Tiếng đàn ta lư cuối cùng
TT - “...Từ
trên đỉnh núi cao chót vót thánh thót nhịp nhàng vang lời em ca
Theo nhịp bước quân đi trong tiếng đàn ta lư
Tính tính tính tính tính tính tính tính tang tang tình
Con chim ch’rao xinh hót trên cành vui mừng công anh
Bộ đội giải phóng quân ơi, anh thắng trận miền tây Khe Sanh...”.
Theo nhịp bước quân đi trong tiếng đàn ta lư
Tính tính tính tính tính tính tính tính tang tang tình
Con chim ch’rao xinh hót trên cành vui mừng công anh
Bộ đội giải phóng quân ơi, anh thắng trận miền tây Khe Sanh...”.
(Trích Tiếng đàn ta lư của
Huy Thục)
Những năm chiến tranh chống Mỹ, bộ đội giải
phóng theo đường Trường Sơn vào giải phóng miền Nam đã đi qua miền tây Quảng
Trị. Ở đây, tiếng đàn ta lư đã để lại trong lòng họ những ký ức đẹp về tấm lòng
của người Pa Cô, Vân Kiều. Đó là những giây phút bom đạn tạm lắng, tiếng đàn ta
lư từ những chàng trai, cô gái Pa Cô, Vân Kiều lại vang lên tính tang giữa núi
rừng như tiếp thêm sức mạnh để đào đường, tải đạn.
Hai người trong số đó là nhạc sĩ Huy Thục và
nhạc sĩ Phương Nam đã bị “mê hoặc” bởi tiếng đàn này. Hai bài hát Tiếng đàn ta
lư và Rừng xanh vang tiếng ta lư đã ra đời như thế. Theo âm vang của hai bài
hát này mà tiếng đàn ta lư của người Pa Cô, Vân Kiều đã đi và sống trong lòng
người hàng chục năm qua. Và bài hát Tiếng đàn ta lư của Huy Thục cũng là một trong
ba bài hát được Nhà nước trao Giải thưởng Hồ Chí Minh. Còn Huy Thục sau bài hát
này được bà con Pa Cô, Vân Kiều xem như người con của bản làng.
Nhưng bây giờ tìm đâu ra tiếng đàn ta lư?
Rừng xanh có tiếng ta lư
Ông là người cuối cùng còn có khả năng chế tác
và chơi đàn ta lư trên vùng núi rừng Trường Sơn miền tây Quảng Trị. Dù ông đã
nỗ lực truyền ngọn lửa ta lư cho các thế hệ kế cận, nhưng như cách nói của ông
thì “lớp thanh niên trong bản bữa nay cũng chuyển qua thích nhạc trẻ hết
rồi...”. Ông là Mai Hoa Sen, ở bản Ka Hẹp, xã Tà Rụt (Đakrông, Quảng Trị).
Ta
lư tuy dễ mà khó
Chia sẻ về cách chế tác đàn ta lư, ông Sen cho
biết đàn ta lư là loại đàn khá đơn giản. Chỉ gồm một khối gỗ hình bầu dục
được đục rỗng làm thùng, sau đó nối thêm một khúc gỗ khác làm khung nối dây
đàn. Điểm khó nhất trong chiếc đàn này là cách bố trí những phím đàn để có âm
thanh chuẩn. “Việc này cần có sự cảm nhận âm thanh bằng cảm giác. Mà cảm giác
chỉ đến khi người làm thật sự yêu tiếng đàn này” - ông chia sẻ.
|
Ông Sen năm nay đã bước qua tuổi 70. Từ khi còn
là một đứa trẻ lên 10 ông đã biết đến chiếc đàn ta lư truyền thống của dân tộc
mình. Khi đó bố ông chọn ông làm người kế thừa duy nhất nên đã tập cho ông cách
chơi và cả cách chế tác chiếc đàn ta lư từ rất sớm.
18 tuổi, ông vào bộ đội chính quy sau nhiều năm
làm giao liên tiếp tế cho bộ đội. Ông theo đơn vị đi chiến đấu ở rất nhiều
chiến trường trên các tỉnh miền Trung. Đi chiến trường nào ông cũng mang theo
bên mình chiếc đàn ta lư nhỏ. Thời điểm đó, người Pa Cô, Vân Kiều quê ông ai ai
cũng biết chơi đàn ta lư. Chiếc đàn nhỏ hai dây như vật bất ly thân của người
Pa Cô, Vân Kiều. “Người ra chiến trường mang theo đàn để gảy cho vui sau trận
đánh. Người ở nhà làm dân công cũng mang theo đàn để động viên tinh thần sau
bom đạn. Người ở nhà lên nương lên rẫy cũng có đàn trong gùi để quên mệt mỏi
trong những phút nghỉ ngơi”, ông kể càng lúc càng say.
Đi bộ đội về cũng là lúc tóc ông lấm tấm bạc.
Ông lại trở về với tiếng đàn ta lư quê mình. Những người cùng lứa với ông biết
chế tác đàn ta lư thì người còn người mất bởi bom đạn. Ông trở thành “hàng
hiếm” về loại nhạc cụ này. Ông bắt tay vào công việc chế tạo đàn ta lư để bán,
vừa kiếm sống vừa được thỏa mãn đam mê với loại đàn này. Qua tay ông hàng trăm
chiếc đàn ta lư đã ra đời. Hằng ngày trên chiếc xe đạp cọc cạch, ông đưa đàn ta
lư lên khắp các vùng A Vao, A Bung, A Dơi, Pa Tầng... của miền tây Quảng Trị để
bán. Đi bán mệt ông lại đem đàn ra ngồi gảy và hát. Một trong những lần đi bán
đàn như thế ông đã tìm được một nửa cuộc đời mình...
...Trong những người đến mua đàn ta lư của ông
khi qua bản A Vao có một cô gái trẻ cứ thẹn thùng khép nép. Đợi khi mọi người
mua xong cô gái Pa Cô ấy mới dám tiến đến. “Tôi muốn mua đàn nhưng không có
tiền” - cô gái thỏ thẻ. “Nếu cô không có tiền thì tôi tặng cô một chiếc cũng
được” - người đàn ông gần tuổi tứ tuần nói với cô gái trẻ hơn mình gần 20 tuổi.
Hai người yêu nhau như thế. Tuy nhiên, nhà ông với nhà cô gái cách xa nhau. Lâu
lâu anh bán đàn mới có dịp đến một lần, trong khi hằng ngày cô gái có bao nhiêu
chàng trai trong bản đến xin kết duyên. Một lần, khi ông đến thì gặp lúc trong
nhà cô gái có rất nhiều trai bản đến. Ông ngại nên móc võng nằm phía ngoài rồi
mang đàn ta lư ra gảy.
Nghe những khúc nhạc tình yêu ấy, cô gái trẻ Hồ
Thị Pênh liền tìm đến với ông.
Truyền nhân ta lư
Chúng tôi đến tìm ông khi ông đang ở trên trang
trại của gia đình. Đã 70 tuổi nhưng ông phải đem vợ lên núi để làm trang trại
chăn nuôi kiếm sống. “Mấy năm trước tôi theo lời vận động của UBND huyện
Đakrông dạy về cách chế tác các loại đàn sáo dân tộc mình cho lớp thanh niên
trẻ của huyện. Được hai tháng tôi phải nghỉ để làm trang trại bởi gánh nặng cơm
áo hằng ngày. Dạy đàn cũng mê nhưng phải đủ nuôi vợ con nữa”.
Ông đề xuất với bản làng cho tập hợp thanh niên
trong bản đến nhà để ông truyền lại cách làm và chơi đàn ta lư cũng như các
loại nhạc cụ dân tộc khác nhưng đám trẻ chẳng buồn đến, có đến cũng chỉ được
một hai hôm rồi thôi. “Thuyết phục thì chúng nói bữa nay nghe nhạc trẻ hay hơn,
tui cũng chịu”, ông nói.
Tuy nhiên không phải vì thế mà ông dửng dưng
trước thời khắc quyết định của số phận cây đàn ta lư. Cả tuần ở trên rẫy làm
trang trại, nhưng ông mang theo bên mình cây đàn ta lư để khi buồn đem ra đàn
cho vợ nghe. Ông có bảy đứa con. Cũng như khi bố ông làm với ông, ông đã chọn
một trong số đó là Mai Trung, sinh năm 1987, để phó thác trách nhiệm giữ bí
quyết làm đàn ta lư. Dù không có niềm đam mê mãnh liệt như ông, nhưng may thay
Mai Trung cũng thương bố nên cố gắng tiếp thu những bí quyết chế đàn bố truyền
lại. Hai bố con có khi cả ngày hì hục với cây đàn để truyền bí quyết làm đàn.
Giờ Trung là truyền nhân duy nhất của đàn ta lư ở vùng núi rừng này. “Cả núi
rừng này chỉ còn mình tôi làm được đàn này, nhưng tôi chưa biết còn ở trên đời
được bao năm. Chỉ mong nó (Trung) biết làm đàn ta lư để tiếng đàn này khỏi biến
mất”, ông tâm sự.
QUỐC NAM
Chuyện bên lề bài hát
“Tiếng đàn Ta Lư”
ANTĐ - Có rất
nhiều chuyện bên lề bài hát “Tiếng đàn Ta Lư” của nhạc sĩ Huy Thục. Ví như
chuyện một đồng chí cán bộ ở một đơn vị pháo binh trên chiến trường Quảng Trị
đã tìm đến nhà nhạc sĩ để tặng một vỏ đạn pháo cỡ lớn với lời giải thích: “Em
mê ca từ của Tiếng đàn Ta Lư”, rồi một đội văn nghệ được đặt tên là “Đội Ta
Lư”, và câu chuyện dưới đây cũng là một minh chứng cho ảnh hưởng từ một bài hát
nổi tiếng của nhạc sĩ Huy Thục
Nhạc sĩ Huy Thục - người đeo kính - hồi ở chiến trường
Sáng ấy, Đại tá, nhạc sĩ Huy Thục có
khách mà lại là khách nước ngoài. Khách là ba người Mỹ (một người da màu, hai
người da trắng mang theo máy ghi hình, máy chụp ảnh dáng vẻ như nhà báo). Họ
đang sững sờ, có lẽ không tin nổi “một nhạc sĩ lớn mà ở căn nhà đơn sơ như
vậy”. Sau những cái bắt tay, lời chào xã giao, một vị khách giới thiệu (qua
người phiên dịch):
- Chúng tôi là những lính thủy đánh bộ Mỹ, năm xưa từng ở chiến trường Quảng Trị, hồi đó đã từng được nghe “Tiếng đàn Ta Lư” của ngài qua băng thu thanh và được dịch ra tiếng Anh. Sau khi về nước mọi người quyết định trở lại Việt Nam để “giải mã” bài hát cũng như sự tò mò tại sao người Việt Nam có thể sáng tác và hát những giai điệu rộn ràng, vui tươi như thế trong chiến tranh ác liệt. Bài hát còn mô tả số phận người lính chúng tôi “tên lính thủy đánh bộ Mỹ kia, nó bỏ xác trên rừng”… Nghe đến đây, nhạc sĩ Huy Thục như đã hiểu phần nào ý nghĩa chuyến thăm của họ. Không bất ngờ, ông trả lời rất đĩnh đạc:
- Thôi thế này nhé, ngạn ngữ Việt Nam có câu “trăm nghe không bằng một thấy”, các bạn nghe vợ chồng tôi vừa đàn, vừa hát bài “Tiếng đàn Ta Lư”, rồi chúng ta nói chuyện.
- Chúng tôi là những lính thủy đánh bộ Mỹ, năm xưa từng ở chiến trường Quảng Trị, hồi đó đã từng được nghe “Tiếng đàn Ta Lư” của ngài qua băng thu thanh và được dịch ra tiếng Anh. Sau khi về nước mọi người quyết định trở lại Việt Nam để “giải mã” bài hát cũng như sự tò mò tại sao người Việt Nam có thể sáng tác và hát những giai điệu rộn ràng, vui tươi như thế trong chiến tranh ác liệt. Bài hát còn mô tả số phận người lính chúng tôi “tên lính thủy đánh bộ Mỹ kia, nó bỏ xác trên rừng”… Nghe đến đây, nhạc sĩ Huy Thục như đã hiểu phần nào ý nghĩa chuyến thăm của họ. Không bất ngờ, ông trả lời rất đĩnh đạc:
- Thôi thế này nhé, ngạn ngữ Việt Nam có câu “trăm nghe không bằng một thấy”, các bạn nghe vợ chồng tôi vừa đàn, vừa hát bài “Tiếng đàn Ta Lư”, rồi chúng ta nói chuyện.
Vợ chồng nhạc sĩ Huy Thục
Thế rồi không phải chờ lâu, từng nốt nhạc ngân lên, sóng nhạc cuồn cuộn đi cùng
lời ca như giục giã: “Đi chiến trường gùi trên vai nặng trĩu… Tính tính tính
tính tính tính tính tang tang tình, ơi anh pháo binh, pháo ta gầm đạn nổ như
hoa… đồn quân giặc bốc cao cao…”. Những vị khách như bị bài hát thôi miên và
kết thúc trong sự nuối tiếc, tiếng vỗ tay reo hò tán thưởng. Những giọt nước
mắt ân hận muộn màng rơi xuống.
Những người lính từng bên kia chiến tuyến thực sự ân hận về việc làm phi nghĩa của mình:
- Thưa ngài “gùi trên vai nặng trĩu” lại còn mang theo đàn? Hình ảnh thật lãng mạn quá! Các ngài phải huy động sức người vận chuyển vũ khí khí tài phục vụ cuộc chiến vậy mà vẫn không quên cây đàn. Đó là điều mà người Mỹ không thể tưởng tượng nổi, chúng tôi thua là phải! Rồi “rừng núi vui mừng công anh” đến cả những thứ vô tri, vô giác cũng biết “thể hiện tình cảm” với anh giải phóng quân thì thật kì lạ…
Cứ vậy, chủ và khách trở nên gần gũi, ranh giới giữa những người ở hai bên chiến tuyến ngày xưa mờ dần đi. Những người khách Mỹ nói về nước họ sẽ dựng cuốn phim về cuộc đến thăm nhạc sĩ Huy Thục đầy ý nghĩa này.
Những người lính từng bên kia chiến tuyến thực sự ân hận về việc làm phi nghĩa của mình:
- Thưa ngài “gùi trên vai nặng trĩu” lại còn mang theo đàn? Hình ảnh thật lãng mạn quá! Các ngài phải huy động sức người vận chuyển vũ khí khí tài phục vụ cuộc chiến vậy mà vẫn không quên cây đàn. Đó là điều mà người Mỹ không thể tưởng tượng nổi, chúng tôi thua là phải! Rồi “rừng núi vui mừng công anh” đến cả những thứ vô tri, vô giác cũng biết “thể hiện tình cảm” với anh giải phóng quân thì thật kì lạ…
Cứ vậy, chủ và khách trở nên gần gũi, ranh giới giữa những người ở hai bên chiến tuyến ngày xưa mờ dần đi. Những người khách Mỹ nói về nước họ sẽ dựng cuốn phim về cuộc đến thăm nhạc sĩ Huy Thục đầy ý nghĩa này.
NGUYỄN
VĂN THẾ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét