|
Nhạc sĩ Hoàng Việt và vợ - Ảnh: tư liệu |
Bàn chân giẫm gai lòng
không thở than
Lên ngàn (1952) - bài
hát của nhạc sĩ Hoàng Việt có âm hưởng của những điệu hò trên dòng sông Vàm Cỏ
Đông chảy xiết dường như đã trở thành một ám ảnh với nhà báo Thạch Minh, báo
Tây Ninh. Ba mươi năm ở Tây Ninh, ông Minh chỉ muốn biết chắc chắn địa danh
trong lời ca “Em chèo thuyền đi lên rẫy Trảng Cồng/Cắt lúa thay chồng, thay
chồng nuôi con” ở đâu. Rồi, ông cũng tìm thấy. Đất có tên Trảng Còng (trong bài
hát chệch thành Trảng Cồng) nhằm ghi dấu cây còng - thứ cây sinh trưởng mạnh,
thân cây lâu năm to hơn vòng tay, gỗ dẻo, có thể uốn làm cán dao rựa, cũng như
làm cót thay bồ chứa lúa. Đấy cũng là chiến khu xưa.
|
Sau này, ông Minh viết
lại về địa danh đó, dù địa hình đã thay đổi nhiều. Trảng Còng còn có trảng
Chiếu bóng, là nơi bộ đội thường chiếu phim cho quân dân xem. Những bộ phim
phần lớn do Liên Xô sản xuất. Cũng có trảng Máy bay bắn trâu vì máy bay Pháp
từng phát hiện trâu của ta ăn cỏ ở đó và bắn xối xả. Tỉnh ủy Gia Định từng đóng
ở khu rừng đối diện với trảng Máy bay bắn trâu này khoảng từ năm 1952 đến 1954.
Nhưng Hoàng Việt không
chỉ ghi dấu cuộc kháng chiến chống Pháp trong bài ca có một lần. Ông còn có Lá
xanh, Ai nghe chiến dịch mùa xuân(1950), Lửa sáng, Nhạc rừng (1953).
“Cái cách mà Hoàng Việt để lại dấu ấn cho người nghe không phải là những khẩu
hiệu xơ cứng, mà ngay trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn của cuộc kháng chiến,
người ta vẫn thấy một sự vui tươi, nhẹ nhàng đến lãng mạn được thể hiện ở từng
ca khúc. Bởi Hoàng Việt là người con của Nam bộ, là nhạc sĩ của người dân Nam
bộ”, TS Nguyễn Đăng Nghị viết.
Theo biên đạo múa Nguyễn
Thành Đức, những sáng tác đó là dấu ấn sau vài năm chàng thanh niên 19 tuổi
Hoàng Việt đặt chân tới Đồng Tháp Mười. Chàng trai Sài Gòn đã phải đi vòng
xuống Mỹ Tho để lên Chiến khu Đồng Tháp Mười. Là một chiến sĩ văn nghệ, Hoàng
Việt có những đồng đội là nghệ sĩ cải lương tên tuổi Tám Danh, Ba Du, Triệu An.
Ông cũng chiến đấu cùng nhà văn Minh Lộc, nhà thơ Nguyễn Bính, Việt Ánh, Bảo
Định Giang và các nghệ sĩ nhiếp ảnh, nhà quay phim Mai Lộc, Vũ Sơn, Khương Mễ.
Ông cũng là người trẻ nhất trong đội quân văn nghệ này.
Hành trình sáng tác của
Hoàng Việt - từ một cậu thanh niên cho tới hết cuộc đời là một hành trình theo
cách mạng, trải dài qua kháng chiến. Trong suốt hành trình đó chưa bao giờ ông
thôi tin tưởng vào quân đội, vào nhân dân. Những bài hát của ông vì thế tươi
tắn và giàu xúc cảm của cái nhìn lạc quan, của “bàn chân giẫm gai lòng không
thở than”.
Chấn động lớn trong âm
nhạc
Tuy nhiên, bước ngoặt
thực sự trong sáng tác của Hoàng Việt, theo ông Nghị lại đến sau đó, với bài Tình
ca (1957). Tác phẩm này cũng thấm đẫm hoàn cảnh lịch sử, cả của đất
nước lẫn cá nhân nhạc sĩ.
Có nhiều giai thoại kể
về bài hát trước khi Hoàng Việt sang Bulgaria để học nhạc. Theo NSƯT Minh Trị,
bài hát ra đời sau một buổi hàn huyên bên biển Thanh Hóa. Trong cuộc trò chuyện
ấy, bỗng nhiên một người vụt đứng dậy thét to: “Trời ơi nhớ lắm, nhớ nhà quá đi
thôi, nhớ cồn cào xé ruột thâu đêm. Nhớ lắm các đồng chí ơi, 2 năm nữa, 2 năm
rồi chúng ta có trở về nam được không?”. Rồi người đó cúi xuống vịn vai Hoàng
Việt mà nói ông làm sao viết lên cái tình cảnh này cho anh em đi, viết cho anh
em hát đỡ nhớ nhà. Trong một bút ký, nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng cho biết,
nhạc sĩ hát cho ông nghe tác phẩm này trước khi lên đường đi Bulgaria.
Một câu chuyện khác lại
cho biết bài hát ra đời sau khi nhạc sĩ nhận được thư vợ từ Sài Gòn gửi ra.
Những dòng thư riêng tư, nhung nhớ. Bức thư đó để đến được tay ông đã phải đi
vòng những chặng đường dài. Từ Sài Gòn sang Paris, vòng qua một số nước rồi mới
về tới Hà Nội. Khi đó, Hoàng Việt đang ở số 4 Lý Nam Đế - ngôi nhà nổi tiếng
của các văn nghệ sĩ quân đội một thời.
Nếu như giờ đây Tình
ca được coi là một bài hát về tình yêu đôi lứa mẫu mực thì khi mới
trình làng, vị trí của nó khá chông chênh. “Điều đáng chú ý là ở thời điểm đó,
Tình ca đã gây nên một chấn động lớn trong âm nhạc nói riêng và giới nghệ thuật
nói chung. Nhiều người cho rằng Hoàng Việt “quá liều” trong việc đề cập tới
tình yêu đôi lứa, khi mà điều kiện lịch sử chưa cho phép”, TS Nguyễn Đăng Nghị
nhớ lại.
Cũng theo ông Nghị,
trước Tình ca 20 năm, cuộc giao lưu văn hóa với phương Tây đã
giúp cho tân nhạc xuất hiện. Dòng tân nhạc này trước cách mạng được phân thành
ba dòng ca khúc: cách mạng, yêu nước tiến bộ (hoài vọng lịch sử) và tiền chiến
(trữ tình lãng mạn). Tuy nhiên, theo ông Nghị, do hoàn cảnh dòng ca khúc hoài
vọng lịch sử đã sớm nhập vào dòng ca khúc cách mạng. “Riêng với dòng ca khúc
trữ tình lãng mạn thì bị đứt đoạn. Nhưng nó vẫn âm ỉ chảy trong tâm hồn của
nhiều nhạc sĩ. Như vậy, Tình ca của Hoàng Việt ra đời là sự
tiếp nối chủ đề tình yêu của dòng ca khúc trữ tình lãng mạn, tất nhiên là ở một
tâm thế khác”, ông Nghị phân tích.
Ông Nghị cho rằng cũng
ngay ở từ thời điểm đó cho đến ngày giải phóng, nhiều nhạc sĩ đã chọn các hướng
đi để khai thông cho dòng ca khúc này bằng nhiều hướng khác nhau. Có hướng đi
vào khai thác đề tài tình yêu trên cốt truyện và âm nhạc dân gian miền núi phía
bắc như Tình ca Tây Bắc, Trước ngày hội bắn. Hướng thứ hai, thuộc về Hoàng
Việt, tác giả xông thẳng vào hai vấn đề then chốt của tình ca mới. Nội dung đề
tài mang tính cập nhật, nghĩa là gắn với bối cảnh lịch sử đương đại, sử dụng
ngôn ngữ âm nhạc mới. “Như vậy, ở một phương diện nào đó, có thể coi Hoàng Việt
là nhạc sĩ đặt nền móng cho sự ra đời của một nhánh tình ca, mà trong đó có sự
kết hợp giữa ngôn ngữ âm nhạc mới với không khí của thời đại”, ông Nghị đánh
giá.
Cũng theo nhà nghiên cứu
này, ở thời điểm đó việc nhìn nhận tác phẩm âm nhạc được đặt dưới hệ quy chiếu
của ngôn từ. Liệu ngôn từ đó có ảnh hưởng đến sức chiến đấu của dân tộc hay
không. Trên nền đó, chúng ta mới thấy sự táo bạo của Hoàng Việt trong cách đặt
vấn đề về tình yêu đôi lứa. Chính do cách nhìn mang tính lịch sử này mà một số
người lúc đó cho rằng Tình ca của Hoàng Việt là có vấn đề.
“Bởi thế, ngay khi bài hát được nghệ sĩ Quốc Hương trình diễn trên sóng của Đài
tiếng nói Việt Nam, thì sau đó ít tháng, nó được xếp lại trong kho lưu trữ.
Lịch sử vô cùng khắt khe nhưng cũng thật công bằng, 10 năm sau, Tình ca của
Hoàng Việt đã được trả lại đúng vị trí của nó”, ông Nghị nhớ lại.
Nhạc sĩ Hoàng Việt (1928 - 1967), tên khai sinh là Lê Chí
Trực. Ông sinh ra tại Chợ Lớn. Hy sinh tại Tiền Giang.
Theo
cách mạng từ khi mới 19 tuổi, ông làm việc tại Đoàn văn công Trung Nam Bộ
đóng ở Đồng Tháp Mười. Năm 1954, ông tập kết ra bắc và học âm nhạc. Năm 1958,
ông sang học tập tại Nhạc viện Sofia, Bulgaria và tốt nghiệp hạng ưu với bản
giao hưởng Quê hương. Tác phẩm này được trình diễn lần đầu tiên ở Việt Nam
năm 1965 tại Nhà hát Lớn, Hà Nội. Giáo sư, nhạc sĩ Ca Lê Thuần nhận định:
“Bản giao hưởng này của Hoàng Việt cũng chính là liên khúc giao hưởng đầu
tiên của đất nước ta. Một tác phẩm mang tính chất sử thi với quy mô đồ sộ, đã
đánh dấu một bước trưởng thành quan trọng của giới nhạc sĩ Việt Nam”.
Một
năm sau ông trở lại chiến trường miền Nam và hy sinh năm 1967. Nhạc sĩ là tác
giả của nhiều ca khúc nổi tiếng: Tiếng còi trong sương đêm (bút
danh Lê Trực), Lá xanh, Nhạc rừng, Lên ngàn, Mùa lúa chín, Tình ca...
Hoàng
Việt được nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
đợt 1 năm 1996. Năm 2011, ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét