Đoàn Xuân Kiên
Trong kho tác phẩm đồ sộ của Phạm Duy, thơ phổ nhạc có một vai trò
rất đáng kể. Phải nhận rằng nhạc của ông đã làm bất tử một số những bài thơ, và
ngược lại thơ đã gợi hứng cho ông viết những giai điệu mượt mà quyến rũ nhiều
thế hệ người nghe.
Trường Ca Hàn Mặc Tử là công trình thơ phổ nhạc rất khác với những bài trước đây thường
chỉ là những đoản khúc hoàn chỉnh riêng rẽ, dù có đặt chúng vào một tập hợp như Ðạo
Ca, Ngục Ca, Hoàng Cầm Ca.Một công trình dài hơi và dài ngày, nếu cứ tính
từ khi lần đầu tiên bài Tình Quê xuất hiện như một phụ bản
trong tập san THẾ KỈ HAI MƯƠI (1960) tại Sàigòn.
Ngoài Phạm Duy ra, có Hải Linh và Viết Chung trước đây cũng phổ nhạc Hàn Mặc
Tử, mỗi người một phong cách khác nhau. Nhưng cũng chỉ với Phạm Duy rất đáng
chú ý vì tính cách đa dạng và thể hiện một phong cách đặc biệt. Trong Trường Ca
Hàn Mặc Tử, có đủ các kỹ thuật phổ nhạc mà Phạm Duy thường vẫn sử dụng: lắp
giai điệu vào lời thơ, biến thể các giai điệu để phát triển nhạc đề, và chuyển
ý thơ thành điệu. Kỹ thuật lắp giai điệu và thủ pháp quen thuộc thường thấy ở
thơ phổ nhạc: Bài Chiều Ðông phổ nguyên lời bài thơ Khoác
Kíncủa Cung Trầm Tưởng là một thí dụ. Phải nói ngay là Phạm Duy rất hiếm
khi phổ nguyên lời thơ của toàn bài, vì đòi hỏi của cấu trúc câu nhạc cũng có
mà vì sự chọn lọc lời ca của ông cũng có. Vì vậy, bài thơ phổ nhạc của Phạm Duy
thường phong phú về giai điệu và nhạc đề nhờ ở nghệ thuật gây ấn tượng qua
những kết hợp kỹ thuật khác nhau.
Bài thơ phổ gần như nguyên vẹn trong Trường Ca Hàn Mặc Tử là Ðây thôn
Vĩ Giạ (gồm có ba khổ thơ thất ngôn) thật ra cũng phải tôn trọng cấu
trúc của bài hát mà kết cấu như sau: đoạn một của bài hát gồm khổ một và khổ
hai, đoạn hai gồm khổ một và khổ ba. Sự láy lại khổ thơ là một nghệ thuật gây
ấn tượng bằng sự láy lại nhạc đề của phân khúc này. Kỹ thuật biến thể các giai
điệu để phát triển rộng nhạc đề là thủ pháp đã được dùng trong khi phổ bài Tình
Quê. Ông đã bố cục bài hát làm hai đoạn lớn có giai điệu không xa nhau
lắm và nối chúng lại với nhau bằng bản lề rất khéo là hai câu thơ ngũ ngôn
trong bài thơ nhưng đã phổ thành hai biến điệu khác nhau cho phù hợp với âm
hành của câu nhạc. Sự tròng tréo các giai điệu trong hai đoạn có tác dụng nghệ
thuật đặc sắc cho bài hát. Kỹ thuật mà Phạm Duy thường sử dụng là kỹ thuật
chuyển ý thơ thành giai điệu.
Ðây là một kỹ thuật đòi hỏi khả năng thưởng ngoạn văn học ngõ hầu
có thể nắm bắt được ý của câu đoạn hay cả bài thơ để chuyển thành giai điệu.
Phạm Duy đã sử dụng kỹ thuật này mà hoàn thành những tác phẩm bất hủ như Tiếng
Sáo Thiên Thai, Vần Thơ Sầu Rụng, Hoa Rụng Ven Sông...
Trong Trường Ca Hàn Mặc Tử, phần phổ nhạc nhóm bài thơ về Trăng là
phần rất công phu nhờ sự biến ảo của giai điệu theo nhịp điệu phù hợp với tâm
trạng trong thơ. Phạm Duy đã tổ hợp các bài thơ khác nhau theo một thứ tự do
ông thiết định để làm bật lên trạng thái tâm hồn của nhà thơ trong phân khúc
này. Không có được khiếu thưởng ngoạn thi ca sâu sắc thì không thể có được
những bản thơ phổ nhạc như thế. Cứ so sánh lối tiếp cập của Hải Linh và Phạm
Duy khi phổ bài thơ Ave Maria sẽ thấy ngay phong cách Phạm
Duy: ông tước bỏ đoạn đầu của bài thơ mà Hải Linh đã dùng để phát triển nhạc đề
cho bài hợp xướng: Ave Maria giầu tính cách tôn giáo: Như
song lộc triều nguyên ơn phước cả...
Phong cách phổ nhạc ở đây đã phản ánh phong cách người nhạc sĩ. Bao trùm lên
các kỹ thuật vừa kể là nghệ thuật gây ấn tượng qua sự nhấn mạnh nhạc đề. Ðây là
điểm đặc sắc của nghệ thuật sáng tác Phạm Duy. Bài Ðà Lạt Trăng
Mờ chẳng hạn, đã láy đi láy lại nhiều lần nhạc đề bài hát. Ta tìm thấy
lại nghệ thuật ấy trong tất cả các phân khúc của Trường Ca Hàn Mặc Tử. Ấn tượng
về câu nhạc được tô đậm trong trí người nghe là nhờ những sự nhấn mạnh nhạc đề
như thế. Ðiều kỳ diệu là những câu hát được tô đậm bằng sự láy lại đã không hề
tạo ấn tượng nhàm chán. Làm sao nắm bắt được nhạc đề của bài thơ phổ nhạc, hoàn
toàn thuộc về sự bén nhạy của tư duy nghệ thuật của Phạm Duy. Nếu những bài thơ
hay là những bài thơ có thần thì những câu thơ phổ nhạc của Phạm Duy trong
Trường Ca Hàn Mặc Tử cũng có thần của chúng, tạo nên khí vị nhất quán khi nghe
riêng từng bài hay lúc nghe toàn thể chín phân khúc. Ma lực cuốn hút của những
phân khúc thơ phổ nhạc Trường Ca Hàn Mặc Tử là ở những đợt sóng cảm xúc xô đẩy
tới lui như những đợt sóng khác nhau dào dạt đuổi bắt không ngừng.
Trường Ca Hàn Mặc Tử là một dấu mốc đặc biệt trong sự nghiệp sáng tác của Phạm
Duy. Nếu thơ phổ nhạc nói chung đã là một gạch nối đặc biệt giữa văn học và
nghệ thuật âm nhạc thì Trường Ca Hàn Mặc Tử còn có ý nghĩa một phác họa chân
dung của một nhà thơ bằng âm nhạc. Giá trị của tác phẩm như vậy là đa dạng. Hãy
chỉ nhìn tác phẩm trong địa hạt âm nhạc thôi, Trường Ca Hàn Mặc Tử cũng là một
công trình đồ sộ: giai điệu phong phú, hòa âm tân kỳ, giọng hát nhã luyện. Tác
phẩm để lại dư vị ngất ngây và những bâng khuâng không dứt về thân phận người
thi sĩ quá cố mà cũng là của mỗi chúng ta. Ðạt được như thế không thể không có
một khí lực âm nhạc dữ dội.
Nguồn: phamduy.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét