FRANÇOIS FURET*
Làm thế nào để cho cái
khái niệm trừu tượng con người phổ quát trở nên sống động? Những nguyên lý về
tự do và bình đẳng, tuyên bố năm 1789, đã không ngừng vấp phải tình hình thực
tế. Tuy nhiên, hai trăm năm sau, chúng lại mang tính thời sự hơn bao giờ hết.
Trong một cuộc nói chuyện dài dành cho NGƯỜI ĐƯA TIN UNESCO, François Furet,
nhà sử học lớn của Pháp mà tác phẩm vạch những tuyến mới tiếp cận Cách mạng
1789, đã xem xét số phận trong phạm vi toàn cầu của một ý tưởng chủ lực.
Cách mạng Pháp là một cố
gắng lập pháp nhân danh tính phổ quát toàn cầu. Nó muốn giải phóng không chỉ
riêng của người Pháp, mà cả nhân loại. Ở tầm mức ấy, đó là một sự kiện không
phải chỉ có quy mô quốc gia mà là quốc tế, không phải chỉ có tính chất chính
trị mà còn có tính triết học nữa. Giải phóng nhân loại! Một trong những mập mờ
của dự định này là do chỗ, thời ấy, cách nhìn thế giới còn mang đậm màu sắc của
thuyết coi châu Âu là trung tâm. Khi người Pháp nói toàn cầu, họ thường muốn
chỉ châu Âu cùng với khúc ruột thừa của nó là những thuộc địa Anh ở châu Mỹ vừa
mới tự giải phóng. Chân trời dừng lại ở đó.
Vả chăng cả thế kỷ 19
vẫn hằn ảnh hưởng của thuyết Âu châu trung tâm, kể cả những người như Marx, ông
nói thế giới mà nghĩ châu Âu. Mọi sự chỉ quanh quẩn giữa Anh, Đứcc và Pháp là hết.
Ngay cả bên trong châu Âu, cũng không nên đi quá xuống phía nam hoặc sang phía
đông để khỏi làm hỏng các khái niệm phổ quát toàn cầu. Vậy, rõ ràng Cách mạng
Pháp lập pháp nhân danh châu Âu.
Con người phổ quát: một
tham vọng gần như điên cuồng
Nhưng ta nên hiểu khái
niệm phổ quát theo một nghĩa khác nghĩa trừu tượng. Không làm gì có tính phổ
quát cụ thể: tính phổ quát là một hình thái trừu tượng và con người phổ quát
thế tất phải là một con người trừu tượng. Cách mạng tuyên bố rằng con người chỉ
có lý do để nhập vào xã hội khi xã hội ấy bảo đảm cho anh hoặc chị ta có trước
khi ký khế ước xã hội. Nói cách khác, đối với Cách mạng tính chất con người là
tự chủ, là tự do, là không chấp nhận luật nào khác ngoài của bản thân mình. Xã
hội phải bảo đảm cho mỗi người tất cả các quyền thuộc về anh hoặc chị ta do bởi
phận vị con người của anh hoặc chị ta. Đó là một tham vọng phi thường hoàn toàn
trừu tượng.
Trồng cây Tự do trước mặt Thị trưởng, đội cận vệ quốc gia,
trong tiếng kèn đồng. Tranh bột màu của trường phái Pháp thế kỷ 18
|
Như vậy, các quyền là có
tính chất hình thức, trừu tượng và có thể nói là được suy ra từ trạng thái bản
chất con người. Tham vọng của cách mạng, như ta thấy, gần như là điên cuồng,
bởi vì nó mâu thuẫn với thực trạng của xã hội và của con người. Điều gây nên
phần lớn bi kịch của nó là cái mâu thuẫn to lớn giữa những quyền phổ biến mà nó
tuyên bố là thuộc về bản chất con người và tình trạng xã hội cụ thể - với những
người giàu và những người nghèo, những người thống trị và những người bị thống
trị.
Bình đẳng: mơ ước hay
hiện thực?
Nền dân chủ hiện đại,
sinh ra từ Cách mạng, từ hai thế kỷ nay, có đặc điểm là tình trạng căng thẳng
thường xuyên giữa việc khẳng định các quyền phổ biến trừu tượng và việc nghiệm
sinh các quyền được thực hiện dở dang trong thực tế. Chẳng hạn như ý niệm bình
đẳng. Tất nhiên, đó cũng là một ý niệm trừu tượng vì mọi người đâu có bình
đẳng: tự nhiên cũng như xã hội đều sản sinh ra những con người không bình đẳng,
trong khi tham vọng của xã hội là tạo ra những cá nhân bình đẳng. Phải chăng họ
không bình đẳng với tư cách là công dân?
Vậy mà bình đẳng tuyệt
đối, cả về chính trị lẫn xã hội, lại chính là chuyên quyền tuyệt đối. Giả
thuyết duy nhất trong đó ta có những người bình đẳng triệt để là khi nào chỉ có
một người đứng trên mọi người để duy trì cho họ được bình đẳng. Một tình
huống chẳng đáng mong muốn chút nào. Tự do bao giờ cũng sản sinh ra bất bình
đẳng. Vì thế, càng ngày người ta càng đi đến chỗ coi Nhà nước như một cơ chế bù
trừ, bổ khuyết một số bất bình đẳng. Tôi thấy hình như đặc điểm nổi bật nhất
của xã hội tự do là việc duy trì một sự cân bằng khó khăn, lao động giữa sự
tăng trưởng của Nhà nước và tự do của cá nhân.
Từ hai trăm năm nay,
trên thế giới chưa hề có một thí dụ nào về một Nhà nước suy giảm, kể cả ở những
xã hội tự do nhất. Hãy xem như Hoa kỳ, hoặc Pháp, hoặc Anh. Tất cả những Nhà
nước đó đều đang tăng trưởng. Tại sao? Nhân danh quyền bình đẳng? Bởi vì mỗi
lần một quyền mới được ban bố cho một bộ phận công dân nào đó, lại phải lập một
cơ quan Nhà nước để bảo đảm những quyền đó. Tiến triển của bình đẳng nhất thiết
phải gắn liền với độ tăng trưởng của Nhà nước. Cùng với tất cả những gì phát
sinh từ đó thành những mâu thuẫn có thể có giữa khu vực can thiệp của vai trò
Nhà nước và khu vực triển khai của tính chủ động cá nhân.
Các quyền công dân hay
nội chiến?
Theo đà thế giới trở nên
phổ quát hơn, đặc biệt qua quá trình thực dân hóa rồi phi thực dân hóa, ta lại
thấy nổi lên ở khắp nơi sự căng thẳng lập hiến của Cách mạng Pháp, giữa cái
hình thức và cái thực tại, giữa cái phổ quát và cái riêng biệt. Phong trào dân
chủ lẫn với những cuộc đấu tranh nhằm giảm bớt sự căng thẳng đó. Tuyên bố về
quyền con người và quyền công dân có phải là cái gì khác một cuộc nội chiến
thường trực để cho mọi người có được cái điều họ chưa có, nghĩa là trở nên bình
đẳng? Cái năng động của những xã hội dân chủ chủ yếu là hòa nhập dần những
người bị mất quyền bình đẳng. Mà mỗi lần như vậy đều gây ra những căng thẳng
mới.
Chẳng hạn như ở Pháp năm
1848, người ta đặt vấn đề quyền làm việc; người ta nêu câu hỏi sở hữu có phải
là một quyền hay không và nó có dung hòa với quyền bình đẳng đến mức nào. Đó là
những mâu thuẫn có thực. Tất nhiên, sở hữu là một quyền. Không có sở hữu, con
người sẽ thành nạn nhân được chỉ định sẵn cho Nhà nước. Nhưng nếu sở hữu được
phân phối quá chênh lệch, nó sẽ tạo ra một bất bình đẳng xã hội tới mức khiến
một số lớn mất khả năng thực hiện quyền đó. Đó là một thí dụ rõ ràng về những
mâu thuẫn nẩy sinh từ Tuyên ngôn 1789.
Sự căng thẳng đó, vốn
chứa đựng tất cả những gì làm nên giá trị lịch sử của Cách mạng, rút cục lại đẻ
ra một sự phê phán Cách mạng. Nổi lên một trào lưu bãi bỏ hệ tư tưởng về quyền
con người và quyền công dân, coi nó là trừu tượng, là giả dối, là sự trá hình
của một xã hội bất công, là chiếc mặt nạ của chủ nghĩa cá nhân tư sản mà thôi.
Năm 1917, ở Nga nổ ra
một cuộc cách mạng muốn vượt lên những mâu thuẫn đó. Dựa trên sự phê phán các
quyền con người, cuộc cách mạng này muốn lấy cái cụ thể thay cái trừu tượng,
lấy Chuyên chính vô sản thay Dân chủ hình thức, nó muốn giải quyết vấn đề bất
bình đẳng bằng cách hủy bỏ quy luật trị trường và các quyền tự do cá nhân.
Một thỏa hiệp kỳ lạ và
cần thiết
Và đây, ba mươi năm sau,
thế giới lâm vào một tình huống hoàn toàn quái dị. Sau chiến tranh thế giới thứ
hai, hai quan niệm mâu thuẫn của năm 1789 và 1917 buộc phải dung hòa với nhau.
Phe thắng trận trong
chiến tranh bao gồm một bên là những nước dân chủ Tây Âu và Mỹ, sau khi đánh
bại chủ nghĩa quốc xã, càng thêm gắn bó với lý tưởng về quyền con người, và bên
kia là Liên Xô được tạo nên trên định đề ngược lại. Và hai bên phải đi đến hòa
hợp với nhau.
Họ cùng nhau thành lập
hệ thống Liên Hợp Quốc. Họ cần phải tìm một điểm tương đồng. Đó là bản Tuyên
ngôn toàn cầu về quyền con người được thông qua năm 1948. Bản Tuyên ngôn này là
kết quả của một sự thỏa hiệp kỳ lạ và cần thiết. Một bên là Cassin, bên kia là
Vychinsky. Hiển nhiên là kết quả phản ánh đúng cuộc đối thoại đó: một trò chơi
căng thẳng giữa hai quan niệm trái ngược nhau. Nhưng quả thật là trên cơ sở một
lý tưởng nhân văn chủ nghĩa và dân chủ vì Liên Hợp Quốc được xây dựng trên sự
phủ nhận chủ nghĩa quốc xã, nghĩa là trên ý tưởng tự do và luật pháp.
Để đạt đến thỏa thuận,
các luật gia phương Tây phải chấp nhận đưa vào những quyền gọi là thực tồn.
Chẳng hạn, Tuyên ngôn 1948 có nêu ý niệm về một mức tối thiểu để sinh tồn. Dĩ
nhiên, đó là một ý hết sức khó thực hiện ở những nước nghèo. Việc nêu mức tối
thiểu để sinh tồn thành một trong những quyền con người chỉ làm rõ thêm tính
chất mong manh của những quyền này.
Và theo đề nghị của bên
Liên Xô, còn có một cuộc tranh cãi gay go về việc có nên loại trừ sở hữu khỏi
các quyền con người hay không. Hiển nhiên điều đó là không thể chấp nhận được
theo quan điểm phương Tây. Chung cục, Tuyên ngôn 1948 mang dấu vết của những
mâu thuẫn đã chủ trì sự ra đời của nó. Nó muốn là một văn bản vừa có tính chất
định chuẩn vừa cụ thể, vừa phổ quát vừa riêng biệt. Vậy mà, càng đưa nhiều định
nghĩa cụ thể bào ý niệm về tính phổ quát, phạm vi của nó càng hẹp lại. Từ khi
công bố Tuyên ngôn đó, bốn thập kỷ đã trôi qua. Và cuộc tranh luận vẫn tồn tại,
thậm chí còn tiếp tục phát triển trên những ý niệm mâu thuẫn đã dệt nên nó.
Chẳng hạn, vẫn còn cuộc
tranh luận sôi nổi về tính chất thực hay hư của tự do và bình đẳng. Đúng là
người ta tự do và bình đẳng trong chừng mực của họ không còn bị biến thành nô
lệ. Họ tự do về ý thức và thân thể, tự do theo đuổi những lợi ích cá nhân, tự
do giao ước với nhau. Nhưng mặt khác, quyền tự do bình đẳng bị hạn chế, bị tổn
hại chừng nào chúng che phủ những bất bình đẳng xã hội, văn hóa, cá nhân, những
quan hệ bóc lột giữa một giai cấp này với một giai cấp khác.
Rouget de Lisle hát bài La Marseillaiselần đầu
tiên (1849), tranh sơn dầu của Isidore Pils. Đại úy công binh Rouget de
Lisle, năm 1792, ở Strasbourg đã soạn nhạc và lời cho bài hát sau này trở
thành quốc ca Pháp.
|
Theo nghĩa ấy, ta thấy
có những gì hư tạo trong ý niệm về tự do và bình đẳng. Nhưng từ đó, ta có thể
rút ra hai kết luận khác nhau. Có thể nói – và đây là quan điểm của tôi – rằng
tất cả chúng ta không phải đều tự do và bình đẳng, nhưng chúng ta buộc phải
tưởng tượng rằng mình là những người tự do và bình đẳng trong xã hội. Việc buộc
phải nghĩ vậy làm thay đổi kết cấu của thế giới xã hội, tạo ra sự căng thẳng mà
tôi vừa nhắc tới, cái năng động vốn là thuộc tính của dân chủ.
Đối lại, ta có thể đi
đến kết luận mác-xít: một khi tự do và bình đẳng chỉ là dối trá, cần phải vượt
lên chúng, hủy bỏ cái hệ thống lấy chúng làm nền tảng và đi đến một xã hội căn
bản khác xã hội của Cách mạng 1789. Một khi dân chủ hiện đại chỉ là cái bình
phong che đậy một thể chế chuyên chính tư sản, cần phải thay thế chính quyền tư
sản bằng chính quyền vô sản. Và giai cấp vô sản, vốn không phải là một giai cấp
bóc lột, sẽ giải phóng xã hội và nhân loại khỏi mọi sự bóc lột.
Sự nổi lên của cá nhân
Điều tôi cho là không
chính xác trong cách nhìn nhận ấy là việc quy cho dân chủ hiện đại là Chuyên
chính tư sản. Về mặt lịch sử, điều đó là không đúng. Xã hội Pháp năm 1789 không
phải là rất tư sản, cũng chẳng thật sự tư bản chủ nghĩa. Điều tôi đưa vào tác
phẩm của mình, cụ thể là không thể quy giản Cách mạng Pháp thành sự thăng tiến
của giai cấp tư sản. Cuộc Cách mạng ấy, trên hết, thể hiện sự xuất hiện của chủ
nghĩa cá nhân hiện đại, một quá trình rộng lớn hơn nhiều so với sự nổi lên của
một giai cấp, bởi lẽ nó thay đổi toàn bộ kết cấu xã hội trong đó giai cấp tư
sản chỉ là một thành phần trong nhiều thành phần khác – ngay cả nếu thành phần
đó, dần dần bắt đầu thống trị phần còn lại.
Bằng chứng rằng chủ
nghĩa cá nhân không phải là một tính chất tư sản, có thể thấy ở chỗ, trong
những nước đã xóa bỏ sự chuyên chính kinh tế của giai cấp tư sản, đòi hỏi tự do
cá nhân vẫn tiếp tục đặt ra. Trong những xã hội mác-xít ngày nay, những khái
niệm quyền con người, trị trường, dân chủ hình thức đang trở lại địa vị danh
dự. Nói cách khác, ý tưởng dựng xây xã hội trên nền tảng quyền con người hoàn
toàn không phải là một sự dối trá của giai cấp tư sản, mà thực sự là một ý
tưởng phổ quát, thực sự đáp ứng một hy vọng toàn cầu. Sẽ không bao giờ có bình
đẳng thực sự giữa tất cả mọi người, song ở chân trời của tất cả mọi người, bao
giờ cũng sẽ có ý tưởng bình đẳng. Và ta phải sống với chính sự vẫy gọi đó.
Chính cái đó làm cho sự vật chuyển động.
Nhưng sự tranh chấp giữa
dân chủ hình thức và chuyên chính giai cấp còn lâu mới kết thúc. Dù chỉ là vì
trong nhiều xã hội ngoài châu Âu, thông điệp đấu tranh giai cấp nghe xui tai
hơn thông điệp dân chủ; sự phê phán nhân quyền dễ trót lọt hơn ý tưởng về nhân
quyền. Và như vậy là vì những lý do lịch sử: ý tưởng về nhân quyền do bọn thực
dân mang tới cho họ, áp đặt bằng nòng súng. Nhân quyền thuộc về kẻ chiến thắng,
đương nhiên, trước mắt kẻ thua trận, đó là thứ ngụy trang cho sự thống trị thực
dân.
Ở những nước ngoài châu
Âu, có thể là thế kỷ 20 đã chứng kiến một sự tự phát mác-xít; sự phê phán
mác-xít, nói cách nào đó, nằm ngay trong kinh nghiệm của các dân tộc đó. Hay
đúng hơn, tính không phổ quát của nhân quyền đã ăn vào máu thịt họ. Vậy là thực
dân đã cùng một lúc mang tới cho họ ý tưởng nhân quyền và sự phê phán ý tưởng
đó. Và thường thường, họ thấy sự phê phán có lý hơn: nó trùng hợp trực tiếp hơn
với cái thực tế họ đang sống và có thể biện minh cho sự cự tuyệt bằng bạo lực
của họ.
Năng động dân chủ, năng
động của những xung đột
Tất nhiên, ở đây, tôi
chỉ nêu một khuynh hướng rất chung chung. Trong thực tế thì phải phân biệt sắc
độ. Vào thời kỳ của cơn chấn động thực dân, những xã hội ấy chủ yếu đang ở giai
đoạn tiền cá nhân chủ nghĩa – các cá nhân ở đó chưa tách khỏi gia đình, bộ lạc,
cộng đồng. Nhưng thực dân đã đưa vào đó một thế giới cá nhân chủ nghĩa. Do đó,
có hai thế giới chồng lên nhau, một gắn với những quan hệ đoàn kết truyền thống
và một hướng về tư tưởng dân chủ hiện đại; một xã hội thống trị bởi những tư
tưởng bộ lạc và xã trưởng, còn xã hội kia, chồng lên trên, đang tập dượt phổ
thông đầu phiếu.
Tình hình đó sinh ra
Đảng Cách mạng Thiết chế ở Mêhicô, đảng Wafd ở Ai Cập, Quốc Dân Đảng ở Trung
Quốc, Đảng Quốc Đại ở Ấn Độ…, những lựa chọn tự do mà thành quả thực tế vẫn còn
hạn chế. Vì thế, tiếp theo giai đoạn này là một giai đoạn khác ngự trị bởi tư tưởng
đấu tranh giai cấp và cách mạng. Nhưng gần đây, dường như người ta muốn trở lại
ý tưởng nhân quyền và dân chủ.
Ở những nơi người
ta tưởng có thể chặn các quyền của cá nhân hiện đại, thường xảy ra một tình
hình kinh tế bi đát. Sau khi đập ta những cơ cấu tiền-tư bản, rồi lại khước từ
những cơ cấu thị trường tư bản chủ nghĩa, họ đã vấp phải những khó khăn ghê
gớm. Thậm chí, đôi khi họ không bảo đảm được việc cung cấp lương thực, thực
phẩm cho thành phố hoặc sự sống còn của nông thôn. Năng suất lao động bị phá
vỡ. Vậy mà – ở đây, Marx đã không lầm – năng suất lao động, khả năng gia tăng
của cải là một sắc lệnh của lịch sử. Người ta không thể làm nên lịch sử mà lại
bỏ qua chúng và quan hệ giữa con người và tự nhiên.
Vậy là người ta bắt đầu
thấy ra rằng lịch sử không thể đi tắt. Sau khi xã hội cộng đồng, cần phải qua
xã hội cá nhân chủ nghĩa. Và phải chấp nhận những căng thẳng của nó; phải thừa
nhậ rằng những xã hội hiện đại là những xã hội đầy xung đột; phải sống với cái
đó. Năng động dân chủ là một năng động của những xung đột.
Tới một độ nào đó, điều
đó đặt ra vấn đề khả năng cai quản những xã hội hiện đại. Lấy thí dụ xã hội
Pháp chẳng hạn, nó đâu dễ cai quản. Hễ có một sự căng thẳng mới xuất hiện là
tất cả mọi người xuống đường. Tự do là như thế đó. Xã hội hiện đại phải học
sống với cái đó. Có lẽ đó là một trong những khó khăn lớn nhất phải vượt qua,
trong toàn thể xã hội: từ bỏ thói quen bám lấy những điều chắc chắn, chấp nhận
cái bấp bênh, cái bất ngờ, sự bất trắc của tương lai.
Cái giá của tự do
Vậy thì, để kết luận, ta
có thể nói gì về số phận các ý tưởng của Cách mạng Pháp, hai trăm năm sau? Xem
ra những ý tưởng đó đã lan rộng. Nhưng những khó khăn vấp phải trên con đường
trở thành hiện thực, còn nhiều vô kể?
Một mặt, trong những xã
hội phương Tây, nơi những ý tưởng đó đã phát triển từ lâu, đang xuất hiện những
hiện tượng tiêu cực. Đành rằng đó là những nước đã sống dễ chịu vì đã tìm ra
được sự phân định liều lượng khả dĩ chấp nhận được, giữa tự do cá nhân và can
thiệp Nhà nước. Nhưng liều lượng đó đã phải trả bằng một giá rất đắt. Nhân dân
các nước này quay lưng lại công việc của cộng đồng, ngày càng ít quan tâm đến
chuyện công cộng và những vấn đề của người khác, càng ngày họ càng kém đoàn
kết. Đó là điều rất tiêu cực. Mỗi người đều quen thói chạy theo lợi ích riêng,
người ta có cảm giá cái đó để lại một khoảng trống lớn, rằng cuộc sống thiếu đi
một cái gì đó.
Mặc khác, ở phần còn lại
của thế giới, khát vọng tự do cá nhân, ý tưởng vể quyền con người lại trở nên
mạnh mẽ và tiến triển ở hầu khắp mọi nơi. Nhưng rồi đây họ làm thế nào để cùng
một lúc vừa giải quyết những mắc míu tiến thoái lưỡng nan, đặc thù của các xã
hội cộng đồng, vừa tìm ra những giải pháp cho vấn đề năng suất lao động? Đó là
những câu hỏi còn đang chờ họ trả lời.
Tôi muốn kết luận bằng
niềm hy vọng rằng việc kỷ niệm 200 năm Cách mạng Pháp năm nay sẽ là một cơ hội
lớn đem lại những bài học, làm cho khắp nơi nhận thức được những vấn đề sống
còn thật sự và những căng thẳng thật sự liên quan đến sự kiện này. Mong rằng,
bất kể mọi khó khăn, mọi mâu thuẫn của thế giới ngày nay, nó vẫn góp phần làm
tiến triển ý tưởng về tính phổ quát của con người và của quyền con người.
*FRANÇOIS FURET, nhà sử học và
nhà văn Pháp, giám đốc Viện Raymond Aron (Paris). Tác giả của Penser la
Révolution française / Suy nghĩ về cách mạng Pháp(Gallimard, 1978), La
Révolution 1770-1880 / Cách mạng 1770-1880(Hachette, 1988) và nhiều cuốn
khác. Soạn chung với Mona Ozouf Dictionaire critique de la Révolution
française / Từ điển bình giải về Cách mạng Pháp(Flammarion, 1988)
Nguồn: Người đưa
tin Unesco. Số chuyên đề: “1789 – Một ý tưởng đã làm thay đổi thế giới”,
tháng 6 năm 1989, tr. 51-7./triethoc.edu.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét