|
PHẢI SỐNG BẰNG
NỘI LỰC CỦA CHÍNH MÌNH
Lời giới thiệu:
Nguyễn Thị Thúy Quỳnh được mọi người biết đến không chỉ ở cương vị một nhà
tâm lý trị liệu/tâm lý lâm sàng mà còn ở góc độ một trí thức, một nhà văn
trẻ. Tốt nghiệp ĐH KHXH NV Hà nội Khoa khoa tâm lý học (năm 2001) thiết
nghĩ chị chỉ cần làm đủ trọng trách của một "Lương y kiêm từ mẫu"
như bao đồng nghiệp khác của chị đã và đang làm, chắc chắn chị có thể tìm
được cho mình một vị trí đứng nào đó trong ngành y. Nhưng có lẽ cái duyên
viết lách (thiên bẩm chăng) đã đưa chị đến với con đường Văn chương Nghệ
thuật - con đường tưởng như đầy hoa bướm, mộng mơ... ấy nhưng cũng đầy cạm
bẫy, thử thách, chông gai. Chị cho biết mặc dù chị mới chỉ thực sự quan tâm
đến nghiệp Văn chương từ 4-5 năm nay, nhưng sức sáng tạo, đặc biệt tư duy
thẩm nhận Văn chương Nghệ thuật của chị đáng khiến cho những cây bút gạo
cội trong làng Văn học Việt Nam phải giật mình để tỉnh ngộ.
Hai tiểu thuyết đầu tay "21 khúc biến tấu" (2004), "Chả Sất
cuộc rượu lúc 4giờ" (12.2006) đã mang đến cho chị không ít niềm vui và
cũng không kém sự nhọc nhằn, để rồi cũng từ những nhọc nhằn ấy chị đã chẩn
định được cho mình một bút pháp thích hợp - bút pháp của một nhà tâm lý lâm
sàng - mọi sự việc, vấn đề đều được chị nhìn nhận, đánh giá dưới lăng kính
quang học một cách rạch ròi, chuẩn xác nhưng cũng không kém phần tinh tế,
khúc triết và nhiều khi đầy gay cấn, trần trụi - trần trụi hóa mọi vấn đề
trong một xã hội mà "Bao công" luôn lăm lăm trong tay thanh
"thượng phong bảo kiếm" và luôn sẵn sàng “xuống một đường kiếm
ngọt nước” vào cổ đám mọi dân dám cả gan gióng trống đòi thưa kiện, là điều
không phải cây bút nào cũng dám xung trận. Với Nguyễn Thị Thúy Quỳnh chị
cho rằng: Phải nội nhập hóa bằng cách thống hợp giải mã những vấn đề của
môi trường đặt ra bên ngoài. Đó là điều kiện tiên quyết cho một người làm công
việc sáng tác...
Nhân dịp đầu năm Đinh Hợi 2007, xin được giới thiệu đến quí vị và các bạn
cuộc trò chuyện đầy thú vị và đầy tính nhân văn với nữ trí thức và cũng là
một cây bút trẻ trong nước Nguyễn Thị Thúy Quỳnh về hiện tình Văn Chương
Nghệ Thuật và Thời Đại (Để quí vị tiện theo dõi cuộc trò chuyện dưới đây sẽ
được viết tắt bằng: VH=người hỏi và NTTQ=người trả lời. Tựa đề do Việt Hà
tự chọn).
VH: Xin chào chị Thúy Quỳnh! Vài năm lại đây bầu không khí văn chương trong
nước có phẫn tĩnh lặng nếu không nói: không có sự đột biến lớn. Phải chăng
chất nhựa sống của những nhà văn trong nước đã cạn kiệt hay có một lý do
tiềm ần nào khác?.
NTTQ: Tôi lại có ý ngược lại anh một chút. Thời điểm mà tôi bắt đầu quan
tâm tới văn nghệ trong nước thực ra chỉ 4, 5 năm trở lại đây, cũng thú nhận
là quan tâm của tôi không có tính chuyên môn lẫn hệ thống. Tuy nhiên tôi
cho rằng, 2, 3 năm trở lại đây, bầu không khí văn chương hết sức nóng bỏng
và ồn ào chứ không phải tĩnh lặng. Hiện tượng xuất hiện những nhà văn trẻ/ chưa
thành danh với những tác phẩm mang tính chất tiểu thuyết, truyện thơ chứ
không phải truyện ngắn/bài thơ như Nguyễn Thị Ngọc Lan, tiểu thuyết“ phu
bòn „ 2003, Nguyến Thế Hoàng Linh, tiểu thuyết“ chuyện của thiên tài „2005
Nguyễn Thuý Hằng, tập thơ/truyện“ thời hôm nay, khoái cảm và điên rồ hợp lý
„ Trần Thu Trang, tiểu thuyết“Phải lấy người như anh „Vũ Phương Nghi, tiểu
thuyết“ Chuyện lan man đầu thế kỷ „2006...v..v. Ngoài ra thì những nhà văn
đã thành danh/lão làng như Nguyễn Huy Thiệp, tiểu thuyết “tuổi 20 yêu dấu“,
“Tiểu Long Nữ“ Nguyễn Bình Phương, tiểu thuyết “Ngồi „. Tô Hoài, tiểu
thuyết “Ba người khác„. Vấn đề là phần mục văn chương văn nghệ trên các
trang báo trong nước phát triển về đằng... giới thiệu sách nẫn nộn tiểu
thuyết tác giả Việt nam với tiểu thuyết dịch nước ngoài. Thêm đó báo chí
văn nghệ bù lấp chỗ trống thì và phát triển về đằng... dịch thuật báo chí
phong trào văn chương trẻ Trung Quốc. Như vậy là nhựa sống nhà văn đang trở
nên hết sức tràn trề và dạt dào chứ không hề cạn kiệt. Lý do tiềm ẩn ở đây
là khả năng thú nhận bế tắc của hệ thống các nhà phê bình
ăn giải chạy theo báo chí trong việc định hướng dư luận xã hội. Các đại hội
lý luận phê bình mang tính chuyên môn trong năm vừa qua, tôi cho rằng các
nhà phê bình chỉ làm được việc trưng bày mâu thuẫn và ẩn ức của tình trạng
yếu kém chứ chưa thực sự thú nhận sự kém cỏi làm cho trở nên bế tắc trong
chính nội tâm của họ. Nhà phê bình cạn chữ, nhà báo cạn chữ, sinh ra nhà
văn Việt nam trẻ mới xuất hiện với dịch giả Việt nam dịch tác phẩm Nô ben
thế giới khó xin giấy phép để chung một đống hỗn độn ở giữa báo chí. Thành
ra là không khí ngùn ngụt bên trong làng văn có một cái vẻ ngoài tĩnh lặng
hết sức bệnh hoạn.
VH: Là một nhà văn trẻ của thế hệ chuyển giao từ 7X sang 8X chị có cảm
thấy mình bị thiệt thòi; có một khoảng trống nào đó khi sáng tác? Chị có
suy nghĩ gì về nền Văn chương hậu chiến tranh?
NTTQ: Tôi cảm thấy khá thiệt thòi... khi không thoải mái
lắm ở trong tình trạng bị nhốt trong nhóm từ “nhà văn trẻ thế hệ
chuyển giao từ 7X sang 8X“.Gần đây đọc một bài báo tiếng Việt dịch tổng
hợp từ Trung Quốc tôi mới biết cái từ này cũng xuất phát từ Trung Quốc. Tôi
đành phải nhắc lại ý bài báo đó, cá nhân một người trưởng thành, giá trị
tri thức của anh ta/cô ta phải được đo từ chính những nguyên tắc học thuật
tri thức đó chứ không phải đo bởi tuổi tác và khoảng cách thế hệ. Từ 8X,
7X, 9X..vv.. hoặc tuổi teen tuổi tin như thuật ngữ của báo Hoa học trò Việt
Nam thực chất chỉ ra một sự từ chối đối diện với vấn đề thực chất của nó.
Thuật ngữ 7X, 8X, thể hiện một thế hệ con cháu đe doạ bị nuốt chửng bởi ông
bố bà mẹ nó (tri thức ngút trời không sao vượt qua chẳng hạn). Sự đe doạ
này, nó buộc phải chống đỡ bởi việc những lời phát biểu của nó có một tấm
chắn là độ tuổi của nó, tương đương những câu phát biểu của nó (ngô nghê
chẳng hạn) phải được chấp nhận. Như vậy, ngay khi mà những thế hệ tri thức
trẻ như chúng tôi được quyền phát biểu những suy nghĩ của chính mình (nhà
văn trẻ Việt nam so với nhà văn trẻ Trung Quốc chẳng hạn), sau đó những suy
nghĩ này được quyền phán xét chúng một cách ngang bằng bằng tiêu chuẩn học
thuật với thế hệ trước đã là một khoảng trống mà tôi cho rằng, một mình tôi
không sao đủ sáng tác để có thể lấp đầy. Công cuộc của nó phải là một sự
vận động khổng lồ của nhiều bạn trẻ cùng độ tuổi như tôi khác nữa. Sự vận
động khổng lồ này, may ra mới có thể trả lời cho câu hỏi của một nền văn
chương “hậu chiến tranh“ của Việt nam. Cách đây không lâu, tôi dự định thử
viết hẳn một bài luận phê bình theo quan điểm phân tâm học về tập thơ “thời
hôm nay, khoái cảm và điên rồ hợp lý„ của Nguyễn Thúy Hằng vì nhận
thấy nhiều điểm ám ảnh cùng vấn đề với tôi mà chính tôi với những ám ảnh
này đang trở nên bế tắc. Tôi nhận ra là, trong tác phẩm của Hằng, sự tình
“cắt đuôi tiền nhân“ (ý của nhà thơ Dư thị Hoàn), từ chối một thực tế đất
nước (vừa trải qua một cuộc chiến tranh thảm khốc chẳng hạn). Đó là một sự
từ chối thực tế một cách triệt để, tâm thần, bấn loạn và đau xót. Dấu tích
còn sót lại của cái gọi là Việt nam chỉ còn những dấu nối mờ nhạt, mã hoá
và biến dạng. Ngay cả trong nỗi ám ảnh của tôi và trong tác phẩm tôi viết
cũng không hề có điều này, cái gọi là chiến tranh. Như vậy, sự tình có thể
gọi là “nền văn chương hậu chiến tranh” chỉ có nghĩa khi
mà tác phẩm văn học đề cập đến nó trực diện và giải mã nó. Nếu như Bảo Ninh
diễn giải/kể lại nó cần phải xác thực một hiện thực cần phải nhìn bằng một
góc cạnh khác ở “Nỗi buồn chiến tranh“. Sự diễn giải như
một người tham gia vào những ngày tháng cuối cùng của chiến tranh và buộc
phải trực diện thì thế hệ chúng tôi những kẻ không trực tiếp phải đối diện
với cuộc chiến, nhiệm vụ nhận diện xác thực và giải mã ý nghĩa của nó để có
thể hiểu được, có thể chấp nhận được, có thể tiêu hoá được trở nên hết sức
nặng nề. Tôi cũng chưa hình dung được nó sẽ là điều gì và công cuộc đó sẽ
khủng khiếp thế nào.
VH: Nhiều người nhận xét: những nhà văn trong nước giống như một đàn cá
bống sống trong một vũng bùn xăm xắp nước và luôn có nguy cơ bị khuynh đảo
tới trắng bụng, khá hơn là đủ ngoi ngóp để thở?
NTTQ: Ẩn dụ của câu hỏi này rất thú vị. Thời điểm mà tôi bắt đầu tôi mang
tập tiểu thuyết “21 khúc biến tấu“ những năm 2002-2003, tới các nhà xuất
bản tại Hà nội là thời điểm báo chí và giới trí thức trong nước rộ lên câu
hỏi “tại sao văn chương/khoa học Việt nam không có giải Nô ben?” Ẩn dụ về
con cá bống làm tôi liên tưởng đến câu chuyện cổ tích Tấm Cám. Con cá bống
mầu nhiệm mà bụt đã cho Tấm khi nàng bị mẹ con Cám đối xử tệ bạc. Trả lời
cho câu hỏi có vẻ ngớ ngẩn về một khả năng hoang tưởng hay thực tế một giải
Nô ben văn chương thì, con cá bống ở đây quả là đang sống trong một chiếc
ao bị tát cạn chuẩn bị cho một cậu bé nào đó bắt về đưa cho mẹ mang ra chợ
bán hoặc cho vào nồi làm món kho tộ. Câu hỏi của nó là thoát khỏi vũng nước
bùn đó, lặn sâu dưới lớp bùn đó để còn khả năng sống sót hay là ngoi ngóp
thở để sau đó chết trong nồi cá kho. Trường hợp thứ 2 cho vũng bùn xăm xắp
nước với một bầy cá bống khó thở đó là nắng nóng của mặt trời và tự nhiên
là thủ phạm cho việc hết nước, lý do mà trước đó chiếc ao, con sông trở
thành vũng bùn xăm xắp nước. Nếu quả vậy thì vấn đề không phải làm sao để
thở, trắng bụng dập đầu mà phải kiên nhẫn chịu trận kém đường thở sao cho
sống sót mà chờ mưa thôi chứ biết sao giờ.
VH: Có một luồng nhận định: thế hệ nhà văn thời 3X-7X trong nước là thế
hệ thích ôn nghèo gợi khổ (ca ngợi công ơn đảng, Bác và hào quang chiến
thắng), trong khi đó tại hải ngoại những thế hệ tương đồng (khác giới
tuyến) này cũng chỉ thích mơ về đường xưa lối cũ, một thời oanh liệt, vàng
son và mất mát đau thương. Nhưng trước cơn lốc của Kinh tế thị trường, nơi
mọi giá trị đều bị khuynh đảo, những nhà văn trong nước đã không có đủ nhuệ
khí để đối mặt; tại hải ngoại trong một môi trường tự do, dân chủ những thế
hệ này cảm thấy vừa như chới với vừa như trống vắng. Quan điểm của chị?
NTTQ: Tôi cho rằng có nhiều quan điểm nhận diện về thực tế. Tuy nhiên việc
cần phải suy xét điều gì sẽ cần phải đối mặt tiếp theo để có đủ nhuệ khí,
sau đó là điều gì đã vừa mất đi nhưng vẫn còn ẩn mặt đâu đó để tiếp tục tấn
công không sao xác định được cũng rất cần thiết. Có thể đó là lý do tại sao
lại chơi với trống vắng của thế hệ nhà văn hải ngoại. Thời kỳ mở cửa/đổi
mới những năm 86-90 là một thành tựu như một mục đích mà thế hệ nhà văn
trong nước lấy làm mục tiêu với nhuệ khí vàng son của Đảng Bác. Với điều
này thì thế hệ hải ngoại khác giới tuyến, khi hướng về trong nước lấy điểm
đó làm mục đích cho việc chứng minh có nhiều nhuệ khí mà bạn có thể tìm
thấy được ngoài Đảng Bác chẳng hạn. Tuy nhiên có thể vấn đề là thế hệ kế
tiếp tại Hải ngoại có thể chưa nhận ra, hoặc chứng minh được cho thế hệ
trước đó của họ thấy. Tôi cho rằng đã qua thời điểm tìm sự phản ánh mang
tính chất đối lập để nhận diện một cái tôi lấy mình làm trung tâm vũ trụ
đang trở nên hết sức khó chịu. Sự tự do dân chủ nhất thiết phải là một nhu
cầu đến từ bên trong nội tâm cá nhân trước xã hội với khái niệm/định
nghĩa/hiểu biết lý giải của riêng nó chứ không phải là tự do dân chủ áp đặt
từ bên ngoài vào mà cá nhân đó không biết nó mọc từ đâu ra.
VH: Một thần tượng nhà văn của chị ở trong nước và hải ngoại?
Cần phải thú nhận là tôi không có được học bài bản về văn chương và không
có đọc hết hoặc biết hết những nhà văn Việt nam từ trước tới nay. Thí dụ
như một số tác phẩm của nhóm nhà văn tự lực văn đoàn như Nhất Linh, Khái
Hưng tôi chưa có đọc, hoặc một số tác giả người Việt trẻ viết văn bằng
tiếng Anh, Pháp gì đó tôi khá tò mò (rất tiếc là tôi không có nhớ tên). Tuy
nhiên những nhà văn trong nước và hải ngoại làm tôi cảm thấy thú vị và cần
phải học tập thì quả thực rất nhiều. Tôi không thích dùng chữ “thần tượng“.
Có thể tôi hơi kiêu hãnh một chút. Thần tượng theo tôi là một mẫu người
hoặc mẫu nhân cách tài năng nào đó mà là đích đến mà mình không thể vượt
qua. Nếu vậy thì tôi chưa có tìm thấy thần tượng vậy trong các nhà văn Việt
nam.
VH: Theo chị có hay không tồn tại một nền văn học hải ngoại? bởi thực
thế văn học hải ngoại bị coi là đứa con rơi (phi chính thống) và trong nước
mới được gọi là chính thống. Liệu hai nền văn học này có thể giao thoa với
nhau?
NTTQ: Tôi cho rằng, tất nhiên là có và đã tồn tại một nền văn học tiếng
Việt ngoài biên giới Việt Nam. Nói chính thống/phi chính thống dành cho một
trung tâm (với nghĩa chính danh/chính thống). Khái niệm “trung tâm“ mang
nghĩa là một điểm chính giữa không cần một điểm khác để so sánh. Vì vậy tôi
cho rằng nếu như “văn chương chính thống đó“ coi văn chương “phi chính
thống“ là một đứa con rơi thì nên tôn trọng nó. Từ chính thống và phi chính
thống ở đây liên quan mật thiết tới một cái tôi chính thống làm trung tâm nào
đó đã là một nhận thức về thực tế rất xưa cũ . Tôi dùng từ “xưa cũ“ vì sự
giao thoa này đã xảy ra rồi, một cách hết sức hiển nhiên. Nếu như cá nhân
một ai đó bất kỳ nhận ra hiểu biết về cái tôi trung tâm không còn hợp thời
ở thời đại này thì một thực tế càng ngày càng rõ nét chứng minh cho họ
thấy, sẽ sáng tỏ rất nhiều vấn đề mù mịt chính họ trong bối cảnh toàn cầu
này. Tất nhiên nếu như vậy còn nhiều người giữ quan điểm chính thống/phi
chính thống này thì đó là vấn đề của họ, họ có quyền vậy và cũng cần phải
tôn trọng họ cho điều này.
VH: Quan điểm sáng tác của chị? Lối văn chương trần chuồng đang được coi
là một idol cho giới cầm bút trẻ trong nước. Cảm nhận của chị?
NTTQ: Giới cầm bút trẻ trong nước đang“ idol“ một lối văn chương“trần
truồng“? tôi cảm thấy nghi hoặc cho nhận định này. Tuy nhiên, thú thật với
anh là tôi không hiểu từ “ idol“ ở đây dịch ra tiếng Việt có nghĩa là gì.
Nguyễn Thế hoàng Linh, Ngọc Tư và Đỗ Hoàng Diệu, hay Từ Nữ Triệu Vương,
Lynh Barcadi tôi cũng không thấy họ viết “trần chuồng“ bằng Nguyễn Bình
Phương trong “Ngồi“ hoặc Tô Hoài trong “Ba người khác“. Tôi cho rằng, thực
tế của một cá nhân khi họ bỏ quần áo, trở nên “trần chuồng“ thì đó cũng
không phải là một thực tế duy nhất hoặc cuối cùng của họ. Rất tiếc, đây chỉ
là một ẩn dụ thú vị mang tính triết lý thôi. Ẩn dụ “trần chuồng“ dành cho
câu hỏi giải mã về hiện thực cuối cùng của cá nhân cái tôi, đó là ám ảnh
then chốt trong “21 khúc biến tấu“. Mới đầu khi tôi mang bản thảo tới nhà
xuất bản nó có tên “Với tới hiện thực“, sau đó người biên tập của Nxb hội
nhà văn là ông Tạ Duy Anh đề nghị đổi tên nó là “21 khúc biến tấu“. Tôi
đồng ý cho việc đó thậm chí con sáng tác thêm 2 chương cho cái tên thú vị
này. Như vậy là quan điểm sáng tác của tôi, nếu có liên quan tới sự “trần
chuồng“ theo nhận định của anh về những người cầm bút trẻ trong nước thì là
một chủ đề rất cũ.“Không có một hiện thực cuối cùng duy nhất mà có rất
nhiều hiện thực cùng tồn tại“. Như vậy sự “trần chuồng“ của cá
nhân/cái tôi lúc này đã trở nên không còn quá lắm hấp dẫn hoặc tối kỵ bí
mật hay cấm kỵ đặc biệt với nó hoặc với xung quanh.
VH: Thực tế cho thấy những tác phẩm văn học hải ngoại muốn được phổ biến
trong nước phải làm một „thẻ căn cước“ theo kiểu: nhập gia tùy tục. Nói
khác đi: phải đảm bảo tính hồng-chuyên hoặc thuần những chuyện mây gió
trăng hoa tuyết núi sống (vô thưởng vô phạt), nhưng nếu kèm chất „thép“
chắc chắn sẽ bị rơi vào quên lãng?
NTTQ: Tôi thấy một số tác phẩm văn học hải ngoại được in trong nước cũng
hết sức thú vị đấy chứ. Nếu như nhiều vấn đề mà văn giới hải ngoại muốn tri
thức trong nước phải hiểu “chất thép, chất hồng chuyên“ của riêng nó thì họ
đã đạt được rồi đấy thôi, bằng sự xuất hiện của internet. Chỉ cần “gu gồ“
một từ bất kỳ là những trang mạng văn chương hải ngoại xuất hiện rồi đọc
không sao hết được. Còn việc xuất bản trong nước bằng giấy rồi để và làm
sao không rơi vào quên lãng xa hơn, vấn đề là nó được đem ra hiểu/ lý giải
tương ứng với hiện thực trong nước như thế nào. Thì tôi đã thấy bắt đầu có
rồi đấy thôi. Đầu tháng 11.06, cách đây vài tháng có một hội thảo đề cập
tới việc này ở Viện văn học Việt Nam. Hội thảo có tên “văn học Việt nam
trong bối cảnh giao lưu quốc tế“. Trong hội thảo này có nhắc đến khá nhiều
vấn đề của văn học hải ngoại một cách sát sườn hoặc lửng lơ. Tuy nhiên rất
tiếc là các nhà báo Việt nam quá ngơ ngác trước sự tình này. Chính tôi cũng
hết sức ngạc nhiên với tính chất mới mẻ đột ngột của nó mà không sao viết
được một bài báo hẳn hoi.
VH: Theo chị yếu tố dân chủ có thực cần thiết cho môi trường sáng tác văn
học? Tại sao?
Tất nhiên yếu tố dân chủ thì cần thiết rồi, cho mọi hoàn cảnh và vấn đề chứ
không chỉ riêng văn học. Tuy nhiên, tôi nhắc lại câu trả lời từ câu hỏi
trước.“Sự tự do dân chủ nhất thiết phải là một nhu cầu đến từ bên trong
nội tâm cá nhân, trước xã hội với khái niệm/định nghĩa/hiểu biết lý giải
của riêng nó chứ không phải là tự do dân chủ áp đặt từ bên ngoài vào mà cá
nhân đó không biết nó mọc từ đâu ra„. Như vậy, yếu tố dân chủ
trong môi trường sáng tác văn học phải đến từ nội tại sâu sắc của nhà
văn/nhóm nhà văn/hội nhà văn trước xã hội mà không thể áp đặt một “dân chủ
cần phải“ cho sự tình cám cảnh của một cá nhân nhóm người nào đó nhìn vào
kẻ đó mà ngao ngán. Đôi khi lại có một nhu cầu nội tại trái ngược một cách
vô thức của chính cá nhân là “được trở mất dân chủ“ để có môi trường sáng
tác cơ đấy.
VH: Chị có thường xuyên được đọc những tác phẩm văn học hải ngoại? Nhận
xét của chị.
NTTQ: Tôi khá thường xuyên đọc những tác phẩm văn học hải ngoại, bắt đầu
cách đây 4, 5 năm khi tôi mang tập bản thảo “21 khúc biến tấu“ tới các nhà
xuất bản ở Hà Nội. Đôi khi tôi theo dõi còn thường xuyên hơn văn học trong
nước. Vì trước thời điểm quyết định in cuốn sách tôi không hề có quan tâm
gì nhiều tới văn nghệ báo chí. Lý do chính là vì hệ thống văn nghệ trong
nước chưa có đưa lên mạng, hoặc rất ít. Mà sách báo văn nghệ trong nước khó
tìm mua. Tôi thì thi thoảng hay rơi vào tình trạng “thất nghiệp phải“ nên
không có nhiều tiền. Tuy nhiên cũng vui mừng là cho tới thời điểm hiện giờ
những tác giả cả già /có tên tuổi lẫn trẻ/ mới xuất hiện trong nước đều đưa
tác phẩm mới nhất của mình lên trang mạng hải ngoại thay vì báo giấy (hiện
giờ số lượng họ là ngang ngửa với tác giả hải ngoại trên mấy trang đó, tôi
cũng không hiểu sao lại vậy!).Thời gian đầu, những tác phẩm văn học hải
ngoại khiến tôi khá hứng thú, tuy nhiên sau đó thì tôi cảm thấy mệt mỏi
trong việc hiểu nó tương quan với thực tế thế nào. Có quá nhiều thông tin
ngoài văn học được đưa lên một cách ồ ạt và tống táng cho xong của mấy
người quản lý mấy trang web đó cùng sự đồng tình kiểu nhại lại/vẹt của mấy
người tri thức trong nước. Đôi khi là những người tri thức tên tuổi hàng
đầu, như ông Nguyễn Trọng Tạo, Lại Nguyên Ân, Nguyên Ngọc, Phạm Xuân Nguyên
vv.vv.. lúc nhận ra tình huống này tôi hết sức ngạc nhiên. Tôi cũng không
cho rằng mấy người này hiểu lắm được thực chất vấn đề khi đưa ra thông tin
chính trị các thứ ồ ạt khi mà trước đó thế hệ trẻ như chúng tôi hoàn toàn
bị bưng bít và không biết gì cả.
VH: Là tác giả trẻ lại từ 7X sang 8X (Vietnamnet) chị đã cống hiến cho
độc giả hai tập tiểu thuyết „21 khúc biến tấu“ và „Chả Sất cuộc ruợu lúc
4giờ“. Phản ứng của giới „cầm cân nảy mực“ trong địa hạt văn chương nói
riêng và của độc giả nói chung?
NTTQ: Tôi nghĩ tôi không có “cống hiến“ cho độc giả 2 cuốn tiểu thuyết đó,
mà tôi “tống vào mặt“ họ, trước đó là tôi “ăn vạ“ giới xuất bản và những
tri thức Việt liên quan tới tình huống này. Phát biểu có vẻ ngạo mạn nhưng
thật chất của vấn đề, tôi cho rằng với việc mang tập bản thảo “21 khúc biến
tấu“ tới 5, 6 nhà xuất bản ở Hà nội trong vòng 2 năm, từ năm 2002-2003 với
để tại trung tâm văn hoá Đông Tây 1 năm, tức là cuối năm 2004 nó mới được
in và phát hành, chính trong quá trình này tôi mới thực sự viết tác phẩm
này, và câu chuyện thực sự đã khởi động ngầm tất cả những ẩn ức văn chương
Việt của giới làm sách tại Hà nội và sau đó là cả Tp HCM, Việt nam. Tuy
nhiên giá phải trả cho can đảm đó quả thực đã đủ lý do để tôi viết tiếp
“Chả Sất cuộc rượu lúc 4h“. Như vậy tình huống tất nhiên xảy ra trên bề mặt
của nó là... im ắng, chả có chuyện gì cả... Đằng sau sự im ắng giả tạo đó,
tất nhiên những người hăng nhất thì họ chửi bới âm thầm (trên mạng hoặc
trong những cuộc bia bọt) và tức lộn ruột (với chính họ ngoài đời thực).
Tôi có nhận được những ủng hộ, tuy nhiên rất ít, những người này thường le
lói rùng mình cảnh báo khi nhìn thấy tôi ăn vạ và tống vào mặt mọi người
đống chữ đó.
VH: Những tối kỵ thường gặp phải khi chị viết tiểu thuyết nói riêng và
sáng tạo văn học nói chung?
NTTQ: Tối kỵ hoặc vùng khuất của câu chữ tôi ý thức và không thể đề cập đến
được khi viết?. Một câu hỏi rất khó. Tôi cho rằng vấn đề là giải pháp mà
mình/kẻ viết với thái độ ngầm ẩn làm giả thiết cho câu chuyện được lựa chọn
kể ra chứ không phải vấn đề được chỉ ra rành rẽ. Vấn đề được chỉ ra trực
diện hoặc kết tội đích danh nguyên nhân (bi thương đau xót chẳng hạn..)
luôn là nhu cầu lành mạnh. Tuy nhiên việc này phải dành cho pháp luật hoặc
toà án, không phải nhà văn với nhà xuất bản. Sau khi nhà văn bày vẽ một
hiện thực trân trối thối nát hoặc hiện thực xinh tươi ngào ngạt thì công
việc dành cho giả thiết ngầm của của kẻ viết đó phải là thúc đẩy một sự “tự
ý thức nội tâm“, có thể là ý thức về sự hèn nhục hoặc ý thức về một niềm tự
hào sâu kín chẳng hạn.
VH: Trên Vietnamnet chị có bật mí: cuốn tiểu thuyêt thứ hai này chị đã
nhận được một khoản nhuận bút đủ nuôi mình mấy tháng. Liệu có quá rẻ mạt so
với những chất xám chị bỏ ra?
NTTQ: Tôi không cho rằng đó là một tình huống “quá rẻ mạt so với những
chất xám của mình bỏ ra“ . Phải chăng tự tôi đã không có coi trọng
chất xám của mình? Câu trả lời này thực sự xác định nên vị trí/ giá trị
thực của tri thức hoặc những giá trị nhân văn mà tôi, kẻ muốn tham dự vào
giới trí thức Việt hiện giờ phải đương đầu. Lúc mà đưa cái giá đó tới ông
giám đốc nhà sách Kiến Thức thậm chí tôi cho rằng tôi đã đưa ra một cái giá
cao. Đó là kinh nghiệm xương máu của tôi trong việc làm việc với trung tâm
văn hoá Đông Tây in cuốn “21 khúc biến tấu“. Thậm chí giữa năm 2005 việc
tôi quyết tâm đòi số nhuận bút cuốn sách là một câu chuyện khủng khiếp. Kỳ
quặc là tôi kiên nhẫn gọi điện thoại rất nhiều lần trong vòng vài tháng tới
đó đều nghe họ nó trả nhuận bút qua đường bưu điện rồi, tuy nhiên tôi lại
không có nhận được. Chính lúc tôi quyết định nghỉ việc tại cơ quan (lúc đó
là ở Biên Hòa) ra Hà nội để trực tiếp lấy số tiền này thì tôi lại nhận
được. Với cái giá 3 triệu rưỡi tiền Việt trả một năm sau khi in và phát
hành của “21 khúc biến tấu“ thì tôi cho rằng 5 triệu đồng tiền Việt trong
vòng 5 tháng trả trước cho một cuốn tiểu thuyết chưa hoàn thành hoàn toàn
không hề rẻ mạt một cách vô lý màcao giá một cách hợp lý. Tôi ý
thức rất rõ vẻ bất an của giới trí thức trong nước với mọi tình
huống của thực tế xã hội đang luôn trở lên phiêu lưu nguy
hiểm không sao xác định được mà họ đang đối đầu hiện giờ. Quả thực
như vậy, tôi cho rằng, số tiền không nhiều đó dành cho khoảng cách mà nhà
sách Kiến Thức cảm thấy không quá mạo hiểm với nó. Có thể trước đó tôi có
một nhận xét rất riêng tư rằng nhà văn Việt nam sống bằng
nhuật bút đếm trên đầu ngón tay, mà họ cũng hiếm khi có trường hợp được trả
nhuận bút trước cho một cuốn tiểu thuyết chưa hoàn thành. Thường trả nhuận
bút sau, khi sách đã bán chạy, có lãi. Còn nếu sách không có bán chạy, có lãi
mà lỗ thì chính họ phải trả chi phí cho việc in, liên kết xuất bản và phát
hành. Công việc phưu lưu này, nhà văn gánh chịu tổn thất với nhà xuất bản
là tiếng tăm anh ta/cô ta với hy vọng vớt vát được. Còn tổn hại thực tế nhà
xuất bản/ đơn vị liên kết gánh chịu thì khó có thể diễn đạt rùm beng như
nhà văn được. Như vậy, là trường hợp của tôi là một đối chứng quá thú vị
cho trường hợp phản kháng của nhóm Mở miệng (bằng việc in sách phô tô và
truyền tay nhau ) cho việc in sách thơ/truyện không phân biệt chất lượng
của các nhà xuất bản tại Việt nam quá dễ dàng (bằng chi tiết tác giả thường
tự bỏ tiền ra in và tự phát hành qua việc biếu tặng).
VH: Chị có thể cho độc giả hải ngoại đôi nét chấm phá về tiểu thuyết
"Chả Sất cuộc ruợu lúc 4giờ"?.
NTTQ: Thực sự đó là một sự tình trình diễn mang tính chất giải mẫn
cảm cho những rắc rối đang trở nên bế tắc của ngành xuất bản liên
quan tới trí thức, học thuật, văn nghệ, chính trị như thế nào. Cuộc trình
diễn giải mẫn cảm này được khởi xướng từ năm 2002 với bản thảo “21 khúc
biến tấu“ kết thúc vào cuối năm 2004 và giờ, cuộc trình diễn thứ 2, bản
thảo tiểu thuyết “ Chả Sất cuộc rượu lúc 4h” tính từ 10. 2006 (tính thời
điểm đầu tiên ký hợp đồng viết cuốn sách với nhà sách Kiến Thức) đến nay.
Tôi không có ngại khi nhắc tới từchính trị ở đây. Tôi cho rằng,
tình huống ám ảnh trong mối quan hệ chính trị và văn chương ở Việt nam là
một sự tình hiển nhiên với những vấn nạn riêng của nó. Nếu như quả thực có
nhiều sách chất lượng in ra bị cấm như các nhà văn nhà báo, nhà trí thức nhà
văn nghệ trong nước truyền mồm hùng hổ và ấp úng thì thọt trên
giấy, đanh thép ảo trên computer với nhau điều này thì, với những
người viết trẻ mới vào nghề như tôi điều đó thuộc về trách nhiệm của chính
họ cần phải thấu hiểu và giải mã tại sao lại như vậy một cách bình tĩnh và
tự tin. Có được thái độ này họ mới trưởng thành được chứ không phải thái
vậy để hù doạ mơ hồ đẩy trách nhiệm cho thế hệ trẻ chúng tôi phải chịu
trách nhiệm một cái tội lỗi nào đó gì đấy trầm trọng của nợ đâu đấy mà
chúng tôi không hiểu từ đâu chui ra. Như vậy, từ chính trị ở đây
được hiểu là thái độ có trách nhiệm của nhà văn và hệ thống xuất bản/báo
chí tri thức còn lại xung quanh, trước trong và sau tác phẩm văn chương
xuất hiện cần phải hiểu biết và giả mã nó trong mối tương quan với hiện
thực xã hội như thế nào một cách can đảm, tự tin và có văn hoá. Cuốn
tiểu thuyết này là một câu chuyện được kể giải nghĩa là câu chuyện “21 khúc
biến tấu“ của một cô Quỳnh/Quyên thực nào đó ở Việt nam bỗng trở nên một cô
Sất ảo trên cõi internet toàn cầu tiếng Việt một ngày đẹp trời. Sự tình này
diễn ra với câu hỏi về một hiện thực với tới bởi thế kỷ 21 hoá ra được nhận
ra từ một cơn tỉnh táo vớ phải mà Quỳnh/Sất tình cờ túm
được sau một cuộc rượu vào lúc 4h. Và, hiện thực mà trên mặt đất cô ta viết
bởi một hiện thực ở trên mây trời, chúng quay ngược lại chính cô ở một cơn
phân liệt cả chùm nào đó gì đấy, mà cô ta không sao kể rõ ràng minh bạch ra
được.
Trong bản thảo gần đây nhất của tiểu thuyết “Chả Sất cuộc rượu lúc 4h“ tôi
có để một số nhân vật có tên trùng với tên một số nhân vật trong cuộc đời
thực. Tuy nhiên cố tình nêu ra như vậy tôi cũng không cho rằng đó là một
lối văn chương “trần chuồng“. Cái từ này sẽ được gợi cảm chính xác hơn nếu
tôi viết văn miêu tả chi tiết cảnh “lên giường“. Việc trần truồng ở đây,
nếu ở chi tiết chỉ tên đích danh nhân vật tên tuổi trong cuộc đời thật
trong đó có chi tiết “bị tống vào giường“. Chi tiết này, nhân vật chính với
nhân vật phụ có tên tuổi gợi cảm (vì trùng với tên tuổi thật một số người
ngoài đời thực) tôi cũng không cho rằng là hiện thực cuối cùng cần phải
truy vấn. Trong phụ lục hợp đồng cuốn tiểu thuyết này với nhà sách Kiến
Thức có phần sửa bản thảo khi biên tập nhà xuất bản/nhà sách yêu cầu. Nếu
tôi không đồng ý sửa thì có thể tôi bị kiện ra toà hoặc phải trả lại số
tiền nhuận bút đã ứng trước.Vậy thì, văn chương trẻ viết trần
chuồng, nếu như tôi là một đại diện“sắp sửa“ cho nó, việc trở nên trần
chuồng hay “mặc lắm quần áo kín mít „ hoàn toàn
là do ẩn ức bên trong của mấy người làm xuất bản/sách và tri thức liên quan
trong xã hội muốn bày đặt nó ra thế. Họ cần phải ý thức và can đảm đảm
đương cho điều này nếu như họ tìm thấy ở đó lý do xác đáng.
VH: Theo chị môi trường nào thích hợp nhất cho sáng tác văn học nghệ
thuật? vì có nhận định: tự do quá sẽ rơi vào tình trạng loạn ngôn, thậm chí
chẳng biết viết gì. Ngược lại nhiều khi bị kìm kẹp lại có thể đẻ ra những
tác phẩm sáng giá?
NTTQ: Theo tôi, tự do hay kìm kẹp là cách mà cá nhân người sáng tác quan
niệm theo cách của riêng anh ta/cô ta thống hợp được. Ngoài một môi trường
bên ngoài thích hợp để có thể biểu hiện, trưng bày, bày bán, thấu hiểu,
đồng cảm tác phẩm, thì một môi trường bên trong cá nhân người nghệ sĩ cũng
quan trọng không kém. Môi trường bên trong cá nhân này phải nội nhập hóa
bằng cách thống hợp giải mã những vấn đề của môi trường bên ngoài đặt ra,
đó là điều kiện của sáng tác. Nếu bên trong cá nhân nghệ sỹ sự nội nhập kìm
kẹp của môi trường bên ngoài ào ạt trở nên chất chứa không có giới hạn, quá
tự do thì cũng có thể có những tác phẩm biểu diễn tình trạng loạn ngôn/điên
rồ/phân liệt hoặc một thực tế của môi trường quá tự do bên ngoài kiến tự
bên trong cá nhân nghệ sĩ chả thấy vấn đề gì cả và chả biết bày đặt gì. Tác
phẩm của một môi trường bên ngoài tự do hay kìm kẹp được giải mã bên trong
cá nhân kiểu này có thể dở/hoặc hay, tùy thuộc rất nhiều và người diễn
giải. Như vậy là không có một môi trường nào hoàn hảo nhất mà nghệ sĩ chờ
đợi thụ động cả, chính cá nhân nghệ sỹ phải tìm cho riêng mình một môi
trường có thể thở/ngóc ngách/hay bày đặt chặt chàng rõ ràng được một cách
tương đối.
VH: Cần hay không một cuộc cách mạng ngôn từ trong văn học? bởi tôi có
cảm tưởng giới viết trẻ trong nước đang tìm tòi cho mình một bước đột phá
mới cả về câu chữ lẫn tư duy (ý thức hệ). Và đã có những lúc tưởng được
công chúng gật gù, tán thưởng, tuy nhiên sự kiện ấy kéo dài không lâu và
đang có nguy cơ bi xì hơi?
NTTQ: Một cuộc cách mạng ngôn từ ? nếu có thì giới viết trẻ trong nước khi
họ biểu hiện ra tình trạng vậy, nó chưa được ai gọi tên là “ một
cuộc cách mạng ngôn từ“ như anh nói. Nếu đúng vậy thì cuộc cách
mạng này tất nhiên là cần phải xảy ra chứ. Hiện tượng copy paste trong văn
chương, báo chí, trường học, xã hội rồi nói viết kiểu chát chít đã là một
vấn nạn rất thực rồi. Có thể cuộc cách mạng không được gọi tên này đang bị
xì hơi ở đâu đó thì hãy để cái thực tế ngôn từ cũ rỗng đó buộc phải tự ý
thức rằng nó cần phải chết và thực sự là nó đã chết rồi trên mặt bàn mặt
giấy rõ ràng đi.
VH: Ngoài viết văn chị còn làm thơ? Mảng nào chị cảm thấy gay cấn nhất?
NTTQ: Đó là sự đầu hàng của tôi trong công việc/ nghề nghiệp mà tôi được
học tại trường Đại Học, công việc của một nhà tâm lý lâm sàng trong bệnh
viện. Rất thú vị đó cũng là lý do chính để tôi viết tiểu thuyết “21 khúc
biến tấu“. Gần đây thì tôi còn thử viết báo. Tuy nhiên trực diện sát sườn
thực tế xã hội và có cái quyền đặt tên, mô tả, lên tiếng khiến tôi cảm thấy
hơi hoảng. Việc viết được là tốt thôi, tuy nhiên còn nơi gửi đăng và nơi mà
họ có thể chấp nhận kiểu tư duy của tôi, đó là một câu hỏi không có câu trả
lời mà có thể tôi lại đã đầu hàng rồi chăng?. Nếu ở trong bệnh viện, công
việc của tôi là đối diện với từng cá nhân đau khổ riêng lẻ thì với đôi vai
một nhà báo, quả thực có quá nhiều những vấn đề của cả một nhóm người/xã
hội mà tôi cảm giác mình không có đảm đương được. Nói chung tôi nghĩ tôi
chưa có thể đi đến thái độ dũng cảm xông pha kiểu một mảng thực tế “gay
cấn“. Tôi thấy tôi nhìn đâu xung quanh cũng quá thể gay cấn không sao chịu
đựng nổi.
VH: Hình tượng HCM hầu như vẫn ẩn hiện trong cuộc sống nội tâm của dân
VN, đặc biệt trong lĩnh vực sáng tác và nhiều tác phẩm lấy đó làm chuẩn
mực. Còn nhớ ông HCM viết: nay ở trong thơ nên có thép/nhà thơ cũng phải
biết xung phong. Hiểu theo nghĩa tích cực (positive) không có nghĩa nhắm
mắt ôm bon lao vào công địch, mà sâu xa hơn là dám đối diện với thực tế xã
hội. Nhưng kết quả cho thấy: ai mạnh xung tất sẽ trúng phong và ai mạnh
thép tất bị trúng đanh. Một nghịch lý chăng?
NTTQ: Hình tượng Hồ Chí Minh trở thành một biểu tượng nội tâm dân nước Việt
Nam thì quả là một sự thật hiển nhiên rồi. Việc nhà thơ/nhà văn cần phải
đối diện với thực tế xã hội là một nhiệm vụ đích danh của
anh ta/cô ta, cá nhân một người bình thường bất kỳ nào tự dưng một ngày đẹp
trời muốn khoác chiếc vai nhà thơ/nhà văn đó vào người. Tôi nghĩ cụ Hồ ở
câu thơ này chỉ diễn đạt lại nhiệm vụ cơ bản của nhà thơ nhà văn trong xã
hội, tuy nhiên ẩn dụ “thép“ với “xung phong“ liên quan tới một cuộc chiến
đấu nào đó mà, theo cách tôi hiểu ý cụ Hồ là nhà thơ phải chiến đấu với thực
tế xã hội như cuộc giáp lá cà giữa trận địa vậy. Tất nhiên việc tiêu diệt
một thực tế cũ thì ắt phải xuất hiện một thực tế mới thay thế. Nếu không đó
sẽ là nghịch lý. Do vậy, sự tiêu diệt/chỉ tên/kết tội đích danh nguyên nhân
của vấn đề tồi tệ của thực tế xã hội, tôi cho rằng là một nhu cầu lành mạnh
nhưng việc tạo dựng một không gian xây dựng một thực tế tươi sáng khác là
một tình huống mà nhà thơ nhà văn cần phải tiếp nối sau đó. Nếu không tạo
dựng được không gian này, nhà thơ- kẻ mang nhiệm vụ phải xung phong - kẻ
nhiều ý thức về sự xung phong này nhất, kẻ chỉ ra một thực tế xã hội
xấu/cần phải tiêu diệt bỗng trở nên bị tử thương bởi chính vũ khí của mình
cũng là điều bình thường.
VH: Có người quan niệm: viết văn và làm thơ giống như những cuộc truy
hoan trên giấy trắng (bàn phím). Sau những cuộc truy hoan ấy nếu thân thể
rã rời đó là dấu hiệu thành công; ngược lại đầu óc, cơ thể rỗng toang thì
đó là một cuộc truy hoan thất bại? Chị có nghĩ như vậy không?
NTTQ: Đó là một lối ẩn dụ, có thể đang mốt chẳng hạn. Tuy nhiên tôi cho
rằng, việc sáng tác thơ văn như là việc tìm hiểu/hiểu biết/bị chiếm lĩnh
trước từng khoảng khắc cái tôi riêng biệt cụ thể hữu hạn của mình trước một
cái tôi xã hội nói chung mơ hồ vô hạn. Việc ghi lại những ý tưởng và sau đó
cho phép nó độc lập với cá nhân mình (đôi khi nhiều năm sau chính cá nhân
đó còn lưu giữ lặp lại một suy nghĩ ngu xuẩn hơn). Sự độc lập này mang
nghĩa tác phẩm thơ văn đó được diễn đạt ở trong khoẳnh khắc tình huống nó
được biểu đạt trên giấy hoặc ở trong các ký tự chữ computer. Khi biểu hiện
ra được tình huống này thì cá nhân đó buộc phải nội nhập/ tượng trưng hoá
và vượt qua khỏi khoảnh khắc đông cứng của cái tôi chính mình sẽ có khả
năng trở nên vô hạn. Do vậy, tôi không cho rằng cơ thể tôi là là một chiếc
lọ có chứa chữ luôn luôn hay ho thú vị lấp lánh như vậy ở mọi lúc để khi đổ
ra một ít chữ/ ý tưởng thì cơ thể rỗng toang hoặc khi nhận vào một số chữ
/ý tưởng của chính mình vừa mới tách ra thì cơ thể rã rời. Cảm thức của tôi
khi viết được phát biểu ở đây không có mới. Chính bản thân tôi khi vừa viết
xong một đoạn viết, không bao giờ tôi nhớ lại được chính xác ý của chúng và
khi đọc lại, luôn luôn chúng làm tôi ngạc nhiên và hết sức thú vị phấn
khích. Tuy nhiên có một số đoạn văn/ý tưởng/thơ có được khả năng đọc lại
ngạc nhiên thú vị, đem lại cho chính mình một hiểu biết mới, tất nhiên cũng
có một số đoạn văn khi viết xong tôi đọc lại cảm thấy không thú vị nhiều
lắm.
VH: Chị có ý định xuất bản hay phổ biến tiểu thuyết của mình tại hải
ngoại?
Tôi không hề có ý định xuất bản hoặc phổ biến tiểu thuyết của tôi tại Hải
ngoại. Thời điểm năm 2002-2003. Khi hoàn thành bản thảo cuốn tiểu thuyết
thứ nhất của tôi có tên ” 21 khúc biến tấu” tôi có dự định đi du học tại
Pháp, thời điểm đó tôi có thường trao đổi email với một Việt kiều người
Pháp (người này do bà giáo của tôi tại trường đại học giới thiệu qua đó nhờ
giúp đỡ). Tôi được biết là việc in sách tại hải ngoại cũng không có khó, và
ngoài Việt nam có một cộng đồng người Việt hoặc môi trường tiếng Việt có
thể in nó một cách tự do nhưng tôi đã không lựa chọn tình huống này. Còn
việc cuốn tiểu thuyết “ Chả Sất cuộc rượu lúc 4h” có hay không phổ biến tại
hải ngoại thì, trong trường hợp nếu như có yêu cầu, tôi sẽ bàn bạc chi tiết
với ông Dương Tất Thắng, giám đốc nhà sách Kiến Thức một cách nghiêm túc.
Như vậy là cuốn sách này theo ý của cá nhân tôi sẽ chỉ xuất bản trong nước
không xuất bản ở hải ngoại, còn việc phát hành nó tại hải ngoại thì nếu như
có yêu cầu, sẽ được bàn bạc tổ chức bài bản. Tuy nhiên việc này bản thân
tôi không có tự quyết định được. Nếu như có trường hợp tôi không có đồng ý
xuất bản hoặc phổ biến tại hải ngoại mà ông giám đốc nhà sách Kiến Thức vẫn
nhất định có quyết định vậy thì tôi cũng phải chấp nhận. Vì trong hợp đồng
có ghi rất rõ là nhà sách Kiến thức là người sở hữu bản quyền, khai thác
thương mại cuốn tiểu thuyết chứ không phải tôi. Vì tính chất của hợp đồng
vậy nên toàn bộ quá trình xin giấy phép tại nhà xuất bản tôi không biết rõ
lắm. Thực sự tôi hết việc cho cuốn tiểu thuyết này ở ngay thời điểm viết
song bản thảo và giao cho nhà sách Kiến Thức.Việc xin được giấy phép hay
không và ở đâu, bao giờ lúc nào tôi là người hoàn toàn ngoài cuộc.
VH: Nếu cho chị cái quyền được cầm cân nảy mực địa hạt văn chương VN,
chị sẽ làm gì?
NTTQ: Tôi chưa tưởng tượng ra tình huống này. Tuy nhiên, tình huống cần
phải tưởng tượng tiếp theo là bao giờ tôi có thể thực hiện cái quyền này
nếu nó xảy ra. Nếu như tôi có một vị trí trong văn chương Việt Nam có thể
có cái quyền “cầm cân nảy mực“ ngay bây giờ thì việc làm của tôi có thể chỉ
bắt đầu bằng những câu hỏi về sự bất an của chính mình khi tôi có được vị
trí đó. Có thể câu hỏi đó được đặt ra bởi một trang web của riêng người
viết trong nước do Hội nhà văn hoặc hội đoàn trong nước quản lý chẳng hạn.
VH: Một lời chia tay và cũng là một lời nhắn nhủ của chị với giới sáng
tác trẻ hải ngoại trước năm 2007.
NTTQ: Năm 2007, chúc một năm mới nhiều điểm cảm thông, tương đồng, tôn
trọng và hiểu biết mà những người viết trẻ hải ngoại sẽ tìm thấy chính mình
trong đất nước Việt nam. Tuy nhiên, tôi hi vọng có thể trao đổi nhiều suy
nghĩ sâu sắc và trách nhiệm trước hiện trạng đất nước với các bạn tại Việt
nam và bằng tiếng Việt.
Cảm ơn anh về cuộc trao đổi hết sức thú vị này. Những câu hỏi mà anh đặt ra
đã giúp cho tôi rất nhiều những hiểu biết liên thông tới nhiều vấn đề bên
ngoài tôi mà tôi đang băn khoăn và chưa tìm được điểm gặp.
VH: Xin cảm ơn chị đã dành nhiều thời gian cho cuộc trao đổi này. Chúc
chị một năm mới nhiều sức khỏe, nghị lực vượt cạn và dồi dào trí sáng tạo.
|
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét