mưa và mưa Huế, chung thủy đến trọn kiếp thi nhân mà thôi, bởi “cái nghiệp văn chương” nó vận vào như định mệnh. Cho dẫu con đường nghệ thuật đã khiến ông gặp bao trắc trở, gập ghềnh, lao đao, lận đận; thì ông vẫn như “con tằm rút ruột nhả tơ” với văn chương, hội họa và nghệ thuật tạo hình. “Cánh chim vượt biển” – Hải Bằng đã trọn đời tận hiến cho thơ ca, tài năng và nghị lực của ông đã tỏa sáng trong dòng chảy văn chương và mỹ thuật Việt Nam đương đại.
Huế, 28/5/2024
Hoàng Thị Thu Thủy
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nguyễn Đình Toàn, người mở cửa khu vườn bí mật

Nguyễn Đình Toàn, người mở cửa khu vườn bí mật Trong cái chớp mắt của cõi nhân gian, lại bàng hoàng nhận ra một cái tên quen thuộc nữa đã ...