Đi tìm
nguồn gốc chữ Quốc ngữ
Phạm Văn Hưởng
LTS: Đây là đề tài làm tốn nhiều công sức của các nhà nghiên cứu hàng trăm
năm qua. Bằng những tài liệu từ nước ngoài, đặc biệt ở Bồ Đào Nha, Pháp, và
cả ở thực địa, GS-TS Phạm Văn Hường đã chứng minh rằng Alexandro Rhodes
không phải là người sáng tạo ra chữ quốc ngữ.
Bài viết này có tính chất nghiên cứu khoa học, mọi ý kiến phản biện, tranh
luận, tác giả sẵn sàng lắng nghe, với mong muốn làm sáng tỏ lịch sử chữ
quốc ngữ.
Người Bồ Đào Nha đến Việt Nam từ đầu thế kỷ thứ 17. Họ thường đi lại buôn
bán bằng đường biển và cư ngụ ở nhiều nơi, nhất là ở Hội An, hải cảng phồn
thịnh thời ấy. Ở đây họ định cư lâu dài hơn, và đã xây nhà bằng ngói, gạch.
Cũng tại đây, người Bồ Đào Nha đã học được kỹ thuật nung sành, nung sứ,
trong những lò nung lên đến trên 1.000oC có mũ chụp, kỹ thuật mà thời đó Âu
châu chưa có.
CÔNG LỚN THUỘC VỀ CÁC GIÁO SĨ.
- Tiếp theo thương nhân, Hội An lại
tiếp nhận nhiều giáo sĩ Bồ Đào Nha sang truyền Thiên Chúa giáo. Hồi ấy giáo
hội phân công truyền đạo trên thế giới. Việc dính líu đến Đông Nam Á châu
thì do giáo đoàn Bồ Đào Nha phụ trách, đặc biệt là do các giáo sĩ Dòng Tên
Jesus có cơ sở ở Coimbra bây giờ.
Họ học tiếng Á Đông rất nhanh. Người biết tiếng Việt khá nhiều là Francesco
do Pina. Ông cũng biết nhiều thứ tiếng châu Á khác và đã trở thành giáo sư
của những tu sĩ mới qua sau. Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa, cũng là
người Bồ Đào Nha là hai giáo sĩ đã sáng tạo ra cách dùng chữ La tinh để ghi
âm tiếng Việt mà sau này gọi là chữ quốc ngữ, từ năm 1638.
Ban đầu họ sáng tạo ra chữ Việt để dùng trong các giáo đoàn. Nhưng khi
người Việt nắm bắt được lối viết này đã hiểu ngay đó là một phương tiện
tuyệt vời cho thông tin, giáo dục, và đã tiếp nhận ngay làm chữ của quốc
gia.
Tuy thế, phải chờ đến gần cuối thế kỷ thứ 18, chữ quốc ngữ mới được trau
giũa tốt đẹp gần như chữ Việt ngày nay.
Khi gặp Hán tự thì viết bằng Hán tự, tuy không dễ gì, còn khi gặp từ Việt
thuần túy như trong bài ca dao sau đây, cả bài thơ, không có lấy một từ
Hán, lấy chữ đâu mà viết:
Trời mưa làm ướt lá khoai
Thương anh làm rể mười hai năm ròng
Như em lắm ruộng ngoài đồng
Bắt anh tát nước cực lòng lắm thay
Tháng tám mưa bụi gió bay,
Cất lấy gàu nước chân tay rụng rời...
(Làm rể, ca dao)
May có chữ Nôm! Nhưng chữ Nôm viết còn khó khăn hơn chữ Hán. Vì vậy khi nắm
được chữ quốc ngữ, người Việt không ngần ngại, dùng ngay. Xem số sách báo
bằng chữ quốc ngữ tràn đầy cuối thế kỷ thứ 19 thì thấy lối viết này là một
thành công lớn.
Công trình sáng tạo ra chữ quốc ngữ công lớn thuộc về hai giáo sĩ Gaspar do
Amaral và Antonio Barbosa.
Hai giáo sĩ này sau khi rời Hội An thì định cư ở Macau truyền đạo tại đây
gần 10 năm. Không may Gaspar do Amaral tử nạn trên biển Macau vào tháng
2-1646 khi trên đường đến Việt Nam. Antonio Barbosa cũng mất một năm sau đó.
VAI TRÒ CỦA ALEXANDRO RHODES?.
- Cùng thời đó, có một giáo sĩ tên
Alexandro Rhodes, người sinh ở Avignon, miền Nam nước Pháp, cùng đến giảng
đạo ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Các Chúa Trịnh không ưa đạo Thiên
Chúa nên ra lệnh giới hạn sứ mệnh truyền giáo. Có một tín đồ người Việt khá
gần gũi với Công giáo đoàn bị xử tử. Tuy không có giáo sĩ nào chết vì đạo,
nhưng họ đều rời Việt Nam hồi đó để đi Macau tiếp tục làm việc. Trong số đó
có Alexandro Rhodes.
Hai giáo sĩ do Amaral và Barbosa trước khi mất có để lại trong nhà thờ San
Pauli ở Macau những quyển từ điển Việt – Bồ – La tinh mà họ đã sáng tạo.
Alexandro Rhodes là người mang từ điển đó về Âu châu. Năm 1651 người ta
thấy có quyển từ điển Việt – Bồ Đào Nha – La tinh xuất bản ở Roma, với tên
tác giả là Alexandro de Rhodes.
Từ điển Việt – Bồ – La tinh
Vậy
Alexandro de Rhodes là ai, có phải là Alexandre Rhodes hay không? Tôi có đi
Macau, tìm nguồn nhưng vô hiệu. Tôi cũng tìm đến nơi gia đình họ Rhodes ở
gần Avignon. Gia đình người Pháp này có gốc Y Pha Nho. Linh mục Công giáo
địa phận này cho tôi tài liệu in bức thư của Alexandro Rhodes khi ông này
xin giáo hội dòng Jesus cho ông đi truyền đạo ở Đông Nam Á. Cuối bức thư ấy
quả thật có tên Alexandro Rhodes. Nhưng khi rời Á Đông trở về Âu châu, ông
này đã kèm thêm tên de quý phái khi ra quyển từ điển lịch sử ấy!
Đó là lừa đảo, hay nói thẳng ra đó là hành vi “đạo” công trình của Gaspar do
Amaral và Antonio Barbosa, lại tự ý ghép tên mình thêm chữ de kệch cỡm!
Hành vi “đạo” công trình rất rõ, vì không am hiểu người Việt nên Alexandre
viết sai chữ độc nhất trên bìa: Annam viết là Annnam. Có người nói rằng đó
là chữ quốc ngữ độc nhất sáng tạo bởi Alexandro Rhodes cũng không xa sự
thật lắm!
Nếu rời trang bìa mà nhìn vào trong sách, lại thấy cách tạo chữ Việt chỉ
căn cứ trên cách viết Bồ Đào Nha. Ví dụ phụ ngữ nh chỉ Bồ Đào Nha mới có.
Tất cả Âu châu không nơi nào có. Ở Anh thì dùng ng, ở Espaía (Tây Ban Nha)
thì dùng í, ở Pháp thì dùng gn để viết âm nhơ. Alexandro khó mà tạo ra nh
Việt Nam.
Vị đạo sĩ “đạo” công trình này còn hoang mang dẫn đến sai sót chết người
trong cuốn Phép giảng tám ngày.
Thường lệ, lễ đạo theo chu trình 7 ngày hay một tuần lễ. Hai giáo sĩ Bồ Đào
Nha không những chỉ sáng tạo ra chữ quốc ngữ mà còn đặt ra nhiều Việt ngữ
mới.
Trong các nước Âu châu, Anh, Đức, Ý - đất của giáo hội Vatican, Pháp - đất
sinh của Rhodes, ngày chủ nhật là ngày cuối tuần. Chỉ có ở Lusitana, tên Bồ
Đào Nha xưa, chủ nhật là ngày lễ đầu tuần. Kế tiếp là ngày lễ thứ hai,
feria secundo, v.v...
Dựa theo truyền thống Bồ Đào Nha, họ đã tạo nên những
Việt ngữ: chủ nhật, thứ hai, thứ ba v.v... cho đến thứ bảy. Thứ tự những
ngày lễ trong tuần này khác hẳn thông lệ ở Pháp, nơi chôn nhau cắt rốn của
Alexandro. Có lẽ trước sự hoang mang, bán tín bán nghi, không biết lễ chủ
nhật nằm đầu tuần hay cuối tuần nên Rhodes sinh ý Phép giảng tám ngày.
Sự đạo công trình của Alexandro còn tái diễn một lần nữa khi ông ta đứng
tên mình in ra quyển Tường trình về Nhật Bản với sự tài trợ của công chúa
Đan Mạch, mặc dầu tác giả thực sự của công trình này là một giáo sĩ khác
thuộc Dòng Tên. Điều gian dối này buộc giáo đoàn Dòng Tên, công khai tố cáo
và cảnh giác.
Cũng vì thế, sau này khi Alexandro Rhodes xin phép giáo hội để trở lại Đông
Nam Á, thì bị khước từ. Tiếp theo đó Alexandro trôi dạt vào Iran cho đến
một ngày đầu tháng 11-1660 thì chết ở Isfahan, thọ 69 tuổi, kết thúc một
đời tu hành gian trá.
Tuy thế, dù sao đi nữa chúng ta cũng ghi nhận rằng Alexandro de Rhodes đã
đưa ra xuất bản những công trình về chữ quốc ngữ sáng tạo bởi hai người Bồ
Đào Nha: Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa.
Hai vị thầy vĩ đại này xứng đáng gợi chúng ta lập tượng đài tưởng niệm, chứ
không phải Alexandro Rhodes!
Francesco do Pina
Sinh năm 1585 tại Guarda, Bồ Đào Nha
Nhập giáo đoàn Jesus, Christo giáo năm 1605 tại Coimbra. Đến Macau từ 1613.
Đến truyền giáo ở Đàng Trong năm 1617, thông thạo nhiều thứ tiếng Đông Nam
Á, nhất là tiếng Nhật và tiếng Việt.
Dạy tiếng Việt cho các giáo sĩ Âu châu mới qua Á Đông, trong số có Gaspar
do Amaral, Antonio Barbosa và Alexandro Rhodes.
Phiên âm tiếng Việt theo mẫu tự Bồ Đào Nha và La tinh. Đắm thuyền chết tại
cửa biển Đà Nẵng ngày 15-12-1625.
Gaspar do Amaral
Sinh năm 1594 tại Curveceira, Viseu, Bồ Đào Nha ngày nay. Nhập giáo đoàn
Jesus, Christo-giáo, năm 1617 tại Coimbra, Bồ Đào Nha. Đi Á Đông năm 1624 ở
Macau; Viện trưởng Viện Truyền đạo ở Macau. Đến Đàng Ngoài năm 1629.
Trở về Macau năm 1638 sau khi hoàn thành phiên âm chữ quốc ngữ Việt Nam.
Đắm thuyền, chết ngoài biển Macau tháng 2-1646 trên đường đi Việt Nam.
Antonio Barbosa
Sinh năm 1594 tại Amifana do Souza nay là Penafiel gần Porto, Bồ Đào Nha.
Nhập giáo đoàn Jesus, Christo giáo tại Lisboa năm 1624. Đi Á Đông đầu năm
1624.
Đến Đàng Trong 1629, rồi Đàng Ngoài năm 1636 cho đến 1642 đi Macau. Hợp tác
với Gaspar do Amaral trong việc hoàn tất phiên âm chữ quốc ngữ.
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét