Franz
Schubert - Âm nhạc và cuộc đời dang dở
"Khúc
nhạc chiều" với giai điệu buồn da diết của nhạc sĩ thiên tài người Áo đã
khiến cả nhân loại phải thổn thức. Con người bình dị này đã miệt mài sáng tạo
trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình và để lại 10 bản sonate, 20 bản tứ
tấu, 10 bản giao hưởng và 5 vở opera cho kho tàng âm nhạc cổ điển thế giới.
Schubert
từng có 15 năm làm thày giáo tiểu học theo nghiệp cha, nhưng thực ra ông nghĩ
tới âm nhạc nhiều hơn dạy học. Khi mới tuổi 18, Schubert viết bản lider (ca
khúc thơ có đệm đàn piano) đầu tiên. Ông là người có công phối hợp đến mức
tuyệt vời thể loại thi ca và giai điệu.
Trong
số 10 bản giao hưởng đồ sộ của ông có một bản giọng si thứ, sáng tác vào năm
1822 chưa hoàn thành. Sau này, giới phê bình âm nhạc gọi tên là bảnGiao
hưởng bỏ dở. Mãi về sau, người ta mới biết được Schubert rất hay bị đau
ốm, nên ông không thể hoàn thành trọn vẹn bản giao hưởng tuyệt vời đó. Đây là
bản giao hưởng duy nhất trong lịch sử âm nhạc cổ điển chỉ có hai chương. Tuy
nhiên, chính sự dang dở ấy đã khai mở một mạch nguồn âm nhạc vô tận, mỗi
người có cách phát triển ý nhạc đó theo cảm xúc riêng.
Năm
1815, Hoàng đế nước Pháp Napoleon bị phế truất. Niềm hy vọng về tự do và cách
mạng thổi bùng khắp nơi. Ban ngày, người dân bàn tán về số phận của châu Âu,
ban đêm khiêu vũ trong các quán rượu, nhà hàng và các lâu đài quý tộc. Chính
những nơi này sinh ra những điệu valse, mà sau này dòng họ Johann Strauss đã
khai thác triệt để và trở thành những bản valse bất tử của nhân loại. Khi ấy,
Schubert thường thết đãi bạn bè nhạc sĩ bằng những bản nhạc do mình sáng tác
trong những buổi dạ hội mang tên Những buổi tối Schubert. Các sáng tác
của ông được giới nhạc sĩ đương thời ngưỡng mộ. Thế nhưng, ông lại không có
được vị trí xứng đáng trong danh sách những nhạc sĩ hàng đầu của thành Vienne
lúc bấy giờ.
Cuộc
sống của thiên tài rất nghèo túng. Đôi khi, ông viết liên tục không nghỉ
trong một ngày, chỉ mong kiếm được một khoản kha khá từ các nhà sản xuất. Có
nhà xuất bản chỉ chịu trả cho ông 6 bản lider trong số 24 bản của tậpHành
trình mùa đôngvới giá 15 franc rẻ mạt.
Tuy
vậy, Schubert vẫn miệt mài sáng tác. Các tác phẩm của ông thấm đượm nỗi u
buồn và ca ngợi sự chịu đựng phi thường của con người trước số phận bất hạnh.
Những giai điệu ấy cũng chan chứa tình yêu cuộc sống cho đến phút cuối cuộc
đời.
Khúc
nhạc chiềubất hủ của ông sáng tác là để tặng
sinh nhật cho một thiếu nữ mà ông thầm yêu trộm nhớ. Để làm cho nàng bất ngờ,
ông nhờ một bạn thân là ca sĩ, trình bày ngay dưới cửa sổ nhà nàng. Tối đó,
người ta bí mật khiêng cây đàn piano vào trong vườn, tất cả đã sẵn sàng cho
buổi biểu diễn lãng mạn và độc đáo. Thế nhưng, Schubert lại quên không đến.
Trớ trêu thay, cô gái lại đem lòng yêu chính chàng ca sĩ, chứ không dành trái
tim cho Schubert.
Vào
một ngày mùa đông tháng 11 năm 1828, nhạc sĩ thiên tài giã từ thế giới ở tuổi
32, vì căn bệnh thuỷ đậu tại nhà của một người anh em ở ngoại ô thành Vienne.
Khi ông mất, người ta kiểm kê tài sản và chỉ đếm được vẻn vẹn 6 shilling đồng
sáu xu và một đống bản thảo nhạc viết tay.
TheoTư Vấn Tiêu Dùng
Franz Schubert
“Khi tôi muốn ca
hát về tình yêu thì tình yêu lại biến thành đau khổ, nhưng khi tôi chỉ muốn hát
về đau khổ thì đau khổ lại hoá thành tình yêu.” - Franz Schubert
Sự phát triển của
con người và xã hội luôn liên tục và âm nhạc cũng không đứng ngoài qui luật đó.
Bối cảnh lịch sử những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX tại châu Âu có
những biến động đáng kể tạo nên những thay đổi lớn về chính trị, kinh tế và
nghệ thuật. Hoà mình vào dòng chảy đó, âm nhạc cổ điển cũng có những chuyển
mình cho phù hợp với qui luật tự nhiên. Giai đoạn Cổ điển Vienna khép lại với
những tên tuổi lừng lẫy như Haydn, Mozart, Beethoven để mở ra một giai đoạn
mới, giai đoạn Lãng mạn mà sự huy hoàng của nó lan toả suốt thế kỷ XIX với rất
nhiều nhà soạn nhạc ưu tú như Mendelssohn, Schumann, Chopin, Liszt hay
Tchaikovsky nhưng trong đó người khai phá và là “nhân vật vĩ đại” đầu tiên
chính là Franz Schubert.
Franz Schubert
sinh ngày 31 tháng 1 năm 1797 tại Himmelpfortgrund, một làng nhỏ ở ngoại ô
Vienna trong một gia đình có nguồn gốc Bohemia. Cha của Schubert là một thầy
giáo làng chơi được violin và cello, mẹ ông vốn là đầu bếp. Cha mẹ Schubert có
cả thảy 15 người con nhưng 10 người trong số họ đã chết ngay từ khi còn nhỏ,
chỉ còn lại 5 người. Schubert có 3 người anh trai Ignaz (1785), Ferdinand
(1794), Karl (1796) và một cô em gái Theresia (1801). Chính người cha và anh
trai Ignaz đã dạy cho Schubert những bài học âm nhạc đầu tiên.
Lớn lên trong một
gia đình mà mọi thành viên đều có niềm đam mê âm nhạc lớn lao nhưng lại có nền
kinh tế tỷ lệ nghịch với niềm đam mê đó, thời thơ ấu của Schubert là những
chuỗi ngày ông không thể nào quên cho đến cuối cuộc đời. Luôn sống trong cảnh
nghèo đói, những kí ức tuổi thơ buồn bã thường xuyên xuất hiện trong rất nhiều
tác phẩm của Schubert sau này. Năm 1804, khi mới 7 tuổi, Schubert được gửi tới
nhà thờ Lichtenthal ở Vienna để học chơi đàn organ. Năm 1808, để gia đình giảm
bớt một miệng ăn, Schubert tới học ở trường nội trú Convict nơi có nhà soạn
nhạc nổi tiếng Antonio Saliari - người cùng thời với Mozart làm hiệu trưởng.
Tuy được miễn hoàn toàn học phí cũng như tiền ăn, tiền trọ nhưng cuộc sống hà
khắc nơi đây thật quá sức chịu đựng của một cậu bé mới 10 tuổi. Trong thời gian
5 năm sống tại đây, Schubert còn phải chịu đựng sự ghẻ lạnh của những người bạn
học vốn là con của những gia đình giàu có. Cũng trong thời gian này, Schubert
ban đầu chơi ở bè violin 2 sau đó chuyển lên bè violin 1 trong dàn nhạc của
trường. Những sáng tác đầu tiên của cậu bé cũng bắt đầu xuất hiện trong đó nổi
tiếng nhất là bản Fantasia cho 2 Piano (1810).
Rời truờng nội trú
năm 16 tuổi, để san sẻ gánh nặng cho gia đình, Schubert định đi đăng lính nhưng
vì cận thị quá nặng, bị quân đội từ chối, ông đành nghe theo lời cha đi làm
thầy giáo tại Annegasse. Tuy công việc khá nhàm chán không làm thoả mãn nhà
soạn nhạc trẻ vốn đầy hoài bão, ước mơ nhưng vì thực tế cuộc sống Schubert đành
phải tạm bằng lòng với bản thân. Trong thời gian 3 năm dạy học, Schubert đã
sáng tác được 2 tứ tấu đàn dây, những bản giao hưởng đầu tiên, một vài Piano
sonata, Mass số 1 giọng Fa trưởng. Tác phẩm Mass số 1 giọng Pha trưởng lần đầu
tiên được vang lên vào tháng 10 năm 1814 tại nhà thờ Lichtenthan với giọng hát
chính do ca sĩ trẻ Therese Grob đảm nhiệm, người mà Schubert đem lòng yêu mến.
Sau này Schubert đã ngỏ lời cầu hôn nhưng bị gia đình cô gái từ chối và từ đó
Schubert luôn mang trong mình vết thương lòng sâu sắc cũng như không bao giờ
nghĩ đến chuyện lấy vợ nữa.
Thời gian này các
tác phẩm của Schubert xuất hiện với số lượng thật đáng kinh ngạc. Năm 1814,
Schubert hoàn thành vở opera đầu tiên Des Teufels Lustschloss D.84
cũng như 17 lied trong đó có những bài nổi tiếng như “Der Taucher” D.77/111 hay
“Gretchen am Spinnrade” D.118 (dựa theo thơ của Goethe). Một năm sau, 145 lied
và 4 vở opera khác ra đời, những con số thật ấn tượng. Có cảm giác không phải
Schubert sáng tác mà những bài hát tuôn trào dưới tay ông như một dòng thác.
Schubert chuyển
đến dạy học tại trường Laibach ở Slovenia vào năm 1816. Hàng loạt các tác phẩm
nổi tiếng được ông sáng tác vào thời gian này. Tiêu biểu có các lied “Erlkonig”
(Chúa rừng), “Gesange des Harfners”, giao hưởng số 4 “Tragic” giọng Đô thứ
D.417, giao hưởng số 5 giọng Si giáng trưởng D.485. Tháng 6 năm 1816, Schubert
bắt tay vào viết bản cantata “Prometheus”.
Một năm trước đó,
trong một lần đến thăm Linz, Schubert gặp Franz von Schober - một chàng trai
trẻ rất đáng mến và họ trở thành những người bạn thân nhất của nhau. Là con một
gia đình khá giả, chính Schober là người giúp đỡ Schubert nhiệt tình nhất trong
cuộc sống sau này. Nghe theo lời khuyên của Schober, Schubert đã rời bỏ nghề
dạy học để thành một nhà soạn nhạc tự do, điều mà Schubert luôn khao khát. Năm
1817, trở lại Vienna thời gian đầu, Schubert sống tại nhà của Schober. Tại đây
Schubert gặp Johann Michael Vogl, giọng nam trung nổi tiếng nhất Vienna thời
bấy giờ. Sự cộng tác giữa họ đã tạo nên những buổi hoà nhạc rất ấn tượng thu
hút được nhiều sự chú ý mà công chúng Vienna hồi đó gọi là Schubertiaden. Tuy
nhiên điều này cũng không che giấu được thực tế là chàng trai 20 tuổi Franz
Schubert vẫn rất khó khăn trong việc khẳng định vị trí của mình. Các nhà xuất
bản chỉ trả cho Schubert những khoản nhuận bút rất thấp khi in ấn các tác phẩm
của ông và Schubert vẫn phải ở nhờ nhà bạn.
Với bản tính vui
vẻ, thích giao thiệp Schubert kết giao được rất nhiều bạn bè và một người trong
số đó Anselm Huttenbrenner đã giới thiệu ông đến làm việc tại lâu đài của công
tước Esterhazy - nơi mà Haydn vĩ đại đã từng sống. Thời gian đầu tại đây
Schubert còn cảm thấy hạnh phúc nhưng dần dần nỗi buồn xâm chiếm ông và trong
vòng chưa đầy một năm ông đã trở về Vienna.
Mùa hè năm 1819,
một niềm vui nhỏ đến với Schubert. Trong chuyến lưu diễn cùng với Vogl tại
Upper, Áo, các lied của ông được đón giới yêu âm nhạc nơi đây rất yêu thích
trong đó nổi bật có lied “Die Forelle” (Cá hồi) và Ngũ tấu Piano giọng La
trưởng D.667 còn có tên khác là Ngũ tấu “Cá hồi”. Năm 1820, Schubert hoàn thành
Piano Sonata giọng La trưởng, D.664, tác phẩm thính phòng xuất sắc Tứ tấu đàn
dây giọng Đô thứ Quartettsatz D.703, âm nhạc cho vở kịch Die
Zauberharfe D.64 và vở opera Die Zwillingsbrüder D.647.
Lúc này Schubert
đã trở nên nổi tiếng nhưng sự nghèo khó vẫn không chịu buông tha ông. Các nhà
xuất bản chỉ chịu trả cho Schubert những khoản tiền ít ỏi để in những tác phẩm
của ông. Thường xuyên phải nhịn đói, đã có lần để đổi lấy một bữa ăn Schubert
phải sáng tác một bài hát tặng ông chủ quán.
Năm 1822 sự nghiệp
âm nhạc của Schubert có một bước ngoặt vĩ đại. Ông sáng tác bản giao hưởng số 8
giọng Si thứ “Bỏ dở” D.759 nổi tiếng. Không hiểu vì lý do gì bản giao hưởng chỉ
có 2 chương thay vì 4 chương như thông thường. Nếu như những tác phẩm được sáng
tác trong thời gian đầu của Schubert còn mang hơi hướng của trường phái cổ điển
Vienna thì đến bản giao hưởng này đã cho thấy một ngôn ngữ thể hiện hoàn toàn
khác vượt qua những qui tắc khắt khe, chặt chẽ để đến với những sáng tạo, tìm
tòi mới tạo lập nên một trường phái mới: Trường phái lãng mạn mà sau này đã lan
rộng ra khắp châu Âu trong suốt thế kỷ XIX trong đó Franz Schubert chính là
“người vĩ đại đầu tiên”. Tổng phổ tác phẩm này bị thất lạc trong hơn 60 năm kể
từ ngày được Schubert viết chỉ được tìm thấy một cách tình cờ trong ngăn kéo
tại nhà Anselm Huttenbrenner. Cùng trong năm 1822 này, Schubert hoàn thành bản
Mass giọng La giáng trưởng D.678 và tác phẩm nổi tiếng Wanderer fantasy cho
Piano D760 (sau này Liszt đã phối khí lại cho Piano và dàn nhạc). Sở dĩ có tên
gọi như vậy là vì bản nhạc này dựa trên lied “Der Wanderer” của Schubert.
Toàn bộ các sáng
tác của Schubert đều mang đậm màu sắc trữ tình, trữ tình đến mức nhiều nhà phê
bình sau này không lý giải được và họ phải thốt lên: “chất trữ tình đầy đậm đà
như mặt nước của con sông Rhein trôi êm đềm”. Phải chăng cuộc sống nghèo khổ
lại là nguồn cảm hứng bất tận và âm nhạc là người bạn sẻ chia mọi nỗi buồn đau?
Năm 1823, vở opera Rosamude,
furstin von Cypern (Rosamude, hoàng tử đảo Cyprus) và tập bài hát đầu
tiên Die Schöne Müllerin D. 795 (Con gái ông chủ cối xay xinh
đẹp) dựa theo thơ của Wilhelm Müller ra đời. Các tác phẩm của Schubert luôn
xuất hiện với số lượng đáng kinh ngạc cho thấy ông quả là một con người thật
phi thường. Một năm sau, Schubert sáng tác 2 bản Tứ tấu đàn dây giọng La thứ và
Rê thứ “Death and the maiden” (Thần chết và trinh nữ) cũng như Octet giọng Fa
trưởng D.803. Trong lần trở lại nhà công tuớc Esterhazy để dạy học cho 2 con
gái của công tước, ông viết “Divertissement a l'Hongroise” D.818 sau khi bị
những giai điệu dân ca Hungary chinh phục. Thời gian này, đời sống của Schubert
có khá hơn nhưng ông lại có những nỗi bực bội khác. Trong một bức thư cho bạn,
Schubert viết: “Tôi cảm thấy rất mệt mỏi. Sự tự do của tôi đang bị đánh cắp.
Tôi sẽ trở về và không bao giờ quay trở lại đây nữa”. Schubert là như vây, luôn
coi trọng tự do và không để những việc đời thường làm ảnh hưởng đến công việc
sáng tác của mình.
Trong thời kỳ mà
sự ổn định tạm thời về kinh tế xen lẫn với sự suy sụp về sức khoẻ, Schubert vẫn
không ngừng sáng tác, âm nhạc đối với ông như một niềm an ủi. Từ năm 1825 đến
1826, hàng loạt các tác phẩm quan trọng ra đời như Piano Sonata giọng La thứ,
Op. 42; giọng Rê trưởng, Op. 53 và bản giao hưởng cuối cùng của ông bản giao
hưởng số 9 giọng Đô trưởng (the Great) D.944. Bản nhạc này cũng bị thất lạc như
bản số 8 nhưng được Robert Schumann tìm thấy vào năm 1839 trong đống giấy tờ
còn sót lại của Schubert. Mendelssohn đã lần đầu tiên chỉ huy bản giao hưởng
này nhân dịp kỷ niệm mười năm ngày mất của Schubert.
Năm 1827,
Beethoven - người mà Schubert luôn kính phục trong suốt cuộc đời mất. Như dự
báo được số phận của mình, Schubert lao vào sáng tác như để chạy đua với thời
gian. Tập bài hát thứ 2 Winterreise D. 911 (Hành trình mùa
đông) cũng dựa theo thơ của Müller ra đời và cùng với tập thứ nhất là những
viên ngọc vô giá trong kho tàng thanh nhạc của nhân loại. Bốn Impromtu cho
piano, D.899, Trio giọng Si giáng trưởng và Fantasia cho violin và piano, D934
ra đời trong thời gian này cũng là những tác phẩm ưu tú.
Mười bốn lied
trong tập liên khúc thứ 3 và cũng là tập cuối cùng Schwanengesang D.957
(Bài ca thiên nga) được Schubert viết vào năm 1828. Sáu bài trong số đó là dựa
vào thơ của Heinrich Heine. Các tác phẩm cuối cùng của Schubert là 3 Piano
Sonata cuối cùng cũng như Ngũ tấu cho dàn dây giọng Đô trưởng D.956 cho 2
violin, viola và 2 cello.
Giữa lúc sức sáng
tạo đang dồi dào nhất, sức khoẻ của Schubert ngày càng trở nên xấu hơn. Ông
luôn phải vật lôn với căn bệnh thương hàn và do chữa bệnh bằng thuỷ ngân (cách
chữa bệnh phổ thông thời đó) nên bệnh tình ngày càng trở nên trầm trọng hơn.
Schubert bị suy sụp hoàn toàn vào tháng 10 năm 1828 sau khi trở về Vienna từ
Eisentadt, nơi ông đi thăm mộ của Haydn. Trong bức thư cuối cùng Schubert viết
cho Schober ngày 12 tháng 11, ông đã thể hiện sự tuyệt vọng của mình: “Tôi đang
ốm. Mười một ngày nay tôi hầu như không ăn uống được gì. Tôi đi không vững
nữa”. Schubert qua đời ngày 19 tháng 11 năm 1828. Và thể theo nguyện vọng lúc
cuối đời của ông, mộ của Schubert được đặt cạnh mộ của Beethoven tại nghĩa
trang Walhring. Vào năm 1888, hai ngôi mộ này được chuyển đến nghĩa trang
Zentralfriedhof bên cạnh Johann Strauss cha và Johannes Brahms.
Chỉ sống một cuộc
đời ngắn ngủi nhưng Schubert đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm thật đồ
sộ. Chín bản giao hưởng (bản giao hưởng số 7 bị thất lạc), khoảng 10 vở opera,
15 tứ tấu đàn dây, 8 Mass, gần 20 piano sonata, 500 tiểu phẩm cho nhiều nhạc cụ
và hơn 600 lied, những con số khổng lồ khiến chúng ta ngày nay vẫn chưa hết
kinh ngạc. Thật tiếc nuối cho Schubert và cho tất cả những người yêu âm nhạc, ở
độ tuổi 31, Bach và Haydn chưa có tác phẩm nổi tiếng còn Beethoven thì chỉ vừa
mới hoàn thành bản giao hưởng số 1. Sự ngọt ngào trong đau khổ của Schubert đã
thổi vào nền âm nhạc thế kỷ XIX những ngọn gió nhẹ trong lành, tươi mát mãi cho
đến tận bây giờ...
Cobeo (nhaccodien.info) tổng hợp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét