Không ít người đã từng thắc mắc “ca
khúc nghệ thuật” là gì? Vậy có loại ca khúc “phi nghệ thuật” không? Trong các
loại hình được trao giải thưởng hàng năm của Hội Nhạc sĩ Việt Nam cũng có giải
thưởng cho thể loại ca khúc nghệ thuật. Đâu là tiêu chuẩn xếp loại, đánh giá
thể loại này? Đâu là điểm để phân biệt giữa ca khúc (theo nghĩa chúng ta thường
dùng) và ca khúc nghệ thuật?
Bản chất của ca khúc là gì? Giọng
người là một nhạc cụ tự nhiên với những khả năng độc đáo. Lời nói và âm nhạc đã
kết hợp với nhau từ những lúc đầu sơ khai của con người, nên có lẽ ca khúc là
một trong những hình thức âm nhạc xưa nhất. Định nghĩa đơn giản của ca khúc là
“một tác phẩm âm nhạc được biểu diễn bởi giọng người, có hoặc không có nhạc
đệm”, hoặc là “một bài thơ được dệt nhạc”. Âm nhạc làm nổi bật từ ngữ bằng
những khả năng xúc cảm mà lời nói đơn thuần không chuyển tải được.
Tuy có thể nói ca khúc gắn liền với
lịch sử con người nhưng để nghiên cứu, cần phải có bản ký âm. Do đó, chúng ta
coi như lịch sử ca khúc bắt đầu từ thời Trung đại. Mặc dù vào giữa Tk. 16 khi
nhạc đa âm phát triển cao, trong đó, các bè giai điệu có khi phát triển độc lập
(theo ngôn ngữ của âm nhạc đa âm), có khi cùng phát ra một lúc (ngôn ngữ hòa
điệu), có khi được đệm bằng nhạc cụ, có khi không có phần đệm, nhưng vẫn chưa
thể gọi là ca khúc bởi vì trong các thể loại này, ca từ vẫn chỉ là một yếu tố
phụ thuộc, là “kẻ phục vụ” cho âm nhạc. Đến Tk.17, trong âm nhạc ca kịch có một
sự cải tiến về thể loại ca khúc tương tự như ca khúc nghệ thuật (art song) sẽ
được đề cập đến dưới đây. Sự khác nhau ngày càng rõ nét giữa thể loại
recitative và aria đưa đến việc aria gần như thống trị trong các vở opera,
oratorio và cantata. Aria là một nguồn gốc quan trọng cho các loại ca khúc hát
đơn sau này trong Tk. 18.
Trong âm nhạc phương Tây, người ta
thường phân biệt giữa dân ca, ca khúc phổ thông và ca khúc nghệ thuật. Dân ca
là loại ca khúc thường được đệm bởi một hay vài nhạc cụ đơn giản, hoặc không
nhạc đệm. Đặc điểm của loại ca khúc này là không rõ tác giả và được truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác bằng cách truyền khẩu, truyền ngón, không có bản ký
âm. Ca khúc nghệ thuật thì ngược lại, do những nghệ sĩ chuyên nghiệp biểu diễn,
có bản ký âm và có ghi phần đệm piano hay nhóm nhạc, dàn nhạc. Ca khúc phổ
thông nằm ở giữa dân ca và ca khúc nghệ thuật, xét về độ khó kỹ thuật và độ
tinh tế.
Dân ca thường đi kèm những hoạt động
của con người như nghi lễ tôn giáo, nhảy múa, lao động, giao duyên nam nữ hay
nhằm mục đích kể chuyện. Giai điệu của chúng thường đơn giản. Ca từ thường gồm
những chữ được lặp lại. Cả nhạc lẫn lời ca đều dễ hiểu. Theo truyền thống âm
nhạc châu Âu, ca khúc nghệ thuật ít khi liên quan đến các hoạt động của con
người. Lời ca và âm nhạc của chúng có khuynh hướng tinh tế, hoa mỹ, ở “đẳng cấp
cao” hơn, đòi hỏi nhiều yếu tố lặp lại (về mặt thính giác) để có thể thưởng
thức và hiểu được trọn vẹn. Cũng giống như âm nhạc cổ điển, ca khúc nghệ thuật
cơ bản là một “hiện tượng thành thị”, một sản phẩm còn sót lại của giới qúy
tộc, thượng lưu có nguồn gốc từ triều đình trung đại, các trường đại học, nhà
thờ, thành phố.
Như đã nói trên, có thể định nghĩa
ca khúc nghệ thuật “một bài thơ được dệt nhạc thường dùng cho những giọng ca có
huấn luyện và có phần đệm piano đi kèm”. Một ca khúc như vậy thường dài khoảng
3 phút trở lên. Người Đức gọi ca khúc kinh điển như vậy là lied (hay lieder, số
nhiều). Để nhấn mạnh hơn ý nghĩa ca khúc nghệ thuật, người Đức còn dùng thuật
ngữ kunstlied. Với Mahler, ông dùng tên gọi gesänge thay cho lieder. Ở Pháp,
người ta gọi ca khúc nghệ thuật là mélodie; người Ý dùng thuật ngữ romanza hay
canzoni; còn người Tây Ban Nha gọi là canciones hay canciones líricas.
Trong ca khúc nghệ thuật, có sự kết
hợp hoàn hảo giữa 4 yếu tố: nhà thơ, nhà soạn nhạc, ca sĩ và người đệm đàn. Nhà
soạn nhạc sử dụng những nguồn mạch nghệ thuật mình có để trang điểm cho ca từ
của nhà thơ. Nhà soạn nhạc tạo nên một song tấu giữa ca sĩ và người đệm đàn. Ca
khúc nghệ thuật đã vẽ nên bức tranh mà nhà thơ chỉ mới mường tượng ra. Và việc
biểu diễn một ca khúc nghệ thuật như thổi hơi vào bức tranh ấy để tạo nên một
thực thể sinh động, là kết qủa của sự phối hợp hoàn chỉnh cả 4 yếu tố đã nói. Ở
các tiết mục biểu diễn của Tk. 17, 18, ca sĩ là người diễn đạt chính ca từ, mặc
dù các phần đệm piano đã xuất hiện khá nhiều ở khoảng cuối giai đoạn này. Các
nhà soạn nhạc Kinh điển (classical) như Haydn, Mozart, Beethoven đều đã viết
những ca khúc được đánh giá như những tác phẩm lớn.
Đến khoảng nửa đầu Tk. 19, ca khúc
nghệ thuật đã đạt đến đỉnh cao của kỹ thuật diễn tả, nghệ thuật thưởng thức và
sự hoàn thiện. Nhưng ca khúc nghệ thuật-như chúng ta hiểu ngày nay-thực sự bắt
đầu với Schubert, người đã làm cho ca khúc từ một tiểu phẩm trở thành một tác
phẩm nghệ thuật lớn được thu nhỏ lại. Đó cũng chính là một trong những đặc điểm
mới của âm nhạc thời kỳ Lãng mạn. Schubert là người viết ca khúc hàng đầu của
thời kỳ Lãng mạn, ông đã biết cách khai thác kỹ thuật biến tấu một giai điệu
được xây dựng theo khổ thơ. Dựa trên một khuôn khổ căn bản cho mỗikhổ thơ, ông
đã thay đổi giọng hát và các các chi tiết phần đệm đàn một cách rất nghệ thuật
và phù hợp với bản văn lời ca. Có thể nói âm nhạc và lời thơ đã có một hôn nhân
hoàn hảo trong các ca khúc của Schubert. Sự hài hòa này đạt đến đỉnh cao trong
các ca khúc của Hugo Wolf sau đó.
Các nhà soạn nhạc Tk. 20 tiếp tục
khám phá mối liên quan giữa giọng hát và phần đệm, tiếp tục mở rộng âm vực và
kỹ thuật diễn tả của ca sĩ, thậm chí đôi khi còn coi giọng hát như nhạc cụ
(trong thể loại vocalise). Ở một số nền âm nhạc mới như Mỹ, ca khúc nghệ thuật
còn được xây dựng trên nền tảng dân ca như trong các sáng tác của Aaron
Copland, Charles Ives và ở Anh có Benjamin Britten. Mặc dù phần đệm đàn vẫn giữ
vai trò đệm, phục vụ cho lời ca, như từ giữa Tk. 19, các tác giả đã có
khuynhhướng cho phần nhạc cụ góp vai trò ngày càng quan trọng hơn, coi như một
thành phần không thể tách rời khỏi ca khúc. Ngay từ Schumann, đã có thêm
những phần mở đầu (prelude),đoạn gian tấu (interlude) và phần kết
(postlude) đầy kỹ thuật và nghệ thuật làm phong phú thêm cho ca khúc.
Trong ca khúc nghệ thuật, nghệ sĩ
piano trở thành một “đối tác bình đẳng” với ca sĩ, chứ không chỉ là người đệm
đàn. Cho dù có một vài nhà soạn nhạc sử dụng dàn nhạc để “làm đối tác” với ca
khúc của họ như trường hợp của Richard Strauss với tác phẩm “Four Last Songs”
(Bốn bài ca cuối), nhưng vai trò của piano vẫn rất quan trọng cho thể loại này.
Ca khúc nghệ thuật phát triển mạnh
từ thời kỳ Lãng mạn đến Tk. 20, vượt ra ngoài biên giới nước Đức. Tại Đức (và
cả Áo) có những nhà soạn nhạc được coi là kế thừa Schubert trong lãnh vực ca
khúc nghệ thuật có Robert Schumann, Johannes Brahms (1833-1897) nhưng ngoài ra
còn nhiều tác giả khác có công không nhỏ trong việc phát triển nghệ thuật này
như: Felix Mendelssohn (1809-1847), Richard Wagner (1813-1883), Franz Liszt
(1811-1886), Hugo Wolf (1860-1903), Richard Strauss (1864-1949), Gustav Mahler,
Arnold Schönberg (1874-1951), and Alban Berg (1885-1935).
Trong số các nhà soạn nhạc người
Pháp đã đóng góp nhiều cho mélodies có: Hector Berlioz (1803-8169), Charles
Gounod (1818-1893), Jules Massenet (1842-1912), Claude Debussy (1862-1918),
Gabriel Fauré (1825-1924), Henri Duparc (1848-1933), Maurice Ravel (1875-1937),
Reynaldo Hahn (1874-1947), và Francis Poulenc (1899-1963). Trường phái ca khúc
nghệ thuật của Nga có những nhà soạn nhạc chính như: Mikhail Ivanovich
Glinka (1804-1857; vẫn được coi là cha đẻ của ca khúc nghệ thuật Nga),
Modest Petrovich Mussorgsky (1839-1881), Alexander Porfiryevich Borodin
(1833-1887), Nikolai Rimsky-Korsakov (1884-1908), Peter Ilyitch Tchaikovsky
(1840-1893), và Sergei Vasilievich Rachmaninov (1873-1943). Ở Anh, Ralph Vaughn
Williams (1872-1958) và Benjamin Britten (1913-1976) được coi là những nhân vật
chính trong lãnh vực ca khúc nghệ thuật. Tại Mỹ, thể loại này còn sống và phát
triển tốt. Không kể đến Gershwin, Copland, thì Charles Ives (1874-1954) đã để
lại một di sản phong phú các ca khúc nghệ thuật. Bên cạnh đó, các nhà soạn nhạc
đương đại như Ned Rorem, Jake Heggie cũng có những đóng góp quan trọng cho thể
loại này.
Mỗi quốc gia châu Âu, Mỹ, Nhật, Hàn
quốc, Úc, Nga, v.v… đều có một truyền thống phát triển cao về ca khúc nghệ
thuật. Các thi sĩ đã gợi hứng cho những bậc thầy sáng tác viết ca khúc cho
giọng hát và piano. Ở Việt Nam, trong lịch sử 50 năm của nền âm nhạc thính
phòng-giao hưởng đã có nhiều ca khúc nghệ thuật ra đời. Tuy nhiên, một số không
ít trong đó không phải là ca khúc nghệ thuật chính thống bởi phần đệm piano
(hoặc dàn nhạc) không do chính tác giả tư duy và sáng tạo nên mà được phối lại
bởi người khác.
Trong số các nhạc sĩ sáng tác của
miền Nam trước năm 1975, nổi bật (và có thể là duy nhất) khuôn mặt của Cung
Tiến trong thể loại ca khúc nghệ thuật. Ông viết không nhiều nhưng đa số là
những ca khúc nghệ thuật rấtnhưng đa số là những ca khúc nghệ thuật rất phổ cập
như: Hương xưa, Nguyệt cầm, Thu vàng, Hoài cảm. Sau năm 1975, trong âm nhạc
thính phòng của miền Nam, ca khúc nghệ thuật vẫn được những nhà soạn nhạc chuyên
về thể loại lớn như Nguyễn Văn Nam, Ca Lê Thuần, Hoàng Cương sáng tác. Trong
đó, nổi bật nhất là tác giả Hoàng Cương với 40 ca khúc nghệ thuật, và một số đã
được ông tuyển chọn để xuất bản trong Album-CD về ca khúc nghệ thuật Ca khúc
Hoàng Cương (2004). Có lẽ đây là CD đầu tiên ở Việt Nam ghi lại những ca
khúc nghệ thuật của cùng một tác giả. Trong số các ca khúc nghệ thuật của ông
có những ca khúc nổi tiếng, đã được trình diễn nhiều lần bởi nhiều nghệ sĩ tên
tuổi như: Tháng giêng, Mùa xuân còn sót lại (thơ Lê Thị Kim), Hà Nội vào thu
nhớ mẹ, Ballade Con đường sầu đông
Trong bài viết này chúng tôi không
dùng từ “nhạc sĩ” để gọi các tác giả Việt Nam đuợc đề cập đến trên đây mà thay
vào đó, dùng thuật ngữ “nhà soạn nhạc”. Bởi có lẽ không nơi nào trên thế giới
mà việc trở thành nhạc sĩ lại dễ dàng như ở Việt Nam. Cứ hễ ai đó có một vài
bài hát, thậm chí là những ca khúc “có vấn đề”, được phổ biến trong công chúng
là “tự phong” hoặc được gọi là nhạc sĩ. Hơn thế nữa, từ “nhạc sĩ” còn được dùng
thiếu chính xác: cứ nói tới “nhạc sĩ” là người ta hiểu “người đó có sáng tác ít
nhất là một ca khúc nào đó”. Cũng trong ý nghĩa lệch lạc đó mà Hội Nhạc Sĩ
ViệtNam đã và đang có những chú trọng về lãnh vực sáng tác hơn là các
lãnh vực khác của âm nhạc.
Trong phạm vi giới hạn của bài viết
này, chúng tôi không muốn đi lạc đề để phân tích các phạm trù: musician (nhạc
sĩ), song-writer (người viết ca khúc) và composer (nhà soạn nhạc). Trong tình
hình “loạn nhạc sĩ” và “loạn ca khúc” trên thị trường âm nhạc Việt Nam hiện nay,
thật là may mắn khi ngày nay ca khúc nghệ thuật vẫn còn được sáng tác, biểu
diễn và thu âm. Việc biểu diễn ca khúc nghệ thuật đã có một quá khứ phổ biến
trong các xã hội có văn hóa trước khi xuất hiện loại truyền thông tự động như
radio, phim ảnh, MTV, internet, v.v…Những phương tiện hiện đại này dù sao đi
nữa cũng làm mờ đi những cảm xúc, giác quan của chúng ta thay vì sự phấn khích
khi được tham dự một buổi hòa nhạc live. Trình diễn ca khúc nghệ thuật trở
thành một nghề ít được thực hiện trong cái xã hội hiện đại, cơ giới hóa, và mọi
thứ đều được “đóng gói, bao bì trước”. Có lẽ vì vậy mà gần đây, việc sáng tác
và biểu diễn ca khúc nghệ thuật đang có những dấu hiệu hồi sinh. Mong rằng các
nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn sẽ giúp cho thính giả, những người đã từng
quay lưng lại với thể loại này tìm lại được cảm giác thích thú và coi đây là
một thể loại âm nhạc quan trọng cần được bảo trì. Chúng tôi nghĩ rằng vẻ đẹp tự
nhiên của ca khúc nghệ thuật sẽ giúp thính giả nối kết lại với những kinh
nghiệm đích thực về âm nhạc kinh điển đã và đang bị xa rời, quên lãng.
Nguyễn Bách













Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét