TUYỂN TẬP CÁC BÀI GIẢNG NGẮN
CỦA KRISHNAMURTI
Chuyển Ngữ: Dannyviet
CỦA KRISHNAMURTI
Chuyển Ngữ: Dannyviet
Phần Một
ÁNH SÁNG CHO CHÍNH MÌNH
Mỗi người phải được tự
do để trở thành ánh sáng cho chính mình. "Ánh sáng cho chính mình".
Ánh sáng này không thể nhận được từ người khác, cũng không thể thắp lên bằng
ngọn nến của người khác. Nếu bạn thắp bằng ngọn nến của người khác, nó chỉ là
ngọn nến, nó có thể bị thổi tắt. Sự nghiên cứu ráo riết để tìm ra thế nào là
ánh sáng cho chính mình là một phần của thiền quán. Chúng ta sẽ cùng nhau tìm
hiểu xem thế nào là ánh sáng cho chính mình và sự có ánh sáng này nó đặc biệt
quan trọng đến mức nào. Thân phận của chúng ta là chấp nhận thẩm quyền, thẩm
quyền của vị tu sĩ, thẩm quyền của cuốn sách, thẩm quyền của vị đạo sư, thẩm
quyền của người nào đó tuyên bố rằng họ biết. Đối với tất cả những vấn đề thuộc
về tâm linh, nếu có thể dùng từ "tâm linh", thì không có bất cứ loại
thẩm quyền nào cả. Nếu không như vậy, bạn sẽ không có tự do để mà nghiên cứu,
trầm tư, để tự tìm ra ý nghĩa mà thiền quán mang lại. Để đi vào thiền quán, bạn
phải hoàn toàn thả nổi bản thân, giải phóng nội tâm khỏi tất cả mọi loại thẩm
quyền, so sánh, kể cả thẩm quyền của người phát ngôn, nhất là khi người phát
ngôn lại là chính tự ngã, là "cái tôi", bởi vì nếu bạn nghe theo lời
của "hắn" thì..., thế là hết, là tiêu rồi!
Bạn phải nhận thức
được sự quan trọng về thẩm quyền của ông thầy thuốc, của nhà khoa học; đồng
thời hiểu rằng hoàn toàn không có sự quan trọng về thẩm quyền đối với nội tâm,
dù rằng đó là thẩm quyền của người khác, hay của kinh nghiệm, kiến thức, quyết
định, thành kiến của chính bạn. Kinh nghiệm của ai đó, hiểu biết của ai đó rồi
cũng sẽ trở thành thẩm quyền của chính họ:"Tôi hiểu, cho nên tôi
đúng". Nên tỉnh giác trước những loại thẩm quyền đó, nếu không, bạn sẽ
không bao giờ có thể trở thành ánh sáng cho chính bạn được.....
...Trong thiền quán,
sẽ không có ai chỉ dẫn bạn, không có ai nói cho bạn biết rằng bạn đang tiến bộ,
không có ai khuyến khích bạn, bạn phải hoàn toàn đơn độc. Và cái ánh sáng cho
chính bạn chỉ có thể bừng lên khi chính bạn tự tìm hiểu nội tâm một cách sâu
xa, coi xem mình là cái gì. Đó là sự tự thức tỉnh, biết mình là cái gì. Cái
biết ấy không dựa theo các tâm lý gia, không dựa theo các triết gia, không dựa
theo các diễn giả, các nhà hùng biện, nhưng là bạn "biết", bạn
"tỉnh thức" về cái bản thể của bạn, sựsuy nghĩ của bạn, cảm xúc của bạn,
tìm ra toàn bộ cấu trúc của cái toàn thể. Biết rõ chính mình là điều tối quan
trọng. Đó không phải là do người khác mô tả về mình, mà là "đích thực là
cái gì?", bạn là cái gì; Đó cũng không phải "cái mà bạn tưởng rằng
bạn là...", hoặc " cái mà bạn nghĩ rằng bạn nên là...", nhưng là
cái đang hiện hữu thực tế là cái gì.
(Trích This Light in
Oneself'-True Meditation)
BẢN THÂN VÀ SỰ SỢ HÃI
Nếu bạn nghĩ rằng sự
hiểu biết về chính bản thân là điều quan trọng bởi vì có tôi hoặc người nào đó
đã nói với bạn rằng đó là điều quan trọng thì tôi e rằng chúng ta nên ngưng
cuộc đối thoại. Nhưng nếu chúng ta đồng ý với nhau rằng sự tìm hiểu thấu đáo
bản thân là điều cần thiết sinh tử, thì đó lại là điều khác hẳn, và chúng ta sẽ
cùng nhau khảo sát vấn đề một cách cặn kẽ trong sự vui vẻ, thoải mái và thông
suốt.
Tôi không đòi hỏi ở
bạn niềm tin; tôi không tự coi như tôi là một kẻ có thẩm quyền về vấn đề nào
đó. Tôi chẳng có gì để dậy bạn, thí dụ như về một triết thuyết mới, hoặc một hệ
thống tư tưởng mới, hay là một con đường mới để tìm về thực tại, v.v... Không
có con đường nào có thể tới được thực tại ngoài chính sự thực. Tất cả mọi loại
thẩm quyền, nhất là trong lãnh vực tư tưởng và thâm hiểu, đều chỉ tàn phá, làm
hại mà thôi. Thầy hại trò và trò hại lại thầy. Bạn phải là thầy và đồng thời là
học trò của chính bạn. Bạn phải tự đặt câu hỏi cho chính mình về tất cả những
điều mà người ta đã công nhận là có giá trị và cần thiết.
Khi không có ai để cho
bạn theo đuôi, bắt chước, bạn sẽ cảm thấy rất cô đơn. Hãy nên cô đơn đi! Tại
sao bạn phải sợ hãi sự sống đơn độc? Bởi vì bạn đã phải đối diện với chính mình
một cách trần trụi, rằng nội tâm bạn rỗng tuếch, trì trệ, đần độn, xấu xa, tội
lỗi, lo âu, khắc khoải- bạn chỉ là một thực thểtầm thường, xấu xí, kém giá trị mà thôi.
Hãy đối diện với sự
thực; hãy nhìn cho rõ, đừng có trốn chạy khỏi thực tế. Giây phút bạn trốn chạy
chính là giây phút mà nỗi sợ hãi khởi sự ám ảnh bạn.
(Trích Freedom from
the Known)
Hỏi:
Chúng ta có cách nào
để giải quyết những lộn xộn về chính trị và sự khủng hoảng đang xẩy ra trên thế
giới chăng? Một cá nhân có thể làm gì để chấm dứt cuộc chiến đang đe dọa
không?
Krishnamurti
đáp:
...Những lý do nào đã
tạo ra chiến tranh -tôn giáo, chính trị hay kinh tế? Hiển nhiên nguyên nhân của
chiến tranh chính là tín ngưỡng; tín ngưỡng đối với chủ nghĩa ái quốc, hoặc đối
với một ý thức hệ, hoặc đối với một giáo điều đặc biệt nào đó. Nếu chúng ta
không có tín ngưỡng mà chỉ có lòng tốt, tình thương yêu và sự quan tâm đến
nhau, như thế chiến tranh sẽ không thể xẩy ra.
Nhưng chúng ta đã được
nuôi dưỡng bằng đủ loại tín ngưỡng, đủ loại ý thức hệ, đủ loại tín điều, do đó,
chúng ta chỉ tạo ra sự bất hòa. Chúng ta chỉ có thể, hoặc là theo đuổi con
đường mâu thuẫn, chiến tranh liên tục, mà đó chính là kết quả từ hành động thường
nhật của chúng ta, hoặc là nhìn thẳng vào nguyên nhân của chiến tranh rồi quay
lưng lại, không tiếp tục tạo ra nguyên nhân nữa....
(Trích The First &
Last Freedom)
GIÁO DỤC
Hỏi:
Nếu chúng ta làm điều
sai trái, có người đã chỉ bảo cho chúng ta biết, tại sao chúng ta lại còn tái
phạm?
Krishnamurti
đáp:
Bạn nghĩ sao? Lý do
nào khiến cho bạn bẻ hoa, nhổ cây, phá hoại đồ đạc, liệng giấy bừa bãi, mặc dầu
tôi tin chắc là bạn đã từng nghe lời khuyên không nên làm những việc đó cả chục
lần? Hãy nghe cho kỹ rồi bạn sẽ thấy. Khi bạn làm những chuyện đó, óc bạn đang
ở trong tình trạng trống vắng, phải vậy không? Bạn không nhận thức được, bạn
không suy nghĩ, tâm trí bạn đã ngủ quên, thành ra bạn đã làm những việc rõ ràng
là ngớ ngẩn, ngu ngốc. Bao lâu mà bạn sống trong trạng thái không hoàn toàn có
ý thức, không hoàn toàn tỉnh giác, thì sự kiện chỉ cứ khuyên bạn không nên làm
điều này, điều nọ, sẽ chẳng có kết quả gì. Nhưng nếu nhà giáo dục mà giúp cho
bạn trở nên có óc suy nghĩ, quan tâm hơn, trở nên thật là tỉnh thức, quan sát
với niềm vui thích từ cây cối, chim chóc, sông ngòi, sự phong phú tuyệt vời của
trái đất v.v..., khiến cho tâm hồn bạn trở nên tinh tế, sống động, đối với
ngoại cảnh và cả nội tâm của bạn, thì khi đó chỉ một gợi ý nhẹ nhàng đến với
bạn đã đủ cho bạn cảm nhận được vấn đề.
Buồn thay, sự nhậy cảm
của bạn đã bị tàn phá mất rồi, bởi vì ngay từ lúc bạn mới lọt lòng cho đến ngày
vĩnh biệt thế giới này, bạn chưa bao giờ được ngưng cái khổ nạn bị bảo cho biết
rằng phải làm cái này, không được làm cái kia v.v...Cha mẹ, bậc thầy, xã hội,
tôn giáo, vị linh hướng, và ngay cả cái khát vọng của chính bạn, lòng tham lam,
tính ghen tị v.v..., tất cả những cái đó đã bảo cho bạn biết "nên làm cái
này" và "không nên làm cái kia".
Muốn thoát khỏi tất cả
những cái "nên" và "không nên" đó, và để bạn có được niềm
cảm thông sâu xa, có được tính tốt lành tự nhiên, không làm đau lòng người
khác, không xé giấy hoặc ném đá ra đường mà không lượm lên---điều này cần đến
một sự suy nghĩ thâm trầm, sâu sắc.
Mục đích của giáo dục
chắc chắn không phải là chỉ dậy cho bạn mấy chữ cái đủ để bạn biết viết cái tên
của bạn, mà là đánh thức cái tinh thần trầm tư sâu sắc này, khiến cho bạn trở
nên tinh tế, tỉnh giác, quan tâm và ân cần đối với cuộc đời.
(Trích Think on These
Things)
Nếu nhà giáo dục quan
tâm đến sự tự do cá nhân, và không có sẵn những thành kiến, thì ông ta sẽ giúp
cho đứa trẻ tự khám phá ra cái tự do đó bằng cách khuyến khích nó hiểu được môi
trường sống, cá tính, tôn giáo và hoàn cảnh xuất thân của gia đình nó, với tất
cả những ảnh hưởng đã có thể thâm nhập vào nó.
Nếu trong trái tim của
các bậc thầy đầy ắp tình thương yêu và lòng ham chuộng tự do thì, bằng sự sáng
suốt, tỉnh táo, họ sẽ giúp từng đứa học trò điều nó cần và giúp nó giải quyết
những khó khăn; như thế có nghĩa là họ sẽ không chỉ hành động như điều khiển
những cái máy theo phương pháp và công thức, màø tạo cơ hội cho học sinh của
họ, là những con người, được tự phát triển khả năng, với sự cảnh giác và giám
sát.
Nền giáo dục chân
chính cũng phải giúp cho người học sinh phát hiện được điều mà hắn thấy hứng
thú muốn học hỏi nhất. Nếu hắn không tìm ra được đúng ngành nghề mà hắn có năng
khiếu thì sẽ uổng phí cuộc đời; hắn sẽ cảm thấy thất vọng vì phải miễn cưỡng
làm công việc mà hắn không thích suốt cuộc đời hắn. Nếu nguyện ước của hắn là
trở thành nhà nghệ sĩ mà lại phải vùi đầu làm một thư ký văn phòng thì đời sống
của hắn sẽ chỉ còn là chuỗi ngày buồn tẻ trong sự phàn nàn bất mãn. Cho
nên, điều quan trọng là mỗi người phải tự tìm coi mình muốn làm gì, sau đó hãy
cân nhắc kỹ coi có xứng đáng dùng cuộc đời vào công việc đó không. Cậu thiếu
niên có thể muốn trở thành một người lính; nhưng trước khi bước vào binh
nghiệp, cậu ta nên được giúp đỡ để tìm hiểu coi nghề lính có đem lại phúc lợi
cho toàn thể loài người chăng.
Nền giáo dục chân
chính phải giúp cho học sinh, không những chỉ phát triển khả năng của hắn, mà
còn khiến cho hắn hiểu rõ được điều hắn quan tâm, hứng thú nhất. Trong một thế
giới bị tan nát vì chiến tranh, tàn phá và khốn cùng, người ta phải có khả năng
xây dựng một trật tự xã hội mới và một cung cách sống khác trước.
Trách nhiệm xây dựng
một xã hội an bình và sáng suốt nằm chủ yếu trong tay nhà giáo dục, điều đó
thật rõ ràng, không phải vì cao hứng mà đề cao quá, nhưng quả thật là nhà giáo
có cơ hội tuyệt vời để có thể giúp thành đạt sự chuyển hóa xã hội đó.
Nền giáo dục chân
chính không lệ thuộc vào qui tắc cai trị của từng chính quyền hoặc cung
cách điều hành của từng hệ thống chính trị, mà nó nằm trong tay của chính
chúng ta, trong tay các bậc cha mẹ và các bậc thầy, cô giáo.
Nếu các bậc cha mẹ mà
chăm sóc đời sống tinh thần của con cái một cách chu đáo thì họ đã xây dựng một
xã hội đổi mới. Nhưng căn bản là phần đông chẳng quan tâm, cho nên họ chẳng
dành thời giờ cho chuyện tối quan trọng này. Họ có thời giờ để lo chuyện kiếm
tiền, để giải trí, để tham dự lễ lạc, cúng kiếng, nhưng không có thời giờ để
suy tính, cân nhắc coi thế nào là một nền giáo dục đúng đắn cho con cái họ.
Thực tế là phần lớn dân chúng không muốn đối diện với vấn nạn này. Đối diện với
vấn nạn này có nghĩa là họ phải dẹp bớt những thú vui, những trò tiêu khiển, và
chắc chắn là họ chẳng muốn làm những chuyện đó. Cho nên họ gửi con đến trường,
nơi mà nhà giáo cũng chẳng quan tâm đến chúng nhiều hơn cha mẹ chúng. Tại sao
nhà giáo phải quan tâm nhỉ? Đối với họ, dậy học chỉ là một nghề, một cách kiếm
tiền!
Thế giới mà chúng ta
tạo ra đây sao mà hời hợt, giả tạo, xấu xí, nếu nhìn vào phía sau bức màn.
Chúng ta trang hoàng bức màn, hy vọng mọi sự rồi cũng sẽ coi được, rồi cũng sẽ
đâu vào đấy thôi!
Krishnamurti --
Education and the Significance of Life
Danny Việt dịch
Hỏi:
Chúng ta có nên hình
thành cái khái niệm về người nào đó hay chăng?
Krishnamurti đáp:
Bộ chúng ta nên có
khái niệm về người khác chăng? Bộ chúng ta nên hình thành một quan điểm, đánh
giá, xét nét về người khác chăng? Khi bạn có khái niệm về thầy của bạn, thì có
cái gì là quan trọng đối với bạn? Tôi không nói về bản thân vị thầy, nhưng nói
về cái khái niệm của bạn về vị thầy. Và đó là chuyện xẩy ra trong cuộc đời,
đúng không? Chúng ta đều có ý kiến về người này, người khác, đúng không? Chúng
ta nói: " Hắn thì tốt", "Hắn thì phù phiếm", Hắn thì mê
tín", "Hắn làm cái này, cái kia"...Chúng ta thiết lập một bức
màn ngăn cách chúng ta với người khác, cho nên chúng ta không bao giờ có thể
thật sự tiếp xúc được với người đó. Nhìn thấy ai làm việc gì, chúng ta nói:
" Ông ta đã làm việc đó", như vậy, nó chỉ quan trọng ở cái thời gian
chuyện đó xẩy ra. Bạn hiểu chăng? Nếu bạn thấy ai đó làm việc gì mà bạn có ý
kiến như là người đó làm việc tốt, hoặc xấu, thế là bạn bèn có ý kiến cố định
về người đó, để rồi mươi ngày hay cả năm sau, khi bạn gặp lại họ, bạn vẫn còn
giữ cái ý kiến của bạn về họ. Nhưng mà trong khoảng thời gian đó, có thể là họ
đã thay đổi rồi. Cho nên điều rất quan trọng là đừng bao giờ nói: "Hắn là
thế đó", mà nói: "Hắn đã như thế vào tháng Hai", bởi vì tới cuối
năm thì hắn đã đổi khác hoàn toàn mất rồi.
Nếu bạn nói về ai đó:
"Tôi biết người này", có thể là bạn sẽ sai hoàn toàn, bởi vì bạn chỉ
biết về hắn vào khoảng thời gian nào đó, hoặc bởi một sự kiện xẩy ra vào một
thời điểm nào đó, ngoài ra, bạn chẳng biết gì về hắn cả.
Cho nên điều quan
trọng là mỗi khi gặp người nào, bạn hãy tiếp xúc với họ bằng một tâm hồn hoàn
toàn trong sáng, không với những thành kiến, không với những định kiến và không
với những quan điểm của riêng mình.
(Trích Think On These
Things)
Để hiểu sợ hãi, ta
phải nói về sự so sánh trước. Tại sao ta so sánh? Về mặt kỹ thuật, so sánh phát
hiện sự tiến triển, tương quan với nhau. Năm chục năm trước chưa có bom nguyên
tử, chưa có máy bay siêu âm, bây giờ chúng ta co những cái đó, và trong tương
lai năm chục năm nữa, chúng ta sẽ có những cái mà hiện nay chúng ta không có.
Cái đó được gọi là sự tiến bộ, luôn luôn so sánh, tương quan, và tâm trí chúng
ta bị vướng mắc vào cái lối suy nghĩ kiểu đó. Không phải chỉ từ ngoại cảnh, mà
ngay từ trong nội tâm, trong cái cấu trúc về tâm lý của chúng ta, chúng ta suy
nghĩ theo kiểu so sánh. Chúng ta nói :" Tôi thế này, trước kia tôi thế
này, và tôi sẽ khá hơn trong tương lai". Cái lối suy nghĩ kiểu so sánh như
vậy, chúng ta gọi là sự tiến bộ, sự phát triển, và cuộc đời chúng ta, từ phẩm
hạnh, đạo đức, tôn giáo cho dến làm ăn buôn bán, giao dịch trong xã hội, chúng
ta đều dựa trên nền tảng đó. Chúng ta quan sát bản thân chúng ta một cách so
sánh với cái xã hội vốn dĩ cũng thoát thai từ một sự phấn đấu trong so sánh như
chính chúng ta.
So sánh sản sinh ra sợ
hãi, bạn hãy tự quan sát sẽ thấy. Tôi muốn trở thành nhà văn viết hay hơn, hoặc
trở thành người đẹp và thông minh hơn. Tôi muốn có nhiều kiến thức hơn mọi
người. Tôi muốn thành công, muốn trở thành nhân vật quan trọng, muốn có danh
tiếng trên thế giới. Thành công và danh tiếng là những điều so sánh rất căn bản
về mặt tâm lý, mà do đó, chúng ta liên tục sản sinh ra sự lo sợ. Và sự so sánh
cũng làm tăng thêm những mâu thuẫn, phấn đấu vốn được coi như những điều quan
trọng.
Bạn nói rằng bạn phải
cạnh tranh để sinh tồn trong cái thế giới này, do đó bạn so sánh và thi đua
trong công việc làm ăn, trong gia đình và cái-gọi-là nội dung có tính cách tôn
giáo. Bạn phải vào được thiên đường và ngồi ngay bên cạnh Chúa, hoặc một đấng
cứu độ đặc biệt nào đó của bạn. Sự so sánh về tâm linh phản ảnh trong sự vị
linh mục muốn trở thành giám mục, hoặc hồng y, hay cuối cùng tiến lên tới giáo
hoàng. Suốt đời, chúng ta mài miệt trau giồi cái loại tâm linh đó một cách siêng
năng, cần mẫn, phấn đấu để khá hơn, hoặc đạt được vị trí cao hơn người khác.
Cấu trúc của đời sống xã hội và đạo đức của chúng ta đặt nền tảng trên những
cái đó.
Cho nên trong cuộc đời
chúng ta, cái tình trạng so sánh, cạnh tranh và sự phấn đấu không ngừng nghỉ để
trở thành một nhân vật hay trở thành người vô danh, thì cũng vậy. Tôi cảm thấy
rằng chính cái đó là cội rễ của toàn bộ sự sợ hãi, bởi vì chính nó đã sản sinh
ra lòng thèm muốn, tật đố kị, thói ghen tị, căm thù.
Ở đâu có sự căm thù
thì ở đó chắc chắn là không có tình thương yêu và sẽ càng ngày càng tăng thêm
sự sợ hãi.
(Trích On Fear)
Nguyên nhân căn bản
của sợ hãi
Để thấu triệt cái vấn
đề sợ này, bạn phải tiến vào nơi sâu thẳm nhất của nó, bởi vì sự sợ hãi không
phải chỉ là một vấn đề hời hợt ở bề ngoài của suy tư. Sợ hãi không chỉ có
nghĩa là e ngại người láng giềng, hoặc sợ bị mất việc làm; nó thâm sâu hơn rất
nhiều và vì thế muốn hiểu thấu cần phải thăm dò tới tận đáy tâm hồn.
Muốn tìm hiểu sâu xa,
bạn cần một khối óc bén nhậy; và khối óc ấy không được mài cho bén do tranh cãi
hoặc lẩn tránh. Người ta phải tìm hiểu vấn đề từng bước một, và do đó sự thấu
hiểu toàn bộ cái quá trình đặt tên này là điều rất quan trọng. Khi bạn đặt cho
cả một nhóm người cái tên là Hồi giáo, hoặc là cái gì đó tùy ý bạn, tức là bạn
đã loại họ ra, không còn phải coi họ như những cá thể, thành ra cái tên gọi,
cái từ ngữ , đã ngăn cản không để cho bạn còn đứng trên cương vị một cá nhân,
một con người, trong mối liên hệ với những cá nhân, những con người khác. Cùng
một cách đó, khi bạn đặt cho cảm giác một cái tên tức là bạn không còn thẩm
thấu vào chính cảm giác, bạn không hội nhập trọn vẹn vào cảm giác.
Có rất nhiều cách để
trốn tránh sự sợ hãi; nhưng nếu bạn trốn tránh, bỏ chạy, sự sợ hãi sẽ mãi mãi
theo bén gót bạn. Muốn chấm dứt sợ hãi một cách triệt để, bạn phải thấu triệt
cái quá trình đặt tên này và nhận ra rằng ngôn từ không bao giờ là sự kiện. Cái
tâm phải có khả năng tách rời ngôn từ ra khỏi cảm giác, và không được để cho
ngôn từ làm ngăn trở sự trực tiếp nhận thức cảm giác, vốn là chính sự
kiện.
Khi bạn đã đi xa tới
mức đó, thẩm thấu sâu tới mức đó, bạn sẽ phát hiện ra rằng chìm trong cõi vô
thức, trong cõi u minh thầm kín của tâm hồn, có một cảm giác về nỗi niềm hoàn
toàn cô đơn, hiu quạnh, đó chính là nguyên do căn bản của sự sợ hãi. Lại
nữa, nếu bạn lẩn tránh nó, nếu bạn muốn thoát khỏi nó, nói rằng nó đáng sợ quá,
nếu bạn không đào sâu vào chính nó đồng thời không đặt một cái tên cho no, thì
sẽ không bao giờ bạn vượt qua được nỗi sợ hãi. Cái tâm phải trực diện với nỗi
niềm hoàn toàn trống vắng, cô đơn, hiu quạnh trong nội tâm, và không tự cho
phép làm gì để trốn tránh sự thực.
Điều đặc biệt được gọi
là sự cô độc đó chính là điều rất cốt tủy của bản ngã, cái "tôi", với
tất cả mánh lới, sự xảo trá, sự đảo điên của nó, mạng lưới của nó, khiến
cho tâm trí bị mắc vào bẫy. Chỉ khi nào cái tâm có khả năng vượt qua được sự cô
đơn, hiu quạnh tối hậu ấy thì mới có tự do -- sự tự do tuyệt đối giải phóng
hoàn toàn khỏi nỗi sợ hãi. Và chỉ khi đó bạn mới tự thấy được thế nào là
thực tại, là cái sức sống vô lượng, vô biên, vô thủy, vô chung.
Khi mà tư tưởng còn nẩy sinh ra những sự sợ hãi dưới dạng chuyển biến theo thời gian thì nó không có khả năng hiểu được thế nào là phi thời gian.
Krishnamurti --
Reflections on the Self
Danny Việt dịch
Sống đơn giản không có
nghĩa là chỉ việc điều chỉnh theo một khuôn mẫu. Phải rất thông minh mới có thể
sống đơn giản, chứ không phải chỉ hùa theo một kiểu mẫu đặc biệt, dù nó có cái
vẻ bề ngoài giá trị. Bất hạnh thay, phần lớn chúng ta lại chỉ bước vào sự đơn
giản bằng cái vỏ ngoài. Thật là dễ dàng để chỉ sở hữu có chút ít đồ vật và thỏa
mãn, an lạc với sự sở hữu ít ỏi đó, hơn thế, chia xẻ chút ít đó với người
khác.
Nhưng mà, nếu chỉ biểu
lộ được sự đơn giản qua những sự vật, những sở hữu bề ngoài thì chắc chắn không
bao hàm sự đơn giản từ trong nội tâm. Với cái thế giới ngày nay, càng ngày càng
có nhiều sự việc từ phía ngoài đổ lên đầu chúng ta. Đời sống càng lúc càng trở
nên phức tạp. Để thoát khỏi tình trạng đó, chúng ta cố gắng từ bỏ hoặc lìa khỏi
sự dính mắc bởi vật chất, bởi xe cộ, nhà cửa, hội đoàn, rạp chiếu bóng, lìa
khỏi vô số những tình huống từ phía bên ngoài ào ạt phóng vào chúng ta. Chúng
ta tưởng rằng chúng ta sẽ sống đơn giản bằng sự rút lui. Đã có biết bao nhiêu
bậc thánh, biết bao nhiêu bậc đạo sư đã từ bỏ đời sống thế tục. Theo ý tôi thì
dường như những loại từ bỏ như thế đối với chúng ta sẽ chẳng giải quyết được
vấn đề.
Sự đơn thuần giản dị
là nền tảng, là sự chân thật, chỉ đến từ nội tâm, và từ đó, nó tỏa ra ngoài.
Làm sao để sống đơn giản, đó mới là vấn đề, bởi vì sự đơn giản đó sẽ khiến cho
chúng ta trở nên càng ngày càng nhạy cảm hơn.
Có một nội tâm tinh
tế, một trái tim nhạy cảm, đó là căn bản, bởi vì có như thế chúng ta mới có thể
mau lẹ trực nhận, dễ dàng đón nhận mọi sự.
(Trích The First &
Last Freedom)
Đối với chúng ta, chết
là hết, là bạn hoàn toàn chấm dứt với những ràng buộc, chấm dứt với tất cả moi
thứ mà bạn đã gom góp trong cuộc đời. Bạn không thể đem chúng đi theo với bạn.
Có thể là bạn muốn giữ chúng cho đến tận giây phút cuối cùng của cuộc đời, nhưng
bạn không thể đem chúng đi theo với bạn.
Chúng ta đã chia cuộc
đời ra thành hai mảng: sự sống và cái chết. Sự chia chẻ này đã mang lại cho
chúng ta nỗi sợ hãi ghê gớm. Từ sự sợ hãi đó, chúng ta sáng tác ra đủ loại học
thuyết, lý luận, để mà tự an ủi. Có thể chúng chỉ là những điều viển vông, hão
huyền thôi, nhưng chúng đã làm cho chúng ta được an tâm biết bao! Ảo tưởng có
thể đem lại sự thoải mái cho thần kinh. Nhưng mà, liệu có thể nào, đang khi
chúng ta sống đây, chúng ta để cho những thứ mà chúng ta bị dính mắc vào chết
quách đi không? Nếu tôi gắn bó vào với tiếng tăm, danh vọng của tôi, và sự chết
thì luôn luôn đi theo kề ngay bên cạnh, mỗi ngày tôi mỗi già và tôi phát hoảng
vì tôi đang sắp sửa mất tất cả. Vậy thì, liệu tôi có thể hoàn toàn giải thoát
ra khỏi những ý niệm, danh vọng, mà người đời đã gán cho tôi chăng? Như thế, dù
cho sự chết tới, nó cũng vẫn như sự sống đang tiếp diễn. Và vì vậy, sự chia
cách giữa sống và chết không còn xa thẳm, chúng nó chỉ là một dòng liên tục, kề
cận, nối liền với nhau.
Bạn có nhận thức được
cái ý nghĩa về sự tuyệt đẹp của một ngày, hoặc chỉ một giây, nhưng trong đó
không có sự gom góp, chất chứa, không có cái tâm lý gom góp, chất chứa không?
Bạn phải gom góp, chất
chứa quần áo, tiền bạc, v.v..., đó là chuyện khác. Nhưng trong tâm tưởng, bạn
không chất chứa những loại như sự hiểu biết, sự dính mắc, sự ràng buộc, rằng
những cái này là "của Tôi".
Bạn muốn thế không?
Bạn có thật sự muốn làm cái việc nó sẽ khiến cho cái mâu thuẫn giữa sống và
chết cùng với những nỗi niềm đau khổ, sợ hãi, khắc khoải, tất cả đều được chấm
dứt chăng?
(Trích Total Freedom -
The Essential Krishnamurti)
SỰ SỢ HÃI
Tại sao chúng ta làm
tất cả những việc này: tuân lệnh, theo sau, bắt chước?
Tại sao?
Tại vì từ sâu thẳm
trong nội tâm, chúng ta sợ hãi, không tự tin. Chúng ta muốn được ổn định, ổn
định về tài chính, ổn định về đạo đức, chúng ta muốn được chấp nhận, chúng ta
muốn có một địa vị ổn định, chúng ta muốn sẽ không bao giờ phải giáp mặt với
chuyện phiền phức, với đau đớn, với khổ sở, chúng ta muốn được che chở. Cho
nên, sự sợ hãi, một cách có ý thức hoặc không, đã làm cho chúng ta vâng lời bậc
Thầy, người lãnh đạo, vị đạo sư, nhà cầm quyền. Sự sợ hãi cũng khiến cho chúng
ta tránh làm những việc có hại cho người khác, vì sợ bị trừng phạt. Vì thế,
đằng sau những hành động này, có ẩn chứa lòng ham muốn sự an toàn, lòng ham
muốn được bảo đảm.
Bởi vậy, nếu không xóa
tan được sự sợ hãi, nếu không tự giải thoát ra khỏi sự sợ hãi, chỉ vâng lời
hoặc được vâng lời, thì chả có ý nghĩa là bao. Điều có ý nghĩa là làm sao để
hiểu được sự sợ hãi này một cách sâu sắc, thấy được sự sợ hãi biểu lộ từ ngày
này qua ngày khác, với những kiểu cách khác nhau. Chỉ khi nào chúng ta thoát ly
được khỏi sự sợ hãi, chúng ta mới có được cái phẩm chất cao quý của sự thâm
hiểu, cảm thông, không bị chi phối bởi những kinh nghiệm và sự hiểu biết chồng
chất. Chính đó là phẩm chất trong sạch ngoại hạng trong công cuộc tìm về thực
tại.
(Trích The Book of
Life)
Một cách rất đơn giản,
khi bạn muốn hiểu một điều gì đó, thì tâm trạng của bạn lúc ấy như thế nào? Khi
bạn muốn tìm hiểu con bạn, khi bạn muốn hiểu người nào đó, khi bạn muốn hiểu
điều mà ai đó đang nói, lúc đó, tâm bạn đang ở trạng thái nào? Bạn không phân
tích, phê bình, xét đoán những lời người kia đang nói, mà bạn lắng nghe, phải
vậy không? Tâm trí bạn đang ở trạng thái mà tiến trình suy nghĩ không hoạt động
nhưng rất tỉnh thức. Sự tỉnh thức đó không thuộc về thời gian, phải không? Bạn
chỉ lắng tâm trí trong sự thức tỉnh, lặng lẽ tiếp thu và hoàn toàn tỉnh giác;
Chỉ trong trạng thái tâm tư này, chúng ta mới có tâm cảm. Khi tâm tư bối rối,
thắc mắc, lo lắng, mổ xẻ, phân tích, lúc đó không thể có tâm cảm. Khi lòng mong
mỏi cảm thông thật là mãnh liệt, hiển nhiên khi đó tâm tư bạn sẽ thật là tĩnh
lặng.
Điều đó, dĩ nhiên rồi,
bạn phải thực nghiệm, đừng nghe theo lời tôi, nhưng rồi bạn sẽ thấy rằng càng
phân tích, bạn càng ít tâm cảm.
( Trích The First
& Last Freedom )
TẦM ĐẠO và ĐẠO SƯ
Trong công cuộc tầm
đạo, làm sao tôi có thể biết rằng đây là đạo, là thực tại, là chân lý tuyệt
đối? Làm sao tôi có thể biết được? Tôi có thể nói rằng: " Đây là thực
tại", được chăng? Cho nên, tại sao tôi phải đi kiếm tìm? Vậy thì, cái gì
khiến cho tôi đi tìm? Cái gì khiến cho người ta đi tìm đạo là câu hỏi còn chủ
yếu hơn là chính sự kiếm tìm và tuyên bố: "Đây là thực tại, là chân lý, là
đạo". Nếu tôi nói: "Đây là chân lý, đây là đạo", thì tôi đã phải
biết về nó từ trước rồi. Nếu tôi đã biết nó từ trước rồi, thì nó lại chẳng phải
là chân lý tuyệt đối, là đạo, mà chỉ là một mớ lý thuyết đã chết cứng, từ trong
quá khứ xuất hiện để mà nói rằng đó là chân lý, là đạo, là thực tại. Cái vật đã
chết cứng đó không thể nói với tôi về chân lý, về đạo, về thực tại.
Như vậy, tại sao tôi
tầm đạo? Bởi vì, từ trong nội tâm sâu thẳm, tôi không an vui, từ trong nội tâm
sâu thẳm, tôi thấy băn khoăn, bối rối, có một nỗi buồn mênh mông từ đáy lòng và
tôi muốn tìm lối để thoát ra.
Ngài tới như một vị
đạo sư, một người giác ngộ, hay là như một giáo sư, và nói: "Coi này, đây
là con đường để giải thoát." Lý do căn bản của sự tầm đạo của tôi là để
giải thoát khỏi những nỗi thống khổ kể trên này và tôi thừa nhận rằng tôi có thể
đạt được điều đó, và sự giác ngộ ở ngay đó, hoặc ngay trong nội tâm tôi. Vậy
thì, tôi có thể thoát được những nỗi niềm buồn khổ kể trên chăng?
Tôi sẽ không thể thoát
được nếu như tôi chỉ tìm cách tránh né nó, đè nén nó xuống, hoặc bỏ chạy. Nó
vẫn còn đó! Dù tôi có đi tới đâu, nó vẫn còn đó. Cho nên, điều tôi phải làm là
hãy tìm hiểu coi tại sao những nỗi buồn kể trên có thể hiện hữu, tại sao tôi
lại cảm thấy đau khổ. Chuyện đó có phải là sự tìm kiếm không? Không! Khi tôi
muốn tìm lý do tại sao tôi đau khổ, đó không phải là sự tầm đạo, cũng không
được gọi là "một sự tìm kiếm" nữa, mà nó chỉ như khi tôi đến gặp vị y
sĩ và nói rằng tôi bị đau bụng, ông ta bảo rằng tôi đã ăn uống bậy bạ. Như vậy,
tôi phải chấm dứt sự ăn đồ bậy bạ.
Nếu nguyên nhân của
những bất hạnh đến với tôi là do từ tôi, không phải từ môi trường sống của tôi,
thì chính tôi phải tự tìm lấy lối thoát.
Ngài có thể, trên
cương vị đạo sư, chỉ cho tôi rằng đó là cái cửa để đi ra. Nhưng ngay sau khi
ngài chỉ rồi thì công việc của ngài đã xong. Từ đó, chính tôi phải hành động,
chính tôi phải tự tìm ra rằng tôi sẽ phải làm gì, tôi sẽ sống ra sao, sẽ suy
nghĩ như thế nào, sẽ cảm nhận cuộc đời như thế nào để có thể không còn thấy đau
khổ nữa.
(Trích The Awakening
of Intelligence)
TÂM TRÍ TĨNH LẶNG
Muốn tìm hiểu bất cứ
sự kiện gì, từ lãnh vực con người cho tới lãnh vực khoa học, bạn thấõy điều gì
là quan trọng, là cốt tủy? - Một tâm trí trầm tĩnh, một khối óc lắng đọng trong
niềm giao cảm, đúng không? Đó không phải là cái loại tâm trí đặc biệt cố gắng
để tập trung - vì đó cũng lại là một loại đối kháng. Nếu thực sự tôi muốn thâm
hiểu điều gì, lập tức tâm trí tôi có ngay trạng thái trầm lặng. Khi bạn muốn
thưởng thức một điệu nhạc, hoặc chiêm ngưỡng một bức tranh mà bạn ưa thích, gợi
cho bạn niềm cảm xúc, thì tâm trí bạn sẽ ở vào trạng thái nào? Phải chăng ngay
lập tức, tâm tư bạn trở về trạng thái lắng đọng? Khi nghe nhạc, tâm hồn bạn
không lang thang đây đó, mà bạn lắng nghe. Cũng vậy, khi bạn muốn tìm hiểu sự
mâu thuẫn, bạn không còn bị tùy thuộc vào thời gian, bạn chỉ đơn giản trực diện
với sự việc đang xẩy ra, đó là chính cái sự mâu thuẫn. Thế là ngay lập tức, tâm
trí bạn trở về trạng thái trầm tịch, lắng đọng. Khi mà bạn không còn lệ thuộc
vào thời gian với ý hướng muốn chuyển hóa sự kiện vì bạn đã thấy sự sai lầm của
cái tiến trình đó, thế là bạn hồn nhiên đối diện với cái "đang là",
tự nhiên tâm trí bạn trở nên tĩnh lặng. Trong tình trạng tỉnh thức trầm lặng
đó, bạn thâm hiểu. Khi mà tâm trí bạn còn đang đầy dẫy mâu thuẫn, trách móc, chống
cự, lên án, bạn không thể có sự thâm hiểu. Nếu tôi muốn hiểu bạn, rõ ràng là
tôi phải không lên án bạn trước đã. Chính cái tâm trí an tĩnh lắng đọng đó sẽ
đem lại sự chuyển hóa. Khi tâm trí không còn chống đối, không còn lẩn tránh,
không còn xua đuổi hoặc lên án cái "đang là", mà chỉ nhận thức nó một
cách tĩnh lặng, thì chính từ cái tâm trí tĩnh lặng mà tỉnh thức đó, bạn sẽ có
được sự chuyển biến nếu quả thật bạn muốn. (Trích The First & Last Freedom)
Tâm trí tĩnh lặng khi
nó thấy được sự thực rằng tâm cảm chỉ đến khi nó tĩnh lặng; rằng nếu tôi muốn
hiểu bạn thì đầu óc tôi phải tĩnh lặng, tôi không thể có những phản ứng chống
đối bạn, tôi không được có saün thành kiến với bạn, tôi phải loại bỏ tất cả
những kết luận của tôi, kinh nghiệm của tôi về bạn để mà đối diện với bạn. Chỉ
khi đó, khi mà tâm trí đã thoát khỏi sự quy định của tôi, thì tôi mới có được
sự tâm cảm. Khi tôi thấy được cái chân lý đó, thì tâm trí tôi mới tĩnh lặng
được. Cho nên, không có câu hỏi làm thế nào để cho tâm trí tĩnh lặng. Chỉ có
chân lý mới có thể giải phóng tâm trí ra khỏi sự vận hành liên tục của chính
nó. Muốn thấy chân lý, tâm trí phải ý thức được cái thực tế là nếu nó còn dao
dộng thì nó không thể có sự tâm cảm được.
Sự lặng lẽ của tâm, sự
an tĩnh của tâm, không phải là chuyện có thể được tạo ra bởi sức mạnh của ý
chí, hoặc bởi những hành động do lòng ham muốn. Nếu những điều ấy xẩy ra, thì
cái loại tâm trí đó chỉ là đang bị bao vây, cô lập, đó là cái loại tâm trí chết
cứng. Loại tâm trí chết cứng đó không có khả năng thích ứng, mềm dẻo, lẹ làng.
Đó là loại tâm trí không sáng tạo . (Trích The First & Last Freedom)
Thông thường, chúng ta
tìm hiểu, học hỏi qua sự nghiên cứu, qua sách báo, qua kinh nghiệm hoặc là được
người khác dậy bảo. Đó là những lối mòn từ bao nhiêu đời nay, chúng ta đã dùng
để thâu thập kiến thức. Chúng ta giao cho ký ức những dữ kiện về những điều gì
nên làm, điều gì không được làm, điều gì nên nghĩ, điều gì không được nghĩ tới,
nên cảm nhận mọi việc như thế nào và nên phản ứng trước mọi sự ra sao.
Qua kinh nghiệm, qua
nghiên cứu, qua phân tích, qua phát hiện, qua quan sát nội tâm, chúng ta chất
chứa sự hiểu biết thành ra ký ức, và rồi thì chính cái ký ức ấy sẽ đòi hỏi
chúng ta phải tìm hiểu thêm, học hỏi thêm, thêm nữa... Những điều hiểu biết sẽ
được gắn vào trí não như là kho tàng tri thức, và cái kho tri thức đó sẽ thực
hiện chức năng của nó khi tới thời cơ, khi chúng ta gặp chuyện phải dùng đến
nó. Giờ đây, tôi nghĩ rằng chúng ta có cách học hỏi theo lối khác, tôi sẽ xin
nói qua về điều này. Nhưng, để hiểu được, và để có thể tìm tòi, học hỏi theo
lối khác này, chúng ta phải hoàn toàn quên đi cái khái niệm về thẩm quyền, nếu
không, chúng ta cũng sẽ lại chỉ là những con người bị chỉ bảo, và rồi chúng ta
cũng sẽ chỉ nhắc lại, làm lại những điều chúng ta đã được nghe, được dậy mà
thôi. Đó là lý do tại sao sự tìm hiểu bản chất của thẩm quyền lại vô cùng quan
trọng.
Thẩm quyền cản trở sự
học hỏi, học hỏi không phải là tích lũy những điều hiểu biết như là một kho tàng ký ức. Ký
ức luôn luôn đáp ứng theo những khuôn khổ, những mẫu mực đã có san, không có tự
do.
Một người mà trong tâm
não chất đầy nhóc những kiến thức, những điều chỉ dẫn, bị cái gánh nặng của
những điều hắn đã biết, đã học được đè trĩu xuống thì sẽ không bao giờ còn có
tự do được nữa. Hắn có thể là một nhà thông thái ngoại hạng, nhưng những kiến
thức mà hắn đã tích lũy cản trở hắn, không cho hắn được tự do, phóng khoáng
trước những điều gì khác với kho tàng kiến thức mà hắn đã có, và vì thế, hắn
mất luôn cái khả năng học hỏi thêm những điều mới lạ.
(Trích The Book of
Life)
TÌNH CẢM CỦA ĐỨA
TRẺ
Tính tò mò thiên nhiên
của đứa trẻ, sự ham tìm hiểu vốn saün có ngay từ thủa sơ sinh, chắc chắn rằng
cần được liên tục khuyến khích một cách thông minh, để duy trì cho nó luôn luôn
sống động và không bị méo mó, đồng thời sẽ từ từ hướng dẫn đứa trẻ tìm hiểu về
nhiều đề tài khác nhau. Nếu sự say mê học hỏi của đứa trẻ mà được khuyến khích
liên tục, thì đối với những môn học như toán học, địa dư, lịch sử, khoa học,
hoặc đối với bất cứ bộ môn nào, sẽ không còn có vấn đề gì có thể gây rắc rối
cho đứa trẻ hoặc cho nhà giáo dục được nữa. Nếu đứa trẻ được sống trong một bầu
không khí vui vẻ, hạnh phúc, cảm nhận được sự âu yếm, săn sóc của mọi người, sự
học đối với nó sẽ càng trở nên dễ dàng biết bao!
Sự cởi mở và bén nhậy
về cảm xúc chỉ có thể phát triển tốt đẹp khi đứa trẻ có được sự tin cậy trong
giao tiếp với các bậc thầy. Cảm giác an toàn khi giao tiếp là điều cần thiết
đầu tiên của đứa trẻ. Có một sự khác biệt rất lớn lao giữa cảm giác an toàn và
cảm giác lệ thuộc. Vì hữu ý hay vô tình, nhiều nhà giáo dục đã nhồi vào đầu đứa
trẻ cái cảm giác lệ thuộc, và do dó, ngấm ngầm tạo cho đứa trẻ sự sợ hãi, điều
mà cha mẹ chúng cũng làm trong thái độ cư xử trìu mến hoặc hung dữ. Sự dùng
quyền lực và cách cư xử độc đoán đối với đứa trẻ của cha mẹ và các bậc thầy đã
tạo áp lực lên đứa trẻ về những gì nó phải trở thành, phải làm. Với sự lệ
thuộc, luôn luôn kèm theo bóng tối của sợ hãi và sự sợ hãi thúc ép đứa trẻ vâng
lời, rập khuôn, nhắm mắt tuân hành những mệnh lệnh và nhận lãnh không suy nghĩ
những trừng phạt của người lớn. Trong bầu không khí của lệ thuộc này, sự nhậy
cảm bị tan rã. Nhưng khi đứa nhỏ biết, hoặc cảm thấy, được sống trong bầu không
khí an toàn, sự bừng nở cảm xúc của nó sẽ không còn bị ngăn trở bởi sự sợ
hãi.
(Trích Life Ahead)
TRÍ TUỆ
Hỏi:
Trí tuệ là gì, nếu
không phải là kiến thức? Tại sao ông nói rằng phải dẹp bỏ kiến thức? Bộ kiến
thức không cần thiết sao? Không có kiến thức, chúng ta sẽ tới đâu? Chúng ta sẽ
vẫn là những con người thời thái cổ, chẳng biết tí gì về cái thế giới ngoại
hạng mà chúng ta đang sống. Không có kiến thức, chúng ta khó có thể tồn tại
nổi, dù sống ở mức sống nào. Tại sao ông cứ khăng khăng rằng kiến thức làm trở
ngại cho trí tuệ?
Krishnamurti trả
lời:
Kiến thức là tùy
thuộc. Kiến thức không đem lại cho chúng ta tự do. Người ta có thể biết cách
ráp cái máy bay để bay qua phía bên kia trái đất trong vòng vài giờ, nhưng đó
không phải là tự do. Kiến thức không phải là nhân tố sáng tạo, mà là sự liên
tục, mà đã là cái liên tục thì không thể dẫn đến tuyệt đối, đến cái không thể
cân lượng, cái thực tại ngoài tri thức. Kiến thức cản trở sự bừng tỉnh, cản trở
cái thực tại ngoài tri thức. Thực tại không thể bị kiến thức che phủ; kiến thức
luôn luôn trôi về quá khứ; quá khứ luôn luôn che mờ hiện tại, che mờ cái thực
tại. Không có tự do, không có tâm trí khai phóng, không thể có trí tuệ. Trí tuệ
không đi kèm kiến thức. Từ khoảng cách giữa những lời nói, những tư tưởng, trí
tuệ bừng lên. Khoảng cách này là sự tĩnh lặng không bị khuấy động bởi kiến
thức, đó là sự bừng tỉnh, là cái không thể cân lượng, là cái hoàn hảo, là tuyệt
đối.
(Trích Commentaries on
Living)
Phần đông chúng ta
thường bị ngoại cảnh chi phối, điều kiện hóa, vì những học thuyết tôn giáo, tín
ngưỡng, và bởi chính từ đáy lòng mình đòi hỏi để tiến tới một cái gì, đạt được
một điều gì, vì thế, rất khó cho chúng ta có cách nào mới mẻ hơn để mà nghĩ về
vấn đề này mà không dính đến chuyện kỷ luật. Trước nhất, chúng ta hãy nhìn cho
rõ ràng những cái gì có liên quan đến chuyện rèn luyện, kỷ luật. Kỷ luật tự bản
thân, nó đã làm cho đầu óc hẹp hòi đi, đã hạn chế tư tưởng, thúc ép sự suy nghĩ
chạy theo lòng ham muốn, vì bị ảnh hưởng và tất cả những thứ đại loại như vậy.
Một cái đầu óc đã bị điều kiện hóa, đã rập khuôn, dù có được gọi là có lương
tri, cũng không thể có được tự do, và như thế, không thể hội nhập được với thực
tại. Thượng đế, thực tại, hay tùy ý bạn muốn gọi là gì thì gọi, từ ngữ không
phải là chuyện quan trọng, chỉ có thể hiển lộ khi có tự do, và sẽ không thể có
tự do khi mà chúng ta còn bị cưỡng bách, dù là tích cực hay tiêu cực, do sự sợ
hãi. Không thể có tự do nếu bạn còn muốn đạt một mục tiêu cho bạn và bạn tự cột
mình vào cái mục tiêu đó. Bạn có thể đã thoát khỏi quá khứ, nhưng tương lai sẽ
cột bạn lại, thế là hết tự do rồi. Chỉ có trong tự do người ta mới có thể khám
phá ra mọi thứ mới mẻ, từ ý nghĩ, cảm giác, nhận thức. Bất cứ một loại gò bó
nào đặt căn bản trên nền tảng của cưỡng bách đều chối bỏ tự do, dù là chính trị
hay tôn giáo, khi mà đã bị gò ép, bị tuân theo một hành động có mục tiêu đặt ở
đằng trước, đó là trói buộc, đầu óc hết tự do.
Khi đó, đời sống tinh
thần sẽ chỉ hoạt động trên con đường mòn như một cái máy hát mà thôi.
(Trích The First &
Last Freedom)
TỰ DO TƯ TƯỞNG
Tâm trí không thể tự
do khi mà nó còn bị rập khuôn hoặc điều kiện hóa. Người ta nghĩ rằng không thể
để cho bạn được tự do suy nghĩ, không bị rèn luyện vào khuôn khổ, mà phải bắt
tâm trí bạn vào một khuôn khổ nào đó. Ngoài ra, đối với một nền văn minh càng lâu
đời, thì sức nặng của truyền thống, của thẩm quyền, của những quy tắc càng đè
nặng trĩu lên tâm trí con người.
Lấy thí dụ những chủng
tộc cổ xưa như Ấn Độ bị sống gò ép vào khuôn khổ hơn những người sống tại Mỹ,
nơi có nhiều tự do về đời sống xã hội và kinh tế, vì đó là một dân tộc gồm
những nhà tiền phong mở đường lập quốc mới gần đây.
Một tâm trí bị rèn vào
khuôn mẫu thì không thể tự do, vì nó không thể vượt qua được cái biên giới của
chính nó, vượt qua được cái hàng rào mà chính nó đã tạo dựng chung quanh nó, đó
là điều hiển nhiên. Và thật là vô cùng khó khăn cho cái loại tâm trí này, để nó
có thể tự giải thoát khỏi cái khuôn khổ và vượt được ra ngoài, bởi vì cái khuôn
mẫu đè nặng lên nó không những từ xã hội, mà tại luôn cả tự nó ràng buộc chính nó.
Bạn thích cái cung cách sống của bạn vì bạn ngại, không dám vượt qua nó. Bạn sợ
những điều cha mẹ bạn, thầy linh hướng của bạn, và xã hội sẽ bình phẩm, nên bạn
giúp họ tạo dựng cái hàng rào nó sẽ cầm giữ bạn lại
Chính đây là cái nhà
tù tư tưởng mà số đông chúng ta bị giam cầm, và đó là lý do cha mẹ chúng ta
vàmột ngày kia sẽ tới phiên chúng ta sẽ bảo con cái chúng ta phải làm cái này hoặc
không làm cái kia.
Trong khi còn trẻ, tự
do là điều vô cùng quan trọng, không phải chỉ trên bình diện ý thức, mà tận đáy
lòng. Có nghĩa là bạn phải quan sát chính bạn, tỉnh giác trước những nguồn ảnh
hưởng tìm cách xâm lấn vào tâm hồn bạn để chi phối bạn. Có nghĩa là đừng bao
giờ chấp nhận điều gì một cách không thận trọng, mà phải luôn luôn tìm hiểu,
nghiên cứu kỹ lưỡng và phản đối, nếu cần.
(Trích Life Ahead)
VẺ ĐẸP của THIÊN
NHIÊN
Tại sao người ta đi
săn cọp?
Krishnamurti
đáp:
Họ đi săn cọp vì họ có
cái khoái cảm của sự giết chóc.
Chúng ta đã làm biết
bao nhiêu việc vô ý thức, thí dụ bứt cánh của con ruồi, con vật biết bay, để
xem chuyện gì sẽ xẩy ra. Chúng ta ngồi lê đôi mách, nói xấu người khác, chúng
ta giết để ăn, chúng ta giết vì "cái gọi là" hòa bình, chúng ta giết
vì quê hương, vì lý tưởng của chúng ta. Cho nên, sự tàn bạo đã là một vết hằn
trong tâm khảm chúng ta, có phải vậy không?
Nhưng nếu chúng ta
hiểu rõ và loại bỏ cái thú tính đó qua một bên, chúng ta sẽ có được niềm vui
lớn khi ngắm nhìn con cọp đi ngang qua, như một bọn chúng tôi đã được hưởng vào
một buổi chiều gần thành phố Bombay. Một người bạn đã chở chúng tôi trên xe của
anh ta để vào rừng coi con cọp mà đã có người trông thấy nó lảng vảng gần đó.
Trên đường về, ngay tại một khúc quanh, chúng tôi bỗng thấy con cọp đứng ngay
giữa đường lộ. Con cọp vằn hai mầu vàng đen, mượt mà, rắn rỏi, với cái đuôi
dài, vẻ uyển chuyển, thanh nhã và đầy nội lực, trông thật tuyệt diệu!
Chúng tôi tắt đèn xe.
Con cọp gầm gừ tiến về phía chúng tôi, thật là gần, tưởng chừng như nó sắp quệt
vào cái xe. Thật là một cảnh tượng kỳ diệu!
Nếu người ta có thể
chiêm ngưỡng cảnh tượng đó mà không dùng đến súng thì sẽ thích thú hơn biết là
bao trước một vẻ đẹp tuyệt vời.
(Trích Think on These
Things)
Hỏi :
- Thưa ông
Krishnamurti, ông nói rằng tất cả những vấn đề của chúng ta đều nẩy sinh ra từ
một vấn đề, đó là chúng ta sống cuộc đời do người khác chỉ cho cách sống. Chúng
ta thuộc loại người bàn nhì, và trải dài từ bao nhiêu thế kỷ tới nay, chúng ta
đã có đủ loại thẩm quyền. Nay đã đến lúc giới trẻ nổi dậy để phản kháng lại các
loại thẩm quyền. Xin ông cho biết riêng cá nhân ông, cái gì đã khiến cho ông
chống lại thẩm quyền?
Krishnamurti đáp:
- Tôi không nghĩ rằng
cá nhân tôi có điều gì để chống lại thẩm quyền, nhưng bản thân thẩm quyền, đối
với toàn thế giới, nó đã làm thui chột biết bao tâm hồn, không riêng về mặt tôn
giáo mà ngay chính từ nội tâm, bởi vì thẩm quyền về niềm tin tôn giáo gây nên
ấn tượng chắc chắn đã phá tan khả năng khám phá thực tại. Người ta dựa dẫm vào
thẩm quyền vì người ta sợ phải đứng đơn độc.
Hỏi:
- Tôi hơi thấy bối rối
về điều này, bởi vì sự tích lũy biết bao trí tuệ của loài người chắc chắn rằng
không phải tất cả đều là đồ bỏ.
Krishnamurti đáp:
- Không, nhưng cái gì
là trí tuệ ? Sự tích lũy hiểu biết là trí tuệ chăng? Hay là trí tuệ chỉ đến khi
sự đau khổ chấm dứt? Tóm lại, trí tuệ không ở trong sách, cũng không ở trong sự
tích lũy hiểu biết về kinh nghiệm của người khác. Chắc chắn rằng trí tuệ phải
đến từ sự tự tri, từ nội tâm của mỗi người, từ sự khám phá toàn bộ cấu trúc về
tinh thần của chính họ Khi người ta đã thâm hiểu về chính bản thân thì đó là
lúc chấm dứt đau khổ và khởi đầu của trí tuệ.
Làm sao mà một tâm hồn
có thể sáng suốt khi còn bị kẹt vào với sợ hãi và buồn phiền. Chỉ khi nào sự
sầu não, sợ sệt chấm dứt, khi đó người ta mới có khả năng trở thành sáng suốt.
(Trích Meeting Life)
YÊU
Krishnamurti:
Với tất cả những kinh
nghiệm, với tất cả kiến thức, với tất cả nền văn minh mà quí vị đã có, đã đào
tạo nên con người của quí vị, vậy tại sao quí vị lại không có tấm lòng thương
xót, trắc ẩn, trong đời sống hằng ngày của quí vị. Để tìm hiểu coi tại sao quí
vị lại không có cái tấm lòng thương xót đó, tại sao nó không tồn tại trong trái
tim và tâm hồn của con người, có lẽ quí vị cũng nên hỏi:" Mình có yêu ai
không?"
Hỏi:
Thưa ông, tôi muốn biết
thực ra thế nào là yêu.
Krishnamurti:
Thưa ông, xin cho tôi
trân trọng hỏi ông rằng ông có hề yêu ai không? Có thể là ông yêu con chó của
ông, nhưng con chó là nô lệ của ông. Để riêng súc vật, nhà cửa, sách báo, thơ
văn, tình yêu quê hương v. v... ra một bên, ông có yêu người nào không? Có nghĩa
là khi yêu người nào đó, ông không đòi hỏi một sự đáp ứng, không đòi hỏi bất cứ
cái gì từ người mà ông yêu, ông không phải là kẻ lệ thuộc vào người đó. Bởi vì,
nếu ông là kẻ lệ thuộc, ông sẽ sợ hãi, ghen tuông, bồn chồn khắc khoải, ghét
bỏ, giận dữ. Nếu ông bị dính mắc vào người nào, đó có phải là tình yêu không?
Ông thử tìm hiểu coi! Và nếu tất cả những điều kể trên không phải là yêu tôi
chỉ hỏi thôi, tôi không nói rằng đó là yêu hoặc không phải là yêu như thế thì làm sao mà ông có được lòng thương xót,
trắc ẩn. Chúng ta đòi hỏi một điều còn to lớn hơn cả tình yêu, trong khi ngay cả đến cái tình yêu bình thường dành cho con
người, chúng ta cũng còn không có!
Hỏi:
Làm sao ông có thể tìm
ra được cái tình yêu đó?
Krishnamurti:
Tôi không muốn đi tìm
cái tình yêu đó. Tất cả những điều tôi muốn làm chỉ là liệng bỏ tất cả những
cái gì không phải là yêu, giải thoát khỏi sự ghen tuông, ràng buộc.
(Trích On Love and
Loneliness)
SỰ SỐNG VĨNH CỬU
Đó là một trong những
buổi sáng tuyệt diệu chưa từng thấy . Vừng dương vừa mới nhô lên, le lói giữa
những hàng cây thông và cây khuynh diệp. Ánh dương chan hòa trên mặt nước một
mầu vàng rực rỡ, sáng ngời - thứ ánh sáng chỉ xuất hiện trong khoảng không gian
giữa núi và biển. Đó là một buổi sáng đẹp ngây ngất, bầu trời trong vắt với làn
ánh sáng kỳ diệu khiến cho ta không thể chỉ chiêm ngưỡng bằng mắt mà bằng cả
tấm lòng rộng mở. Và khi bạn nhìn thấy cảnh tượng ấy, bạn sẽ thấy đất và trời
xích lại gần nhau và bạn sẽ cảm thấy dường như bản thân mình đã hòa tan vào với
cái đẹp.
Bạn ơi, đừng bao giờ
tọa thiền giữa công chúng, hoặc với người nào, hoặc đám đông nào khác. Bạn chỉ
nên tọa thiền nơi vắng vẻ, trong sự tịch mịch của trời đêm, hoặc trong sự tĩnh
lặng của buổi sáng sớm. Khi bạn tọa thiền nơi vắng vẻ, phải là nơi vắng vẻ. Bạn
phải hoàn toàn cô đơn, không theo một hệ thống nào, một phương pháp nào, không
lập đi lập lại lời nói, không theo đuổi một ý tưởng, không uốn nắn tư tưởng
theo ý muốn của bạn.
Sự tĩnh lặng này sẽ
tới khi tâm trí bạn đã được giải thoát khỏi sự suy nghĩ. Khi bị ảnh hưởng bởi
lòng ham muốn, hoặc những điều mà trí não bạn theo đuổi, dù là trong tương lai
hoặc quá khứ, bạn sẽ không có được sự tĩnh lặng. Chỉ trong sự mênh mông của
hiện tại, trạng thái đơn độc này sẽ tới. Và rồi, trong sự tĩnh lặng, tất cả mọi
giao tiếp đều chấm dứt, sẽ không còn có cái người luôn theo dõi với những bồn
chồn, với lòng khát khao ngu ngốc cùng với những rắc rối cuộc đời của hắn. Chỉ
khi đó, trong cái tĩnh lặng của sự đơn độc, thiền định mới trở nên một điều gì
đó mà chúng ta chẳng thể dùng lời nói để mô tả. Thiền định là sự sống vĩnh
cửu.
(Trích Freedom, Love,
and Action)
Hỏi:
Chúng ta có thể hiểu
biết được từ những kinh nghiệm của quá khứ không?
Krishnamurti trả
lời:
Chắc chắn là không rồi
đó! Hiểu biết bao hàm sự tự do, óc tò mò và ý hướng muốn tìm tòi điều mới lạ.
Khi đứa trẻ tìm hiểu điều gì, nó có sự tò mò, ý chí muốn biết, đó là cái động
lực từ tự do, mới mẻ, không phải là cái động lực của sự di chuyển trong cái kho
tàng kiến thức nó đã có.
Kinh nghiệm thì chúng
ta đã có nhiều không kể siết! Chúng ta có năm ngàn năm kinh nghiệm về chiến
tranh. Nhưng chúng ta chẳng hiểu biết được gì ngoại trừ chuyện sáng chế ra được
nhiều loại máy móc giết người hiệu nghiệm để mà tàn sát lẫn nhau cho lẹ. Chúng
ta đã có quá nhiều kinh nghiệm sống với bè bạn, với người hôn phối, với đất
nước của chúng ta. Nhưng chúng ta chẳng hiểu biết được gì từ những kinh nghiệm
ấy cả . Hiểu biết, trên thực tế, chỉ có thể có khi chúng ta thoát ra khỏi được
những kinh nghiệm của quá khứ. Khi bạn phát hiện được điều gì mới mẻ, chắc chắn
rằng tâm trí bạn phải không bị vướng víu với những kiến thức cũ kỹ. Vì lý do
này, thiền định là làm cho tâm trí rũ bỏ được cái cảnh đầy nhóc những kiến
thức, những kinh nghiệm, bởi vì chân lý không phải là cái mà bạn sáng chế ra,
mà là cái gì đó hoàn toàn mới lạ, không phải là sự hiểu biết đến từ quá
khứ.
Cái mới mẻ này không
phải là cái đối lập với sự cũ kỹ. Đó là một cái mới mẻ lạ thường, tuyệt diệu,
mà cái tâm trí đầy nhóc những kinh nghiệm không thể nào "cảm" được.
(Trích The Impossible Question)
CẢM NHẬN THỰC
TẠI
Chúng ta đừng khởi đầu
bằng từ bất cứ sự kết luận nào, từ bất cứ niềm tin nào, từ bất cứ giáo điều nào
đã nhồi nắn tâm trí của chúng ta, mà phải từ cái tâm trí hoàn toàn tự do, mới
mẻ, để mà quan sát, mà học hỏi, mà chuyển động, hành xử. Đó là cái tâm từ bi,
thương xót không vì một lý do, ý đồ nào, không từ một lý luận nào dẫn đến. Lòng
từ bi, nỗi niềm trắc ẩn xuất hiện khi tâm trí được hoàn toàn tự do, không bị
điều kiện hóa, đó là nền tảng của một cuộc đổi mới về tâm lý. Cuộc đổi mới tâm
lý này là điều chúng ta cần quan tâm từ đầu tới cuối.
Chúng ta hãy tự hỏi:
"Trong cuộc đời, chúng ta tìm tòi cái gí? Phải là một thân thể cường tráng
không? Phải là một đời sống an toàn không?" Tự đáy lòng sâu thẳm, chúng ta
có cái khát vọng rằng tất cả mọi hoạt động của chúng ta đều được bảo đảm, an
toàn; tất cả mọi liên hệ của chúng ta đều được ổn định, chắc chắn, vĩnh viễn.
Chúng ta vướng mắc vào cái kinh nghiệm đã cho chúng ta một số phẩm chất nào đó
về sự ồn định, hoặc một sự xác nhận nào đó nó cho chúng ta cái cảm giác về một
sự trường cửu, mãn nguyện. Trong niềm tin, có sự an toàn; trong sự xác nhận một
giáo điều nào đó, chính trị, hoặc tôn giáo, có sự an toàn. Nếu đã lớn tuổi,
chúng ta có sự an toàn, hạnh phúc, khi nhớ lại quá khứ, nơi những điều chúng ta
đã biết, nơi tình yêu chúng ta đã có, và chúng ta dính mắc vào quá khứ. Khi còn
trẻ, chúng ta tưng bừng, thỏa mãn với từng giây phút hiện tại, không thắc mắc
về quá khứ hay tương lai. Nhưng từ từ, tuổi trẻ sẽ biến đi dần dần cùng với
những khát vọng về một sự ổn định, với tấm lòng khắc khoải về sự bất an, về sự
không có cái gì, hoặc người nào, để mà nương dựa, với niềm mong mỏi thiết tha
sao cho có được một sự an toàn nào đó để mà bám lấy.
Cuộc đời mỗi người đều
bị ràng buộc với tư tưởng. Mà tư tưởng thì luôn luôn từ quá khứ. Với một cái
tâm chỉ sống với quá khứ, dính vào quá khứ, thì nó hết khả năng để
"sống", để cảm nhận được thực tại. (Trích The Wholeness of Life)
Trong trạng thái say
mê không vì một nguyên nhân, có một nguồn cảm xúc mãnh liệt giải thoát
người ta ra khỏi mọi ràng buộc, dính mắc.
Nhưng khi sự say mê
lại vì có một lý do nào đó, thì hiển nhiên là sẽ có dính mắc, ràng buộc, và rồi
cái dính mắc, ràng buộc đó nó sẽ đem đến buồn phiền.
Phần đông chúng ta đều
bị dính mắc, chúng ta gắn bó với một người, một quốc gia dân tộc, một niềm tin,
một lý tưởng, và khi mà mục tiêu của cái mà chúng ta gắn bó bị mất đi, hoặc mất
cái ý nghĩa của nó, thì chúng ta cảm thấy trống rỗng, thiếu thốn.
Từ cái trống rỗng này,
chúng ta cố gắng bù đắp bằng cách lại bám víu vào một cái gì khác, và rồi nó
lại sẽ trở nên đối tượng cho sự say mê của chúng ta.
(Trích The Book of
Life)
NIỀM TIN
Hỏi :
- Làm sao chúng ta có
được niềm tin nơi diễn giả, để tin được rằng những lời ông ta nói là sự thật?
Và làm sao chúng ta có niềm tin vào ông ta, rằng ông ta sẽ dẫn dắt chúng ta một
cách đúng đắn?áá
Krishnamurti trả lời
:
- Chúng ta đang nói về
sự lãnh đạo và tín nhiệm. Bạn biết rằng chúng ta đã có đủ loại lãnh tụ, từ
chính trị cho tới tôn giáo. Bạn chưa chán ngấy với lãnh tụ sao? Bạn chưa liệng
quách họ qua mạn tầu, văng xuống sông, để chẳng bao giờ còn phải có lãnh tụ nữa
hay sao? Hay là bạn vẫn còn, dù đã sau hai triệu năm như thế này, đi tìm cho
mình một lãnh tụ?
Bởi vì lãnh tụ tàn phá
đệ tử và đệ tử tàn phá lãnh tụ.
Sao bạn còn có lòng tin
nơi bất cứ ai?
Diễn giả không đòi hỏi
bạn niềm tin, ông ta cũng không đặt ông ta vào vị trí của kẻ có thẩm quyền để
nói về vấn đề gì đó, bởi vì bất cứ loại thẩm quyền nào,- nhất là trong những
lãnh vực thuộc về tư tưởng, về sự cảm thông, - thẩm quyền tàn phá nhiều nhất,
tệ hại nhất. Cho nên chúng ta không đề cập đến sự lãnh đạo, hay là có niềm tin
nơi lãnh tụ hoặc nơi diễn giả. Chúng ta nói rằng mỗi người chúng ta, xin nhắc
lại, mỗi người chúng ta, như là một con người, phải tự mình là người lãnh đạo, là
thầy, là đệ tử, tất cả đều trong chính mình. Mọi điều khác đều đã thất bại, từ
các cơ sở tôn giáo, lãnh tụ chính trị, lãnh tụ chiến tranh, những người này
muốn có một xã hội tuyệt diệu, đều không thành công. Cho nên, nay nó tùy thuộc
vào chính bản thân bạn, vào chính bạn như là một con người, một con người toàn
vẹn, bình thường, đó là trách nhiệm của bạn.
Vậy thì, bạn phải rất
thận trọng, tỉnh giác về chính bản thân bạn, về bạn nói điều gì, nói ra như thế
nào, về sự suy nghĩ của bạn và động cơ nào đã thúc đẩy bạn theo đuổi những
lạc thú của bạn.
(Trích Talks and
Dialogues)
GIAO CẢM
VỚI THIÊN NHIÊN
Nay thì sự nhìn, hay
là sự nghe cũng thế, giống nhau, là một trong những điều khó khăn nhất của đời
sống. Nếu cặp mắt bạn đã bị mù đi vì những nỗi lo âu của bạn, thì bạn không thể
thấy được vẻ đẹp của lúc hoàng hôn. Phần lớn chúng ta đã mất đi sự giao tiếp với
thiên nhiên. Nền văn minh đã hướng con người về phía những thành phố lớn. Càng
ngày chúng ta càng trở thành những người thành thị, sống trong những chúng cư
đông đúc đến nỗi chỉ còn lại một khoảng trống quá bé nhỏ để mà có thể ngước
nhìn lên không trung vào những lúc sáng sớm hoặc chiều tà, cho nên, quả là
chúng ta đã mất dịp thưởng thức biết bao nhiêu là vẻ đẹp. Tôi không biết bạn có
nhận ra rằng thật là quá ít ỏi người trong số chúng ta được ngắm cảnh rạng
đông, cảnh hoàng hôn, cảnh đêm trăng, hoặc cảnh ánh trăng lấp lánh trên mặt
nước.
Mất sự giao cảm với
thiên nhiên, chúng ta tự nhiên ngả về sự phát triển khả năng tri thức. Chúng ta
đọc hàng lố sách, chiêm ngưỡng vô số bảo tàng viện, thưởng thức nhiều buổi hòa
nhạc, say sưa coi biết bao nhiêu chương trình truyền hình và tham dự quá nhiều
những cuộc giải trí. Chúng ta trích dẫn nhiều vô tận những tư tưởng của các
danh nhân và thảo luận không ngừng về nghệ thuật. Tại sao chúng ta phải nương
tựa vào nghệ thuật nhiều đến thế? Phải chăng đó là một hình thức của sự trốn
tránh, của sự kích thích? Nếu bạn tiếp cận được với thiên nhiên, nếu bạn được
ngắm nhìn sự chuyển động nơi cánh con chim, nhìn vẻ đẹp của bầu trời từng giây
phút trôi qua, chiêm ngưỡng cảnh đồi rợp bóng, hoặc vẻ đẹp trên gương mặt người
nào đó, bạn có nghĩ rằng bạn còn muốn đến viện bảo tàng để mà ngắm tấm hình nào
nữa hay chăng?
Có câu chuyện về một
vị đạo sư kia, thường giảng đạo cho các đệ tử vào mỗi buổi sáng. Một buổi sáng,
khi ông ta vừa mới ngồi xuống nệm, sửa soạn thuyết pháp, thì có một con chim
nhỏ sà xuống, đậu ngay ở ngưỡng cửa sổ, vươn cổ lên hót líu lo bằng tất cả
nhiệt tình. Sau khi say sưa hót, nó tung cánh bay lên trời cao trong khi
vị đạo sư tuyên bố: "Bài thuyết pháp của buổi sáng nay đã hoàn
mãn".
Tôi thấy dường như
những điều khó khăn nhất của chúng ta chính là sự nhìn thật rõ chính chúng ta,
không những về ngoại cảnh, mà còn về cuộc sống nội tâm nữa. Khi chúng ta nói
rằng chúng ta ngắm cái cây hoặc bông hoa, có thật sự là chúng ta nhìn chúng
không? Hay là chúng ta chỉ thấy cái hình ảnh về nó do từ ngữ tạo nên? Có nghĩa
là, khi bạn nhìn cái cây hoặc vầng mây trong ánh nắng chiều rực rỡ, liệu bạn có
thật sự "thấy" ? Thấy đây không chỉ là thấy bằng cặp mắt và tri thức,
nhưng là cái thấy một cách hoàn toàn, một cách trọn vẹn.
(Trích Freedom from
the Known)
TỰ DO
ÐÍCH THỰC
Hỏi :
- Thế nào là tự do
đích thực và làm sao để giành được?
Krishnamurti đáp :
- Tự do đích thực
không phải là cái gì đó để mà giành được, mà là kết quả của sự thông tuệ. Bạn
không thể mua quyền tự do ở ngoài chợ. Bạn không thể kiếm được nó bằng cách đọc
một cuốn sách, hoặc nghe người nào đó diễn thuyết. Tự do tới bằng sự thông
tuệ.
Nhưng thế nào là thông
tuệ? Có thể có sự thông tuệ khi còn sợ sệt, hoặc khi tâm trí đã bị điều kiện
hóa? Khi tâm bạn đã có sẵn thành kiến, hay là khi bạn nghĩ rằng bạn là một
người phi thường, hoặc khi mà bạn có quá nhiều tham vọng, muốn leo lên bậc
thang thành công trong đời sống thế tục hoặc tâm linh, vậy có phải là thông tuệ
chăng? Khi bạn chỉ quan tâm đến chính bạn, khi bạn học theo hoặc tôn thờ ai đó,
vậy có thể là thông tuệ không?
Hiển nhiên, khi bạn
thấu hiểu và thoát khỏi toàn bộ sự ngu xuẩn này, thì đó là thông tuệ. Cho nên
bạn phải khởi sự; và việc đầu tiên là hãy tỉnh giác để biết rằng tâm trí bạn
không được tự do.
Bạn phải quan sát để
thấy tâm trí bạn đã bị những cái linh tinh này o ép như thế nào, đây là bước
đầu của sự thông tuệ, dẫn đến tự do.
Bạn phải tự tìm lời
giải đáp. Có lợi ích gì khi người khác tự do còn bạn thì không, hoặc là khi
người khác có đồ ăn còn bạn thì đói?
Sáng tạo là phải có sự
khai mở đích thực, như thế phải có tự do; và muốn có tự do, phải thông
tuệ.
Bạn hãy tìm hiểu coi
cái gì đã cản trở sự thông tuệ. Bạn phải nghiên tầm từ chính cuộc đời, tìm hiểu
về những giá trị xã hội, mọi thứ, và không chấp nhận bất cứ điều gì nếu chỉ vì
bạn bị khiếp sợ.
(Trích Life Ahead)
CỐT TỦY NHỮNG LỜI
THUYẾT GIẢNG
Vào ngày 21 tháng 10
năm 1980, Krishnamurti viết một bản tuyên ngôn như sau:
- "Cốt tủy những lời rao giảng của Krishnamurti đã được gói ghém trong lời phát biểu của ông ta vào năm 1929 khi ông tuyên bố :"Thực tại là mảnh đất không có lối vào".Người ta không thể tới đó bằng tổ chức hội đoàn, bằng tín điều, bằng giáo lý, bằng người linh hướng hoặc bằng nghi thức lễ lạy, không từ kiến thức triết học hoặc kỹ thuật tâm lý . Người ta phải tìm nó từ sự quán chiếu mối liên hệ trong đời sống, từ sự thấu hiểu nội dung những điều nằm trong chính tâm trí của anh ta, từ sự quan sát chứ không phải là lý luận, phân tích bằng kiến thức hoặc nghiền ngẫm chia chẻ nội tâm.
- "Cốt tủy những lời rao giảng của Krishnamurti đã được gói ghém trong lời phát biểu của ông ta vào năm 1929 khi ông tuyên bố :"Thực tại là mảnh đất không có lối vào".Người ta không thể tới đó bằng tổ chức hội đoàn, bằng tín điều, bằng giáo lý, bằng người linh hướng hoặc bằng nghi thức lễ lạy, không từ kiến thức triết học hoặc kỹ thuật tâm lý . Người ta phải tìm nó từ sự quán chiếu mối liên hệ trong đời sống, từ sự thấu hiểu nội dung những điều nằm trong chính tâm trí của anh ta, từ sự quan sát chứ không phải là lý luận, phân tích bằng kiến thức hoặc nghiền ngẫm chia chẻ nội tâm.
Người ta đã tự xây
dựng lên những hình ảnh như là hàng rào an toàn qua tôn giáo, chính trị, bản
thân. Ðó là những biểu tượng, những ý thức hệ và tín ngưỡng. Sức mạnh của những
hình ảnh này đè trĩu lên tâm tư con người, chi phối sự suy nghĩ của họ, chi
phối mối liên hệ của họ và ngay chính bản thân họ trong đời sống hằng ngày .
Những hình ảnh này chính là nguồn gốc mọi vấn đề của chúng ta, vì nó gây nên sự
chia rẽ giữa chúng ta với nhau. Nhận thức về cuộc đời của mỗi người bị o ép bởi
những khái niệm đã được thiết lập bền vững trong tâm trí họ. Nội dung tri thức
của họ là những điều họ góp nhặt được trong suốt cuộc đời.
Cả loài người thì cái
nội dung này cũng đại khái giống nhau. Cá nhân chỉ là cái tên, cái hình thể và
cái nền văn hóa hời hợt mà hắn thu lượm được từ truyền thống và môi trường sống
chung quanh. Nhưng mà cái đặc điểm, cái độc đáo của con người không nằm tại cái
bề mặt hời hợt, nông cạn, mà nó hoàn toàn vượt thoát ra khỏi cái mớ tri kiến mà
khắp cả loài người đều cũng có đại khái giống nhau kia . Cho nên hắn ta không
là một cá thể.
Tự do không phải là
một phản ứng; Tự do không phải là sự chọn lựa . Ðó là người ta tự dối mình,
tưởng rằng người ta có quyền chọn lựa, là người ta tự do . Tự do là thuần túy
quan sát, không mục tiêu, không sợ hãi bị trừng phạt và không mong cầu sự ban
thưởng. Tự do không có động cơ; Tự do không phải là kết thúc của một tiến trình
thay đổi của con người, nhưng nằm ngay tại lúc khởi sự hiện hữu . Trong sự quan
sát, người ta bắt đầu tìm ra sự không có tự do . Tự do được tìm thấy khi không
chọn lựa, tỉnh thức trong các hoạt động của đời sống hằng ngày . Tư tưởng là
thời gian. Kinh nghiệm và kiến thức sinh ra tư tưởng, do đó, nó không thể tách
rời ra khỏi thời gian và quá khứ. Thời gian là kẻ thù tâm lý của con
người.
Hành động của chúng ta
đặt nền tảng trên kiến thức và do đó, trên thời gian, cho nên con người luôn
luôn bị lệ thuộc vào quá khứ. Tư tưởng thì luôn luôn có giới hạn, cho nên chúng
ta sống trong sự mâu thuẫn và vùng vẫy liên tục. Không có cái chuyện phát triển
tâm lý. Khi nào con người trở nên tỉnh thức trước những hoạt động về tư tưởng
của chính hắn, hắn sẽ thấy được sự phân chia giữa thực thể suy nghĩ và tư
tưởng, thực thể quan sát và cái bị quan sát, thực thể kinh nghiệm và sự kiện
được kinh nghiệm. Khi đó người ta sẽ thấy được rằng sự chia cách này chỉ là ảo
giác.
Chỉ có từ sự quan sát
thuần túy này người ta mới bừng tỉnh, không bị bóng tối của quá khứ và thời
gian che khuất. Sự bừng tỉnh phi thời gian này là sự giác ngộ sâu sắc, triệt
để, đột biến, của cái tâm. Sự hoàn toàn phủ định là căn bản của khẳng định. Khi
có sự phủ định tất cả những cái mà tư tưởng đã tạo ra về mặt tâm lý, lúc đó sẽ
chỉ còn có lòng yêu thương, đó là từ bi và trí tuệ."
Trích " The Core
of the Teachings"
TỰ QUAN SÁT
Trừ phi cái tâm được
hoàn toàn giải thoát khỏi sự sợ hãi, nếu không thì tất cả mọi hình thức hành
động đều chỉ làm tăng thêm sự phiền hà, khổ đau và bối rối mà thôi Chúng ta đã
thảo luận với nhau về tầm quan trọng của một cuộc đổi mới tận gốc trong nội tâm
con người . Và cuộc đổi mới này phải được diễn ra trong tình trạng hoàn toàn tự
do, giải thoát. Từ ngữ "tự do" là từ ngữ nguy hiểm nhất, ngoại trừ
chúng ta hiểu thấu suốt và rốt ráo ý nghĩa sâu xa của nó . Chúng ta phải học hỏi
toàn bộ những ẩn ý sâu xa, không phải chỉ là cái nghĩa đơn thuần trong tự điển.
Phần lớn chúng ta dùng nó tùy theo khuynh hướng riêng tư, tùy theo ý thích hoặc
tính cách chính trị. Chúng ta sẽ không dùng từ đó theo tính cách chính trị hoặc
trường hợp riêng tư mà đi vào chiều sâu, vào phần nội tâm của nó.
Nhưng mà trước đó,
chúng ta hãy thấu đáo từ ngữ "học hỏi" cái đã. Chúng ta đã từng nói
rằng chúng ta sẽ truyền thông với nhau, có nghĩa là chúng ta cùng tham dự, cùng
chia xẻ cho nhau, và học hỏi là một phần của cái quá trình ấy . Bạn sẽ không
học hỏi từ diễn giả, nhưng học hỏi bằng sự quan sát, bằng sự dùng diễn giả như
là một tấm gương để quan sát sự chuyển động của tư tưởng, cảm giác, tinh thần
và tâm tư của chính bạn. Không có một thẩm quyền nào có thể ảnh hưởng vào quá
trình này . Mặc dầu diễn giả phải ngồi trên một tấm nệm, vì nó tiện nghi, vị
trí ấy không hề cho ông ta một chút thẩm quyền nào.
Cho nên chúng ta có
thể thoải mái dẹp chuyện đó qua một bên, và để tâm vào sự học hỏi, không từ
diễn giả, nhưng dùng diễn giả để học hỏi về chính bản thân mình. Bạn học hỏi
qua sự quan sát tâm tư của chính bạn, chính cái nội tâm của bạn - nó là cái gì?
Muốn học hỏi về nó, bạn phải có tự do, phải có một nhiệt tình muốn tìm hiểu,
một sự đam mê nồng nhiệt và trực tiếp. Bạn sẽ không thể học hỏi được cái gì nếu
bạn không có sự đam mê, không có nghị lực để hoàn thành. Nếu đã có sẵn bất cứ
loại định kiến, thiên kiến, ưa thích, ghét bỏ, hoặc kếtááán nào thì người ta
không còn có khả năng để học hỏi được nữa, mà chỉ khiến cho điều họ muốn học
hỏi trở thành méo mó mà thôi.
Từ ngữ "rèn
luyện" có nghĩa là "học" từ mộtáá"người đã biết", coi
như là bạn chưa biết, nên bạn học từ người khác. Từ ngữ rèn luyện ngụ ý như vậy
. Nhưng ở đây, chúng ta dùng từ rèn luyện không phải với cái nghĩa học từ người
khác, nhưng mà là tự mình quan sát chính mình, đòi hỏi một sự rèn luyện không
qua sự đàn áp, sự bắt chước, hoặc là tuân hành, hoặc là ngay cả sự điều chỉnh,
nhưng thực sự là chỉ có quan sát mà thôi . Sự quan sát thành khẩn đó chính là
tự rèn luyện -- sự học hỏi xuyên qua quan sát. Sự học hỏi thành khẩn đó chính
là tự rèn luyện, trong chiều hướng bản thân bạn phải rất là chú tâm, bạn phải
dồi dào nghị lực, hành động với lòng nhiệt thành, mãnh liệt và sâu sắc.
(Trích Beyond
Violence)
NỖI SỢ KHÔNG RỜI
Phần đông chúng ta
khao khát có được một địa vị cao trong xã hội bởi vì chúng ta sợ phải là một kẻ
vô danh tiểu tốt. Xã hội đã hun đúc những con người sống trong đó có thói quá
tôn trọng người ở địa vị cao trong xã hội và nếu là kẻ vô danh tiểu tốt thì lại
bị đá lên đá xuống! Cho nên, mọi người trên thế giới đều muốn có địa vị,
ở ngoài xã hội, ở trong gia đình, hay là ở trong lòng bàn tay của Thượng Ðế, và
cái địa vị đó phải được mọi người thừa nhận, nếu không thì sẽ chẳng còn có
nghĩa gì nữa . Chúng ta phải luôn luôn được ngồi trên một cái bệ! Nhưng thầm
kín trong đáy lòng, chúng ta luôn luôn bị xáo trộn với những nỗi phiền muộn,
khổ tâm, vì thế, nếu ra ngoài xã hội mà được trọng vọng, đối với chúng ta đã là
một khích lệ lớn lao rồi . Sự thèm khát địa vị, danh vọng, uy quyền, được xã
hội suy tôn, về một khía cạnh nào đó, là cái khát vọng muốn chi phối người
khác. Cái khát vọng muốn chi phối người khác này chính là một hình thức xâm
lấn. Bậc thánh mà muốn được tôn sùng vì cái vị trí thánh của mình thì cũng
chẳng khác gì con gà năng nổ kiếm ăn ở ngoài sân cỏ mà thôi.
Vậy thì, lý do nào đã
khiến cho người ta phải năng nổ, ham hố như vậy? Phải chăng là vì sợ hãi?
Sợ hãi là một trong
những vấn đề lớn nhất trong đời sống. Một tâm hồn đã bị ám ảnh vì sợ hãi luôn
luôn sống trong nỗi bất an, mâu thuẫn, dễ bị khích động và gây hấn. Sự sợ hãi
làm cho con người không dám thay đổi lối suy nghĩ, và sinh ra thói đạo đức
giả.
Chỉ cho tới khi nào
chúng ta thoát ly ra khỏi nỗi sợ hãi, nếu không, dù chúng ta vượt qua được ngọn
núi cao nhất, sáng tạo ra đủ loại Thần Thánh, chúng ta vẫn chỉ lầm lũi đi trong
bóng tối mà thôi.
(Trích "Freedom
from the Known" )
CHẾT LÀ THẾ NÀO
Hỏi :
- Tại sao chúng ta sợ
chết ?
Krishnamurti đáp :
- Bạn hỏi :" Tại
sao chúng ta sợ chết? Bạn đã biết chết là thế nào chưa? Bạn hãy nhìn cái lá
xanh tươi kia, nó đã sống mơn mởn suốt mùa hạ, uốn lượn trong gió, vươn mình
uống ánh mặt trời, tắm gội dưới làn nước mưa, và khi mùa đông tới, chiếc lá héo
hon rồi chết. Con chim cũng vậy, hào hùng với đôi cánh tung bay trên trời cao,
nhưng rồi một ngày kia, cũng mỏi mòn xác xơ, rồi chết. Bạn thấy những xác người
được khiêng ra bờ sông để hỏa táng. Vậy thì bạn ơi, bạn đã thấy chết là như thế
nào rồi. Nhưng tại sao bạn lại sợ nó nhỉ? Bởi vì bạn đang sống như là chiếc lá
xanh kia, như là con chim trên trời cao nọ, rồi bỗng nhiên bệnh hoạn hoặc tai
nạn ập đến, và rồi thôi thế là thôi, thôi thế là đời bạn tàn rồi.
Cho nên bạn la
lên:'Tôi muốn sống, tôi muốn hưởng thụ, tôi muốn cuộc đời cứ tiếp tục mãi mãi
với tôi".
Vậy thì, sợ chết chính
là sợ sự kết thúc, phải không? Chơi banh, tắm nắng, ngắm lại dòng sông trôi
chảy lững lờ, khoác lại những bộ đồ ưa thích, đắm mình trong thú đọc sách, rong
chơi với bằng hữu, tất cả đều sẽ kết thúc.
Vì thế, nghĩ đến sự
chết là bạn đã khiếp đảm. Sợ chết, mà lại biết rằng rồi một ngày kia mình cũng
sẽ không thoát khỏi cái chết, cho nên chúng ta nghĩ đến chuyện vượt qua nó, và
rồi chúng ta có cả lố lý thuyết khác nhau. Nhưng nếu chúng ta biết cách để kết
thúc, thì chúng ta hết sợ. Nếu chúng ta biết cách chết mỗi ngày, thì chẳng còn
gì để mà phải sợ nữa. Bạn có bắt được ý này không? Nó hơi vượt ra ngoài lề thói
một chút. Chúng ta không biết cách chết vì chúng ta luôn luôn gom góp, gom góp,
gom góp. Chúng ta luôn luôn nghĩ về ngày mai :" Tôi đang thế này và tôi sẽ
thành thế kia". Chúng ta không bao giờ chịu hoàn tất sự việc trong một
ngày. Chúng ta không sống như là chúng ta chỉ có một ngày để sống. Bạn có thấu
hiểu được những điều tôi đang nói không?
Chúng ta luôn luôn
đang sống trong quá khứ và tương lai. Giả thử nếu như có ai đó nói cho bạn biết
rằng bạn sẽ chết vào cuối ngày, bạn sẽ làm gì? Liệu bạn có bỏ phí mà không sống
cho đáng sống cái ngày hôm đó chăng? Chúng ta đã không sống một cách thật trọn
vẹn cho mỗi ngày. Chúng ta không tận hiến cho mỗi ngày. Chúng ta luôn luôn nghĩ
đến chuyện ngày mai chúng ta sẽ trở thành như thế nào, nghĩ đến trò chơi đánh
banh chúng ta sẽ kết thúc ngày mai ra sao, nghĩ đến kỳ thi sáu tháng nữa chúng
ta phải hoàn tất, nghĩ đến cách chúng ta sẽ thưởng thức những món ăn khoái
khẩu, hoặc chúng ta sẽ mua loại quần áo nào, vân vân và vân vân, luôn luôn là
tương lai hoặc quá khứ.
Nếu chúng ta sống trọn
vẹn một ngày, chấm dứt nó, rồi bước sang một ngày mới với đầy đủ sự mới mẻ, tươi
mát, thì chúng ta sẽ không sợ chết. Chúng ta chấm dứt mỗi ngày cùng với tất cả
những gì chúng ta thâu thập được, với tất cả kiến thức, với tất cả những kỷ
niệm, với tất cả những đấu tranh, không đem nó qua ngày hôm sau làm gì ---như
thế thật là đẹp; dù cho có sự chấm dứt chăng nữa, thì rồi lại có sự hồi phục,
thăng hoa.
(Krishnamurti -- On
Living and Dying)
SỰ THAY ÐỔI CẤP THIẾT
Hỏi:
Tôi có chân trong nhiều tổ chức gồm có tôn giáo, làm ăn buôn bán và chính trị. Rõ ràng là sống trong xã hội, chúng ta phải có chân trong những tổ chức, hội đoàn, nhóm bạn nào đó. Nay sau khi nghe ông nói, tôi tự hỏi, vậy thì có sự quan hệ nào giữa tự do và các tổ chức tập hợp chăng? Tự do bắt đầu từ đâu và tổ chức chấm dứt tại đâu? Mối quan hệ giữa các tổ chức tôn giáo và sự giải phóng là cái gì?
Tôi có chân trong nhiều tổ chức gồm có tôn giáo, làm ăn buôn bán và chính trị. Rõ ràng là sống trong xã hội, chúng ta phải có chân trong những tổ chức, hội đoàn, nhóm bạn nào đó. Nay sau khi nghe ông nói, tôi tự hỏi, vậy thì có sự quan hệ nào giữa tự do và các tổ chức tập hợp chăng? Tự do bắt đầu từ đâu và tổ chức chấm dứt tại đâu? Mối quan hệ giữa các tổ chức tôn giáo và sự giải phóng là cái gì?
Krishnamurti trả lời:
Con người ta khi sống
trong một xã hội phức tạp, những tổ chức, hội đoàn là cần thiết để có thể
truyền thông, di chuyển, vận tải thực phẩm, quần áo, xếp đặt nơi ăn chốn ở,
hoạt động mọi loại cộng việc phục vụ cho đời sống của tập đoàn xã hội, dù là
tại tỉnh thành hay nơi thôn quê. Ðiều này phải được tổ chức cho có hiệu quả và
nhân đạo, không phải chỉ vì sự lợi ích của một nhóm nhỏ, mà là vì sự lợi ích
cuûa tất cả mọi người, không phân biệt quốc tịch, chủng tộc hoặc đẳng cấp trong
xã hội. Trái đất này là của chúng ta, không phải là của bạn hoặc của tôi. Ðể
được sống hạnh phúc và khỏe mạnh, phải có những tổ chức lành mạnh, hữu hiệu và
hoạt động với tinh thần tôn trọng lẽ phải. Có những sự hỗn loạn xẩy ra ngày nay
là vì đã có sự chia rẽ. Hàng triệu người đói là vì có những nơi khác quá giầu
có. Có chiến tranh, xung đột và đủ loại hành động tàn bạo xẩy ra. Rồi thì lại
có những tổ chức của tín ngưỡng - tổ chức của tôn giáo, mà từ chính nó lại sinh
ra tình trạng gây chia rẽ và chiến tranh. Nền đạo đức mà con người đã theo đuổi
nay lại dẫn đến sự mất trật tự và rối loạn. Ðó là tình trạng thực tế của thế
giới ngày nay. Và khi mà bạn hỏi rằng có sự quan hệ nào giữa các sự tập hợp, tổ
chức đối với sự tự do, phải chăng bạn đã không tách rời được sự tự do ra khỏi
cái thực thể hiện hữu? Chúng ta không nhận ra rằng chính chúng ta đã tạo dựng
nên cái xã hội này, sự hỗn loạn này và bức tường ngăn cách này, cho nên mỗi
người trong chúng ta đều phải lãnh trách nhiệm. Chúng ta thế nào thì xã hội như
thế. Xã hội không khác chúng ta. Nếu chúng ta mâu thuẫn, tham lam, ganh ghét,
sợ hãi, chúng ta sẽ xây dựng nên cái xã hội giống như thế.
Hỏi:
• Có sự khác biệt giữa cá nhân và xã hội. Tôi là người ăn chay, xã hội giết súc vật. Tôi không thích chiến tranh, xã hội bắt tôi ra mặt trận. Bộ ông cho rằng trận chiến này do tôi tạo ra chăng?
• Có sự khác biệt giữa cá nhân và xã hội. Tôi là người ăn chay, xã hội giết súc vật. Tôi không thích chiến tranh, xã hội bắt tôi ra mặt trận. Bộ ông cho rằng trận chiến này do tôi tạo ra chăng?
Krishnamurti đáp:
• Ðúng, đó là trách
nhiệm của bạn. Bạn đã gây ra điều đó từ quan điểm về quốc tịch, về lòng tham,
về sự ganh tị, về lòng thù ghét của bạn. Nếu trong tâm bạn mang những tư tưởng
đó thì bạn phải chịu trách nhiệm về chiến tranh, khi mà bạn còn thuộc về một
quốc gia, một tín ngưỡng,á một chủng tộc nào đó. Chỉ có những người đã thoát ra
khỏi những điều kể trên, họ mới có thể nói rằng họ đã không tạo ra cái thế giới
hỗn loạn này. Cho nên, trách nhiệm của chúng ta là nhìn thấy sự thay đổi nơi
chúng ta, và giúp những người khác thay đổi mà không phải dùng đến bạo động và
đổ máu.
(Trích The Urgency of
Change)
ÐẾN VỚI
THƯỢNG ÐẾ
Hỏi :
- Cách nào dễ dàng
nhất để tìm thấy Thượng Ðế ?
Krishnamurti đáp :
- Tôi e rằng không có
cách dễ dàng nào để thấy được
Thượng Ðế đâu, bởi vì
việc tìm Thượng Ðế là việc khó khăn, gian khổ nhất. Thượng Ðế có phải là
cái mà tâm trí chúng ta tạo ra chăng? Bạn biết tâm trí chúng ta là cái gì rồi
.
Nó chẳng qua cũng chỉ
là kết quả của thời gian, và nó có thể tạo ra bất cứ loại ảo giác nào . Nó có
khả năng tạo ra tư tưởng, phóng chiếu đủ loại tưởng tượng, sáng tác đủ loại hư
cấu . Nó luôn luôn bận bịu chuyện gom góp, liệng bỏ, chon lựạ Ôm trong lòng
những thành kiến, hẹp hòi, nông cạn, cái tâm vọng động dựa theo ý mình mà vẽ ra
hình ảnh Thượng Ðế. Nó tưởng tượng về Thượng Ðế tùy theo với sự hẹp hòi, giới
hạn, nông cạn của nó.
Vì đã có những bậc
thầy, những nhà linh hướng, những “cái-gọi-là” những bậc cứu thế độ nhân đã
tuyên bố rằng có Thượng Ðế, và đã mô tả Thượng Ðế theo ý họ, cho nên cái vọng
tâm có thể tưởng tượng về Thượng Ðế trong tình trạng đó.
Nhưng hình ảnh tưởng
tượng đó không phải là Thượng Ðế. Thượng Ðế là cái mà chúng ta không thể tìm
thấy bằng loại tâm vọng động này .Muốn tới được, thâm cảm được Thượng Ðế, trước
nhất, bạn hãy tìm hiểu chính cái tâm của bạn đi đã .
Ðó là điều rất khó
khăn. Cái tâm rất là phức tạp, cho nên không phải dễ mà hiểu được nó. Nhưng lại
quá dễ cho cái chuyện ngồi xuống để mơ mộng, vẽ ra nhiều hình ảnh, ảo giác
trong trí, rồi cho là bạn đang rất gần gũi Thượng Ðế.
Chính cái vọng tâm
hoạt động liên tục đó có khả năng lừa dối vô tận. Cho nên, nếu muốn thật sự
kinh nghiệm được điều có thể gọi là Thượng Ðế, bạn phải hoàn toàn tĩnh
lặng.
Bạn có thấy đó là điều
cực kỳ khó khăn chăng? Bạn có nhận thấy ngay đến các bậc già cả, cũng không thể
nào ngồi yên lặng cho nổi, họ bồn chồn, hết ngọ nguậy ngón chân lại đến động
đậy bàn tay, ra saỏ Ngay đến cái thân xác mà đã khó lòng ngồi yên lặng được như
vậy, hỏi rằng còn khó khăn tới mức nào để mà có được cái tâm lặng lẽ, thanh
tịnh? Bạn có thể học theo vài bậc đạo sư để biết cách ép cho cái tâm vọng động
phải yên lặng, nhưng thực tế là nó không yên lặng. Nó vẫn hoạt động không
ngừng, y như đứa nhỏ bị bắt buộc phải đứng trong góc nhà.
Thật là một đại nghệ
thuật để bạn có thể khiến cho cái tâm trí bạn tĩnh lặng hoàn toàn mà không cần
phải áp đặt nó. Và cũng chỉ đến khi đó, trong tình trạng đó, hoạ chăng bạn mới
có được cái kinh nghiệm được gọi là hiệp thông với Thượng Ðế.
Krishnamurti—On God.
SỰ HÀI
HÒA GIỮA SINH VÀ TỬ
Hỏi :
-- Ông nói rằng về bản
chất thì tình yêu, sinh và tử cũng chỉ là một. Làm sao ông có thể duy trì được
cái ý tưởng là không có phân biệt nào giữa sự khích động và đau buồn về cái
chết và niềm hạnh phúc của tình yêu?
Krishnamurti đáp :
-- Theo ý bạn thì thế
nào là chết? Mất thân người, mất ký ức, và bạn hy vọng, bạn nghĩ rằng,
tin rằng sau đó sẽ có một sự tiếp nối. Nơi đây có một cái gì đó mất đi, đó là
điều mà bạn gọi là chết.
Ðối với tôi, sự chết
đã có ngay khi ký ức đang hoạt động, mà ký ức thì cũng chỉ là kết quả của lòng
khao khát, sự níu giữ, thiếu thốn, thèm thuồng mà thôi. Bởi vậy, nếu một người
đã tự giải thoát khỏi lòng khao khát, thèm thuồng, thì không có sự chết,
không có khởi đầu, kết thúc, không có lối mòn của yêu đương hoặc đau khổ. Xin
hiểu cho là tôi đang cố gắng giải thích, rằng vì cứ đuổi theo điều đối nghịch,
chúng ta tạo nên sự cản trở.
Nếu tôi sợ hãi, tôi
kiếm cách tạo cho mình lòng dũng cảm, nhưng mà sự sợ hãi vẫn đuổi theo tôi, vì
tôi chỉ lẩn trốn từ cái này qua cái khác mà thôi. Ngược lại, nếu tôi tự giải
thoát tôi khỏi sự sợ hãi, không biết tới can đảm hoặc sợ sệt gì cả, đó là thái
độ tỉnh táo, thận trọng, không cố níu lấy sự dũng cảm, nhưng mà giải thoát ra
khỏi những sự thúc đẩy đưa tới hành động. Có nghĩa là, nếu bạn sợ hãi, đừng tạo
thành động cơ thúc đẩy phải có một hành động can đảm, mà hãy tự giải thoát ra
khỏi sự sợ hãi. Ðó là hành động không tác ý.
Bạn sẽ thấy, nếu bạn
thấu triệt điều này, cái chết là truyện tương lai, sẽ ngưng ám ảnh bạn. Nghĩ về
sự chết chỉ là nhận thức một cách mãnh liệt về cô đơn, do đó, vì bị cột chặt
với cảm giác cô đơn, hiu quạnh, chúng ta vội bám vào cái gì đó, muốn được kết
hợp, hoặc tìm coi có cái gì tồn tại ở phía bên kia chăng. Ðiều đó đối với tôi
lại là sự theo đuổi những điều trái ngược, chúng càng giữ lại mãi mãi cái cảm
giác cô đơn, hiu quạnh. Ngược lại, nếu chúng ta trực diện với nỗi cô đơn, hoan
hỉ tiếp nhận nó một cách sáng suốt, bạn sẽ tiêu diệt sự cô đơn, hiu quạnh, ngay
khi nó vừa mới xuất hiện. Như thế là hóa giải chuyện chết!
Mọi sự việc ở đời đều
sẽ có lúc phải tàn tạ. Mọi sự gồm thân thể người ta, phẩm chất, khả năng, sự
chống cự, trở lực, tất cả rồi cũng sẽ tàn tạ, cũng phải tàn tạ. Nhưng người nào
mà tư tưởng đã tự giải thoát ra khỏi những xúc cảm, thoát khỏi sự đối kháng,
cản trở, hắn sẽ được biết tới sự bất tử. Bất tử ở đây không phải là kéo dài cái
giới hạn của chính hắn, cái giới hạn của chính con người hắn, vốn chẳng là cái
gì khác ngoài những tầng lớp của khát vọng, níu giữ, thiếu thốn, thèm muốn. Bạn
có thể không đồng ý, nhưng nếu bạn có thể giải thoát ra khỏi sự suy nghĩ, nếu
bạn có thể thấu suốt vào sự tự giác, thấu suốt thẳng vào sự tỉnh thức, bạn sẽ
thấy được sự bất tử, vốn hài hòa một cách tuyệt hảo, không phải là "lối
mòn của tình yêu", hay là "lối mòn của đau buồn", mà trong đó,
tất cả mọi chia cách đều chấm dứt.
Krishnamurti -- On
Living and Dying
SỰ HÀI HÒA TRONG ÐỜI
SỐNG
Ðời sống không thể
thiếu sự quan hệ giữa mọi người với nhau, nhưng mà chúng ta đã làm cho những
mối liên hệ ấy trở nên đau khổ, đáng chán, vì chúng ta đã đặt nền tảng trên căn
bản cá nhân và tình yêu chiếm hữu . Người ta có thể yêu mà không chiếm hữu
chăng? Bạn sẽ tìm được câu trả lời đích thực, không phải là trong sự lẩn trốn,
không phải bằng những lý thuyết cao siêu, hoặc bằng niềm tin, nhưng là xuyên
qua sự thấu hiểu về căn nguyên của sự lệ thuộc và sự chiếm hữu . Nếu người ta
thấu hiểu sâu xa cái vấn đề liên hệ giữa họ với người khác thì họa may chúng ta
có thể giải quyết được những vấn đề rắc rối trong sự liên hệ giữa chúng ta với
xã hội, vì xã hội cũng chỉ là sự mở rộng từ chính chúng ta mà thôi.
Cái môi trường sống mà
chúng ta gọi là xã hội đó được tạo dựng bởi những thế hệ quá khứ; chúng ta chấp
nhận nó, vì nó đã giúp chúng ta duy trì lòng tham, thói chiếm hữu và ảo tưởng.
Trong cái ảo tưởng này, không có sự hợp nhất và an bình. Khi mà người ta còn
không thấu hiểu nổi mối liên hệ giữa từng cá nhân đối với nhau thì người ta
chưa thể có một xã hội an bình.
Vì mối liên hệ giữa
chúng ta với nhau đặt nền tảng trên tình yêu chiếm hữu cho nên chúng ta cứ phải
tỉnh giác, về phần chúng ta, đối với sự phát sinh, nguyên nhân và hoạt động của
cái mối liên hệ đó. Khi chúng ta đã thấu hiểu sâu xa cái tiến trình chiếm hữu
cùng với tính cách hung bạo, sự sợ hãi và phản ứng của nó, chúng ta sẽ thấu
triệt một sự trọn vẹn, toàn hảo . Chỉ riêng sự thấu triệt này đủ để giải thoát
tư tưởng con người ra khỏi sự lệ thuộc và chiếm hữu.
Chính là từ nội tâm mà
con người tìm ra được sự hài hòa trong mối liên hệ giữa mọi người, chứ không
phải là từ người khác hoặc từ môi trường sống mà người ta đạt được điều
đó.
Krishnamurti -- On
Relationship.
TỰ TÌM
HIỂU CHÍNH MÌNH
Hỏi :
-- Theo ý ông, điều gì
được coi như quan trọng nhất trong cuộc đời? Tôi thường suy ngẫm về điều này,
và thấy dường như có quá nhiều điều trong cuộc đời đáng được coi là quan trọng.
Tôi xin hỏi ông điều này bằng tất cả tấm lòng thành khẩn của tôi.
Krishnamurti đáp :
-- Có thể đó là nghệ
thuật sống. Chúng ta dùng chữ "nghệ thuật" với cái nghĩa rộng nhất
của nó. Cuộc đời thì quá ư là phức tạp, rối rắm, cho nên rất là khó khăn và bối
rối khi chúng ta coi một mặt nào đó là quan trọng nhất. Ngay chính sự chọn lựa,
sự phân biệt, đánh giá phẩm chất, đã dẫn tới sự bối rối hơn rồi. Nếu bạn nói
rằng đây là điều quan trọng nhất, thế là bạn đã đẩy những sự kiện thực tế khác
trong cuộc đời xuống vị trí thứ yếu rồi. Hoặc là bạn coi toàn bộ hoạt động của
cuộc đời như là một tổng thể, điều rất khó làm đối với nhiều người, hoặc là bạn
đặt trọng tâm vào một vấn đề căn bản trong đó có bao gồm cả những điều khác.
Như vậy, chúng ta có thể tiếp tục thảo luận.
Hỏi :
-- Ý ông muốn nói rằng
một khía cạnh có thể bao gồm toàn bộ cuộc đời? Có thể như vậy được chăng?
Krishnamurti đáp:
-- Có thể lắm. Chúng
ta hãy cùng nhau đi vào đề tài một cách thật là chậm rãi và thận trọng. Ðầu
tiên là hai chúng ta hãy nghiên cứu, nhưng không vội vã tiến tới kết luận, vì
như vậy là nông cạn. Chúng ta cùng nhau thăm dò một khía cạnh của đời sống, và nếu
chúng ta thấu hiểu được điều đó thì chúng ta có thể hiểu được toàn bộ đời sống.
Muốn nghiên cứu, chúng ta phải hoàn toàn rũ bỏ được những thứ như thành kiến,
kinh nghiệm bản thân, và cái sự kiện "đã có sẵn kết luận". Như là một
khoa học gia giỏi, chúng ta phải có cái tâm trí không bị che mờ bởi những kiến
thức mà chúng ta đã huân tập trong cuộc đời. Chúng ta phải bắt đầu với một tâm
trí hoàn toàn cởi mở, tươi mát, đó là một trong những điều kiện cần thiết của
sự khám phá, tìm hiểu. Ở đây, sự khám phá, tìm hiểu không phải chỉ về quan
điểm, hoặc một chuỗi những khái niệm triết học, mà là tìm hiểu, khám phá chính
tâm hồn mình, cho nên, chúng ta không thể để cho các phản ứng từ các lối mòn
xâm lấn vào cái đang được quan sát. Ðó là điều tuyệt đối cần thiết, nếu không
sự tìm hiểu của bạn về chính bạn lại bị những nỗi lo sợ, niềm hy vọng và sự
khoái lạc của chính bạn làm cho biến thể.
Krishnamurti --
Letters to the Schools
TỰ DO
ÐÍCH THỰC
Có nhiều loại tự do,
chắc chắn là như vậy. Có loại tự do về chính trị. Có loại tự do từ kiến thức
mang lại, nhờ đó, bạn biết cách làm việc này, việc kia, "biết cách làm thế
nào ... ". Có cái tự do của người nhiều tiền của được đi du lịch vòng
quanh thế giới. Nào là tự do vì có khả năng, có thể viết lách, có thể bày tỏ tư
tưởng của mình, có thể suy nghĩ một cách minh mẫn. Lại có loại tự do vì thoát
khỏi sự vướng mắc vào cái gì đó, thí dụ thoát khỏi sự đàn áp, sự thèm khát,
truyền thống, lòng tham lam, v . v . . . Có loại tự do là kết quả của sự phấn
đấu mà giành được, chúng ta hy vọng rằng khi kết thúc một quá trình hành trì,
kết thúc một quá trình rèn luyện phẩm hạnh, kết thúc một quá trình cố gắng, sự
tự do tối thượng mà chúng ta ước ao này sẽ giúp chúng ta làm được một số công
việc. Nói về những sự tự do như sự tự do nhờ khả năng mang lại, sự tự do từ một
cái gì đó, sự tự do mà chúng ta cho rằng sẽ đạt được sau một thời gian rèn
luyện phẩm hạnh, thì tất cả các loại tự do đó chúng ta đều đã biết rồi. Vậy câu
hỏi là, phải chăng tất cả những loại tự do đó đều chỉ là những phản ứng? Khi
bạn nói :" Tôi muốn giải thoát khỏi sự giận dữ", đó chỉ là một phản
ứng của lòng mong muốn, không phải là sự tự do, giải thoát khỏi sự giận dữ. Và
ngay chính sự tự do mà bạn tưởng rằng bạn sẽ đạt được sau một đời rèn luyện
phẩm hạnh, do phấn đấu, do ép mình, đó cũng chỉ là những phản ứng của các việc
mà bạn đã làm.
Xin hãy theo dõi cẩn
thận, bởi vì điều mà tôi sẽ nói ra có thể khiến cho bạn thấy khó hiểu vì có một
cái gì đó có vẻ như không quen thuộc với dòng suy nghĩ của bạn. Có một loại tự
do vốn không từ điều gì mang lại, không có nguyên nhân, nhưng là một trạng thái
giải thoát.
Bạn thấy đó, sự tự do
mà chúng ta đã biết thì đều luôn luôn đạt được nhờ ý chí, đúng không? Tôi sẽ
được tự do. Tôi sẽ học một khoa kỹ thuật. Tôi sẽ trở thành một chuyên viên. Tôi
sẽ học hỏi. Và cái ý chí đó mang đến cho tôi tự do. Cho nên chúng ta dùng cái ý
chí để đạt sự tự do. Chúng ta không muốn trở nên nghèo, do đó, chúng ta dùng
khả năng, dùng tất cả quyết tâm của chúng ta để đạt được sự giầu có. Hoặc, tôi
là kẻ vô dụng, cho nên tôi quyết tâm học tập để hết vô dụng. Và chúng ta tưởng
rằng chúng ta sẽ tìm được tự do khi chúng ta hành động với sự quyết tâm, với ý
chí. Nhưng mà, ý chí không đem đến tự do, mà ngược lại, như tôi sẽ trình bày
dưới đây. Ý chí là gì? Tôi sẽ là ..., tôi sẽ không được là ..., tôi sẽ
phấn đấu để trở nên cái gì đó ..., tôi sẽ học hỏi ...v.v...
Tất cả những chuyện kể
trên đều là những dạng hành động của ý chí. Vậy thì cái ý chí này là gì, nó
hình thành ra sao? Hiển nhiên là từ khát vọng. Biết bao nhiêu là nỗi niềm khát
vọng của chúng ta, với những sự thất vọng, những sự bó buộc, những sự hoàn tất,
kết lại như sợi dây ràng buộc. Ðó là ý chí, phải vậy không? Quá nhiều nỗi khát
vọng của bạn kết hợp lại với nhau, tạo thành một sợi dây chão và nhờ nó mà bạn
cố gắng leo lên bậc thang thành công, muốn tiến đến tự do. Vậy thì, xin hỏi
rằng khát vọng có đem lại tự do được không, hay là chính cái khát vọng để đạt
được tự do đó lại làm cho người ta mất tự do? Xin các bạn hãy nhìn vào bản
thân, tự xét cái lòng khao khát của chính bạn, cái tham vọng của chính bạn, cái
ý chí của chính bạn.
Tôi lại xin hỏi rằng
cái ý chí của bạn có phải là nhân tố của tự do không? Ý chí có mang lại tự do
không? Hay là tự do, giải thoát là một cái gì hoàn toàn khác hẳn, nó không liên
hệ gì với phản ứng, không thể đạt được nhờ khả năng, nhờ suy nghĩ, nhờ kinh
nghiệm, nhờ kỷ luật.
. . . Tự do, giải
thoát, là một phẩm chất của tâm hồn. Cái phẩm chất này không đến từ sự thận
trọng tìm tòi, nghiên cứu, phân tích, sắp xếp tư tưởng lại với nhau. Tư tưởng
và tự do, giải thoát, là hai điều đối nghịch. Tư tưởng không đem tới tự do,
giải thoát, vì tư tưởng đã bị điều kiện hóa. Cái phẩm chất của tâm hồn này là
sự tỉnh giác, chỉ ghi nhận thuần túy, không phân tách, không so sánh từ kinh
nghiệm của quá khứ, v.v ... Ðó chính là khởi đầu của sự tự do đích thực. Sự
chuyển hóa này trong tâm hồn là một cuộc cách mạng đích thực. Ngoài ra, tất cả
các cuộc cách mạng khác đều chỉ là những phản ứng, dù cho người ta có dùng từ
ngữ như tự do, giải thoát, những hứa hẹn thiên đường, v . v ... , mọi loại. Chỉ
có một sự tự do, giải thoát đích thực. Ðó là cái phẩm chất trong tâm hồn.
Krishnamurti -- To Be Human.
CỦA KRISHNAMURTI
Chuyển Ngữ: Dannyviet
Phần Hai
Chuyển Ngữ: Dannyviet
Phần Hai
TẦM
ÐẠO và ÐẠO SƯ
Hỏi :
- Thưa ông, trong chữ
guru (đạo sư ), thì chữ gu có nghĩa là bóng tối của sự ngu dốt và chữ
ru có nghĩa là người gỡ bỏ, người xua đuổi. Do đó, guru là ánh sáng
xua tan bóng tối của sự ngu dốt, và ông chính là cái ánh sáng đó đối với tôi
bây giờ. Vậy thì theo ý ông, vai trò của vị đạo sư (guru) là gì, một vị thầy
hay là một người tỉnh thức?
Krishnamurti
đáp :
- Thưa ông, nếu ông
dùng từ guru theo nghĩa cổ điển, nghĩa là "xua tan bóng tối của sự ngu
dốt", vậy thì liệu rằng có thể có một người nào đó, bất kể là sáng suốt
hay ngu xuẩn, có thể thực sự giúp xua tan cái bóng tối này cho ai không? Giả tỉ
như anh A là kẻ ngu tối, và ông là đạo sư của hắn -- đạo sư với cái nghĩa là
người xua tan bóng tối, người mang gánh nặng giúp cho người khác, người chỉ
đường -- liệu rằng vị đạo sư như thế có thể thực sự giúp cho kẻ khác được
không? Hoặc là hơn thế nữa, vị đạo sư có thể xua tan bóng tối cho kẻ khác, --
không phải là lý thuyết suông, mà là trên thực tế không? Có thể nào ông, nếu
ông là một vị đạo sư của ai đó, ông có thể xua tan bóng tối cho hắn không? Biết
rằng hắn đau khổ, bối rối, thiếu sáng suốt, thiếu tình yêu, buồn bã, liệu ông
có thể giúp hắn xua tan được cái bóng tối đó không? Hay là chính bản thân hắn
phải cật lực ra mà tự giải thoát? Ông có thể chỉ cho hắn, ông có thể nói:
" Nhìn, hãy bước qua cái cửa kia đi", nhưng mà bản thân hắn phải làm
trọn công việc từ đầu cho đến cuối. Cho nên, nếu ông công nhận rằng người này
không thể làm giúp người khác cái công việc đó, thì quả thật ông không phải là
đạo sư theo cái nghĩa kể trên.
Hỏi :
- Này nhé, đây là
chuyện "nếu" ... "nhưng mà" ... , vậy thì "nếu"
như có cái cửa ở đó, tôi phải bước qua. "Nhưng mà" cái sự ngu
tối này nó khiến cho tôi không nhìn thấy cái cửa ở chỗ nào. Vậy thì ông,
do sự chỉ ra cái cửa, đã gỡ bỏ được sự ngu tối.
Ðáp :
Ðáp :
- Nhưng mà chính đương
sự phải bước. Ông là đạo sư và ông chỉ ra cái cửa. Công việc của ông đến đây là
chấm dứt.
Hỏi :
- Tuy nhiên, bóng tối
của sự ngu muội đã được gỡ bỏ.
Ðáp :
- Không, công việc của
ông đã chấm dứt, nay là lúc chính tôi phải đứng lên, bước, và làm tất cả mọi
chuyện tiếp theo.
Hỏi :
- Vậy là tuyệt rồi!
Ðáp :
- Cho nên không phải
là ông đã xua tan cái bóng tối của tôi.
Hỏi :
- Xin lỗi, vậy chứ tôi
không biết làm sao mà thoát ra khỏi được cái phòng này. Tôi hoàn toàn mù tịt về
sự có một cái cửa đang hiện hữu ở đâu đó, và vị đạo sư đã cởi bỏ sự ngu tối ấy
cho tôi. Nhờ vậy, tôi mới làm được những việc cần thiết để thoát ra khỏi căn
phòng.
Ðáp :
- Thưa ông, xin nói
cho rõ. Ngu tối là sự thiếu hiểu biết, hay là thiếu hiểu biết về bản thân,
không phải là đại ngã hoặc tiểu ngã. Cái cửa là cái "tôi" mà qua nó,
tôi phải tiến. Cái đó không phải ở ngoài "tôi". Ðó không phải là cái
cửa thực sự như cái cửa sơn kia. Ðó là cái cửa trong tôi mà tôi phải đi qua.
Ông chỉ nói: " Làm đi".
Hỏi :
- Ðúng thế.
Ðáp :
- Nhiệm vụ đạo sư của
ông đến đây là đã chấm dứt. Ông không còn quan trọng nữa. Tôi không choàng vòng
hoa quanh đầu ông. Tôi phải làm mọi việc. Ông không xua tan được bóng tối của
sự ngu dốt. Ông đã, đúng hơn, chỉ ra cho tôi rằng: "Anh là cái
cửa, và anh, chính bản thân anh phải tự bước qua.
Hỏi :
- Nhưng mà thưa ông,
ông có công nhận rằng sự chỉ ra cái cửa đó là cần thiết không?
Ðáp :
- Có chứ! Tôi chỉ ra,
tôi làm điều đó. Tất cả chúng ta đều làm điều đó. Tôi hỏi một người bộ hành
trên đường: " Xin chỉ cho tôi đường nào đi tới Saanen" và hắn ta chỉ
cho tôi. Nhưng tôi không bỏ thì giờ ra để mà cung kính: " Trời ơi! Ông là
nhân vật vĩ đại nhất thế giới". Thật là quá con nít!
(Trích The Awakening
of Intelligence)
NHÀ GIÁO DỤC CHÂN
CHÍNH
Để là một nhà giáo dục
đúng nghĩa, vị thầy phải luôn luôn tự thoát ra khỏi tình trạng lệ thuộc vào
sách vở, phòng thí nghiệm; phải luôn luôn coi chừng sao cho đệ tử của mình đừng
coi mình là người điển hình, là mẫu người lý tưởng, là người có thẩm quyền đối
với hắn. Nếu vị thầy lại muốn tự thỏa mãn qua đám học trò, coi thành quả của họ
là của mình, thì khi đó sự dậy dỗ của vị thầy chỉ còn là một kiểu của thói
"tiếp nối bản ngã", điều đó chỉ làm hại cho sự tự tìm hiểu và tinh
thần khai phóng của người học trò mà thôi . Nhà giáo dục chân chính phải nhận
thức được tất cả những chướng ngại này để giúp cho học trò của mình được giải
thoát, không chỉ giải thoát khỏi sự khống chế của vị thầy, mà còn giải thoát
khỏi sự gò bó tiềm ẩn từ trong nội tâm của chính đương sự.
Đáng tiếc thay, khi
phải tìm hiểu một vấn đề rắc rối, phần lớn các nhà giáo đã không coi học trò
như người cộng sự bình đẳng. Từ vị thế thượng phong, vị thầy hạ lệnh xuống cho
kẻ đệ tử đứng mãi tít phía dưới thấp. Tương quan thầy trò kiểu này chỉ làm
tăng sự sợ hãi cho cả hai phía . Cái gì đã tạo nên sự tương quan bất bình
đẳng này ? Phải chăng vị thầy ngại tìm ra câu trả lời? Phải chăng ông ta
muốn giữ cái khoảng cách tôn nghiêm ấy để bảo vệ những điểm nhậy cảm, là sự
quan trọng của ông ta ? Với cái thói lạnh lùng trịch thượng này, không có cách
nào người ta có thể phá vỡ bức tường ngăn cách giữa các cá nhân.
Toàn bộ mối tương quan
phải là một nền giáo dục hỗ tương. Nếu nhờ vào kiến thức, thành quả và tham
vọng mà nhà giáo tự cách ly thì sẽ chỉ sản sinh ra lòng đố kỵ và thù địch. Nhà
giáo dục chân chính phải vượt qua được bức tường bao vây này .
Do sự dâng hiến cuộc
đời cho tự do và hòa hợp, nhà giáo dục chân chính đồng thời cũng là một nhà tôn
giáo chân chính và sâu sắc. Ông ta không thuộc về một giáo phái nào, không đứng
trong một "tổ chức tôn giáo" nào . Ông ta thoát ra khỏi tín ngưỡng và
nghi thức lễ lạc, vì ông ta biết rằng đó chỉ là những sáng tác do ảo tưởng của
những con người mang cái tâm mong cầu mà thôi .
Nhà giáo dục chân
chính biết rằng Thực Tại, hoặc Thượng Đế chỉ thể hiện qua sự tự cảm nhận của
một nội tâm hoàn toàn tự do và giải thoát.
Krishnamurti --
Education & the Significance of Life
NIỀM AN LẠC CHÂN THẬT
Dùng nhãn quan máy móc
mà nhìn cuộc đời thì con người ta chỉ là sản phẩm của môi trường sống với những
phản ứng khác nhau, chỉ có thể có những nhận thức bằng giác quan. Cuộc sống và
những phản ứng phải được kiềm chế bởi một hệ thống quản trị hợp lý hóa khiến
cho hoạt động của cá nhân chỉ còn trong phạm vi khuôn khổ mà thôi.
Xin hãy hiễu thấu đáo
toàn bộ đặc điểm của cái nhãn quan này. Nó không ý thức về một thực thể tối
thượng, không có sự cao siêu huyền bí, không có chuyện nối tiếp đời này, đời
sau.
Đích cuối của kiếp
sống ngắn ngủi là cái chết, là hết. Khi mà con người ta nghĩ rằng họ chỉ là kết
quả của phản ứng trong môi trường sống, thì họ sẽ chỉ còn đuổi theo mục tiêu
ích kỷ, tìm sự an toàn cho bản thận, họ sẽ đóng góp vào việc thiết lập một hệ
thống bóc lột tàn bạo và chiến tranh.
Rồi thì lại có những
người cho rằng con người vốn bản chất là thiêng liêng, vận mệnh đã được an bài
và hướng dẫn bởi ơn trên. Những người này khẳng định là họ đang đi tìm Thượng
Đế, sự hoàn hảo, tự do, hạnh phúc, tình trạng hiện hữu mà khi đó mọi mâu thuẫn
chấm dứt. Niềm tin của họ đặt vào một thực thể tối thượng, đấng sẽ chỉ đạo vận
mệnh của họ qua đức tin. Họ sẽ nói rằng cái thực thể huyền bí, hoặc trí tuệ tối
cao này đã sáng tạo ra thế giới và cái "Tôi", - cái bãn ngã, cá nhân
-là thực thể tự thân trường tồn, vĩnh cửu.
Đôi khi, bạn dùng nhãn
quan máy móc nhìn cuộc đời. Lúc khác, khi bạn buồn rầu, bối rối,bạn quay về tín
ngưỡng, đi tìm một đấng tối cao để được hướng dẫn và giúp đỡ. Bạn lưỡng lự giữa
hai thái cực, trong khi chỉ qua sự hiểu biết thấu đáo được cái ảo giác về cả
hai quan điểm đối nghịch, bạn mới có thể tự giải thoát ra khỏi sự hạn chế và
cản trở. Bạn thường tưởng là bạn thoát khỏi sự ràng buộc của chúng, thực tế,
bạn chỉ có thể thoát khỏi chúng một cách triệt để khi bạn hoàn toàn hiểu thấu
cái quá trình tạo dựng những sự hạn chế và triệt tiêu chúng.
Bạn không thể có được
sự thâm hiểu thực thể chân thật, thực tại, trong khi mà cái quá trình vô minh
từ vô thủy còn tồn tại. Chỉ khi nào cái quá trình này, sự hăm hở tìm tòi do
lòng khát vọng, ngưng lại, lúc đó người ta mới có thể cảm nhận được cái gọi là
niềm an lạc, hạnh phúc chân thật.
Krishnamurti -- On God
CÁI ĐẸP
và NHÀ NGHỆ SĨ
Hỏi :
- Tôi thường tự hỏi:
" Nhà nghệ sĩ là cái gì?" . Đó đây, bên bờ sông Hằng, trong không
gian tối mờ của căn buồng nhỏ, có chàng kia ngồi dệt tấm áo khoác bằng
lụa dát vàng đẹp tuyệt vời, và tại kinh đô Paris, một anh khác đang cặm cụi
trong xưởng để vẽ bức tranh mà anh ta hy vọng sẽ đem cho anh ta danh tiếng. Đâu
đó, một nhà văn đang nặn óc trau chuốt từng câu để mô tả những mẩu tâm tình rắc
rối cũ hơn trái đất giữa những chàng và nàng; rồi nào là những khoa học gia
trong phòng thí nghiệm và người chuyên viên ráp nối lại hàng triệu mảnh vụn để
chiếc hỏa tiễn có thể bay lên mặt trăng. Và tại nước Ấn Độ kia, có chàng nhạc
sĩ sống một cuộc đời quá ư khắc khổ, để tận tụy truyền đạt vẻ đẹp thanh
khiết của nhạc trong sự say mê. Rồi nào là bà nội trợ sửa soạn bữa cơm gia
đình, chàng thi sĩ một mình lững thững trong rừng tìm thi hứng. Phải chăng họ
đều là những nhà nghệ sĩ theo cung cách riêng? Tôi nghĩ rằng cái đẹp nằm trong
tầm tay của tất cả mọi người, nhưng họ không biết. Người chế tạo những bộ quần
áo đẹp lộng lẫy hay những đôi giầy xuất sắc, hoặc người đàn bà chưng bày bình
hoa trên bàn của ông, dường như tất cả đều làm việc vì cái đẹp. Tôi thường tự
hỏi tại sao những họa sĩ, nhà điêu khắc, soạn nhạc gia, văn sĩ --những người
được gọi là nghệ sĩ sáng tạo -- lại được đánh giá quan trọng vượt bực trong cái
thế giới này, mà những thợ giầy, những đầu bếp lại không được như vậy? Họ
chẳng cũng sáng tạo sao? Nếu ông coi tất cả những cung cách diễn đạt khác nhau
đó đều là phục vụ cái đẹp, vậy thì chỗ nào có thể dành riêng cho người nghệ sĩ
chân chính và ai là nhà nghệ sĩ chân chính? Người ta thường nói cái đẹp là phần
rất thiết yếu của cuộc đời . Vậy thì cái tòa nhà cao từng kia, vốn được coi như
là rất đẹp, xin hỏi sự phô diễn của nó có thiết yếu không? Tôi sẽ rất cảm
kích nếu ông có thể nói về toàn bộ vấn đề cái đẹp và nhà nghệ sĩ này.
Krishnamurti đáp:
Chắc chắn rằng nhà
nghệ sĩ là người tinh tế, nhuần nhuyễn trong hành động. Hành động này là
từ đời sống nội tâm tỏa ra chứ không phải chỉ hời hợt bên ngoài. Vì thế,
sống một cách hài hòa hiển nhiên làm cho con người thành nghệ sĩ. Sự hài hòa
nghệ thuật này có thể chỉ biểu lộ vài giờ trong một ngày, khi anh ta chơi nhạc,
làm thơ, hoặc vẽ tranh, hay anh ta có thể làm nhiều hơn, nếu như anh ta giỏi về
nhiều mặt, như những đại danh tài thời Phục Hưng đã hoạt động trong nhiều môi
trường khác nhau. Nhưng vài giờ chơi nhạc hoặc viết văn có khi lại mâu thuẫn
với chuỗi thời gian còn lại của anh ta vốn đầy dẫy những chuyện lộn xộn và rối
beng. Vậy thì người như thế có thể coi như là nghệ sĩ không? Người chơi vĩ cầm
một cách nghệ thuật nhưng lại chú tâm vào danh tiếng của anh ta thì không phải
là người say mê vĩ cầm, anh ta chỉ sử dụng ngón đàn với mục tiêu nổi danh, cái
"TÔI" của anh ta còn quan trọng hơn nhiều so với âm nhạc, và điều này
thì ngay cả đối với văn sĩ hay họa sĩ cũng như vậy mà thôi, nếu họ chỉ quan tâm
đến danh tiếng. Người nhạc sĩ đồng hóa cái "TÔI" của anh ta với cái
mà anh ta coi là vẻ đẹp của âm nhạc, nhà tôn giáo đồng hóa cái “TÔI” của anh ta
với cái mà anh ta cho là hùng vĩ, tôn nghiêm. Tất cả đều hành sử có nghệ thuật
trong khu vực cá biệt, nhỏ bé, nhưng lại bỏ quên cả cái mảng lớn của cuộc
đời. Vậy chúng ta hãy tìm coi thế nào là có nghệ thuật trong hành động,
trong đời sống, không phải chỉ trong lúc vẽ, trong lúc viết hoặc trong ngành kỹ
thuật. Nhưng làm sao người ta có thể sống cả một cuộc đời trong sự hài hòa và
đẹp đẽ. Sự hài hòa và cái đẹp có giống nhau không? Có thể nào một người --bất
kể họ là nghệ sĩ hay không --, sống cả một cuộc đời trong sự hài hòa và đẹp?
Sống là hành động và
khi mà cái hành động đó tạo ra nỗi phiền muộn thì thế là đã hết nghệ thuật rồi.
Vậy thì người ta có thể sống không buồn phiền, không kèn cựa, không ghen ghét
và tham lam, không xung đột về mọi mặt chăng? Vấn đề không phải ai là nghệ sĩ,
ai không là nghệ sĩ, nhưng làm sao cho mỗi người, bạn hoặc bất cứ ai, có thể có
cuộc sống không bị hành hạ và biến dạng. Chắc chắn sẽ làphàm tục nếu chúng ta
nhạo báng hoặc hạ thấp giá trị của âm nhạc, điêu khắc, thi ca hoặc khiêu vũ, đó
là hành vi thiếu tế nhị. Nhưng nghệ thuật và vẻ đẹp trong hành động phải được
duy trì suốt ngày chứ không phải chỉ có vài giờ trong một ngày. Đó chính là sự
phấn đấu đích thực, không phải chỉ đơn giản trong việc chơi đàn cho hay. Dĩ
nhiên đã sờ vào cái đàn thì bạn phải chơi cho hay, nhưng như thế chưa đủ. Đó
mới chỉ như bạn vun xới một góc nhỏ mà bỏ rơi cả cánh đồng mênh mông.
Chúng ta quan tâm tới cả cánh đồng, và cánh đồng đó tượng trưng cho đời sống
của chúng ta . Chúng ta thường bỏ bê cả cánh đồng mà chỉ chú tâm vào một mẩu
nhỏ, của chúng ta hoặc của tha nhân. Sống có nghệ thuật là luôn luôn tỉnh thức,
sáng suốt, có như thế mới hành sử một cách thiện xảo trong suốt một đời, đó
chính là cái đẹp.
Hỏi :
- Thế trường hợp nhân
viên xưởng máy hay văn phòng thì sao? Anh ta có là nghệ sĩ chăng? Phải chăng
việc làm của anh ta đã ngăn trở sự hài hòa trong hành động do đó làm giảm hoặc
làm mất đi tính cách nghệ thuật của họ trong cả những việc khác nữa. Bộ anh ta
không bị việc làm điều kiện hóa mất rồi sao?
Krishnamurti đáp:
- Chắc chắn là anh ta
bị rồi. Nhưng nếu anh ta tỉnh ngộ, anh ta sẽ hoặc là bỏ việc hoặc chuyển hóa
cho nó thành có nghệ thuật. Điều quan trọng không phải là công việc, nhưng là
sự tỉnh thức trong công việc. Điều quan trọng không phải là sự điều kiện hóa
của công việc, nhưng là sự thức tỉnh.
Hỏi :
- Ông nói “thức tỉnh”
có nghĩa là gì?
Krishnamurti đáp :
- Vậy bạn chỉ thức
tỉnh tùy theo trường hợp, vì phải phấn đấu, hoặc vì tai họa hoạc vui mừng
chăng? Hay là có một trạng thái tỉnh thức không cần có lý do. Nếu bạn tỉnh thức
do một sự kiện, một lý do nào đó, thì rồi bạn sẽ bị lệ thuộc vào nó, và khi mà
bạn đã lệ thuộc vào cái gì – dù là thuốc kích thích, tình dục, hội họa hoặc âm
nhạc – là bạn đã để cho bản thân bạn bị mê đi. Vậy thì, bất cứ loại lệ thuộc
nào cũng sẽ dẫn người ta đến chỗ chấm dứt sự hài hòa, chấm dứt tính chất
nghệ thuật.
Hỏi :
- Thế còn trạngï thái
tỉnh thức không có lý do là cái gì? Ông đang nói đến cái trạng thái trong đó
không có nguyên nhân và hậu quả. Có thể có một trạng thái tâm không là
kết quả của lý do nào đó chăng? Tôi không hiểu điều này vì chắc chắn rằng mỗi
điều chúng ta nghĩ , hoặc chúng ta là như thế nào, thì đều là kết quả của một
nguyên nhân nào đó, phải không ạ? Lại còn cái chuỗi dây nguyên nhân và hậu quả
vô tận này.
Krishnamurti đáp
:
- Chuỗi dây nguyên
nhân và hậu quả này vô tận vì cái kết quả lại sẽ trở thành nguyên nhân mới và
nguyên nhân lại sinh ra kết quả nữa, cứ thế mà vận hành.
Hỏi :
- Vậy thì hành động
nào có thể ra ngoài chuỗi dây này?
Krishnamurti đáp :
- Chúng ta biết rằng
hành động với lý do, có động cơ thúc đẩy, thì hành động đó đã là kết quả. Chỉ
có lòng nhiệt thành, thương yêu, là không có nguyên nhân, đó là tự do, đó là
cái đẹp, đó là sự tế nhị, và đó là nghệ thuật. Khi người nghệ sĩ say sưa trình
diễn, lúc đó không có cái “TÔI” ngự trị, chỉ có tình cảm và cái đẹp, đó là nghệ
thuật. Đó là sự hài hòa trong hành động. Hài hòa trong hành động là sự vắng mặt
của cái “TÔI”.
Nhưng khi bạn bỏ phế
cả cánh đồng mênh mông của cuộc đời, chỉ chú trọng vào một mẩu nhỏ – mặc dù lúc
đó cái “TÔI” có thể vắng mặt, thì bạn cũng vẫn đang sống không hài hòa và do
đó, bạn không là nhà nghệ sĩ của cuộc đời.
Krishnamurti -- The
Urgency of Change
GIẢI TRỪ
PHIỀN MUỘN
Các bạn ạ, nếu các bạn
đã lắng nghe tiếng nói của nội tâm, thì diễn giả chỉ còn là cái gương
để các bạn thấy rõ con người thật sự của các bạn, thấy chính các
bạn, không có gì che mờ. Nếu các bạn đã tự thấy mình một cách rõ ràng, như thực
tế các bạn là như thế, thì các bạn có thể liệng bỏ cái gương, đập bể nó đi. Cái
gương không quan trọng. Nó không có giá trị gì cả. Cái có giá trị là, qua tấm
gương đó, các bạn nhìn thấy chính các bạn, rõ ràng minh bạch, như thực tế
các bạn là như thế, về sự nhỏ mọn, sự hẹp hòi, sự tàn bạo, về những nỗi lo lắng
bồn chồn, những điều sợ hãi. Khi các bạn đã bắt đầu hiểu thấu về mình, từ đó,
các bạn sẽ tiến sâu vào những vấn đề vượt quá mọi sự suy lường.
Nhưng các bạn phải tự
nhấc bước chân đầu tiên. Và sẽ không có ai nhấc lên giùm các bạn cái bước ấy
được.
Cùng nhau chúng ta
trầm tư, cùng nhau chúng ta nhẹ bước trên con đường nhỏ tịch mịch, tĩnh lặng và
đầy vẻ đẹp. Có người thắc mắc rằng đẹp là cái gì. Có thể là khi bạn nhìn pho
tượng, bức tranh hoặc cái đầu đẹp hiền từ của đức Phật trong viện bảo tàng,
hoặc trong nhà, và bạn ca ngợi sao kỳ diệu thế. Nhưng đằng sau những lời ca
ngợi, đằng sau những đường nét, cấu trúc của bức tranh, những cái bóng,
sự hài hòa, vẻ đẹp là cái gì? Phải chăng là từ cách mà bạn nhìn nó? Phải chăng
nó ở trong bức tranh? Phải chăng nó ở nơi gương mặt của một người?
Khi bạn thấy phong
cảnh kỳ diệu của dẫy núi hiện lên trên nền trời xanh, với chiều sâu thăm thẳm
của thung lũng và với đỉnh nhọn vút lên đầy tuyết phủ, khi bạn chiêm ngưỡng
toàn cảnh tuyệt diệu đó, thì, trong một thoáng, bạn quên luôn cả chính bạn.
Cảnh núi non mênh mông vĩ đại biết bao, ngời sáng một cách dị thường biết bao
dưới ánh nắng ban mai rực rỡ chiếu trên chóp đỉnh cao nhất, khiến cho cả
tâm hồn bạn như lặng đi trước vẻ đẹp hùng vĩ. Và trong một thoáng, bạn quên
ngay cả chính mình, quên hết những nỗi phiền muộn; quên luôn vợ bạn, chồng bạn,
các con bạn, quê hương bản quán của bạn. Bạn bị cuốn hút vào toàn cảnh bằng cả
thân và tâm, hoà nhập không chút mâu thuẫn, phân ly nào. Cảnh tượng rực rỡ xuất
hiện trước mắt với vẻ đẹp hùng vĩ, nguy nga, khiến cho ý tưởng về bản ngã, về
cái "tôi", trong phút giây đã bị gạt lùi qua bên.
Nhìn vầng trăng non
kia, mong manh, mới vươn lên, đơn giản lạ thường. Thế rồi người ta nẩy ra cảm
nghĩ, rằng mục đích của ngôn luận là gì nhỉ? Mụcđích của đọc sách, hội họp, mục
đích của tất cả mọi chuyện xẩy ra này là gì khi mà người ta không thể ngắm nhìn
một vật đơn giản cho rõ ràng, với tình cảm trìu mến say sưa, hồn nhiên, một
chuyện đơn giản thôi, để bước vào cuộc đời vốn đầy phức tạp bằng tấm lòng đơn
sơ, thuần khiết, không đem theo mớ tri kiến đã tích lũy từ quá khứ cùng với
những tập quán của chúng ta?
Hãy sống trọn vẹn với
cái giây phút mênh mông của cuộc đời ấy, vào chính cái lúc mà đầu óc hoàn toàn
trống vắng, giản đơn, không chút vướng bận, với cái tâm linh hoạt, sống động,
đầy năng lực cùng với sự trong sáng và mộc mạc.
Krishnamurti – Total
Freedom
Danny Việt dịch
ĐƠN GIẢN
và KHIÊM TỐN
Khi chúng ta định lên
án hoặc bào chữa chuyện gì, hoặc khi tâm trí chúng ta cứ lao xao tính toán, suy
nghĩ liên miên không ngừng, thì chúng ta không thể nhận xét sự việc một cách
sáng suốt được nữa; do đó, chúng ta không còn nhìn rõ được cái đang là,
-- cái thực tế đang hiện hữu --; chúng ta chỉ nhìn thấy những sự kiện do chính
ý muốn của chúng ta đã tạo nên được phóng chiếu mà thôi.
Mỗi chúng ta đều mang
trong lòng cái hình ảnh mà chúng ta " tưởng rằng chúng ta là như thế
" hoặc " chúng ta nên là như thế ", chính cái
hình ảnh trong tâm tưởng đó đã ngăn cản không cho chúng ta nhìn thấy được
"con người thật" của chúng ta.
Nhìn mọi sự một cách
đơn giản là một trong những điều khó khăn nhất trần đời. Chính vì đầu óc chúng
ta quá phức tạp mà chúng ta đã mất đi cái giá trị của sự đơn giản trong đời
sống. Tôi không có ý nói về sự đơn giản trong y phục hoặc thực phẩm, thí dụ như
chỉ đóng một cái khố , hoặc phá vỡ kỷ lục về nhịn ăn, hay là bất cứ loại trò
trẻ vô nghĩa nào mà các bậc "thánh sống" dày công tu dưỡng, mà là cái
đơn sơ khiến cho chúng ta có thể nhìn trực tiếp vào các sự việc mà không có nỗi
sợ hãi -- có thể nhìn vào chính bản thân để thấy "sự thật chúng ta là như
thế " mà không có bất cứ méo mó, biến dạng nào , khi chúng ta dối
trá, dám công nhận sự thật là chúng ta đã dối trá, không bao che hoặc trốn chạy
sự thực.
Lại nữa, để có thể
hiểu thấu được chính bản thân, chúng ta còn cần phải rất khiêm tốn. Nếu chúng
ta khởi đầu bằng câu: "Tôi đã biết rõ tôi", thế là bạn đã tự chấm dứt
công cuộc tự tìm hiểu về bản thân bạn, hoặc nếu bạn cho là: "Chẳng có
nhiều nhặn gì đáng để phải tìm hiểu về "tôi", chẳng qua
"tôi" đây chỉ là một mớ ký ức, tư tưởng, kinh nghiệm và truyền thống,
tập quán", như thế thì bạn cũng đã không còn tự nghiên cứu bản thân bạn
nữa rồi. Ngay cái giây phút mà bạn thấy mình đã thành tựu được điều gì đó, là
bạn đã mất đi cái phẩm chất của sự hồn nhiên và khiêm tốn; cái giây phút mà bạn
có được một kết luận hoặc bắt đầu dùng kiến thức để khảo sát vấn đề thì, thế là
hết, bạn đã đem sự sống tươi mát chuyển dịch sang thành dạng cũ kỹ già nua.
Nếu bạn không có chỗ để bám trụ, không tin chắc vào
đâu, không có thành quả đã đạt được, như thế là bạn có tự do, để quan sát, để gặt hái. Và khi mà bạn nhìn
mọi sự bằng cái nhìn tự do, khai phóng, bạn sẽ thấy chúng luôn luôn linh hoạt,
mới mẻ trong dòng sống. Một người mà cứ tin chắc vào những hiểu biết đã có của
mình, cho đó là chân lý tuyệt đối, là một người không còn sống nữa.
Nhưng làm sao để chúng
ta có được tự do để quan sát, tìm hiểu, trong khi ngay từ giây phút lọt lòng mẹ
đến giây phút nhắm mắt lìa đời, đầu óc chúng ta đã bị hun đúc bằng một nền văn
hóa cá biệt trong khuôn khổ hạn hẹp của cái "tôi"? Hàng biết
bao nhiêu thế kỷ, chúng ta đã bị nhồi ép bằng những tư tưởng về quốc gia dân
tộc, tầng lớp, giai cấp, truyền thống, tôn giáo, ngôn ngữ, giáo dục, văn
chương, nghệ thuật, phong tục, tập quán, được truyền bá bằng mọi cách, gây áp
lực bằng kinh tế, bằng thực phẩm chúng ta ăn, bằng bầu không khí chúng ta sống,
bằng tình gia đình, bạn bè, bằng kinh nghiệm -- tất cả mọi nguồn ảnh hưởng mà
bạn có thể nghĩ tới -- và vì thế các phản ứng của chúng ta đối với mọi vấn đề
đều đã bị qui định theo những điều kiện trong môi trường sống của chúng ta.
Krishnamurti -- Freedom
from the Known
TẠI SAO
CHÚNG TA LỆ THUỘC ?
- Tại sao chúng ta lệ
thuộc? Về tinh thần, từ trong nội tâm, chúng ta lệ thuộc vào một niềm tin, vào
một hệ thống, vào một triết thuyết. Chúng ta xin người khác chỉ cho cách hành
xử. Chúng ta đi tìm thầy dạy chúng ta đường lối sống để đạt được chút hy vọng,
hạnh phúc. Cho nên luôn luôn chúng ta, không phải sao, tìm mọi cách để bị lệ
thuộc, để được che chở. Liệu tâm trí có thể nào tự giải thoát ra khỏi cái tinh
thần lệ thuộc này chăng? Điều đó không có nghĩa là đầu óc phải giành độc lập -
làm vậy thì cũng chỉ là một phản ứng đối với sự lệ thuộc. Chúng ta không nói về
độc lập, về tự do, về giải thoát khỏi một tình trạng cá biệt. Nếu chúng ta có
thể tìm hiểu mà không để tâm trí rơi vào tình trạng lẩn quẩn với phản ứng trước
những chuyện lệ thuộc cá biệt, thì chúng ta có thể khai triển vấn đề sâu xa
hơn.
Chúng ta chấp nhận sự
cần thiết của lệ thuộc, cho rằng không thể tránh được điều đó. Chúng ta chưa hề
bao giờ đề cập tới toàn bộ vấn đề, rằng tại sao mỗi người chúng ta lại cứ phải
đi tìm một loại lệ thuộc nào đó để chui vào. Phải chăng thật ra từ đáy lòng,
chúng ta mong mỏi một sự che chở, vĩnh viễn? Trong tình trạng bối rối, chúng ta
mong có ai đó giúp chúng ta thoát ra khỏi được hoàn cảnh bối rối đó. Thành ra
chúng ta luôn luôn quan tâm đến chuyện làm thế nào để trốn thoát, hoặc tránh
khỏi cái tình trạng đang hiện hữu của mình. Trong quá trình tìm cách lảng
tránh cái tình trạng đó, chúng ta buộc lòng phải chế ra một vài loại lệ thuộc
nào đó, rồi ra sẽ trở thành có uy quyền đối với chúng ta. Nếu chúng ta nương
dựa vào người khác để được được che chở, để nội tâm được an lạc, thì rồi ra cái
sự lệ thuộc đó sẽ đưa tới cho chúng ta vô số vấn đề phiền phức, rồi thì chúng
ta sẽ phải giải quyết những vấn đề đó - vấn đề của sự dính mắc. Nhưng chúng ta
không bao giờ đặt câu hỏi, chúng ta không bao giờ thắc mắc về chính cái vấn đề
của sự lệ thuộc. Có thể nếu chúng ta thật là thông minh, và rất tỉnh táo,
nghiên cứu thẳng vào vấn đề này, chúng ta sẽ thấy sự lệ thuộc chẳng phải là vấn
đề -- đó chẳng qua chỉ là cách trốn tránh một vấn đề sâu xa hơn mà
thôi...
Chúng ta biết là chúng
ta lệ thuộc - vào mối liên hệ của chúng ta với mọi người, hoặc vào
quan niệm sống, hoặc vào một hệ tư tưởng. Tại sao vậy?
Thật ra, tôi không
nghĩ rằng bản thân sự lệ thuộc là vấn đề. Tôi nghĩ rằng có nhân tố sâu sắc hơn
đã khiến cho chúng ta lệ thuộc. Và nếu như chúng ta có thể đưa vấn đề ra ánh
sáng, thì cả sự lệ thuộc và sự phấn đấu để giải thoát, đều sẽ chỉ còn là chuyện
nhỏ. Như thế, mọi vấn đề phát sinh từ chuyện lệ thuộc sẽ tiêu tan.
Vậy thì, vấn đề sâu xa
hơn là gì? Phải chăng là trong tâm có sự chán ghét, sợ hãi cái ý nghĩ là đang
phải sống đơn độc? Thế liệu cái tâm có biết rõ được tình trạng mà nó lẩn tránh
đó chăng?
Cho nên, khi nào mà
cái cảm giác đơn độc chưa được thâm hiểu, cảm nhận, xuyên thấu, hóa giải -- tùy
ý bạn muốn dùng từ ngữ nào -- khi mà cái cảm giác cô đơn còn tồn tại, thì sự lệ
thuộc là điều không thể tránh khỏi, người ta sẽ không thể được tự do, giải thoát,
người ta sẽ không thể tự tìm ra cái gì là sự thực, là chân lý, là tôn
giáo, là Đạo.
Krishnamurti -- The
Book of Life
TÔI SỢ
CHẾT
Hỏi :
- Tôi sợ chết. Chết là
gì, tôi phải làm sao để hết sợ chết?
Krishnamurti đáp:
- Đặt câu hỏi thì rất
dễ. Nhưng về cuộc đời, không có câu trả lời đơn giản "có" hoặc
"không". Tuy nhiên, bộ óc của chúng ta đòi hỏi phải có lời giải đáp
"có" hoặc "không", bởi vì nó đã được đào tạo trong cung
cách là nên nghĩ về cái gì chứ không phải là nên hiểu và nhìn sự việc như thế nào.
Khi chúng ta nói: " Chết là gì, và làm thế nào để cho tôi có thể không sợ
chết?", là chúng ta muốn tìm ra những cách thức, chúng ta muốn có những sự
xác định rõ ràng, nhưng chúng ta chưa bao giờ biết cách suy nghĩ như thế nào về
vấn đề đã được đặt ra.
Hãy thử coi liệu chúng
ta có thể cùng nhau tìm ra giải đáp cho vấn đề này chăng.
Vậy chết là gì? Chết
là ngưng sống, là chấm dứt cuộc đời, phải vậy không? Chúng ta biết rằng mọi sự
đều có kết thúc, hằng ngày chúng ta nhìn thấy điều đó chung quanh chúng ta.
Nhưng mà tôi không muốn chết, thế là có cái "tôi" vào cuộc: "Tôi
đang suy nghĩ, tôi đang cảm nhận, kiến thức của tôi", về những cái mà
"tôi" đã thực hiện, về những điều mà "tôi" đã chống đối, về
tính chất, về kinh nghiệm, về kiến thức, về sự chính xác, về năng lực, về thẩm
mỹ. Tôi không muốn tất cả những điều này chấm dứt. Tôi muốn tiếp tục. Tôi
chưa hoàn tất mọi sự. Tôi không muốn đi đến kết thúc. Hẳn là phải có sự kết
thúc. Hiển nhiên là tất cả các bộ phận có chức năng vận hành đều sẽ đến lúc
phải ngưng làm việc. Nhưng trí não của tôi không chấp nhận chuyện đó. Cho nên
tôi bắt đầu tạo ra một niềm tin, một sự việc có tính cách tiếp nối, liên tục.
Tôi muốn chấp nhận điều này bởi vì tôi đã có đầy đủ những lập luận, đã thấm
nhuần cái quan niệm về một sự tiếp nối, rằng có sự tái sinh.
Chúng ta không thảo
luận về chuyện "có hay không có sự tiếp nối", hoặc "có hay không
có sự tái sinh". Đó không phải là vấn đề. Vấn đề là ngay như bạn có những
niềm tin đó, bạn vẫn sợ hãi. Bởi vì, xét cho cùng thì cũng chẳng có cái gì là
chắc chắn cả, chuyện đời luôn luôn bấp bênh. Luôn luôn có nỗi niềm băn khoăn âm
thầm này đi theo sau sự tin tưởng.
Vì thế cái tâm, vốn
biết có sự chấm dứt, nên bắt đầu cảm nhận nỗi sợ hãi, mong mỏi càng được sống
lâu bao nhiêu càng tốt, tìm tòi những cách để giải tỏa bớt nỗi ám ảnh nặng trĩu
trong lòng. Rồi thì tâm trí cũng tin về một sự tiếp nối sau khi chết.
Sự tiếp nối, sự liên
tục, là gì? Phải chăng sự tiếp nối, sự liên tục, hàm ý thời gian, không
phải chỉ là cái thời gian trôi chảy theo thứ tự trên đồng hồ, mà là quy trình
thời gian tâm lý, trong nội tâm. Tôi muốn sống. Vì tôi nghĩ rằng dây là một quy
trình tiếp nối, liên tục, không có chuyện chấm dứt nào hết, cho nên tâm trí tôi
luôn luôn tìm cách tự thâu thập thêm trong niềm hy vọng về một sự tiếp nối,
liên tục. Mà cái tâm suy nghĩ thì chịu sự chi phối của thời gian, cho nên nếu
nó cảm nhận được sự liên tục của thời gian, thì nó không thấy sợ hãi.
Bất tử, bất diệt là
gì? Sự tiếp nối, liên tục của cái "tôi", -- cái "tôi"
trên một bình diện cao hơn -- là cái mà chúng ta gọi là bất tử, bất diệt.
Bạn hy vọng cái "tôi" sẽ tiếp tục. Cái "tôi" vẫn còn nằm
trong lãnh vực của sự suy nghĩ, không phải sao? Bạn đã nghĩ về nó. Cái
"tôi", dù có thể bạn nghĩ rằng nó thuộc hàng thượng đẳng cỡ nào, thì
cũng vẫn là sản phẩm của tư tưởng, vì thế, đã bị điều kiện hóa, nẩy sinh từ
thời gian.
Xin đừng chỉ đơn giản
đuổi theo sự lý giải qua lời nói của tôi mà phải nhìn thấu đáo toàn thể ý nghĩa
của vấn đề. Thật ra thì bất tử, bất diệt, không phải là sản phẩm của thời gian,
do đó, nó không thoát thai từ tâm tưởng, không phải là món đồ có được từ những
niềm mơ ước, từ những sự đòi hỏi, từ những nỗi sợ hãi và từ lòng
khao khát của tôi.
Người ta thấy rõ là
cuộc đời phải có sự kết thúc, bất thình lình kết thúc. Cái gì đã sống ngày hôm
qua, chưa chắc hôm nay còn sống, và cái đang sống hôm nay chưa chắc ngày mai
còn sống. Đời sống tất nhiên là phải có lúc kết thúc. Đó là sự thực, nhưng
chúng ta không chấp nhận nó. Bạn cũng khác với chính bạn ngày hôm qua. Khác về
mọi sự, khác về những sự tiếp xúc, phản ứng, cưỡng bách, chống cự, ảnh hưởng,
thay "cái đã là", hoặc chấm dứt nó.
Một con người thực sự
sáng tạo thì phải có kết thúc, và anh ta chấp nhận điều đó. Nhưng chúng ta
không chấp nhận sự kết thúc bởi vì tâm trí chúng ta đã quá quen với cái quy
trình của sự tích lũy. Chúng ta nói: "Tôi đã học được điều đó hôm
nay", "Tôi đã biết được điều đó hôm qua". Chúng ta suy nghĩ chỉ
trong dạng thời gian, trong sự tiếp nối, liên tục. Nếu chúng ta không suy nghĩ
trong dạng liên tục, tiếp nối, thì sẽ có chấm dứt, sẽ có chết, và chúng ta sẽ
nhìn rõ mọi sự, "đơn giản như chính chúng là như thế ", trực
tiếp.
Chúng ta không chịu
chấp nhận cái thực tế hiển nhiên của sự chấm dứt vì đầu óc chúng ta luôn tìm
kiếm, trong tính cách liên tục, tiếp nối, sự an toàn trong gia đình, tài sản,
nghề nghiệp và công việc chúng ta thực hiện. Cho nên chúng ta lo sợ.
Chỉ có cái tâm được
giải thoát khỏi thói hăm hở tìm cầu sự bảo đảm an toàn, giải thoát khỏi khát
vọng có được sự liên tục, khỏi cái qui trình của sự tiếp nối, khi đó nó sẽ biết
thế nào là bất diệt, bất tử.
Nhưng với cái đầu óc
cứ mải miết tìm tòi sự bất tử cho bản thân, cái "tôi" cứ tìm
cầu sự tiếp tục, sẽ không bao giờ biết chết là gì; cái loại đầu óc ấy sẽ không
bao giờ biết nổi ý nghĩa của sợ hãi và chết, để vượt qua được.
Krishnamurti -- On
Living and Dying
VỀ THÓI NGỒI LÊ MÁCH
LẺO
Hỏi
- Ngồi lê mách lẻo có
cái giá trị trong sự phát hiện bản thân, nhất là trong sự phát giác về người
khác. Một cách nghiêm túc, tại sao lại không dùng sự ngồi lê mách lẻo để khám
phá "cái đang là", thực tại. Dù từ ngữ "ngồi lê mách lẻo"
đã bị nhiều thế hệ chỉ trích, nhưng điều đó không làm cho tôi phải ớn lạnh, sợ
hãi nó.
Krishnamurti đáp :
- Tôi thắc mắc tại sao
chúng ta lại có thói ngồi lê mách lẻo? Không phải vì lý do nó phơi bày chuyện
của những người khác cho chúng ta thấy. Và tại sao chúng ta lại muốn chuyện của
những người khác bị phơi bày ra? Tại sao bạn lại muốn biết chuyện của những
người khác? Tại sao lại có vấn đề đặc biệt quan tâm đến người khác này?
Trước hết, tại sao
chúng ta ngồi lê mách lẻo? Đây là một dạng của nội tâm không an lạc, phải vậy
không? Cũng giống như lo
lắng, ngồi lê mách lẻo biểu thị một tâm trí bồn chồn, không yên tịnh. Tại sao
lại khát khao xen vào chuyện người khác, muốn biết người khác làm gì, nói gì?
Một tâm trí quá nông cạn, hời hợt, thì mới ngồi lê đôi mách, phải vậy không? -- một đầu óc tò mò xoi mói được hướng
dẫn sai lầm. Người hỏi dường như nghĩ rằng vì thấy anh ta quan tâm tới
họ, những người khác sẽ bày tỏ với anh ta về những công việc, tư tưởng và ý
kiến của họ. Nhưng liệu chúng ta có hiểu được người khác khi mà chúng ta không
tự hiểu nổi chính mình chăng? Nếu chúng ta không biết cung cách suy nghĩ, hành
động và cư xử của chính mình thì liệu chúng ta có thể phê phán người khác được
chăng? Tại sao lại có cái sự kiện đặc biệt xen vào chuyện của người khác này?
Phải chăng sự thèm muốn moi móc coi thế nhân nghĩ gì, cảm tưởng ra sao, ngồi lê
mách lẻo thế nào chính là một cách lẩn tránh? Phải chăng điều đó cho chúng ta
cơ hội lẩn tránh chính bản thân chúng ta? Phải chăng đồng thời nó cũng tiềm ẩn
sự khao khát xâm lấn vào đời sống của những người khác? Không dính dáng, xen
lấn vào chuyện người khác thì phải chăng cuộc đời của chính chúng ta không đủ
khó khăn, không đủ rắc rối, không đủ đau khổ hay sao? Chúng ta lại còn có thì
giờ để mà nghĩ về những người khác với cung cách xấu xa, tàn nhẫn, ngồi lê mách
lẻo như vậy hay sao? Tại sao chúng ta làm vậy? Bạn biết đó, mọi người đều làm
thế. Trên thực tế, hầu như mọi người đều ngồi lê mách lẻo về chuyện người khác.
Tại sao vậy?
Tôi nghĩ rằng, trước
nhất, chúng ta ngồi lê mách lẻo về người khác vì chúng ta không quan tâm một
cách thích đáng đến tiến trình tư tưởng và hành động của chính bản thân. Chúng
ta muốn coi người khác hành xử ra sao để -- nói một cách dễ nghe -- chúng ta
bắt chước họ. Thông thường, khi chúng ta ngồi lê mách lẻo là chúng ta chỉ trích
người khác, nhưng mà thôi thì chúng ta cứ diễn giải một cách độ lượng, có
thể là chúng ta muốn bắt chước người khác. Nhưng sao chúng ta lại muốn bắt
chước người khác? Phải chăng điều đó nói lên sự quá nông cạn của chúng ta? Đó
là từ cái đầu óc quá sức ù lì muốn có điều hứng thú nên phải vọng ra khỏi nội
tâm để mong đạt được. Nói cách khác, phải chăng ngồi lê đôi mách là một hình
thức của cảm giác, ở đó, chúng ta đắm chìm trong sự thỏa mãn? Có thể đó là một
loại cảm giác khác biệt, nhưng luôn luôn vẫn là từ niềm khao khát tìm kiếm sự
thích thú, sự giải trí.
Nếu thực sự đi sâu vào
vấn đề này, rồi trở về nội tâm, người ta sẽ nhận ra rằng bản thân thật là quá
hời hợt, nông cạn, cho nên mới tìm kiếm sự thích thú từ bên ngoài qua hành động
bàn tán chuyện thị phi về người khác.
Lần tới, khi bạn đang
ngồi lê mách lẻo chuyện người, nếu chợt tỉnh, nhận ra được, hãy quay vào nội
tâm, nó sẽ chỉ cho bạn rất nhiều về chính bản thân bạn. Đừng che dấu bằng cách
nói rằng bạn chỉ muốn tìm hiểu về người khác. Bàn tán chuyện thị phi, ngồi lê
mách lẻo biểu thị nỗi bất an, một cảm giác khích động, một sự nông cạn, một sự
thiếu chân thành quan tâm sâu sắc đến kiếp nhân sinh, vốn không liên quan gì
tới thói ngồi lê đôi mách.
Vấn đề tiếp theo là
làm sao để chấm dứt thói ngồi lê mách lẻo? Đây là vấn đề kế tiếp, phải vậy
không? Khi bạn trực nhận ra rằng bạn đang ngồi lê mách lẻo, làm thế nào bạn
ngưng lại được? Nếu nó đã trở thành một thói quen, một tật xấu xẩy ra liên tục,
ngày này qua ngày khác, làm thế nào bạn có thể ngưng lại được?
Câu hỏi đó đã nảy ra
trong tâm bạn chưa?
Khi bạn biết là
bạn đang ngồi lê mách lẻo, khi bạn ý thức được là bạn đang ngồi lê đôi mách,
nhận ra được tất cả những ẩn ý của sự bép xép chuyện thị phi, lúc đó bạn có
tự nhủ: "Làm thế nào mình ngưng lại được nhỉ?" chăng? Không
phải là thói xấu đó tự ngưng lại ngay khi bạn trực nhận ra được là bạn đang
ngồi lê đôi mách đó sao? Chữ "làm thế nào" không
hề xuất hiện. Chữ "làm thế nào" chỉ xuất hiện khi bạn không
tỉnh thức, và thói ngồi lê mách lẻo là biểu hiệu của sự thiếu tỉnh thức. Bạn
hãy tự thể nghiệm thì sẽ biết, lần tới, khi bạn đang bàn chuyện thị phi về
người khác, ngay khi bạn trực nhận ra là bạn đang ngồi lê mách lẻo, thì cái
miệng lưỡi bẻo lẻo sẽ chấm dứt ngay lập tức. Sự chấm dứt này không đòi hỏi phải
có hành động của ý chí. Tất cả điều cần thiết là phải tỉnh giác, ý thức được
điều mình đang nói và nhìn rõ ẩn ý của nó. Bạn không phải kết án hoặc bào chữa
cho thói ngồi lê mách lẻo. Chỉ cần tỉnh giác nhận ra nó rồi bạn sẽ thấy nó biến
đi nhanh tới cỡ nào; bởi vì nó hé mở cho ta thấy cung cách hành xử, phẩm hạnh,
chiều hướng suy tư của chính ta; trong sự bộc lộ này, ta nhận ra được bản thân,
điều đó còn quan trọng hơn nhiều so với sự ngồi lê mách lẻo về chuyện người
khác đang làm gì, đang nghĩ gì, họ đang cư xử ra sao.
Phần đông chúng ta,
những độc giả nhật báo, trong tâm trí thường là đầy nhóc những chuyện thị phi
trên thế giới. Tất cả đều là một cách trốn tránh sự phải đối diện với bản thân,
với sự nhỏ nhen, sự xấu xa của chính mình. Chúng ta nghĩ rằng với sự quan tâm
một cách hời hợt đến những sự kiện xẩy ra trên thế giới, chúng ta ngày càng trở
nên thông thái, tăng thêm khả năng xử thế trong đời sống của chính chúng ta.
Thật ra thì tất cả những chuyện này cũng chỉ là những cách cho chúng ta lẩn
tránh khỏi phải trực diện với bản thân, phải vậy không? Từ đáy lòng,
chúng ta thật là rỗng tuếch, nông cạn, chúng ta sợ hãi phải nhìn thẳng vào sự
thật của chính chúng ta. Nội tâm chúng ta quá thấp thỏi cho nên sự ngồi lê mách
lẻo đã đóng vai trò của một hình thức tiêu khiển phong phú, khoái trá, một cách
thoát ly thực tế của bản thân. Chúng ta cố gắng lấp đầy khoảng trống đó
bằng kiến thức, bằng những nghi lễ, bằng thói ngồi lê mách lẻo, bằng những buổi
hội họp đông đảo -- bằng vô số cách trốn tránh, khiến cho sự thoát ly bản thân
trở thành điều tối quan trọng chứ không phải là sự thâm nhập được cái đang
"là", thực tại. Thâm nhập cái đang "là" đòi hỏi một
sự tập trung tâm ý; biết rằng mình trống rỗng, mình đau khổ, phải cần đến
sự quan tâm sâu xa chứ không phải là sự lẩn tránh, nhưng phần lớn chúng
ta lại thích các hình thức lẩn tránh này, bởi vì nó dễ chịu, khoan khoái hơn.
Ngoài ra, khi chúng ta biết rõ về mình, cũng khó cho chúng ta khi phải đối phó
với bản thân, đó là một trong những vấn đề mà chúng ta phải trực diện. Chúng ta
không biết phải làm gì. Khi tôi biết rằng nội tâm tôi trống rỗng, rằng tôi đang
khổ sở, rằng tôi đang đau đớn, tôi không biết phải làm gì, phải hành xử cách
nào. Cho nên cực chẳng đã, người ta phải ứng dụng mọi cách để thoát ly.
Câu hỏi là, phải làm
gì?
Hiển nhiên, chắc chắn
là người ta không thể bỏ chạy; vì đó là cung cách vớ vẩn và trẻ con nhất. Nhưng
khi bạn trực diện với con người thật của bạn, bạn phải làm gì? Trước nhất, bạn
có thể nào không phủ nhận hoặc biện hộ mà chỉ giữ nguyên tình trạng, bạn vốn
thế nào thì cứ để y vậy? -- điều này vô cùng khó khăn vì cái tâm luôn
luôn tìm tòi sự giải thích, sự buộc tội, sự nhận dạng. Nếu nó lại không
làm điều gì trong những chuyện này, mà chỉ giữ nguyên trạng thái, thì nó lại có
vẻ như là đã chấp nhận cái gì đó. Nếu tôi chấp nhận rằng da tôi màu nâu,
thế là mọi sự chấm dứt; nhưng nếu tôi lại khao khát đổi màu da cho sáng hơn,
thế là có chuyện lôi thôi phiền toái xẩy ra. Chấp nhận mọi sự như là nó đang
"là", là điều khó khăn nhất; người ta chỉ có thể làm điều đó khi
không có sự trốn tránh, và lên án hoặc biện minh là một hình thức trốn
tránh.
Vì thế, khi người ta
hiểu được toàn bộ quá trình dẫn đến thói ngồi lê mách lẻo và khi người ra nhận
ra được sự ngu xuẩn, độc ác và tất cả những điều bao gồm trong chuyện ngồi lê
mách lẻo, người ta sẽ còn lại được tự thể, như nó vốn là như thế. Và chúng ta
thường giải quyết chuyện ngồi lê mách lẻo này bằng cách hoặc là tiêu diệt nó
hoặc là thay đổi nó bằng điều khác. Nếu chúng ta không làm những điều đó, nhưng
chỉ tiếp cận nó với sự thấu hiểu, sống trọn vẹn với nó, rồi chúng ta sẽ
thấy nó không còn là điều khiến cho chúng ta phải kinh hãi nữa.
Khi đó mới có khả năng
chuyển hóa được vấn đề.
Krishnamurti -- The
First and Last Freedom
NIỀM HÃNH DIỆN
Hỏi :
-- Tại sao chúng ta
cảm thấy kiêu hãnh khi thành công?
Krishnamurti đáp:
-- Trong sự thành
công, quả là có niềm kiêu hãnh sao? Mà thành công là gì? Có bao giờ bạn
nghĩ tới chuyện thành công như là một văn sĩ, thi sĩ, họa sĩ,
thương gia hoặc chính trị gia thì thế nào không? Từ nội tâm, bạn cảm thấy đã
đạt được phần nào sự tự chế, trong khi những người khác không có khả năng đó,
hoặc là bạn thành công trong khi những người khác thất bại; bạn cảm thấy
mình hay hơn người khác, bạn thấy mình là người thành đạt, được kính trọng,
được mọi người chiêm ngưỡng, coi bạn như một mẫu mực để họ noi theo --
tất cả những cái đó chỉ ra điều gì? Lẽ tất nhiên, khi bạn có cảm giác này là có
ngay niềm kiêu hãnh: "Tôi đã làm được việc này việc nọ, tôi là nhân vật quan
trọng". Từ bản chất, ý nghĩ về "cái tôi" là một niềm tự
hào. Rồi niềm tự hào đó phát triển theo với mức độ thành công, người ta cảm
thấy hãnh diện rằng mình rất quan trọng so với người khác. Sự tự so sánh bạn
với người khác này cũng hiện hữu khi bạn muốn sống theo khuôn mẫu, theo tiêu
chuẩn lý tưởng, nó cho bạn niềm hy vọng, sức mạnh, mục tiêu, nghị lực, tất cả
chỉ tăng cường thêm cho "cái tôi", cái cảm giác thú vị rằng bạn là
người quan trọng hơn kẻ khác rất nhiều; và cái cảm giác đó, cái sự thú vị đó,
chính là khởi đầu của sự hãnh diện.
Hãnh diện đưa tới thói
kiêu căng, tự phụ, sự bành trướng của "cái Tôi", cái "bản
ngã". Bạn hãy quan sát điều này nơi những người nhiều tuổi hơn và nơi
chính bạn. Khi bạn vượt qua được một kỳ thi và có cảm tưởng là bạn hơi thông
minh hơn người khác, thì bạn có ngay một cảm giác vui thích. Cũng như khi bạn
vượt trội trong cuộc tranh luận, hoặc khi bạn cảm thấy bạn có thân thể cường
tráng, đẹp đẽ hơn, là ngay tức khắc, bạn cảm thấy thế thượng phong của bạn.
Cái cảm giác về sự
quan trọng của "cái Tôi", cái "bản ngã" này, tất nhiên là
sẽ nẩy sinh ra sự xung đột, bất an, nhức nhối khó chịu trong lòng, bởi vì bạn
cứ phải luôn luôn cố gắng duy trì cái sự quan trọng, hơn người của bạn.
Hỏi :
-- Làm thế nào để
chúng ta thoát khỏi được cái thói kiêu hãnh?
Krishnamurti đáp :
-- Nếu nãy giờ bạn
theo dõi sát lời giải đáp cho câu hỏi trước thì bạn đã hiểu được cách làm thế
nào để thoát khỏi được thói kiêu hãnh, và bạn sẽ giải thoát ra khỏi nó được.
Nhưng bạn lại chỉ quan tâm tới chuyện làm sao để đặt một câu hỏi tiếp theo,
phải vậy không? Cho nên bạn đã không "nghe". Nếu bạn lắng nghe những
điều đang được phát biểu, bạn sẽ tự tìm ra được chân lý.
Thí dụ như tôi cảm
thấy hãnh diện vì tôi đã hoàn thành được điều gì đó, tôi đã được làm Hiệu
Trưởng, tôi đã được sang nước Anh hoặc nước Mỹ, tôi đã làm được những việc lớn,
hình tôi được đăng trên các báo, vân vân và vân vân. Trong niềm hãnh diện rất
mực như thế, tôi tự hỏi :" Làm thế nào để mình có thể giải thoát ra khỏi
cái niềm kiêu hãnh này nhỉ?"
Vậy thì, tại sao tôi
lại muốn giải thoát khỏi sự kiêu hãnh? Đó là câu hỏi quan trọng, không phải là
làm thế nào để được giải thoát . Nguyên nhân muốn giải thoát khỏi sự kiêu hãnh
là gì, vì lý do gì, cái gì đã thúc đẩy khiến cho tôi muốn thoát khỏi sự kiêu hãnh.
Có phải vì tôi thấy sự kiêu hãnh làm hại tôi, làm cho tôi khó chịu, tinh thần
mất an lạc không? Nếu đó là nguyên nhân thì sự cố gắng giải thoát khỏi niềm
kiêu hãnh lại là một dạng khác của kiêu hãnh, không phải sao? Như thế là tôi
vẫn quan tâm đến chuyện đạt được một cái gì đó. Vì thấy thói kiêu hãnh rất khó
chịu, không tốt đẹp gì cho đời sống tinh thần, nên tôi tự nhủ tôi phải thoát
khỏi tật kiêu hãnh. Thế nhưng, sự kiện "Tôi phải thoát khỏi" thì cũng
mang đầy đủ những động lực thúc đẩy của "Tôi phải thành công". Cái
"Tôi" vẫn là quan trọng, nó là trung tâm điểm của sự cố gắng giải
thoát của tôi.
Cho nên, vấn đề không
phải là làm sao để thoát khỏi thói kiêu hãnh, mà là làm sao để hiểu được cái
bản ngã của chính mình, mà cái bản ngã này thì lại rất vi tế. Năm nay "cái
Tôi" muốn điều này, sang năm nó lại muốn điều kia; rồi đến khi nó thấy khó
chịu, nó lại muốn điều khác. Cho nên, bao lâu "cái Tôi" này còn tồn
tại, thì dù nó kiêu ngạo hay làm như khiêm tốn thì cũng chẳng có ý nghĩa là bao.
Chẳng qua cũng chỉ là khác có cái áo khoác. Khi tôi thích cái áo khoác này, tôi
mặc vào. Rồi qua sang năm, tùy theo ý thích, theo lòng ham muốn của tôi, tôi
khoác cái áo khác.
Điều mà bạn phải thấu
hiểu chính là chuyện "cái Tôi" đã được hình thành cách nào. "Cái
Tôi" được hình thành qua cảm giác về sự thành công với nhiều dạng khác
nhau. Nói thế không có nghĩa là bạn không được hành động, nhưng chính cái cảm
tưởng về sự kiện bạn đang hành động, bạn đang thành đạt, bạn phải không kiêu
hãnh, phải được thấu triệt. Bạn phải thấu triệt cấu trúc của "cái
Tôi", cái bản ngã. Bạn phải tỉnh giác trước những suy nghĩ của chính bạn.
Bạn phải quan sát cung cách cư xử của bạn đối với người làm công cho bạn,
đối với cha, mẹ, thầy giáo. Bạn phải sáng suốt nhận thức được cung cách bạn đối
xử với các bậc bề trên của bạn và với những kẻ thấp kém hơn bạn, đối với những
người bạn kính trọng và với những kẻ bạn coi thường thì như thế nào.
Tất cả những điều đó
sẽ bộc lộ cho bạn biết cách thức "cái Tôi" của bạn hình thành
ra sao. Thấu hiểu "cái Tôi", cái bản ngã, bạn sẽ giải thoát ra
được khỏi "cái Tôi".
Vấn đề là ở đó, không
phải chỉ đơn giản môt câu hỏi "làm sao để thoát khỏi sự kiêu hãnh?".
TÂM TĨNH
LẶNG
Trong suốt cuộc đời,
chúng ta hiếm khi có được những giây phút cô liêu, tịch mịch. Ngay cả những khi
sống một mình, cuộc đời chúng ta cũng tràn ngập với quá nhiều nguồn tác động,
quá nhiều kiến thức, quá nhiều kỷ niệm của những kinh nghiệm chúng ta đã trải
qua, quá nhiều lo âu, đau khổ và mâu thuẫn khiến cho tâm trí chúng ta ngày càng
trì trệ, ngày càng chai lì, hoạt động một cách tẻ nhạt, chán chường.
Có bao giờ chúng ta
được sống đơn độc thanh thoát chăng? Hay chúng ta luôn luôn mang theo bên mình
cả cái đống bùi nhùi của quá khứ?
Có câu chuyện về hai
vị sư , một hôm, trong lúc đi trên con đường từ làng này qua làng khác, hai
người gặp một cô gái ngồi bên bờ sông sụt sùi khóc. Một vị bèn bước tới bên cô,
hỏi:
- Tại sao cô
khóc?
Cô gái đáp:
- Thầy có thấy căn nhà
bên kia sông không? Sáng nay con từ nhà lội sang bên này, không có trở ngại gì,
nhưng bây giờ nước sông dâng lên, con không lội về được mà lại không có ghe
thuyền gì cả.
Vị sư nói:
- Ồ, cô khỏi lo, không
thành vấn đề!
Vừa nói, ông vừa bế
xốc cô ta lên, lội phăng phăng qua sông, bỏ cô xuống bờ bên kia, rồi cùng người
bạn đồng tu tiếp tục lặng lẽ bước.
Vài giờ sau, nhà sư
kia lên tiếng:
- Sư huynh,
chúng ta đã nguyện không đụng vào phụ nữ. Việc sư huynh mới làm là một trọng
tội. Bộ chuyện sờ vào đàn bà làm cho sư huynh vui thú, khoái lạc lắm hay sao?
Thì vị sư đã giúp
cô gái qua sông trả lời:
- Tôi bỏ cô ta lại
phía sau đã hai giờ đồng hồ rồi. Còn sư đệ, chú vẫn mang cô ta theo đấy à?
Chúng ta đều thế cả.
Suốt đời, chúng ta mang theo đủ loại linh tinh, không bỏ chúng lại phía sau.
Chỉ khi nào chúng ta chú tâm vào một vấn đề, giải quyết ngay lập tức, trọn vẹn,
không để dây dưa đến ngày sắp tới, đến phút giây sắp tới, khi đó chúng ta sẽ có
thời gian thanh tịnh, cô tịch. Trong trường hợp đó thì dù chúng ta đang ở trong
căn nhà đông người hoặc trên xe buýt, chúng ta vẫn đang sống trong sự tịch
mịch, trống vắng. Tâm trí trong trạng thái trống vắng đó là tâm trong sáng, hồn
nhiên.
Một nội tâm trong
sáng, trống vắng, là điều vô cùng quan trọng để có thể tự do thoải mái trong
mọi hành động, tự do đi lại, bay nhẩy. Tóm lại, lòng tốt chỉ nẩy nở từ một nội
tâm khoáng đạt, không bị gò bó, cũng như trí tuệ chỉ phát triển khi có tự do.
Chúng ta có thể có tự do về vấn đề chính trị, nhưng nội tâm chúng ta không khai
phóng cho nên chúng ta không có khoảng trống cho tâm hồn. Thiếu khoảng trống
mênh mông, thiếu sự phóng khoáng này trong nội tâm thì không có trí tuệ, không
có phẩm chất giá trị nào có thể hoạt động và phát triển. Khoảng trống mênh mông
và sự tĩnh lặng của tâm hồn thật là cần thiết vì chỉ khi nào tâm trí ở trong
trạng thái cô liêu, tịch mịch, không bị ảnh hưởng, không bị gò ép, không bị
tràn ngập với đầy dẫy những kinh nghiệm linh tinh, thì tâm hồn mới sẵn sàng
tiếp thu được những điều hoàn toàn mới mẻ.
Người ta chỉ có thể
nhận chân sự thật "như là chính nó" khi tâm trí tĩnh lặng và
trong sáng. Mục đích của thiền định ở Đông phương là để đưa tâm trí đến tình
trạng kiểm soát được tư tưởng, cũng như liên tục nhắc lại một lời cầu nguyện để
cho tâm được an tịnh với hy vọng trong tình trạng đó, người ta có thể thấu
suốt, giải quyết được những nỗi đau khổ của kiếp người.
Nhưng trừ phi người ta
đặt được nền móng, đó là giải thoát khỏi sự sợ hãi, khỏi sự đau buồn, lo lắng
và tất cả những vướng mắc mà họ tự quàng vào, tôi không thấy cách nào có thể
làm cho tâm trí thật sự tĩnh lặng.
Krishnamurti --
Freedom from the Know
KHI TÂM HỒN ĐƯỢC KHAI
PHÓNG
Hỏi :
-- Sao ông không giúp
đời bằng cách thực tế mà lại phí thời giờ đi thuyết giảng như vậy?
Krishnamurti đáp :
-- Thế bạn muốn
nói gì khi dùng chữ thực tế? Bạn muốn nói về chuyện mang đến một sự đổi
thay trên thế giới, một sự điều chỉnh hài hòa hơn trong nền kinh tế, một sự
phân phối tài nguyên tốt đẹp hơn, một mối quan hệ thân tình hơn, hay nói một
cách lỗ mãng, là giúp bạn kiếm được việc làm tốt hơn. Bạn muốn thấy có sự đổi
thay trên thế giới, - mọi người thông minh đều muốn, - và bạn muốn có một
phương pháp để làm chuyện đổi thay đó, và vì thế, bạn hỏi tôi tại sao lại phí
thời giờ đi thuyết giảng thay vì làm việc gì đó cho chuyện thay đổi. Vậy xin
hỏi rằng có thật tôi đang làm chuyện phí thời giờ vô ích chăng? Sẽ là chuyện
phí thời giờ thật đấy, nếu tôi giới thiệu một hệ tư tưởng mới để thay đổi hệ tư
tưởng cũ, mẫu mực cũ. Có thể đó là điều bạn muốn tôi làm. Nhưng thay vì chỉ ra
một "cái gọi là đường lối thực tế " để hành động, để sống, để kiếm
việc làm tốt hơn, để tạo ra một thế giới đẹp đẽ hơn, thì việc tìm cho ra cái gì
là chướng ngại vật đã thực sự ngăn cản một cuộc cách mạng toàn diện, không phải
là cuộc cách mạng nửa vời , mà là từ nền tảng, một sự thay đổi quyết liệt, từ
gốc rễ, không chỉ trên quan niệm, lý thuyết suông, đó không phải là điều quan
trọng chăng? Bởi vì những lý tưởng, những niềm tin, những ý thức hệ, những giáo
điều, đều ngăn cản hành động. Thế giới không thể chuyển biến toàn diện, không
thể là một sự đổi thay triệt để, khi mà hành động còn được đặt căn bản trên
quan niệm, bởi vì khi đó hành động chỉ là phản ứng và quan niệm, lý thuyết,
được coi là quan trọng hơn hành động rất nhiều. Một cách chính xác, đây có phải
là chuyện đang xảy ra trên thế giới chăng? Muốn hành động, chúng ta phải tìm ra
điều chướng ngại nó đã cản trở hành động. Nhưng thật ra thì phần lớn chúng ta
không thích hành động, đó là điều gay go của chúng ta. Chúng ta thích bàn cãi,
chúng ta thích thay đổi ý thức hệ này sang ý thức hệ khác, và vì thế, chúng ta
cứ lảng tránh chuyện hành động bằng những lý thuyết suông. Chắc chắn là như thế
thì quá đơn giản rồi, phải vậy không?
Thế giới ngày nay phải
đối diện với rất nhiều vấn đề: nạn nhân mãn, nạn thiếu thực phẩm, sự phân chia
loài người thành nhiều chủng tộc, giai cấp, vân vân. Tại sao không có một nhóm
người ngồi xuống để cùng nhau giải quyết vấn đề chủ nghĩa quốc gia, dân tộc?
Nhưng mà nếu chúng ta muốn trở thành quốc tế hòa đồng trong khi còn bám
chặt lấy tinh thần quốc gia của chúng ta, thì chúng ta lại tạo ra một vấn đề
khác. Và đó là điều phần đông chúng ta đang làm.
Vậy thì bạn thấy đó,
rõ ràng là những điều lý tưởng, những tiêu chuẩn, đã ngăn cản hành động. Một
chính khách, nhà thẩm quyền đầy uy tín, đã nói rằng thế giới có thể sắp xếp lại
để mọi người đều được cung cấp thực phẩm. Vậy tại sao lại không làm được chuyện
đó? Bởi vì có sự mâu thuẫn giữa những quan điểm, những niềm tin và chủ nghĩa
dân tộc. Cho nên, chính những quan niệm đã ngăn cản sự cung cấp đồ ăn cho con
người. Và phần đông chúng ta hiện đang đùa giỡn với những quan niệm mà vẫn cứ
tưởng rằng chúng ta đang tích cực làm cách mạng, tự mê hoặc mình với những từ
ngữ như là thực tế. Điều quan trọng là chúng ta hãy tự giải thoát ra khỏi những quan niệm, khỏi sự
phân biệt chủng tộc, khỏi những niềm tin và giáo điều, từ đó, chúng ta có thể hành động, không phải
nương theo một mẫu mực hoặc một hệ tư tưởng, mà chỉ tùy theo nhu cầu đòi hỏi mà
thôi.
Chắc chắn là việc đi
tìm những sự cản trở, những chướng ngại đã ngăn cản công cuộc này thì không
phải là phí thời giờ, không phải là những chuyện huênh hoang, rỗng tuếch. Điều
bạn nói hiển nhiên là vô nghĩa. Những tư tưởng, niềm
tin, quan điểm chính trị và kinh tế của bạn thật ra đã làm phân hóa giữa con
người với nhau và đưa tới chiến tranh. Chỉ khi nào tâm trí được giải thoát khỏi
những quan niệm và niềm tin thì nó mới có thể hành động một cách công chính
được.
Một nhà ái quốc nặng
lòng với dân tộc, có thể sẽ không bao giờ biết bốn bể đều là anh em (tứ hải
giai huynh đệ) là thế nào, dù anh ta có thể cũng nói về điều đó đấy, nhưng
ngược lại, trong hành động của anh ta, về mặt kinh tế và trong mọi chiều hướng,
đều dẫn tới chiến tranh.
Cho nên chỉ khi nào tâm trí giải thoát khỏi mọi loại khái niệm,
không chỉ hời hợt trên bề mặt, mà là từ nền tảng, thì mới có hành động công
chính và do đó mới có sự chuyển hóa triệt để và bền vững. Mà sự giải
thoát khỏi được những khái niệm, quan điểm này thì chỉ có thể xẩy ra qua sự
tự tỉnh thức và tự giác.
WHEN THE MIND
IS FREE . . .
Question :
- Why do you waste
your time preaching instead of helping the world in a practical way?
Krishnamurti :
- Now, what do you
mean by practical? You mean bringing about a change in the world, a better
economic adjusment, a better distribution of wealth, a better relationship, or
to put it more brutally, helping you to find a better job. You want to see a
change in the world, - every intelligent man does, - and you want a method to
bring about that change, and therefore you ask me why I waste my time preaching
instead of doing something about it. Now, is what I am actually doing a waste
of time? It would be a waste of time, if I introduced a new set of
ideas to replace the old ideology, the old pattern. Perhaps that is what you
want me to do. But instead of pointing out a so-called practical way to act, to
live, to get a better job, to create a better world, is it not important to
find out what the impediments are that actually prevent a real
revolution, not a revolution of the left or the right, but a fundamental,
radical revolution, not based on ideas? Because ideals, beliefs, ideologies,
dogmas, prevent action. There cannot be a world transformation, a revolution,
as long as action is based on ideas, because action then is merely reaction in
which ideas become much more important than action. That is precisely what is
taking place in the world, isn't it? To act, we must discover the impediments
that prevent action. But most of us don't want to act, that is our difficulty.
We prefer to discuss, we prefer to substitute one ideology for another, and so
we escape from action through ideology. Surely that is very simple, is it
not?
The world at the
present time is facing many problems : overpopulation, starvation, division of
people into nationalities and classes, and so on. Why isn't there a group of
people sitting together trying to solve the problems of nationalism? But if we
try to become international while clinging to our nationality, we create
another problem; and that is what most of us do.
So you see that it is
ideals which are really preventing action. A statesman, an eminent authority,
has said the world can be organized and all the people fed. Then why is it not
done? Because of conflicting ideas, beliefs, and nationalism. Therefore,
ideas are actually preventing the feeding of people; and most of us play
with ideas and think we are tremendous revolutionaries, hypnotizing
ourselves with such words as practical. What is important is to free
ourselves from ideas, from nationalism, from all beliefs and dogmas, so that we
can act, not according to a pattern or an ideology, but as needs demand. Surely
to point out the hindrances and impediments that prevent such action is not a
waste of time, is not a lot of hot air. What you are doing is obviously
nonsense. Your ideas and beliefs, your political, economic, are actually
dividing people and leading to war. It is only when the mind is free of idea
and belief that it can act rightly. A man who is patriotic, nationalistic, can
never know what it is to be brotherly, though he may talk about it; on the
contrary, his action, economically and in every direction, are conducive to
war. So there can be right action and and therefore radical, lasting
transformation, only when the mind is free of ideas, not superficially, but
fundamentally. And freedom from ideas can take place only through
self-awareness and self-knowledge.
J. Krishnamurti -- On
Relationship
TÌNH YÊU CHÂN
THẬT
Những ý niệm, hình ảnh
mà bạn có về một người, những ý niệm, hình ảnh mà bạn có về các chính khách của
bạn, về ông thủ tướng, về thần thánh, về vợ và các con của bạn, -- những ý
niệm, hình ảnh đó hiện đang được bạn quan tâm tới. Chúng đã được tạo nên qua
những mối liên hệ, hoặc qua những sự sợ hãi, hay là qua những nỗi niềm hy vọng
của bạn. Tình dục hoặc những khoái cảm mà bạn có với vợ bạn, chồng bạn, cùng
với những sự giận dữ, sự tâng bốc, sự êm đềm thoải mái và tất cả những điều mà
đời sống gia đình của bạn mang tới cho bạn, đã tạo nên ý niệm, hình ảnh trong
tâm bạn về người vợ hoặc người chồng của bạn. Tương tự như thế, vợ bạn hoặc
chồng bạn cũng có ý niệm, có hình ảnh về bạn. Thành ra mối liên hệ giữa bạn và
người hôn phối, giữa bạn và nhà chính trị, tóm lại chỉ là mối liên hệ giữa hai
ý niệm, hai hình ảnh này. Đúng không? Đó là sự thật hiển nhiên.
Làm sao mà hai cái
hình ảnh vốn là kết quả của tư tưởng, của khoái lạc, vân vân, lại nẩy ra được cảm
tình hoặc tình yêu?
Như vậy thì mối liên
hệ giữa hai cá nhân, dù là rất gắn bó hoặc là rất lạnh nhạt, cũng chỉ là những
mối liên hệ của những hình ảnh, những biểu tượng và những kỷ niệm từ ký ức.
Trong tình trạng đó,
làm sao mà có được tình yêu chân thật?
Phải có đức tính nhẫn
nại và mẫn cảm để thâm hiểu mối tương quan thân hữu mà không làm sứt mẻ, ngược
lại, nó sẽ khiến cho sự liên hệ thêm thiết yếu và quan trọng. Được như vậy thì
mới có thể nẩy ra tình cảm chân thực, nồng ấm, một cảm giác gần gũi, chứ không
phải chỉ là chút gợi cảm sơ sài hời hợt. Và nếu như bạn có được sự gần gũi chân
tình đến mức có thể gắn bó với nhau trong tất cả mọi sự thì hết thẩy những vấn
đề rắc rối của chúng ta sẽ được hóa giải một cách dễ dàng -- những vấn đề về
của cải, những vấn đề về tài sản, vật sở hữu.
Bởi vì chúng ta muốn
nắm giữ những cái mà chúng ta sở hữu đó. Người sở hữu tiền thì muốn nắm
giữ tiền. Người gắn bó với tài sản thì đồng hóa bản thân với tài sản,
hoặc với căn nhà, hoặc với đồ đạc bàn ghế.
Khi mà thói nắm giữ
vật sở hữu đã xuất hiện thì sẽ không có mối liên hệ thân tình.
Nhưng phần lớn chúng
ta có tật cứ phải có cái gì để mà nắm giữ, để mà sở hữu, vì chúng ta chẳng có
cái gì khác, nếu không sở hữu những cái đó. Chúng ta là những cái vỏ rỗng tuếch
nếu chúng ta không sở hữu, nếu chúng ta không làm đầy cuộc đời bằng đồ đạc bàn
ghế giường tủ, bằng âm nhạc, bằng kiến thức, bằng cái này, cái nọ. Thế rồi cái
vỏ đó khua rùm beng lên, thế rồi những rùm beng đó được chúng ta gọi là cuộc
đời; và chúng ta tự thỏa mãn với nếp sống đó.
Cho đến khi có chuyện bất thường xẩy ra, làm cho đời sống đang êm ru bỗng nhiên sụp đổ, thế là chúng ta đau khổ vì chúng ta chợt nhận ra con người thật của chúng ta -- chỉ là cái vỏ trống rỗng, chẳng có ý nghĩa gì nhiều.
Cho đến khi có chuyện bất thường xẩy ra, làm cho đời sống đang êm ru bỗng nhiên sụp đổ, thế là chúng ta đau khổ vì chúng ta chợt nhận ra con người thật của chúng ta -- chỉ là cái vỏ trống rỗng, chẳng có ý nghĩa gì nhiều.
Cho nên, phải nhận
thức được rõ ràng là toàn thể nội dung của mối dây liên hệ thân thuộc phải được
xây dựng bằng hành động, bằng những việc mà người ta thực sự làm cho nhau. Rồi
thì từ những công việc thực tế đó mới có triển vọng nẩy ra được sợi dây liên hệ
tình cảm chân thật, sẽ có khả năng phát hiện được chiều sâu thăm thẳm và ý
nghĩa cao cả của nó, đồng thời cũng biết được thế nào là tình yêu.
Krishnamurti -- The
Book of Life
Danny Việt dịch
BẤT MÃN
Có bao giờ bạn lấy làm
thắc mắc về cái sự kiện là khi người ta càng nhiều tuổi, trở nên già hơn,
thì dường như người ta cũng mất luôn niềm vui trong cuộc đời, mất luôn niềm
hứng khởi về những điều gì đó tiềm ẩn, vượt ra ngoài những vụn vặt đời thường,
nhưng có nhiều ý nghĩa hơn.
Tại sao có quá nhiều
người trong chúng ta, khi bước vào " cái-gọi-là" tuổi trưởng
thành thì lại trở nên ù lì, dửng dưng trước niềm vui, trước vẻ đẹp, trước cảnh
mênh mông bao la tuyệt diệu của trời đất?
Bạn ạ, nếu có ai tự
hỏi câu này thì sẽ nẩy ra trong óc vô số lời giải thích. Tại vì chúng ta quá
bận tâm về bản thân, đó là một lời giải thích. Chúng ta vật lộn với đời
để trở thành nhân vật quan trọng, để chiếm được và giữ vững một địa vị
nào đó; chúng ta có con cái và nhiều bổn phận khác nữa, và chúng ta còn
phải kiếm tiền.
Tất cả những vấn đề bề
ngoài này chẳng mấy chốc đã đè nặng trĩu chúng ta xuống, làm cho chúng ta mất
đi cái niềm vui của đời sống.
Nhìn nét mặt của những
người nhiều tuổi hơn ở chung quanh, bạn sẽ thấy phần đông là những vẻ mặt xiết
bao buồn bã, ưu tư, tiều tụy, những gương mặt xa cách, lãnh đạm, ủ ê, đôi khi
trông như người mất hồn, không có lấy một nụ cười.
Bạn không tự hỏi lý do
gì mà đến nông nỗi ấy sao? Nhưng ngay như chúng ta có hỏi tại sao thì phần lớn
chúng ta dường như cũng chỉ cần có vài lời giải thích đơn giản là đã lấy làm
thỏa mãn rồi.
Chiều hôm qua tôi
trông thấy một chiếc thuyền đang trôi ngược dòng sông với cánh buồm căng phồng
do luồng gió tây đẩy tới. Đó là một chiếc thuyền lớn, nặng trĩu củi để chở về
thành phố . Chiếc thuyền in bóng trong cảnh mặt trời chiều đang xuống dần; nó
lặng lẽ trôi theo chiều gió mà không có sự gắng sức nào. Cũng tương tự, nếu mỗi
người trong chúng ta có thể thâm hiểu được cái vấn đề rắc rối của đấu tranh
giành giật và mâu thuẫn, như thế thì tôi nghĩ rằng chúng ta có thể sống một
cách nhẹ nhàng thoải mái, một cách hạnh phúc, với nụ cười trên gương mặt chúng
ta.
Tôi cho là chính
sự gắng sức phấn đấu trong cuộc đời đã tàn phá chúng ta, sự đấu tranh này
đã khiến cho chúng ta tiêu hủy hầu hết những giây phút trong đời sống. Nếu bạn
để ý quan sát những người nhiều tuổi hơn chung quanh bạn, bạn sẽ thấy rằng đối
với phần lớn những người đó, đời là một chuỗi những cuộc tranh đấu giữa họ với
chính nội tâm của họ, tranh đấu với vợ hoặc chồng họ, với hàng xóm của họ, với
xã hội . . ., vàø chính những cuộc xung đột liên miên này đã tiêu hủy sức sống
của họ.
Người sống một cuộc
đời vui vẻ, thật là hạnh phúc, thì không bị kẹt vào chuyện gắng sức để phấn
đấu, để tranh chấp, để quyết liệt ăn thua. Không gắng sức không có nghĩa là trì
trệ, vì như thế là mụ mẫm, u tối, ngu đần; ngược lại, chỉ có người sáng suốt,
đặc biệt thông minh, mới thật là người biết giải thoát mình ra khỏi sự gắng
sức, ra khỏi trường tranh đấu, giành giật của kiếp người.
Krishnamurti --
Reflections on the Self
Danny Việt dịch
THỰC TẠI
Thân phận con người
chúng ta đã phải chịu đựng quá nhiều đau khổ. Chiến tranh xẩy ra liên miên
không dứt. Hãy kể từ năm ngàn năm trở lại đây, trung bình cứ mỗi năm lại có một
cuộc chiến. Người ta giết hại lẫn nhau, tàn phá những công trình họ đã xây
dựng, những di tích lịch sử vĩ đại bị hủy hoại trong một sớm một chiều. Đó là
lịch sử loài người, xung đột và chiến tranh xẩy ra triền miên. Rồi cũng vì
những cuộc chiến mà người ta phải chịu đựng những nỗi thống khổ một cách
quá nặng nề. Biết bao nhiêu nước mắt của những người mẹ, người vợ, đã đổ xuống
khi nhìn thấy con, thấy chồng của họ từ chiến trường trở về trong những tấm
thân tàn phế, mất tay, mất chân, mù lòa. Nước mắt của loài người đã đổ xuống
không ngừng.
Ngay cả chúng ta nữa,
chúng ta cũng rơi nước mắt vì cuộc đời trống vắng, cô đơn của chúng ta. Và cũng
cả chúng ta nữa, tất cả chúng ta, không phải chỉ quan sát sự chịu đựng của
người khác, mà cũng còn phải chịu đựng nỗi buồn, sự đau đớn, lo lắng của chính
cuộc đời chúng ta, buồn vì sự nghèo nàn của con người, không phải chỉ là sự
nghèo nàn tiền bạc của người thiếu trước hụt sau mà là sự cằn cỗi, héo hon
trong tâm hồn và trái tim của chính chúng ta. Cho đến khi chúng ta bắt đầu phát
hiện ra sự cằn cỗi héo hon tệ hại này thì, mặc dầu với vốn liếng hiểu biết rộng
rãi và kiến thức uyên thâm, điều đó cũng chỉ làm cho nỗi buồn thêm sâu đậm mà
thôi.
Có nỗi buồn của sự cô
đơn, có nỗi buồn vì thấy người ta đối xử với nhau tàn tệ, bất nhân, có nỗi buồn
vì mất bạn bè, con cái, anh chị em, cha mẹ, v. v. . . Chúng ta đã mang theo nỗi
buồn này qua biết bao nhiêu cuộc đời của chúng ta từ hết thế kỷ này tới thế kỷ
khác. Vậy mà chúng ta cũng chẳng hề thắc mắc rằng liệu nỗi phiền muộn này có
bao giờ chấm dứt được không.
Vậy thì bây giờ chúng
ta cùng nhau tìm hiểu, cùng nhau nhìn vào nỗi đau buồn của thế nhân và nỗi đau
buồn riêng của chính mình, từ trái tim, từ nội tâm, từ trí óc. Chúng ta
hãy hỏi coi nỗi đau buồn đó có thể nào kết thúc được chăng, hay là tất cả chúng
ta sẽ cứ phải mang nó trong lòng, xuyên qua chiều dài thời gian, từ quá khứ cho
tới vị lai.
Có khi nào nỗi đau
buồn đó có thể chấm dứt chăng?
Đau buồn cũng còn do
tự thương thân, cảm thấy cô đơn, hiu quạnh, cũng có nỗi đau buồn vì bị thất bại
nặng nề, qua sự thua kém khi so sánh, qua những biến chuyển trong tâm xoay
quanh cái cảm giác về sự thiếu vắng tình cảm, không có mối liên hệ nào
với bất cứ ai. Nhưng chúng ta chưa hề bao giờ tìm hiểu cho tới tận cùng của vấn
đề. Chúng ta chỉ muốn trốn tránh nó, tìm mọi cách để tự an ủi, như một kiểu
thuốc an thần để ru ngủ, cho tâm hồn được khuây khỏa, qua ngày.
Đau buồn có nghĩa là
khổ sở, đau đớn, lo lắng, vô cùng cô đơn, cảm thấy sự tồn tại của cuộc đời
không còn có ý nghĩa nữa. Tất cả các trạng thái kể trên, và còn nữa, đều tiềm
ẩn trong từ ngữ đau buồn. Có thể nào bạn thấy được toàn bộ một cách bao quát,
như bạn cầm một viên ngọc quíù, hoặc một tác phẩm điêu khắc tuyệt mỹ trên tay
chăng? Hãy giữ lấy, hãy âm thầm, âm thầm, âm thầm hòa nhập với nó, đừng để cho
sự suy nghĩ, tư tưởng, bằng bất cứ cách nào có dịp nổi lên chen vào cái thực
tại chân thật đó. Nếu bạn có thể lặng lẽ, lặng lẽõ thẩm thấu được cái thực tại
chân thật đó thì toàn bộ nội dung tiềm ẩn trong từ ngữ "đau buồn" sẽ
tan biến.
Nhưng chúng ta chẳng
để cho tâm trí chúng ta dừng lại với bất cứ cái gì. Chúng ta luôn luôn muốn tìm
ra cách để đạt đến sự kết thúc, cho nên chúng ta năng động, vì thế mà luôn luôn
tách rời ra khỏi viên ngọc vô cùng quí giá đó, sự quí giá có thể mang đến cho
chúng ta sức sống nồng nàn, mạnh mẽ và đầy nhiệt tình.
Krishnamurti - Total
Freedom
Danny Việt dịch
NỖI ĐAU
Nỗi đau là gì? Đừng
chỉ nghĩ đến từ ngữ mà hãy nhìn thẳng vào nội tâm, nhìn thật sâu vào đáy lòng
mình. Về mặt tâm lý, ngay từ khi bạn còn là đứa trẻ, cha mẹ, bạn bè của bạn đã
từng làm cho bạn đau lòng. Lớn lên một chút, khi đi học, thì nhà trường lại làm
cho bạn đau lòng bằng những câu nói như: "Trò phải thông minh lanh lợi như
anh của trò", hoặc chú bác, hoặc ông hiệu trưởng của bạn, hoặc bất cứ là
ai đó. Tại trường đại học, bạn phải vượt qua các kỳ khảo thí, nếu làm bài không
được, bạn sẽ mất tinh thần, thất vọng. Bước ra trường đời, không kiếm được việc
làm, bạn cảm thấy buồn tủi, đau lòng. Mọi sự xẩy ra trên thế giới đều làm đau
lòng bạn. Nền giáo dục vốn không hoàn chỉnh của chúng ta làm đau lòng bạn.
Như thế, rõ ràng là
bạn bị đau buồn trong tâm hồn. Bạn có thực sự nhận ra rằng bạn bị đau lòng
không? Thế rồi do gậm nhấm những nỗi đau của mình, ôm mối hận lòng, bạn muốn
làm đau lòng người khác. Từ đó, bạn trở thành dễ nổi giận, sẵn sàng phản
đối mọi chuyện, bạn co mình lại, chui vào ốc đảo tinh thần của riêng mình, trở
thành càng lúc càng tự cô lập, xa lánh mọi người. Và khi mà bạn càng xa lánh
mọi người, thì bạn càng cảm thấy buồn tủi hơn. Thế là bạn tự xây một bức tường
vô hình chung quanh, tâm hồn chìm đắm trong nỗi cô đơn với ảo vọng, nhưng luôn
luôn vẫn chỉ nằm gọn trong vòng tường do chính mình tạo ra.
Đó là tất cả
những dấu hiệu của nỗi đau.
Vậy là bạn bị đau buồn
trong tâm hồn. Thế nếu đang lúc bạn thấy mình bị đau đớn trong lòng đó, nếu lúc
đó bạn thật sự, một cách sâu sắc, nhận thức rằng bạn có nỗi đau, không chỉ hời
hợt ở mặt nhận thức thông thường, mà nỗi đau ghi khắc sâu tận đáy lòng, thì bạn
sẽ làm gì đây?
Bây giờ chúng ta thử
tìm coi nỗi đau này xẩy ra như thế nào?
Có nỗi đau lòng vì lý
do là chúng ta đã tự xây dựng trong tâm một ý niệm, một hình ảnh về chính
mình. Lấy thí dụ như bản thân tôi đây, nếu tôi đã xây dựng trong lòng một hình
ảnh của chính tôi luôn luôn ngồi chễm chệ trên diễn đàn để thuyết giảng -- cám
ơn Trời, tôi không có cái vụ này -- rồi thính giả lại phản đối hoặc không thèm
tới, thế là hình ảnh tôi -- được xây dựng trong lòng tôi -- bị xúc phạm.
Thực tế là khi nào mà tôi còn xây dựng một ý niệm, một hình ảnh đẹp về chính
tôi trong lòng, thì hình ảnh đó sẽ có lúc bị xúc phạm. Thật là rõ ràng, phải
vậy không?
Vậy thì bây giờ chúng
ta tự hỏi coi chúng ta có thể sống đơn giản, không xây đắp một hình ảnh, một ý
niệm nào chăng? Nghĩa là không có những kết luận, những thành kiến -- tất cả
những cái này đều là hình ảnh, ý niệm cả. Như vậy, vào cái lúc mà bạn lăng mạ
tôi đó -- nghĩa là bạn nói điều trái ngược với hình ảnh "cái tôi" mà
tôi đã xây đắp về tôi -- như vậy là bạn làm đau lòng tôi. Bây giờ, nếu ngay cái
giây phút mà bạn nói lên những điều có hại cho tôi, làm đau lòng tôi đó, tôi
tỉnh giác, nhận thức được và dồn tất cả sự chú tâm vào những lời bạn đang nói,
chỉ làm một việc là chú tâm vào việc đang xẩy ra mà thôi, không phân
tích, không suy diễn, không ghi nhớ, như thế những điều đó sẽ không có cơ hội
len lỏi vào tâm hồn tôi. Chỉ khi nào chúng ta lơ đãng, không chú ý, thì những
lời nói làm đau lòng hoặc những lời nịnh bợ mới tìm được chỗ đứng trong tâm hồn
chúng ta.
Vậy xin hỏi, nếu có
người nói rằng bạn là thằng ngốc, thì ngay lúc đó, bạn có thể dồn tất cả sự chú
tâm, chỉ chú tâm thôi, vào sự kiện đang xẩy ra mà không tìm hiểu, không suy
diễn, được không? Nếu làm được, bạn sẽ không thấy có nỗi đau lòng. Trong sự chú
tâm, tập trung tư tưởng đó, những nỗi đau buồn trong quá khứ đã tiêu tan.
Tập trung tư
tưởng cũng giống như ngọn lửa, nó đốt cháy tiêu mọi nỗi đau đã và đang
xẩy ra. Bạn bắt được ý này chăng?
Krishnamurti
-- To Be Human
Danny Việt dịch
Hỏi :
- Thông minh có tạo
nên cá tính của con người không?
Krishnamurti đáp :
- Chúng ta định nghĩa
thế nào là "cá tính"? Và thế nào là "thông minh"? Tất cả
các chính trị gia -- dù ngay đến những nhà chính trị chuyên nghiệp đa dạng ở
nơi đô thị Delhi hay chỉ là những chính trị gia tay mơ huênh hoang khoác lác ở
địa phương khỉ ho cò gáy -- cũng luôn luôn viện dẫn đến những từ ngữ nào là
"cá tính", "lý tưởng", "thông minh", "tôn
giáo", "Thượng Đế". Chúng ta lắng nghe những từ ngữ này một cách
say mê, sùng mộ, bởi vì chúng có vẻ như là rất quan trọng. Phần lớn chúng ta
sống với chữ nghĩa; và chữ nghĩa càng được trau chuốt công phu, gọt giũa cho
thật là sắc sảo bao nhiêu thì chúng ta càng thấy thích thú, thỏa mãn bấy
nhiêu.
Vậy thì chúng ta hãy
cùng nhau tìm hiểu coi chúng ta định nghĩa "thông minh" và "cá
tính" như thế nào. Đừng nói là tôi đã không trả lời các bạn một cách rõ
ràng, xác định. Moi ra ngay những định nghĩa, những kết luận, là một trong
những trò kỹ xảo của bộ óc, có nghĩa là bạn không muốn tìm tòi, nghiên cứu, để
hiểu cho thấu đáo, mà chỉ muốn đuổi theo lời nói mà thôi.
Thông minh là gì? Nếu
một người có thói sợ sệt, lo lắng, ghen tị, tham lam; hoặc là đầu óc chỉ biết
rập khuôn, bắt chước, trong tâm chỉ chứa đầy nhóc kinh nghiệm và kiến thức của
người khác; nếu tư tưởng của hắn bị hạn chế, bị xã hội, môi trường sống nhồi ép
vào khuôn khổ -- người như thế có thông minh không? Hắn không thông minh, phải
vậy không? Và có thể nào một người sợ sệt, không thông minh, lại có được cá
tính -- cá tính là cái gì thuộc về sáng tạo, không phải chỉ như những cái máy
nhắc lại điệp khúc của truyền thống về những điều phải làm hoặc không làm. Cá
tính có đáng kính trọng không?
Bạn có hiểu câu
"đáng kính trọng" nghĩa là gì không?
Bạn là người đáng kính
nếu bạn được nhiều người chung quanh ngưỡng mộ, kính trọng. Và cái gì làm cho
số đông kính trọng -- người trong gia đình và quần chúng? Họ kính trọng những
điều mà chính họ thèm muốn và đã ấp ủ trong tâm như là mục tiêu hoặc lý tưởng
của họ. Họ kính trọng cái sự kiện cao vời tương phản với cảnh đời thấp thỏi của
chính bản thân họ. Nếu bạn giầu và có quyền thế, hay bạn là chính trị gia tên
tuổi, hoặc đã viết nhiều cuốn sách nổi tiếng, như thế bạn sẽ được đám đông kính
trọng. Khi đó thì dù điều bạn nói ra có thể hoàn toàn vô nghĩa, ấy thế mà cứ hễ
bạn phát biểu là thiên hạ lắng nghe, bởi vì họ đã coi bạn như là một vĩ
nhân. Và khi mà bạn đã chiếm được lòng kính trọng của nhiều người, được đám
đông ủng hộ, tự nhiên bạn thấy mình là người đáng kính, có cảm giác mình đã
thành đạt. Nhưng cái "kẻ được-gọi-là có tội" nhiều khi lại gần Thượng
Đế hơn "người đáng kính", bởi vì người đáng kính nhiều khi lại mang
thói đạo đức giả.
Cá tính có phải là kết
quả của sự bắt chước, có phải là bị chi phối bởi sự sợ sệt về những điều người
ta sẽ nói hoặc sẽ không nói chăng? Cá tính có phải chỉ là sự làm tăng trưởng
thói thiên vị, thành kiến của chính bản thân chăng? Cá tính có phải là một hình
thức duy trì truyền thống, dù là ở Ấn Độ, Âu Châu hay là Hoa Kỳ chăng? Đó
là những trường hợp mà thông thường người ta gọi là "có cá tính" --
là một người mạnh mẽ, nhiệt thành ủng hộ những truyền thống của địa phương và
được nhiều người kính trọng.
Nhưng khi bạn đã có
thói thành kiến, bắt chước, bị các tập tục truyền thống cản trở, hoặc sợ sệt, thì
bạn có thông minh, có cá tính không? Sự bắt chước, sự hùa theo, sự lễ lạy xin
xỏ, có lý tưởng -- đó là cung cách dẫn đến sự đáng được kính trọng, nhưng không
đưa tới sự cảm thông. Một người có lý tưởng là người đáng kính, nhưng anh ta sẽ
không thể gần Thượng Đế, vì anh ta sẽ không bao giờ biết thương yêu là gì, bởi
vì lý tưởng của anh ta là một cách che giấu sự sợ hãi, sự bắt chước, sự cô đơn
của anh ta.
Cho nên, nếu không tự
hiểu thấu đáo về mình, không nhận thức rõ tất cả những vận hành của bộ óc -- bạn
suy nghĩ ra sao, bạn đang rập khuôn, đang bắt chước, hay đang sợ hãi, đang tìm
cầu thế lực --, như thế không thể là thông minh. Và chính sự thông minh tạo nên
cá tính con người, không phải là sự tôn thờ thần tượng hay đuổi theo một lý
tưởng.
Thấu hiểu chính mình,
chính cái con người phức tạp đặc biệt của mình, là khởi đầu của sự thông minh,
nó sẽ bộc lộ cá tính.
Krishnamurti -- Life
Ahead
Danny Việt dịch
SỢ LÀ GÌ ?
Đầu tiên chúng ta hãy
tự hỏi "sợ là gì" và "nỗi sợ hãi nổi lên như thế nào"?
Đối với chúng ta, bản
thân từ ngữ "sợ" nghĩa là gì? Tôi đang tự hỏi "sợ là cái
gì", chứ không phải là "tôi sợ cái gì".
Tôi sống theo một mẫu
mực nào đó; tôi suy nghĩ theo một khuôn khổ nào đó; tôi có trong lòng những
niềm tin và những giáo điều nào đó và tôi không muốn những lề lối sống đó bị
xáo trộn, vì cuộc đời tôi đã gắn bó chằng chịt với chúng rồi. Tôi không muốn
chúng bị xáo trộn, bởi lẽ sự xáo trộn sẽ nẩy sinh ra trạng thái mù mịt mơ hồ mà
tôi không thích. Nếu tôi bị bứt ra khỏi những gì tôi đã biết và đã tin thì tôi
cũng muốn có sự chắc chắn một cách tương đối về tình trạng tương lai của tôi.
Nhưng khi bộ não đã tạo ra những khuôn mẫu rồi thì nó từ chối sự sản sinh những
khuôn mẫu mới khác, mà có thể là bấp bênh. "Sự di chuyển từ trạng thái chắc
chắn sang trạng thái bấp bênh là cái mà tôi gọi là sợ".
Hiện tại, ngay lúc tôi
đang ngồi đây, tôi không sợ. Lúc này tôi không sợ, chẳng có chuyện gì xẩy ra
cho tôi, chẳng ai đe dọa hoặc lấy cái gì của tôi. Nhưng ngoài cái thời gian
đang hiện hữu này, trong tâm thức tôi còn có một lớp sâu hơn, đó là vùng ý thức
hoặc vô thức, đâu đó, manh nha tới điều gì đó có thể xảy ra cho tôi trong tương
lai, hoặc e ngại về một cái gì đó từ thời quá khứ đột nhiên ụp xuống đầu tôi.
Cho nên tôi sợ cả quá khứ lẫn tương lai. Thế là tôi đã chia thời gian ra
thành quá khứ và tương lai. Đến đây thì sự suy nghĩ nhẩy vào lên giọng:
"Coi chừng, sẽ không gặp được điều đó một lần nữa đâu", hoặc
"Sửa soạn sẵn cho tương lai đi. Tương lai anh có thể sẽ nguy khốn. Bây giờ
tuy là anh đã có chút đỉnh, nhưng rồi ra có thể là anh sẽ bị mất hết. Biết đâu
chừng ngày mai anh sẽ chết, vợ anh có thể bỏ anh, có thể anh sẽ mất công ăn
việc làm. Anh có thể chẳng bao giờ trở thành người có danh vọng. Có thể anh sẽ
cô đơn... "
Bây giờ chúng ta hãy
thử xét tới cái dạng sợ hãi của chính bạn. Nhìn coi. Quan sát kỹ phản ứng
của bạn đi. Bạn có thể nhìn nỗi sợ hãi đó mà không nhấp nhổm muốn bỏ chạy,
không nẩy ra chút ý muốn bào chữa, kết án hoặc kiềm chế chăng? Bạn có thể trực
diện nỗi sợ đó mà không có trong tâm cái từ ngữ đã làm thức dậy nỗi sợ
chăng? Bạn có thể trực diện sự chết, thí dụ thế, mà không có từ ngữ đã đánh
thức nỗi sợ chết chăng? Bản thân từ ngữ đã đem tới sự chấn động, cũng như từ
ngữ "yêu" có sự rung động của chính nó, có ấn tượng của chính nó,
phải vậy không?
Bây giờ hãy coi có
phải là những hình ảnh trong tâm trí bạn về sự chết, ký ức về biết bao nhiêu
cái chết mà bạn đã nhìn thấy, cùng với sự bạn tự liên tưởng chính bản thân với
những chuyện đã xẩy ra còn giữ trong tiềm thức đó, -- phải chăng đó chính là hình
ảnh đã tạo ra sự sợ hãi trong lòng bạn? Hay là quả thật bạn sợ sự chết sẽ đến
chứ không phải là bạn sợ những hình tượng trong tâm đã tạo ra sự chết. Có phải
là từ ngữ "chết" làm cho bạn sợ hay là sự chết thật? Nếu chỉ là từ
ngữ hoặc ký ức là lý do để bạn sợ thì chẳng có gì đáng sợ hết ráo.
Giả dụ như hai năm
trước bạn bị bệnh, ký ức về sự đau đớn, về cơn bệnh vẫn còn tồn tại trong trí
nhớ, nay nó trỗi dậy nhắc nhở "Coi chừng, đừng để bị bệnh lại
như lần trước nữa đấy nhé". Thế rồi ký ức cùng với bè đảng của nó là guồng
máy suy tư bèn tạo nên sự sợ hãi, mà thật ra thì chẳng có cái gì đáng để mà sợ
hết ráo, vì lẽ lúc đó bạn đang rất là khoẻ mạnh.
Tư tưởng, vốn là
cái luôn luôn cũ mèm, bởi vì tư tưởng thoát thai từ ký ức, mà ký ức thì dĩ
nhiên là luôn luôn cũ mèm -- tư tưởng, vào lúc đó, tạo ra cái cảm giác là bạn
đang sợ hãi, nhưng đó chỉ là cảm giác, không có trong thực tế. Thực tế là bạn
đang khỏe mạnh. Nhưng cái kinh nghiệm về sự đau ốm, vốn đã khắc ghi trong tâm
trí, trỗi lên nỗi sợ "Cẩn thận, đừng để bị bệnh lại nữa đấy nhé!"
Như thế chúng ta thấy
rằng chính suy nghĩ gây ra một loại sợ hãi.
Krishnamurti -- On
Fear
Danny Việt dịch
KHÁT VỌNG
Hỏi :
- Làm thế nào để thoát khỏi niềm khát vọng được tin chắc, không
nghi ngờ?
Krishnamurti đáp :
- Từ ngữ làm thế nào ngụ ý một phương pháp, phải không? Nếu bạn
là một nhà xây dựng và tôi hỏi bạn cách xây một căn nhà, thì bạn có thể chỉ cho
tôi phải làm cái gì, vì việc ấy có một phương pháp, một hệ thống, một cách thức
để khởi sự. Nhưng đi theo con đường phương pháp, hệ thống, là tâm trí đã bị
điều kiện hóa, cho nên hãy thấy sự khó khăn trong việc dùng từ ngữ làm thế nào.
Rồi thì chúng ta cũng phải hiểu thế nào là khát vọng.
- Khát vọng là gì?
Đó là nhìn thấy hoặc nhận thức, rồi đến tiếp xúc hoặc va chạm,
rồi có cảm giác, cuối cùng đi tới chỗ mà chúng ta gọi là khát vọng. Chắc chắn
đây là trình tự xẩy ra. Xin hãy theo sát vấn đề.
Này nhé, thí dụ chúng ta đang ngắm chiếc xe hơi đẹp. Chỉ mới
ngay cái chuyện ngắm thôi, dù là không hề đụng chạm đến nó, là đã nẩy ra cảm
giác, cái cảm giác này tạo cho chúng ta cái khát vọng được leo lên lái, được
làm chủ cái xe.
Chúng ta không bàn đến chuyện làm sao để chống cự lại hoặc giải
thoát ra khỏi niềm khát vọng, bởi vì cái con người chống cự lại và tưởng rằng
anh ta đã thoát khỏi được niềm khát vọng, thực tế là anh ta đã tê liệt, như xác
chết. Điều quan trọng là phải hiểu thấu đáo toàn bộ quá trình của khát vọng,
nghĩa là phải biết rõ cả mặt quan trọng lẫn mặt hoàn toàn không đáng kể của nó.
Người ta phải tìm ra, không phải là làm thế nào để chấm dứt khát vọng, mà là
cái gì đã tiếp tay cho khát vọng.
Thế bây giờ chúng ta tìm coi cái gì đã tiếp tay cho khát vọng?
Đó là sự suy tưởng, không phải sao?
Đầu tiên là nhìn thấy cái xe, rồi đến cảm giác, rồi đến lòng ham
muốn, khát vọng, tiếp liền theo cảm giác. Nếu tư tưởng không xen vào và tiếp
tay cho khát vọng bằng cách hô hoán lên "Tôi phải có chiếc xe đó, làm thế
nào để tôi có nó?", thì lòng ham muốn, khát vọng, đã tàn lụi, bạn có thấy
chỗ này không? Tôi không đòi hỏi rằng phải giải thoát khỏi khát vọng, mà ngược
lại. Nhưng bạn phải hiểu rõ toàn bộ cấu trúc của niềm khát vọng, rồi thì bạn sẽ
thấy không còn có sự tiếp nối của khát vọng nữa, mà toàn bộ sẽ chuyển qua một
hướng khác.
Cho nên, điều quan trọng không phải là khát vọng, mà thực tế là
chúng ta tiếp sức cho khát vọng được duy trì. Thí dụ như chúng ta nuôi dưỡng
tình dục qua tư tưởng, qua những ý niệm, qua những hình ảnh, qua những cảm
giác, qua kỷ niệm. Chúng ta nuôi sống ký ức bằng sự suy nghĩ về nó, và toàn bộ
những chuyện đó tiếp sức duy trì lòng ham muốn tình dục và sự quan trọng của
những giác quan. Tôi không nói rằng những giác quan không quan trọng, có chứ.
Nhưng chúng ta đã cho niềm hoan lạc của những giác quan một sự tiếp diễn liên
tục khiến cho nó trở thành quan trọng một cách quá đáng trong cuộc đời chúng
ta.
Vậy thì vấn đề không phải là giải thoát khỏi khát vọng, mà là
hiểu thấu đáo cấu trúc của khát vọng và cung cách mà tư tưởng làm cho khát vọng
duy trì liên tục, chỉ có vậy thôi. Được như thế thì tâm trí bạn sẽ khai phóng,
và bạn sẽ không còn phải tìm cách để thoát khỏi lòng ham muốn, khát vọng.
Ngay giây phút mà bạn tìm cách thoát ly khỏi khát vọng là bạn đã
bị lọt vào mâu thuẫn rồi. Mỗi khi bạn nhìn cái xe, người đàn bà, ngôi nhà, hay
bất cứ cái gì có thể hấp dẫn, lôi cuốn bạn, là tư tưởng sẽ nhẩy ngay vào để tạo
cho khát vọng một sự tiếp diễn, liên tục, và rồi thì chúng trở thành vấn đề rắc
rối kéo dài tới vô tận.
Điều quan trọng là sống một cuộc đời thanh thản, không mảy may
phiền não. Bạn có thể sống không phiền não nếu bạn hiểu rõ bản chất của sự cố
gắng và nhìn cho thật rõ toàn bộ cấu trúc của khát vọng.
Phần đông chúng ta vốn đã có hàng ngàn vấn đề rắc rối, và để
thoát khỏi những chuyện đó, chúng ta phải có khả năng giải quyết từng vấn đề
ngay lập tức, khi nó vừa mới xuất hiện.
Dĩ nhiên điều thật cần thiết là đừng để cho tâm trí chúng ta
phải chịu đựng một điều phiền nhiễu nào, và như thế, chúng ta sẽ được sống một
cuộc đời thanh thản. Chắc chắn chỉ cómột tinh thần như thế mới xứng đáng gọi là
tinh thần Sống Đạo, bởi vì nó đã thấu hiểu được nỗi đau khổ và sự chấm dứt đau
khổ.
Tinh thần sống ấy không còn sợ hãi, và do đó, tự chiếu sáng nội
tâm.
Krishnamurti -- On God
DannyViệt dịch
Hỏi :
- Xin nói cho chúng tôi nghe về Thượng Đế.
Krishnamurti :
- Thay vì nghe tôi nói Thượng Đế là gì, chúng ta hãy cùng nhau
tìm hiểu coi các bạn có thể nhận ra được cái trạng thái đặc biệt đó, không phải
là hãy để đến mai hoặc một thời gian nào đó trong tương lai, nhưng mà ngay lúc
này, trong khi chúng ta đang cùng ngồi với nhau trong bầu không khí an tịnh
này. Chắc chắn là điều đó quan trọng hơn nhiều. Nhưng nếu muốn tìm hiểu coi
Thượng Đế là gì thì phải liệng bỏ hoàn toàn niềm tin vốn có. Muốn phát hiện ra
cái gì là chân thật thì tâm trí không thể mang sẵn niềm tin về một cái gì đó đã
được coi là chân lý, không thể có sẵn những lý thuyết hoặc giả thuyết về Thượng
Đế. Xin các bạn hãy để ý, lắng nghe. Nếu các bạn đã có những giả thuyết, đã có
những niềm tin, đã có những giáo điều,như thế thì đầu óc các bạn đã đầy
ắp những suy đoán. Vì đã đọc cuốn sách này hoặc cuốn sách kia viết về sự thế
nào là thực tại hoặc Thượng Đế cho nên tâm trí các bạn rất phấn khích. Một cái
đầu chứa đầy ắp kiến thức thì luôn hoạt động, không an tịnh, chỉ làm cho tâm
hồn thêm vướng mắc nặng nề và hiển nhiên là cái sự vướng mắc nặng nề ấy không
thể biểu hiện một nội tâm bình thản. Khi tâm trí chứa đầy ắp những sự tin chắc,
dù là tin rằng có Thượng Đế, hay là tin rằng không có Thượng Đế, thì cũng là
vướng vào kiến chấp, mà cái tâm đã vướng vào kiến chấp thì không thể nhận ra
được cái gì là chân lý.
Để phát hiện chân lý, tâm hồn con người phải được khai phóng,
cởi mở, thoát khỏi những lễ lạc, những niềm tin, những giáo điều, kiến thức và
kinh nghiệm sống mà họ đã trải qua. Chỉ khi đó thì tâm trí mới nhận thức được
thực tại, chân lý. Tâm hồn trong trạng thái an tịnh như thế thì những hoạt động
do lòng ham muốn, do khát vọng từ ngoại cảnh cho tới nội tâm không còn nổi lên
nữa. Đó không phải là đè nén lòng ham muốn, đè nén khát vọng, vì đè nén phải
tốn sức. Ngược lại, khi tâm trí ở trong trạng thái an tịnh thì người ta có tràn
đầy sức sống, tràn đầy nghị lực. Nhưng sức sống, nghị lực không thể sung mãn
nếu đầu óc còn lăn xăn dòm ngó chuyện thiên hạ khiến cho nội tâm lại phải bận
rộn đối phó. Khi tất cả những chuyện thị phi này đã lắng xuống thì tâm hồn sẽ ở
trong trạng thái an bình, tĩnh lặng.
Tôi không mê hoặc các bạn, không thuyết phục, dụ dỗ các bạn rằng
phải tĩnh lặng. Chính các bạn, tự bản thân, các bạn phải thấy được tầm quan
trọng của việc từ bỏ, việc vứt đi tất cả những điều mê tín dị đoan, những niềm
tin vô căn cứ, những kiến chấp đã tích lũy hàng bao nhiêu thế kỷ, hãy xả bỏ một
cách thoải mái, không chút cố gắng, không chút ngần ngừ. Các bạn phải thấy được
sự thật là bất cứ hình thức tích lũy nào cũng đều làm cho tâm trí bừa bộn lên,
khiến cho năng lực bị tiêu hao phung phí.
Muốn cho tâm được tĩnh lặng thì phải có một sức sống sung mãn và
sức sống đó phải an tịnh. Và nếu như các bạn đã thực sự có được trạng thái sống
an bình, không lăng xăng, các bạn sẽ thấm thía được hương vị của sức sống đó,
một sức sống an lạc, một sức sống mà tự nó có những hoạt động nội tâm khai
phóng, không phải là cái loại hoạt động vì bị sức ép của ngoại cảnh, của xã hội
thôi thúc. Bởi vì khi trong lòng đã tràn ngập sức sống bình yên tự tại, thì tâm
trí tự nó sẽ trở thành an lạc thanh cao . . .
. . . Và cái sức sống bình yên tự tại đã nâng tâm hồn lên trạng
thái an lạc thanh cao đó chính là lòng thương yêu, niềm trắc ẩn, vốn không phân
ly với chính bản thân sức sống này.
Krishnamurti -- On God
Danny Việt dịch
Chúng ta nói rằng tình yêu cũng góp một phần vào sự đau khổ,
chịu đựng. Rằng khi bạn yêu ai thì tình yêu đó rồi cũng sẽ đem đến cho bạn nỗi
đau khổ.
Bây giờ chúng ta tìm hiểu xem có thể nào thoát khỏi mọi nỗi đau
khổ chăng.
Khi vùng ý thức của con người không tự vướng mắc với cảm
giác đau khổ, thì sự giải thoát, sự dung thông ấy sẽ chuyển hóa ý thức và sự
chuyển hóa đó sẽ tỏa rộng ra, cảm ứng với nỗi đau khổ của toàn thể nhân loại.
Đó là tình thương, là lòng trắc ẩn.
Nếu trong lòng cảm thấy đang đau buồn, đang phải chịu đựng nỗi
thống khổ, thì bạn không thể yêu được. Đó là sự thật, là quy luật. Khi bạn yêu
người nào đó mà họ lại làm việc gì khiến cho bạn không đồng ý, mà bạn lại còn
cảm thấy đau buồn, cảm thấy phải chịu đựng, thì điều đó nói lên là bạn chưa
yêu. Xin hãy nhìn sự thực này. Làm sao bạn có thể chịu đựng nỗi đau buồn khi vợ
bạn bỏ rơi bạn để chạy theo người khác? Quả thật là chúng ta sẽ rất đau buồn vì
chuyện đó.
Chúng ta nổi giận, lên cơn ghen, tràn ngập sự uất hận, ghét bỏ;
ấy thế mà đồng thời, chúng ta lại nói rằng "Tôi yêu vợ tôi"!
Yêu như thế thì không phải là yêu.
Cho nên, có thể nào không phải chịu đựng đau khổ mà đồng thời
vẫn có được tình yêu nồng nàn nở rộ mênh mông không nhỉ?
Vậy thì bản chất và cốt tủy của đau khổ là gì -- đây là nói về
cái cốt tủy của nó, không phải là những hình thức khác nhau của nó? Cốt tủy của
sự đau khổ là gì? Không phải đấy chính là sự biểu lộ rõ rệt nhất, vào thời điểm
sự kiện xẩy ra, của một con người tự cho mình là trung tâm điểm, một cái rốn
của vũ trụ sao? Đó chính là bản chất của cái tôi -- cốt tủy của bản ngã, của
con người, của sự giới hạn, của sự thu hẹp, của sự ngăn cách, được gọi là
cái "tôi". Khi có đột biến trong tâm, đòi hỏi một sự thức tỉnh của
trí tuệ, thì ngay đó cái "tôi" này, cái nhân tố tạo nên nỗi thống khổ
này, trỗi dậy để ngăn cản.
Vậy nếu không có cái "tôi", cái bản ngã, thì liệu rằng
còn có nỗi đau buồn, thống khổ chăng? Hay là khi đó con người ta sẽ tha hồ mà
làm những chuyện giúp đời, làm đủ mọi chuyện không vị kỷ mà không còn cảm thấy
đau khổ nữa.
Đau khổ là sự biểu lộ về cái "tôi", về bản thân, vị
kỷ; nó bao gồm cả sự than thân trách phận, cả nỗi buồn của sự cô quạnh, cố tìm
cách thoát ra khỏi tình huống khổ tâm, cố tìm cách nối lại mối liên lạc với
người đã bỏ đi -- và tất cả những điều khác bao hàm trong cái ý nghĩ về
"tôi" đó.
Buồn bã, than thân trách phận là hành động rất vị kỷ, chủ yếu là
quan tâm về cái "tôi",-- về những hình ảnh, ý niệm, kiến thức, những
hồi ức, nhớ nhung về quá khứ.
Vậy thì, có sự liên hệ nào giữa sự đau buồn, bản chất của cái
"tôi", của thói vị kỷ, với tình yêu không?
Có sự liên hệ nào giữa tình yêu và sự đau khổ không?
Cái "tôi" được hình thành qua tư tưởng, suy nghĩ;
nhưng có phải nhờ suy nghĩ mà tình yêu hình thành không?
Tình yêu có được hình thành qua sự suy nghĩ không? - ký ức về
những nỗi đau, những niềm vui, về sự theo đuổi khoái lạc, tình dục linh tinh,
sự vui thích được chiếm hữu người khác và người khác lại thích bị chiếm hữu; tất
cả những điều đó đều là cấu trúc của tư tưởng. Cái "tôi" với danh
xưng, với hình dáng, với ký ức của nó được hình thành qua tư tưởng - hiển nhiên
là như vậy.
Nhưng nếu tình yêu không được hình thành bằng tư tưởng, bằng sự
suy nghĩ, như vậy thì sự đau khổ không liên hệ gì với tình yêu. Do đó, hành
động thoát thai từ tình yêu thì khác hẳn với hành động thoát thai từ sự đau
khổ.
Ta thấy rằng hành động thoát thai từ sự đau khổ chính là hành
động thoát thai từ cái "tôi", từ bản ngã, vị kỷ, và vì thế luôn luôn
có mâu thuẫn, xung đột. Ta có thể thấy cái trình tự hợp lý của toàn bộ điều đó.
Chỉ khi nào nhìn rõ như vậy, chúng ta mới có thể có được tình thương yêu tinh
khiết, không có bóng mờ của đau buồn, khổ ải.
Đắn đo suy nghĩ không phải là tình yêu. Đắn đo suy nghĩ không
phải là lòng trắc ẩn, bi mẫn. Lòng trắc ẩn, bi mẫn là trí tuệ, là trực giác, -
vốn không phải là kết quả của sự suy nghĩ, đắn đo.
Krishnamurti -- The Wholeness of Life
Danny Việt dịch
GIAO CẢM VỚI MUÔN LOÀI
Đã nhiều tuần rồi, mỗi buổi sáng khi trời vừa bình minh là chúng
tôi lại cùng nhau ra ngắm cái cây ở bên bờ sông. Xa xa, lúc vừng dương vừa nhú
ở mãi tận cuối chân trời, từ từ vươn lên khỏi lùm cây, thì nơi đây, cái cây đặc
biệt kia bỗng bừng lên một mầu vàng ánh. Toàn thể lá trên cây đều sáng rực đầy
sinh khí và khi mà bạn lặng lẽ say sưa ngắm đến quên cả thời gian, thì cái cây,
mà tên nó chẳng thành vấn đề - vấn đề là cái cây tuyệt đẹp ấy - với cái phẩm
chất đặc biệt của nó dường như tỏa ra khắp trên mặt đất, lan tràn trên
dòng sông. Rồi thì khi vừng thái dương nhô cao lên chút nữa là lúc mà lá cây
bắt đầu rung rinh uốn éo. Thời gian mỗi lúc trôi qua dường như lại giúp cho cái
cây thay đổi phẩm chất. Trước khi mặt trời ló dạng, dáng vẻ của nó còn thật là ảm
đạm, lặng lẽ, xa xôi, đầy phẩm cách. Ấy thế mà ngay khi mới bắt đầu ngày thì
những cánh lá sáng lóng lánh uốn lượn đã tạo nên một cảm quan đặc biệt về vẻ
đẹp tuyệt vời của nó rồi.
Về buổi trưa, tàn cây tỏa bóng mát rượi, bạn có thể ngồi
nghỉ dưới gốc cây để tránh nắng, không bao giờ cảm thấy cô đơn vì đã có nó làm
bạn. Ngồi đó, bạn cảm thấy một mối dây liên hệ gắn bó sâu sắc, bền vững và
thoải mái mà chỉ cây cối mới có thể biết được.
Chiều xuống, khi phương tây rực sáng ánh mặt trời đang lặn, thì
cái cây cũng từ từ chuyển dần sang mầu sẫm, rồi tối, rồi tự biến mình, mờ dần.
Bầu trời chuyển qua đỏ, rồi vàng, rồi xanh, nhưng cái cây vẫn lẳng lặng ẩn mình
và yên nghỉ qua đêm.
Nếu bạn thiết lập được mối giao hảo với cây cối thì bạn cũng sẽ
có mối giao hảo với loài người. Bạn có trách nhiệm với cây đó và với tất cả cây
cối trên thế giới. Nhưng nếu bạn không có mối giao hảo với muôn loài sinh vật
trên thế giới này thì bạn cũng có thể mất đi những mối giao hảo với con người,
với nhân loại.
Chúng ta không bao giờ nhìn một cách sâu sắc vào đặc tính của
một cái cây; chúng ta không bao giờ thật sự sờ vào nó, cảm nhận được sự rắn
chắc của nó, lớp vỏ xù xì của nó và nghe cái âm thanh vốn là một phần của cái
cây. Âm thanh này không phải là tiếng gió thổi qua lùm cây, không phải là tiếng
rì rào của lá vào những buổi sớm mai, nhưng là tiếng của chính cái cây, tiếng
âm thầm của thân và rễ cây. Bạn phải thật là tinh tế, mẫn cảm, thì mới có thể
nhận ra. Cái âm thanh này không phải là tiếng ồn ào của thế gian, không phải là
tiếng lao xao liên tục trong tâm trí, không phải là những lời lẽ thô tục của
tranh cãi, đánh lộn, mà là âm thanh như một phần của vũ trụ, của không gian và
thời gian.
Đáng buồn là chúng ta có quá ít mối giao hảo với thiên nhiên,
với các loài côn trùng, với con ếch nhẩy, với con cú kêu tìm bạn tình trên đồi
cao. Dường như chẳng bao giờ chúng ta có chút cảm xúc nào hướng về muôn loài
trên trái đất. Nếu như chúng ta thiết lập được mối giao hảo sâu xa bền chắc với
thiên nhiên thì chúng ta đã chẳng bao giờ giết con vật để được ngon miệng,
chẳng bao giờ làm tổn thương, mổ xẻ con khỉ, con chó, những con vật trong phòng
thí nghiệm, đang khi nó còn sống, vì lợi ích của chúng ta. Chúng ta sẽ tìm
những cách khác để điều trị vết thương, để cứu mạng chúng ta. Nhưng điều trị
tâm hồn thì lại hoàn toàn khác. Sự hồi phục sẽ tới từ từ nếu chúng ta sống hài
hòa với thiên nhiên, với trái cam trên cành cây, với nhánh cỏ nhú lên từ kẽ nứt
xi măng, và với những ngọn đồi nằm ẩn dưới những tầng mây bao phủ.
Đây không phải nói theo tình cảm tầm phào hoặc tưởng tượng lãng
mạn mà là chuyện thực tế của mối giao hảo với muôn loài đang sống, đang chuyển
động trên trái đất. Người ta đã giết hàng triệu con cá voi và sẽ còn giết nữa.
Tất cả những gì chúng ta lấy được từ sự tàn sát chúng thì chúng ta cũng có thể
có được bằng những cách khác. Nhưng rõ ràng là chúng ta thích giết mọi loài,
như con nai phóng vút qua, con linh dương kỳ diệu và con voi to kềnh.
Chúng ta thích giết hại lẫn nhau. Trong lịch sử loài người trên trái đất, sự giết
chóc này chưa bao giờ ngưng. Nếu chúng ta có thể, và chúng ta phải, thiết lập
một mối tương quan giao hảo bền chặt thâm sâu với thiên nhiên, với cây cỏ, lùm
bụi, hoa trái, với đám mây bay trên trời, từ đó, chúng ta sẽ không bao giờ còn
giết người vì bất cứ lý do nào nữa.
Giết người có tổ chức, được hệ thống hóa, chính là chiến tranh,
và mặc dầu chúng ta biểu tình để phản đối một cuộc chiến đặc biệt, thí dụ chiến
tranh nguyên tử, hoặc bất cứ loại chiến tranh nào đó, nhưng chúng ta chưa hề
biểu tình chống chiến tranh.
Chúng ta chưa hề bao giờ nói lên rằng giết người là tội ác lớn
nhất trên đời.
Danny Việt dịch
THÓI SỞ HỮU
- Chúng tôi tới để trình bày với ông về vấn đề của chúng
tôi. Chúng tôi ghen tuông - tôi thì không nhưng ấy là nói về vợ tôi kìa. Dù
trước kia nàng không có thói ghen lộ liễu như bây giờ, tuy nhiên, trong lòng
nàng vẫn luôn luôn có nỗi niềm ghen tuông ngấm ngầm. Tôi không nghĩ rằng tôi đã
làm điều gì khiến cho nàng có lý do để nổi ghen, nhưng nàng tìm ra lý do, thưa
ông.
- Ông nghĩ rằng có lý do nào đó để nổi ghen sao? Có
nguyên nhân cho sự ghen tuông sao? Và sự ghen tuông sẽ biến mất khi người ta
tìm ra nguyên nhân sao? Ông có thấy rằng ngay như ông có biết được nguyên nhân,
thì sự ghen tuông vẫn cứ còn tiếp diễn dài dài chăng? Chúng ta đừng mất
công đi tìm nguyên nhân, mà nên hiểu bản chất của chính thói ghen tuông. Như
ông nói, người ta có thể nổi ghen vì bất cứ chuyện gì; ghen tị là chuyện để mà
cảm thông, không để tìm xem nó là cái gì.
- Tôi bị tật ghen tuông ám ảnh từ lâu rồi. Khi chúng tôi
kết hôn, tôi không được biết rõ về chồng tôi, cho nên như ông thấy chuyện đã
xẩy ra, từ sự không tin hiểu nhau đó, nỗi nghi kỵ, ghen tuông cứ len lén, từng
chút, triển nở dần trong lòng tôi, như khói lan trong bếp.
- Ghen tuông là một trong những cách để nắm giữ người đàn
ông hoặc đàn bà, phải vậy không? Chúng ta càng ghen tuông, thì cái cảm giác về
quyền sở hữu càng gia tăng. Sự có sở hữu cái gì đó mang đến cho chúng ta niềm
vui. Nói lên rằng mình là sở hữu chủ độc quyền, dù chỉ là sở hữu con chó, cũng
khiến cho chúng ta ấm áp cõi lòng và cảm thấy thoải mái. Sự độc quyền đồ sở hữu
đem lại an toàn, bảo đảm cho chúng ta. Làm chủ cái gì đó khiến chúng ta cảm
thấy mình quan trọng; và chính sự tự thấy mình quan trọng ấy đã là cái mà
chúng ta bám chặt lấy, không muốn mất. Nghĩ rằng mình sở hữu, không phải chỉ là
cái bút chì hoặc cái nhà, nhưng sở hữu một người, khiến chúng ta cảm thấy vững
vàng và toại nguyện lạ lùng. Thói ghen tuông không phải đến từ người khác, mà
chính vì cái cảm giác về giá trị, về sự quan trọng của tự thân chúng ta mà
ra.
- Nhưng tôi không coi mình là quan trọng, tôi là kẻ vô
danh tiểu tốt; chồng tôi là tất cả cuộc đời tôi. Ngay đến các con tôi cũng
chẳng đáng kể.
- Chúng ta đều chỉ có một thứ để mà gắn chặt cuộc đời vào,
dù mang các hình thức khác nhau. Bà bám chặt vào ông chồng, người khác bám vào
con cái, rồi lại có những người khác nữa bám vào niềm tin nào đó. Tuy hình thức
thì khác nhưng nội dung thì cũng giống nhau thôi. Không có cái để mà bám víu
vào, chúng ta cảm thấy lạc lõng biết bao trong cuộc đời, phải vậy không? Chúng
ta sợ cái cảm giác quá đơn độc. Chính nỗi sợ hãi ấy tiềm ẩn lòng ghen tuông,
ghét bỏ, đau khổ. Ghen tuông và ghét bỏ không khác nhau nhiều đâu.
- Nhưng chúng tôi yêu nhau.
- Nếu yêu tại sao bà có thể ghen? Chúng ta không yêu, đó
là phần đáng buồn của câu chuyện. Bà đang sử dụng chồng bà, cũng như
chồng bà đang sử dụng bà, để cùng vui thú, để có đôi có cặp, không cảm thấy cô
đơn. Có thể bà không được gì nhiều, nhưng ít ra bà cũng có người để cùng nhau
qua ngày. Sự cần thiết và sử dụng hỗ tương này chúng ta gọi là yêu.
- Thế thì thật là kinh hãi.
- Không kinh hãi đâu, chỉ có là chúng ta chẳng bao giờ nhìn
thẳng vào thực tế mà thôi. Chúng ta nói là kinh hãi, đặt cho nó cái tên rồi vội
vã quay đi phía khác - đó là điều mà bà đang làm.
- Tôi biết, nhưng tôi không muốn trực diện. Tôi muốn cứ
tiếp tục sống như từ hồi nào tới giờ, dù như thế có nghĩa là tôi vẫn giữ thói
ghen tuông, vì tôi không thể thấy điều gì khác trong cuộc đời nữa.
- Nếu bà nhìn rộng ra, thấy được những cái khác trong cuộc
đời, thì bà có thể chấm dứt được sự ghen tuông đối với chồng bà, được không?
Nhưng rồi bà cũng sẽ lại bám víu vào cái khác, y như hiện nay bà đang bám víu
vào ông nhà, rồi thì bà cũng lại sẽ nổi lòng ghen tuông với cái đó y như hiện
nay vậy. Bà muốn tìm một cái gì đó để thay thế vai trò của ông nhà, không phải
là muốn thoát khỏi tật ghen tuông. Tất cả chúng ta đều như vậy: trước khi liệng
bỏ cái này, chúng ta muốn có cái khác để đặt niềm tin rất chắc vào đó đã. Chỉ
khi nào bà hoàn toàn buông xả, không nắm chắc vào cái gì, thì khi đó sẽ không
có chỗ cho bà ghen tuông nữa. Có lòng ghen tị khi có sự nắm giữ, khi bà
cảm thấy bà có cái gì đó. Thói độc quyền là cái cảm giác về sự chắc chắn này;
có sở hữu là có ganh tị. Quyền sở hữu sinh ra tật ganh ghét. Thật ra thì chúng
ta rất chán ghét cái mà chúng ta đã có, điều đó biểu lộ trong sự ghen tuông. Ở
đâu có mặt thói sở hữu thì ở đó không thể có tình yêu. Chiếm hữu tiêu diệt tình
yêu.
- Tôi đã bắt đầu nhận thấy. Đúng là tôi chưa hề yêu chồng
tôi, phải không? Tôi đã bắt đầu hiểu ra rồi.
Bà ta nghẹn ngào với đôi mắt đẫm lệ.
Danny Việt dịch
SỐNG ĐẠO
Hỏi :
- Chúng ta có cách nào để có thể sống đạo trong xử thế tiếp vật
với đời chăng?
- Khi dùng từ ngữ sống đạo, ý chúng ta muốn nói gì? Phải chăng
bạn muốn nói đến một cách sống mà trong đó không có sự phân chia - phân chia
giữa đời thường và đời sống tôn giáo, giữa điều nên và điều không nên,
giữa tôi và bạn, giữa thích và không thích? Chính sự phân chia này đem lại mâu
thuẫn, xung đột. Một đời sống đầy mâu thuẫn, xung đột thì không phải là sống
đạo. Chỉ có thể sống đạo khi chúng ta thấu hiểu nguyên nhân của mọi tranh chấp,
mâu thuẫn. Sự thấu hiểu đó chính là trí tuệ. Với trí tuệ này, chúng ta sẽ hành
động một cách công chính.
Điều mà nhiều người gọi là "trí tuệ", thực ra chỉ là
sự khéo léo trong công tác kỹ thuật, hoặc lanh lợi trong giao dịch nơi thương
trường, hoặc mánh lới, xảo thuật, trong lãnh vực chính trị.
Hỏi :
- Vậy thì câu hỏi của tôi có nghĩa là, làm thế nào người ta có
thể sống trong sự hài hòa, thắm đượm tình cảm thiêng liêng, không phải chỉ đơn
giản là chút tình thương từ trên cao ban bố trong cái khuôn tôn giáo -- bất kể
là cái khuôn đáng kính cỡ nào và đã tồn tại bao lâu?
Krishnamurti :
- Một người sống an bình chốn làng quê, hoặc mơ màng trong một
hang động trên sườn đồi "thiêng", rõ ràng không phải là sống đạo theo
kiểu mà chúng ta đang bàn thảo. Chấm dứt sự xung đột, đối nghịch, là một trong
những điều phức tạp nhất. Nó cần đến sự tự quan sát bản thân đồng thời mẫn cảm
trong tỉnh giác đối với ngoại cảnh cũng như nội tâm. Mâu thuẫn, đối kháng
chỉ chấm dứt khi có sự thấu triệt những mầm mống mâu thuẫn ngay từ chính bản
thân. Mâu thuẫn này sẽ luôn luôn tồn tại nếu tự thân không thoát ra khỏi tri
kiến, vốn là sản phẩm từ quá khứ. Giải thoát khỏi quá khứ có nghĩa là sống
trong hiện tại, không bị ràng buộc bởi thời gian, thoải mái, khai phóng, không
vướng mắc với quá khứ, với tri kiến từ quá khứ.
Hỏi :
- Trong câu giải thoát khỏi quá khứ, ý ông muốn nói gì?
Krishnamurti :
- Quá khứ là toàn bộ những kỷ niệm tích lũy của chúng ta. Trong
phút giây hiện tại, từ những kỷ niệm này, bộ óc của chúng ta tạo ra những niềm
hy vọng và những nỗi sợ hãi về tương lai. Những niềm hy vọng và nỗi sợ hãi này
chính là tương lai về mặt tâm lý; không có chúng, không có chuyện tương lai.
Cho nên, hiện tại là tiến hành của quá khứ, và sự suy nghĩ chính là chuyển động
của quá khứ này. Quá khứ hoạt động trong hiện tại tạo nên cái mà chúng ta gọi
là tương lai. Sự đáp ứng này của quá khứ là hồn nhiên tự động, hiển nhiên
xuất hiện trước khi chúng ta biết tới nó.
Hỏi :
Krishnamurti :
- Phải tỉnh giác trước hoạt động này mà không lựa chọn - vì lựa
chọn thì cũng lại còn quá là một hành động bắt nguồn từ quá khứ -, nghĩa là chỉ
quan sát quá khứ: sự quan sát này không phải là một chuyển động của quá khứ.
Quan sát mà không khởi lên một hình ảnh, ý niệm về tư tưởng nào thì đó là hành
động về một quá khứ đã chết. Quan sát cái cây mà không có một ý nghĩ nào chính
là hoạt động không bắt nguồn từ quá khứ. Chỉ thuần túy quan sát hành động của
quá khứ thì cũng chính là hoạt động không từ quá khứ. Sự kiện nhìn
quan trọng hơn là cái bị nhìn. Tỉnh giác về quá khứ trong sự quan sát không lựa
chọn ấy không chỉ là hành động theo cách khác, mà là một sự thay đổi hoàn toàn
khác. Trong sự tỉnh giác này, ký ức hoạt động không bị cản ngăn, phơi phới và
hữu hiệu. . .
. . . Cho nên, giải thoát khỏi tri kiến là thật sự sống
đạo. Đó không có nghĩa là xóa bỏ tri kiến, mà là bước sang một chiều hướng, một
cách sống khác, cách sống này không xuyên qua tri kiến để ứng xử với đời, mà
chỉ quan sát tri kiến thôi.
Hành động thấy mà không lựa chọn này là hành động của thương yêu. Sống đạo chính là sống như thế này, tất cả sự sống đều trong tình thương yêu này, trái tim thanh khiết cao thượng cũng chính là tình thương yêu này.
Hành động thấy mà không lựa chọn này là hành động của thương yêu. Sống đạo chính là sống như thế này, tất cả sự sống đều trong tình thương yêu này, trái tim thanh khiết cao thượng cũng chính là tình thương yêu này.
Cho nên tôn giáo thuần túy, tâm hồn, cuộc đời, tình
yêu và lòng trắc ẩn, tất cả đều là một thể.
Danny Việt dịch
CUỘC CÁCH MẠNG ĐÍCH THỰC
Bây giờ thử hỏi có thể nào tới cái trạng thái đột biến mà chính
quí vị trực nhận được chân lý và do đó, chấm dứt được sự hoang mang, hỗn loạn
chăng? Tôi nói rằng có, và rằng đó là cách độc nhất có thể xảy ra. Tôi nói có
thể làm được điều đó và phải làm được, không phải căn cứ theo giả thuyết hoặc
niềm tin. Để gây nên cuộc cách mạng phi thường này, - không phải là cuộc cách
mạng loại trừ chủ nghĩa tư bản để rồi thiết lập một nhóm khác -, để gây nên
cuộc chuyển hóa tuyệt diệu này, cuộc cách mạng chân chính độc nhất này, là một
vấn đề.
Cái thường được gọi là cách mạng thật ra chỉ là sự điều chỉnh
hoặc cải biến liên tục của phái hữu tùy thuộc theo quan điểm của phái tả mà
thôi. Mà phái tả thì cũng lại chỉ là sự tiếp nối phái hữu nhưng với một sự điều
chỉnh, cải cách. Nếu phái hữu đặt nền tảng trên giá trị của khoái cảm thì phái
tả cũng chỉ là sự tiếp nối của giá trị khoái cảm, có khác nhau là khác ở mức độ
hoặc hoặc cách biểu lộ thôi.
Do đó, cuộc cách mạng chân chính chỉ có thể xẩy ra khi quí vị,
chính tự thể cá nhân quí vị, trở nên tỉnh giác trước cung cách cư xử trong sự
liên hệ đối với mọi người. Thật sự là từ chính quí vị, chính cung cách cư xử
của quí vị trong giao tiếp với mọi người, với vợ, con, cấp trên, hàng xóm của
quí vị, là xã hội. Vốn không có cái gì là bản thân xã hội. Xã hội là quí vị và
tôi, là cung cách đối xử giữa chúng ta tạo nên; đó chính là những trạng
thái tâm thức của chúng ta phóng chiếu ra ngoài.
Cho nên nếu chúng ta không hiểu được nhau, mà chỉ thay đổi ngoại
cảnh, vốn là từ nội tâm phóng chiếu, thì sẽ chẳng có giá trị gì; nghĩa là, khi
mà bản thân tôi còn không hiểu tôi trong sự giao tiếp với quí vị thì sẽ chẳng
thể nào có sự thay thế hoặc cải tiến trong xã hội. Với sự bối rối trong giao
tiếp, tôi tạo nên một xã hội theo với mô hình, với sự biểu lộ ra ngoài của
chính nội tâm tôi. Đó là một thực tế mà chúng ta có thể thảo luận. Chúng ta có
thể thảo luận xem xã hội, sự biểu lộ ra ngoài, đã tạo ra tôi, hay chính tôi đã
tạo ra xã hội.
Vì thế cho nên, phải chăng có một sự hiển nhiên là bản thân tôi
như thế nào trong sự giao tiếp với mọi người đã tạo thành xã hội, và nếu không
có sự thay đổi triệt để chính bản thân tôi thì cũng không thể có một sự thay
đổi từ nền tảng căn bản của xã hội?
Khi chúng ta hy vọng vào một hệ thống để thay đổi xã hội, có
nghĩa là chúng ta đang lảng tránh vấn đề, bởi vì một hệ thống không thể hoán
chuyển con người, con người luôn luôn hoán chuyển hệ thống, như lịch sử đã cho
chúng ta thấy. Ngay chính tôi trong giao tiếp với quí vị, tự hiểu chính mình,
rằng chính tôi là nguyên nhân của những hỗn loạn, bất hạnh, suy sụp, sợ hãi,
tàn nhẫn. Tự thấu hiểu chính mình không phải là vấn đề của thời gian, mà là sự
bừng tỉnh, sự thấu suốt, tôi có thể thấu suốt bản thân ngay trong phút giây
này. Nếu tôi nói :" Ngày mai tôi sẽ thấu suốt bản thân", tức là tôi
vẫn đang đem lại sự lộn xộn và bất hạnh, hành động của tôi vẫn là sự phá hoại.
Phút giây tôi nói là "Tôi sẽ hiểu", tức là tôi đem tới
yếu tố thời gian và như thế là tôi đã hoàn toàn bị dính mắc vào cơn sóng của
hoang mang, hỗn loạn và tàn phá.
Sự thấu triệt là ngay bây giờ, không phải là "để đến
mai". "Để đến mai" dành cho những tâm trí lười biếng, lờ đờ,
những bộ óc chán chường. Khi quí vị thấy thích thú điều gì, quí vị làm việc đó
ngay lập tức, sự thấu triệt xuất hiện tức thì, sự chuyển hóa bừng lên tức thì.
Nếu quí vị không thay đổi ngay lúc này, quí vị sẽ không bao giờ thay đổi, bởi
vì sự thay đổi xẩy ra ngày mai sẽ chỉ là sự điều chỉnh, không phải là sự chuyển
hóa toàn bộ. Chuyển hóa tâm thức chỉ có thể xuất hiện ngay lập tức, cách mạng
là ngay lúc này, không chờ đến ngày mai.
Khi cuộc chuyển hóa tâm thức xẩy ra, các vấn đề của quí vị sẽ
được giải quyết trọn vẹn, hoàn hảo, bản ngã đã được hóa giải, không còn lo lắng
cho chính nó nữa; thế là quí vị đã vượt qua được làn sóng của sự phá hoại.
Krishnamurti -- Total Freedom
Danny Việt dịch
LẮNG NGHE
Tại sao quí vị ngồi đây nghe tôi nói?
Tóm lại, đã có bao giờ quí vị tự hỏi tại sao mình lại lắng nghe
lời người khác nói không vậy?
Và lắng nghe người khác có nghĩa là gì?
Tất cả quí vị đang ngồi trước mặt một người đang nói. Vậy quí vị
đang lắng nghe những điều phù hợp với ý nghĩ trong đầu óc quí vị để tăng thêm
sự tin chắc hay là quí vị muốn nghe để phát hiện ra những điều mới lạ? Quí vị
có thấy sự khác biệt chăng? Nghe để mà tìm hiểu thì đặc biệt khác hẳn với nghe
chỉ để mà xác nhận những điều mình đã nghĩ. Nếu quí vị ngồi đây chỉ để có được
sự thừa nhận, để được khuyến khích cho sự suy nghĩ đã có của quí vị, thì sự
lắng nghe này sẽ chỉ có chút xíu ý nghĩa mà thôi. Nhưng nếu quí vị lắng nghe để
phát hiện những điều mới lạ thì tâm trí quí vị sẽ được thoải mái, không
gắn bó với bất cứ cái gì; trong trường hợp đó, nó sẽ rất tinh tường, sắc bén,
sống động, tìm tòi, hiếu kỳ, và vì thế, nó có khả năng khám phá. Cho nên, như
vậy thì sự xem xét coi tại sao quí vị lắng nghe và quí vị lắng nghe cái gì
không phải là rất quan trọng sao?
Có bao giờ quí vị ngồi rất lặng lẽ, không để ý vào bất cứ điều
gì, không cố gắng tập trung tư tưởng, nhưng với một tâm hồn rất an tịnh, rất
tịch mịch. Thế rồi quí vị nghe thấy tất cả mọi thứ tiếng động, phải vậy không?
Quí vị nghe thấy những tiếng ồn ào từ rất xa xôi mơ hồ vọng lại cũng như những
tiếng động gần hơn, rồi tới những tiếng rất gần, những âm thanh kế cận quí vị -
có nghĩa là thật sự quí vị đang nghe tất cả mọi thứ tiếng. Được vậy bởi
vì tâm trí quí vị không bị gò ép vào một con đường nhỏ hẹp. Nếu quí vị có thể
lắng nghe theo cách này, nghe một cách thoải mái, không chút căng thẳng, quí vị
sẽ cảm nhận một sự chuyển biến đặc biệt, một sự chuyển biến không do ý muốn,
không do đòi hỏi; và cùng với sự chuyển biến là một nội tâm sâu sắc, đẹp tuyệt
vời.
Quí vị hãy thử coi, hãy thử ngay đi. Trong khi nghe tôi nói, quí
vị đừng chỉ nghe tiếng nói của một mình tôi, nhưng đồng thời, quí vị nghe luôn
cả những tiếng động chung quanh quí vị. Hãy nghe thanh âm từ những cái chuông,
từ những cái lục lạc ở cổ bò và những tiếng chuông ngân từ đền thờ, chùa chiền;
hãy nghe tiếng động xa xôi của đoàn tầu và tiếng xe lăn trên đường; và nếu quí
vị lặng lẽ hơn, cũng nghe cả tôi nữa, quí vị sẽ thấy cái chiều sâu thẳm trong
sự lắng nghe.
Nhưng muốn vậy, quí vị phải có một tâm trí hết sức an tịnh. Nếu
thật sự quí vị muốn lắng nghe thì tâm quí vị tự nhiên sẽ yên lặng, phải vậy
không? Quí vị sẽ không bị những chuyện xảy ra ngay bên cạnh quí vị làm xao
lãng; tâm quí vị lặng lẽ vì đang trầm lắng nghe mọi âm thanh. Nếu quí vị có thể
lắng nghe theo cách này một cách thoải mái, nhuần nhuyễn, quí vị sẽ nhận thấy
một sự chuyển hóa tuyệt vời xẩy ra trong trái tim quí vị, trong nội tâm quí vị
-- sự chuyển hóa mà quí vị không bao giờ nghĩ tới, hoặc không có cách nào tạo
ra được.
Krishnamurti -- Think on these Things
Danny Việt dịch
ĐỐI THOẠI VỚI CHÍNH
MÌNH
Tôi nhận thấy rằng tình yêu không thể tồn tại khi có sự ghen
tuông xuất hiện, cũng không tồn tại khi có sự ràng buộc. Vậy thì, liệu
tôi có thể thoát ra khỏi sự ghen tuông và ràng buộc chăng?
Tôi nhận ra rằng tôi chưa hề yêu, đó là sự thật. Tôi sẽ không tự
dối mình, tôi sẽ không nói giả bộ với vợ tôi là tôi yêu nàng. Tôi chưa biết yêu
là cái gì. Nhưng tôi biết rõ là tôi ghen và tôi biết rõ là tôi mê say nàng kinh
khủng. Do sự mê say đó, tôi đâm ra sợ mất nàng, đâm ra ghen tuông, bồn chồn. Đó
là một hình thức lệ thuộc. Tôi không muốn lệ thuộc, nhưng tôi lệ thuộc vì
tôi cô đơn. Tôi lang thang trong văn phòng, trong xưởng máy, rồi về nhà, mong
có được cảm giác thoải mái và tình thân hữu để lẩn trốn, khỏi phải đối diện với
chính mình.
Nay thì tôi tự hỏi "Tôi phải làm thế nào để có thể tự giải
thoát ra khỏi cái cảnh ràng buộc này?"
Tôi đang dùng câu chuyện này làm một thí dụ.
Thoạt kỳ thủy, tôi muốn lẩn tránh câu hỏi. Tôi không biết sẽ
giải quyết thế nào với vợ tôi. Khi tôi đã thực sự thoát ra khỏi sự ràng
buộc với nàng thì mối liên hệ giữa tôi và nàng có thể thay đổi. Nàng có thể
ràng buộc vào tôi và tôi có thể sẽ không còn ràng buộc vào nàng hay bất cứ một
người đàn bà khác nào. Tôi sẽ tìm hiểu điều này. Cho nên tôi sẽ không bỏ chạy
khỏi điều tôi tưởng tượng về cái hậu quả của sự hoàn toàn giải thoát khỏi mọi
ràng buộc. Tôi không biết yêu là gì, nhưng tôi nhìn rất rõ, chắc chắn, không
nghi ngờ, rằng ràng buộc vào với vợ tôi có nghĩa là ghen tuông, chiếm hữu, lo
sợ, bồn chồn, và tôi muốn giải thoát ra khỏi tất cả những điều này.
Cho nên tôi bắt đầu tìm hiểu. Tôi đi tìm một phương pháp và tôi
bị mắc míu vào một hệ thống. Có vị đạo sư dậy rằng:"Tôi sẽ giúp anh gỡ bỏ
ràng buộc, làm điều này, điều này, thực hành thế này, thế này". Tôi vâng
lời ông ta vì tôi thấy được tầm quan trọng của tự do, giải thoát, và ông ta đã
hứa với tôi rằng nếu tôi làm theo lời ông thì tôi sẽ nhận được phần thưởng.
Nhưng rồi tôi nhìn ra rằng tôi đang đi tìm phần thưởng. Tôi thấy tôi mới ngu
ngốc làm sao, muốn được tự do giải thoát lại mắc vào cái phần thưởng!
Tôi không muốn bị dính mắc, nhưng rõ ràng là tôi đang bị dính
mắc vào một ý kiến của ai đó, hoặc trong cuốn sách nào đó, hoặc phương pháp nào
đó, để hy vọng sẽ được cái phần thưởng là sự "giải thoát khỏi dính
mắc". Thế là phần thưởng trở thành một cái dính mắc mới. Vì vậy, tôi tự
nhủ: "Coi điều tôi đã làm, hãy cẩn thận, đừng để bị xập vào cái bẫy".
Dù đó là một người đàn bà, một phương pháp, một ý kiến, thì cũng vẫn là một sự
dính mắc, ràng buộc. Bây giờ thì tôi canh chừng kỹ vì tôi đã được bài học là
"Chớ có đổi sự ràng buộc này với một cái khác mà cũng lại là một sự
ràng buộc".
Tôi tự hỏi: "Làm sao để mình có thể thoát khỏi mọi ràng
buộc?" Động lực nào đã khiến cho tôi muốn thoát ly khỏi mọi ràng buộc.
Phải chăng vì tôi muốn đạt được cái trạng thái sống mà không bị ràng buộc,
không sợ hãi, v. v . . .? Và bỗng nhiên tôi nhận ra rằng cái động lực đó chỉ
đạo hướng đi, và cái hướng đi đó sẽ đòi hỏi tự do của tôi. Tại sao lại có động
lực? Động lực là gì? Động lực là một sự mong mỏi, hay là một khát vọng để đạt
được điều gì đó. Tôi thấy tôi bị ràng buộc vào một động lực. Không phải chỉ có
vợ tôi, không phải chỉ có ý nghĩ của tôi, hoặc phương pháp, nhưng động lực của
tôi đã trở thành sự ràng buộc! Hóa ra suốt đời tôi làm việc trong sự ràng buộc
- vợ, phương pháp, và cái động lực để chiếm được một cái gì đó trong tương lai.
Tôi đã bị dính mắc với tất cả những cái đó. Tôi thấy thật là quá sức phức tạp.
Tôi không ngờ là muốn giải thoát khỏi sự ràng buộc lại bao hàm tất cả
những điều đó. Bây giờ thì tôi nhìn thấy rõ như là tôi nhìn trên tấm bản đồ,
đâu là đường chính, đường phụ và đường làng. Tôi nhìn rất rõ. Rồi tôi tự nhủ:
"Vậy thì, có thể nào tôi thoát khỏi được sự ràng buộc lớn mà tôi có với vợ
tôi, và cả cái phần thưởng mà tôi nghĩ là tôi sẽ được cùng với luôn cả cái động
lực?" Tôi đã bị dính mắc với tất cả những cái đó. Tại sao vậy? Phải chăng
chính tự bản thân tôi đã thiếu thốn. Phải chăng vì tôi quá cô đơn nên đã muốn
trốn thoát khỏi cái cảm giác bị biệt lập bằng cách tìm tới một người đàn bà,
một ý tưởng, một động lực, như là tôi cần có một cái gì đó để mà bám víu.
Tôi thấy là như vậy, tôi cô đơn và đành lẩn tránh bằng cách bám
víu vào một cái gì đó để thoát được cái cảm giác bị biệt lập một cách quá
mức.
Bây giờ thì tôi lại muốn biết tại sao tôi cô đơn, để thấy được
điều đã làm cho tôi bị dính mắc. Niềm cô đơn đó đã khiến cho tôi phải lẩn trốn
bằng sự ràng buộc, dính mắc vào cái này, cái nọ, và tôi thấy rằng ngày nào
mà tôi còn cô đơn thì cái trình tự này sẽ cứ diễn ra. Cô đơn nghĩa là gì? Nó
đến cách nào? Vốn là bản năng, do thừa kế , hay do những hoạt động hằng ngày
của tôi mà sinh ra? Nếu là từ bản năng, nếu là do thừa kế, thì đó là định mệnh
đã an bài, không phải lỗi tại tôi. Nhưng vì tôi không chấp nhận chuyện đó, tôi
thắc mắc, tìm hiểu, và giữ sự thắc mắc đó trong lòng. Tôi quan sát, nhưng tôi
không cố tìm lấy một câu trả lời bằng suy tư, tri thức. Tôi không bảo sự cô đơn
nên làm gì. Tôi đang xăm xoi coi nó sẽ bảo tôi làm gì. Có một sự quan sát để
cho nỗi cô quạnh tự phơi bày. Nó sẽ không tự phơi bày nếu tôi bỏ chạy, nếu tôi
sợ, nếu tôi chống đối nó. Vì thế, tôi lặng lẽ quan sát nó. Vì tôi chăm
chú quan sát nó cho nên tư tưởng không xen vào được. Sự quan sát quan trọng hơn
là để cho sự suy nghĩ dấy lên rất nhiều. Và bởi vì toàn bộ năng lực của tôi đều
dồn vào sự quan sát nỗi cô quạnh, tư tưởng không nẩy ra được. Tâm trí bị thách
đố và phải trả lời. Bị thách đố, tâm trí lâm vào cơn khủng hoảng, căng thẳng.
Trong cơn khủng hoảng, bạn có tràn ngập năng lực và cái năng lực đó sẽ tồn tại
mà không bị sự suy nghĩ chia trí.
Đó là sự thách đố cần được trả lời.
Tôi khởi sự bằng cách đối thoại với chính mình. Tôi tự hỏi:
"Vậy chứ cái chuyện lạ hoắc mà ta gọi là "yêu" này, là cái gì,
mà ai cũng nói tới nó, viết về nó, - tất cả những bài thơ tình cảm lãng mạn,
tranh ảnh, tình dục, và tất cả những lãnh vực khác nữa, liên quan đến nó. Tôi
hỏi: Thật ra thì có cái gọi là "yêu" chăng? Tôi thấy nó không tồn tại
khi có mặt của ghen tuông, thù ghét và sợ hãi. Cho nên tôi không còn quan tâm
đến "yêu" nữa Bây giờ thì tôi quan tâm đến sự sợ hãi của tôi, sự ràng
buộc, dính mắc của tôi, nó "là cái gì"? Tại sao tôi bị ràng buộc,
dính mắc? Tôi thấy rằng một trong những lý do -- tôi không nói đây là toàn bộ
lý do -- là vì tôi đã quá cô đơn, hiu quạnh, một cách thê thảm. Càng lớn, tôi
càng thấy cô quạnh. Tôi quan sát nó. Đây là một thách đố để tìm cho ra giải
đáp, và vì là cuộc thách đố nên tất cả nghị lực của tôi đều sẵn sàng để đáp
ứng. Thật là đơn giản. Nếu có một thảm họa, hoặc một tai nạn, hoặc bất kể là
cái gì cần đến sự chống chọi, thế là tôi có sẵn ngay năng lực để giải quyết.
Tôi chẳng cần hỏi tại sao tôi có được cái năng lực đó. Khi nhà cháy, tôi có
ngay năng lực để hành động, năng lực xung mãn nữa ấy chứ. Tôi không ngồi đó mà
nói: "Ý da! Tôi phải có cái năng lực này", rồi cứ ngồi đó mà chờ năng
lực, cả cái nhà sẽ cháy tiêu.
Thế là đã có cái năng lực vĩ đại này để mà trả lời cho câu hỏi
tại sao lại có sự cô đơn kia. Tôi loại bỏ những tư tưởng, những giả định, những
lý thuyết rằng đó là do thừa kế, hoặc là do bản năng. Tất cả vô nghĩa đối với
tôi. Sự cô đơn chính là cái "đang là". Tại sao lại có sự cô đơn này
mà tất cả mọi người, nếu nhận ra, có thể trải qua một cách nông cạn hoặc sâu
xa. Tại sao lại có nó? Tâm trí có làm gì khiến cho nó nẩy sinh không? Tôi đã
loại bỏ cái lý thuyết về bản năng hoặc thừa kế , và rồi tôi tự hỏi: Cái
tâm trí, bản thân bộ óc, đã đem nỗi cô đơn này, sự hiu quạnh mênh mông này tới
chăng? Phải chăng sự chuyển động của suy tư đã làm chuyện đó? Phải chăng chính
ý nghĩ trong đời sống hằng ngày của tôi đã sáng tạo ra cái cảm giác cô đơn.
Trong văn phòng, tôi tự cô lập vì tôi muốn là nhân vật điều hành lớn nhất, cho
nên suốt ngày, mọi ý nghĩ đều tập trung vào sự tự cô lập hóa. Tôi thấy rõ suốt
ngày tư tưởng của tôi hoạt động để làm cho nó trở thành thượng hạng, tâm trí tự
nó đang làm việc theo chiều hướng tiến tới sự cô đơn này.
Vậy thì vấn đề là: Tại sao sự suy nghĩ làm chuyện đó? Vậy
thì bản chất của sự suy nghĩ là làm việc cho chính nó chăng? Vậy thì bản chất
của sự suy nghĩ là tạo ra cái sự cô đơn, hiu quạnh này chăng? Nền giáo
dục mang lại sự cô đơn này, nó cho tôi một nghề nghiệp, một ngành chuyên môn,
và luôn cả . . . sự hiu quạnh! Tư tưởng, vốn là những mẩu chắp vá, vốn bị
giới hạn, và kẹt trong thời gian, đã tạo ra sự hiu quạnh này. Trong cái giới
hạn đó, nó tìm ra sự an toàn khi nói lên: "Tôi có một nghề cao quý cho
cuộc đời, tôi là giáo sư, sự an bình của tôi thật là hoàn hảo".
Cho nên sự quan tâm của tôi là "Tại sao sự suy tư lại phải
làm vậy?" Phải chăng bản chất của tư tưởng là như thế? Dù gì đi nữa,
bất cứ điều gì do suy nghĩ mà ra thì đều bị giới hạn.
Bây giờ vấn đề là: Liệu sự suy tư có nhận ra được rằng bất
cứ điều gì do nó tạo ra cũng đều có giới hạn, chắp vá, manh mún, và vì thế, cô
lập, tất cả đều như thế.
Đây là điểm rất quan trọng: Có thể nào bản thân sự suy
tư nhận ra được cái giới hạn của chính nó không? Hay là tôi phải bảo cho
nó biết là nó bị giới hạn?
Hiểu được điều này tôi thấy là vô cùng quan trọng, đó là cốt tủy
của vấn đề.
Nếu sự suy tư nhận ra được cái giới hạn của bản thân nó, nó sẽ
không cản trở, không xung đột, nó sẽ nói:" Tôi là vậy đó" Nhưng nếu
tôi nói cho nó biết rằng nó bị giới hạn, rồi tôi trở thành tách ra khỏi cái
sự hạn chế này, rồi tôi phấn đấu để vượt qua nó, như thế là sẽ có xung
đột và bạo lực, không phải là yêu thương.
Vậy thì, liệu bản thân sự suy tưởng có tự biết rằng nó vốn bị
giới hạn chăng? Tôi phải tìm ra điều này. Tôi đang bị thách đố. Vì tôi đang bị
thách đố cho nên tôi có đầy nghị lực để làm việc. Nói cách khác, liệu ý thức có
nhận ra rằng cái tri kiến mà nó chất chứa chính là bản thân nó chăng? Hoặc như
tôi đã từng nghe có người nói: "Ý thức chính là cái nội dung mà nó có, cái
nội dung đó đã tạo thành ý thức". Vì thế, tôi nói: "Phải, đúng
vậy". Bạn có thấy sự khác nhau giữa hai cái chăng? Cái sau, được tạo ra
bằng sự suy tư, bị áp đặt bởi cái "tôi". Nếu tôi áp đặït điều gì vào
tư tưởng, thế là có xung đột. Cũng như một chính thể độc tài áp chế người
dân, ở đây, chính thể độc tài chính là cái mà tôi đã tạo ra.
Bởi vậy, tôi tự hỏi: Tư tưởng có nhận thức được sự giới hạn
của chính nó chăng? Hay nó cứ giả bộ như nó là cái gì phi thường, cao quý,
thiêng liêng? Rõ là vô nghĩa, bởi vì tư tưởng thoát thai từ ký ức. Tôi nghĩ
rằng phải làm sáng tỏ điểm này, đó là không có ảnh hưởng nào từ phía ngoài áp
đặït vào tư tưởng nói rằng nó bị giới hạn. Vì không có sự áp đặt, nên
không có va chạm, xung đột, nó tự nhận ra rằng nó bị giới hạn, nó nhận ra rằng
dù nó có làm gì, -- thí dụ như sùng bái đấng Tối Cao v.v... - cũng là trong
giới hạn của tư tưởng, kém cỏi, hời hợt, dù tư tưởng đã tạo ra được những giáo
đường đẹp phi thường khắp Âu Châu để mà tới chiêm bái.
Trong khi đối thoại với chính bản thân, tôi đã phát hiện rằng
sự cô độc đó là do tư tưởng tạo ra. Nay thì tư tưởng lại tự nhận ra
rằng nó bị giới hạn và do đó không thể giải quyết được vấn đề cô đơn. Vì nó
không thể giải quyết được vấn đề cô đơn, thế thì sự cô đơn có thực sự hiện hữu
chăng? Tư tưởng đã tạo ra cái "cảm giác" về sự cô quạnh, sự trống
vắng, bởi vì nó bị giới hạn, manh mún, rời rạc, chia chẻ, và khi mà nó nhận ra
rằng sự cô đơn là không có thật, thế là sự dính mắc tan rã. Tôi chẳng làm
gì cả. Tôi đã quan sát sự ràng buộc, cái gì đã bị áp đặt vào đó, tham
lam, sợ hãi, cô đơn, tất cả, và vì theo dõi nó, quan sát nó, không phân tách
nhưng chỉ chú ý nhìn, nhìn, và nhìn, tôi phát hiện ra là chính cái tư
tưởng này đã tạo ra tất cả. Suy tưởng do tính chất chắp vá, manh mún của nó, đã
tạo nên sự ràng buộc này. Khi tư tưởng nhận ra được điều đó, sự ràng buộc chấm
dứt. Khỏi cần nỗ lực gì hết cả. Ngay khi có sự nỗ lực, xung đột liền xuất
hiện trở lại.
Trong tình yêu, không có sự ràng buộc. Nếu có ràng buộc, thì
không có tình yêu. Loại bỏ cái không phải là yêu, loại bỏ sự ràng buộc là loại
bỏ cái nhân tố chính. Tôi hiểu nó có nghĩa là gì trong cuộc sống hằng ngày của
tôi: Không hồi tưởng lại những điều vợ tôi, bạn gái tôi, láng giềng tôi đã làm
cho tôi đau khổ như thế nào; đồng thời cũng không dính mắc vào bất cứ hình ảnh
nào do tư tưởng tạo ra về nàng, về sự khen ngợi mà nàng dành cho tôi, về sự
nàng đã cho tôi biết bao niềm an ủi, về sự tôi đã được hưởng khoái lạc
trong tình chăn gối mặn nồng như thế nào, không hồi tưởng lại tất cả mọi điều
khác nhau do sự suy tưởng chuyển động tạo nên hình ảnh. Như thế, mọi dính mắc
vào hình ảnh sẽ bị triệt tiêu.
Ngoài ra, còn những yếu tố khác: Tôi có phải trải qua tất cả,
từng bước một, từng chuyện một chăng? Hay như thế là xong việc rồi? Tôi có
phải thẩm xét, phải tra cứu - như tôi đã tra cứu sự dính mắc - sự sợ hãi, niềm
hoan lạc, và ước vọng được thoải mái chăng? Tôi thấy rằng tôi không cần phải
trải qua một cuộc điều tra về các yếu tố linh tinh này nữa. Tôi đã
"thấy" nó. Tôi đã "bắt được" nó.
Vậy thì, qua sự dứt bỏ cái "không phải là yêu", thấy
được thế nào là "yêu". Tôi chẳng cần phải hỏi "yêu là cái
gì". Tôi chẳng cần phải theo đuổi nó. Nếu phải theo đuổi nó để đạt được,
thì không phải là yêu, mà là phần thưởng.
Cho nên tôi đã buông xả ra, tôi đã chấm dứt sự tìm tòi đó một
cách từ tốn, thận trọng, không méo mó, không ảo giác, không tất cả những cái
không phải là yêu, cái còn lại, chính là yêu.
Krishnamurti -- Freedom, Love, and
Action
Ý NGHĨA CỦA ĐỜI SỐNG
Hỏi :
- Chúng ta sống nhưng không biết vì lý do gì mà chúng ta sống.
Đối với phần đông chúng ta, đời sống có vẻ như là vô nghĩa. Ông có thể nói cho
chúng tôi biết về ý nghĩa và mục đích của cuộc đời chăng?
Krishnamurti :
- Thế thì tại sao bạn hỏi câu này? Tại sao bạn lại yêu cầu tôi
nói cho bạn biết về ý nghĩa và mục đích của cuộc đời? Chúng ta hiểu như thế nào
khi nói "cuộc đời"? Vậy cuộc đời có ý nghĩa, có mục đích chăng? Thế
bản thân sự sống này không tự nó có mục đích, có ý nghĩa chăng? Tại sao chúng
ta còn muốn hơn thế nữa?
Bởi vì chúng ta quá bất mãn với đời sống của chúng ta, cuộc đời
chúng ta quá vô vị, quá lòe loẹt hào nhoáng thùng rỗng kêu to, quá tẻ nhạt, làm
hoài cùng một việc, cho nên chúng ta muốn cái gì hơn thế, cái gì vượt qua những
điều chúng ta đang làm. Vì cuộc sống hằng ngày của chúng ta quá trống rỗng, quá
trì trệ, quá vô nghĩa, quá nhàm chán, u mê đến mức không còn chịu nổi, nên
chúng ta nói rằng cuộc đời phải có ý nghĩa hơn và do đó bạn hỏi tôi câu này.
Chắc chắn người có một đời sống nội tâm phong phú, người nhìn sự vật đúng theo
thực tế và an lạc với những gì mình có, thì không bị bối rối; anh ta sáng suốt,
cho nên anh ta không cần hỏi về mục đích của cuộc đời. Đối với anh ta thì ngay
chính bản thân sự sống đã là toàn bộ cuộc hành trình từ khởi đầu tới kết thúc.
Điều khó khăn cho chúng ta là, bởi vì cuộc sống của chúng ta quá trống rỗng,
nên chúng ta muốn tìm cho nó một mục đích và nỗ lực để làm chuyện đó. Cái loại
mục đích này chỉ có thể có trong tư tưởng, không có chút thực tế nào cả; và khi
mục đích được theo đuổi bằng một đầu óc khờ ngốc, ù lì, bởi một trái tim rỗng
tuếch, thì cái mục đích đó cũng sẽ vô nghĩa mà thôi. Cho nên chúng ta phải có
quyết tâm làm thế nào để cho cuộc sống được phong phú, không phải bằng tiền tài
vật chất hoặc mọi sự liên quan đến nó, mà là nội tâm phong phú -- điều này
không có gì là khó hiểu...
Đời sống là tương quan giao hảo. Đời sống là hành động trong sự
liên hệ; khi tôi không cảm thông được trong mối tương quan giao hảo, hoặc khi
mối tương quan bị lộn xộn thì tôi đi tìm một mục đích cao xa hơn. Tại sao cuộc
sống của chúng ta lại trống rỗng, vô nghĩa như vậy? Tại sao chúng ta lại cô
đơn, chán nản như vậy? Bởi vì chúng ta chẳng bao giờ nhìn vào nội tâm chúng ta
và tự hiểu chính mình. Chúng ta không bao giờ chịu tự mình chấp nhận rằng cuộc
đời này là tất cả những điều chúng ta biết, do đó, nó đáng được thâm hiểu đầy
đủ, trọn vẹn. Chúng ta thích tránh né chuyện tự phán xét mình hơn cho nên chúng
ta muốn đi tìm mục đích của cuộc đời bên ngoài mối tương quan liên hệ. Nếu
chúng ta bắt đầu hiểu thấu những hành động trong mối liện hệ của chúng ta đối
với mọi người, với tài sản, với những niềm tin và tư tưởng, thì chúng ta sẽ
thấy được rằng bản thân mối tương quan liên hệ trong cuộc đời sẽ mang đến phần
thưởng của chính nó.
Bạn không cần phải đi tìm. Nó cũng giống như đi tìm lòng thương
yêu. Có thể nào nhờ tìm kiếm mà thấy được lòng thương yêu chăng? Lòng thương
yêu không thể có được do sự nỗ lực gầy dựng. Bạn sẽ tìm ra lòng thương yêu
trong mối dây giao hảo, không ở bên ngoài sự giao hảo, và cũng vì chúng ta
không có lòng thương yêu nên chúng ta muốn có một mục đích cho đời sống.
Khi có lòng thương yêu, điều bản chất vốn là vĩnh cửu, thì sẽ
không còn chuyện đi tìm Thượng Đế, bởi vì lòng thương yêu vốn là Thượng Đế...
Krishnamurti -- The First & Last Freedom
NGƯỜI SỐNG ĐẠO
Bây giờ thì chúng ta ai cũng biết rằng thế giới đang gặp cơn
khủng hoảng lớn với một dân số nghèo đói thiếu ăn thiếu mặc khổng lồ cùng với
nguy cơ chiến tranh luôn luôn rình rập. Đó là một vấn đề nan giải và việc của
chúng ta là phải tìm ra giải pháp để đáp ứng một cách đầy đủ, trọn vẹn và toàn
hảo cho cái vấn đề nan giải này, một điều không thể làm nổi nếu chúng ta không
thấu hiểu được cái qui trình suy nghĩ của chính chúng ta. Sự suy nghĩ của chúng
ta thì rõ ràng là đã bị thuần hóa theo điều kiện; trước mọi vấn đề, chúng ta
luôn luôn ứng xử trên cương vị những người theo đạo Ấn Độ, những người theo đạo
Hồi, những người theo chủ nghĩa cộng sản, những người theo chủ nghĩa xã hội,
những người theo đạo Cơ Đốc, v.v..., và cái cách ứng xử như thế trên căn bản là
không thích đáng; từ đó nẩy sinh ra những mâu thuẫn, va chạm, xung đột, không
chỉ trong từng cá nhân mà là giữa các nhóm người, giữa các chủng tộc và giữa
các quốc gia. Chỉ khi nào chúng ta hiểu thấu được cái qui trình suy tư của
chúng ta và hoàn toàn khai phóng nó ra khỏi tình trạng đã bị thuần hóa theo
điều kiện, đó là, khi chúng ta không còn phản ứng trên cương vị người theo Ấn
Độ giáo, Cộng sản - hoặc bất cứ cái gì bạn thích -- có nghĩa là đáp ứng của
chúng ta cho công việc khó khăn này không còn dựa vào những suy nghĩ bắt nguồn
từ những tư tưởng đã bị thuần hóa bởi những điều đã xảy ra trong quá khứ mà
chúng ta đã chịu ảnh hưởng khi trước, có thế chúng ta mới thực sự giải quyết
được vấn đề một cách toàn triệt và hoàn hảo. Khi chúng ta không còn tùy thuộc
vào bất cứ một chủng tộc hoặc tôn giáo nào, khi mỗi chúng ta thấu triệt
được bối cảnh xuất thân của mình, tự thoát ra khỏi để mà tìm coi cái gì là
chân lý, thì khi đó chúng ta mới có thể ứng xử được một cách đầy đủ, trọn vẹn,
và cách ứng xử này chính là một cuộc cách mạng.
Chỉ có con người sống đạo mới có thể làm nổi một cuộc cách mạng
chủ yếu, ngoài ra, người mà đã có một tín ngưỡng, một giáo điều, đứng trong một
tổ chức tôn giáo nào đó thì không phải là người sống đạo. Người sống đạo là
người hiểu thấu toàn bộ qui trình của cái-gọi-là tôn giáo và các kiểu giáo
điều khác nhau cùng với sự thèm khát được cảm thấy an lạc xuyên qua một số cách
thức lễ nghi và tín ngưỡng nào đó. Muốn được vậy, người đó phải tách ra khỏi
cái khung của tôn giáo có tổ chức, khỏi tất cả giáo điều và tín ngưỡng để tìm
kiếm cái tối thượng; và chính người đó mới thật sự là làm cách mạng triệt để,
bởi vì tất cả các kiểu cách mạng khác chỉ là chắp vá, manh mún và do đó không
thể tránh được chuyện sẽ đem tới những vấn nạn khác tồi tệ hơn. Nhưng cái con
người nỗ lực tìm kiếm cái gì là chân lý, cái gì là Thượng Đế, thì chính là anh
ta đang làm cách mạng đích thực bởi vì sự phát hiện được cái gì là chân lý sẽ
là một giải đáp trọn vẹn chứ không phải là những giải đáp tạm bợ, chắp vá.
Vậy thì, liệu cái tâm có thể nhận biết được tình trạng bị điều
kiện hóa của nó và từ đó tự giải thoát ra khỏi tình trạng đó chăng?
Cái tâm bị thuần hóa do sự áp đặt của xã hội, bởi nhiều dạng
thức văn hóa, tôn giáo, giáo dục khác nhau, đồng thời cũng bởi toàn bộ qui
trình của khát vọng, của sự phấn đấu để trở nên cái gì đó mà xã hội dùng nó làm
khuôn mẫu cho mỗi chúng ta, và đồng thời cũng có khuôn mẫu do từng cá nhân tạo
ra cho hắn để đáp ứng với xã hội.
Như thế liệu chúng ta, từng cá nhân, có nhận ra được tình trạng
bị điều kiện hóa của mình, để mà phá vỡ tất cả những giới hạn, có thế tâm trí
mới được tự do để mà phát hiện cái gì là chân lý? Bởi vì đối với tôi thì trừ
phi cái tâm của chúng ta tự giải thoát khỏi tình trạng bị điều kiện hóa, nếu
không, tất cả những vấn đề của xã hội, những mâu thuẫn trong sự giao tiếp của
chúng ta, chiến tranh và những nỗi thống khổ, chắc chắn là sẽ chỉ có tăng với
cấp số nhân, y hệt chuyện hiện nay đang xẩy ra trên thế giới, không chỉ trong
đời sống riêng tư của chúng ta, mà còn trong cả những giao tiếp giữa những cá
nhân, giữa những nhóm những cá nhân mà chúng ta gọi tên là xã hội nữa.
Krishnamurti -- Total Freedom
Danny Việt dịch
TÍN NGƯỠNG
Tín ngưỡng và kiến thức đều có liên hệ thiết thân với lòng ham
muốn, khát vọng; và có thể nói, nếu chúng ta thấu triệt hai vấn đề này thì
chúng ta sẽ hiểu đường đi nước bước của lòng ham muốn, khát vọng, với những rắc
rối, phức tạp của nó.
Tôi thấy rằng dường như vấn đề tín ngưỡng là một trong những
điều mà phần đông chúng ta dễ dàng chấp nhận một cách nhiệt thành, hăm hở, coi
như là chuyện đương nhiên. Tôi không chỉ trích chuyện tín ngưỡng. Điều mà chúng
ta đang làm là cố gắng tìm ra lý do tại sao chúng ta lại chấp nhận tín ngưỡng;
và nếu như chúng ta hiểu được những động cơ thúc đẩy, những nguyên nhân của sự
chấp nhận, thì có lẽ chúng ta không những chỉ có thể hiểu tại sao chúng ta lại
làm như vậy mà hơn thế, còn vượt thoát được ra khỏi nó nữa.
Người ta có thể thấy rằng những niềm tin về chính trị, niềm tin
về tôn giáo, niềm tin về quốc gia dân tộc và nhiều loại niềm tin khác nhau đã
gây ra sự chia rẽ giữa loài người, đã tạo ra mâu thuẫn, rối loạn và thù nghịch
lẫn nhau -- đó là một sự thực hiển nhiên; ấy vậy mà chúng ta lại không muốn từ
bỏ chúng. Nào là niềm tin Ấn Độ giáo, niềm tin Thiên Chúa giáo, Phật giáo - và
vô số niềm tin môn phái và niềm tin quốc gia dân tộc, cùng với vô số ý thức hệ
chính trị khác nhau, tất cả đều tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau, đều đang cố
gắng cải hóa phía khác để họ đổi niềm tin mà chuyển qua phía mình. Người ta có
thể thấy một cách rõ ràng rằng tín ngưỡng chia rẽ con người, tạo ra sự cố chấp,
không khoan nhượng.
Vậy thì có thể sống mà không có tín ngưỡng được chăng?
Chỉ khi nào người ta có thể tự tìm hiểu bản thân trong mối liên
hệ với tín ngưỡng thì người ta mới có thể tìm ra được giải đáp cho vấn đề. Liệu
có thể sống trong cái thế giới này mà không cần tới tín ngưỡng -- không đổi tín
ngưỡng, không thay thế tín ngưỡng này bằng tín ngưỡng khác, nhưng mà thoát ra
khỏi được tất cả mọi loại tín ngưỡng một cách hoàn toàn dứt khoát, để cho con
người tiếp cận được với đời sống một cách mới mẻ trong từng phút giây chăng?
Xét cho cùng, đây mới chính là chân lý: có được cái khả năng tiếp cận với sự
mới mẻ từng phút giây, không bị ràng buộc với những phản ứng theo qui định của
quá khứ, nhờ thế, sẽ không còn những ảnh hưởng tích lũy làm thành một bức chắn
ngăn cách giữa bản thân và thực tại.
Nếu bạn để ý, bạn sẽ thấy rằng một trong những lý do khiến người
ta nẩy ra lòng ham muốn chấp nhận một tín ngưỡng là sự sợ hãi. Nếu chúng ta
không có tín ngưỡng thì chuyện gì sẽ xảy ra cho chúng ta? Không phải là chúng
ta rất sợ chuyện có thể xảy ra sao? Nếu chúng ta không có một khuôn mẫu hành
động dựa trên niềm tin - dù là tin Thượng Đế, hoặc tin vào chủ nghĩa cộng sản,
hoặc tin vào chủ nghĩa xã hội, hay là tin vào chủ nghĩa đế quốc, hoặc tin vào
bất cứ một thể thức tôn giáo nào đó, giáo điều nào đó mà chúng ta đã được thuần
hóa - thì chúng ta sẽ cảm thấy hoàn toàn bơ vơ, mất hướng, không phải sao? Và
phải chăng sự "chấp nhận một niềm tin" này chính là để che đậy nỗi sợ
hãi đó -- nỗi sợ hãi rằng bản thân thật sự chẳng là cái gì cả, rỗng tuếch?
Nói tóm lại, cái chén tách chỉ hữu dụng khi nó có khoảng trống
bên trong lòng chén, cũng thế, nếu như một tâm hồn đã chứa đầy ắp những tín
ngưỡng, những giáo điều, những điều khẳng định, những công thức trích dẫn thì
thật là một đầu óc trì trệ, không sáng tạo; nó chỉ còn là một bộ óc lập đi lập
lại như cái máy mà thôi.
Krishnamurti -- The First & Last Freedom
Phần lớn chúng ta nghe để mà được bảo cho biết phải làm gì, hoặc
để thích hợp với một khuôn khổ mới, hoặc chúng ta nghe chỉ để thu thập thêm tin
tức, dữ kiện. Nếu chúng ta ngồi đây với thói quen đó thì tiến trình của sự nghe
chỉ đem lại rất ít ý nghĩa đối với sự cố gắng của chúng ta trong những buổi
thảo luận này. Và tôi e ngại rằng phần đông chúng ta cũng chỉ quan tâm đến mức
đó thôi, nghĩa là chúng ta muốn được bảo cho biết, chúng ta nghe vì muốn được
dạy dỗ; và với cái đầu óc chỉ muốn được sai bảo thì chắc chắn là không có khả
năng tìm tòi học hỏi.
Tôi nghĩ rằng có một tiến trình của học hỏi không liên quan gì đến sự muốn được dạy một cách thụ động. Vì băn khoăn, bối rối, phần đông chúng ta đi tìm người nào đó có thể giúp chúng ta vượt qua được cơn bối rối, cho nên chúng ta chỉ học hỏi hoặc thu thập kiến thức để thích hợp với một mô hình riêng biệt; và đối với tôi thì dường như tất cả những kiểu học hỏi này đều giống nhau ở điểm là không những càng gây thêm bối rối mà còn làm tổn hại cho tâm hồn nữa.
Tôi nghĩ rằng có một tiến trình của học hỏi không liên quan gì đến sự muốn được dạy một cách thụ động. Vì băn khoăn, bối rối, phần đông chúng ta đi tìm người nào đó có thể giúp chúng ta vượt qua được cơn bối rối, cho nên chúng ta chỉ học hỏi hoặc thu thập kiến thức để thích hợp với một mô hình riêng biệt; và đối với tôi thì dường như tất cả những kiểu học hỏi này đều giống nhau ở điểm là không những càng gây thêm bối rối mà còn làm tổn hại cho tâm hồn nữa.
Tôi nghĩ rằng có một đường lối học hỏi khác, học hỏi, tìm tòi
ngay từ chính bản thân mình, ở đó không có thầy, không có sự dạy bảo, không có
môn sinh, không có đạo sư, linh hướng. Khi bạn bắt đầu tìm tòi từ trong chính
sự điều động của tâm bạn, quan sát sự suy nghĩ của chính bạn, sự hoạt động và
rung cảm hằng ngày của bạn, thì bạn không thể được dạy vì sẽ chẳng có ai ở đó
mà dạy bạn. Bạn sẽ không thể căn cứ sự tìm tòi của bạn vào bất cứ loại thẩm
quyền, giả thuyết, hoặc kiến thức đã tích lũy nào. Nếu bạn làm như vừa kể thì
có nghĩa là bạn sẽ chỉ làm sao cho thích hợp với cái mô thức mà bạn đã dư biết,
do đó, sẽ không còn có chuyện bạn tìm hiểu về chính bạn nữa đâu.
Người ta chấp nhận một cách dễ dàng con đường mòn mà nó đem lại
sự thỏa mãn nhất, tiện nghi nhất và lạc thú nhất. Rất dễ dàng khi đi vào vết xe
cũ với những mệnh lệnh, những qui định của người có thẩm quyền về một tôn giáo
hoặc về một hệ tâm lý, một phương pháp mà từ nó hoặc qua nó, bạn được bảo cho
biết rằng bạn sẽ tìm thấy sự an toàn. Nhưng nếu người ta nhận thấy rằng không
có bảo đảm từ bất cứ loại thẩm quyền nào như vậy thì từ đó người ta sẽ
tìm coi liệu có thể sống không cần bất cứ sự chỉ đạo, kiểm soát hoặc bất cứ sự
cố gắng nào về mặt tâm lý chăng. Vì vậy, người ta bắt đầu nghiên tầm coi cái
tâm có thể hoàn toàn khai phóng để tìm ra sự thật về việc này, nhờ thế người ta
sẽ không còn bao giờ, trong bất cứ trường hợp nào, phải chịu tuân theo bất kỳ
dạng thức nào của thẩm quyền, một cách tâm lý.
Đây là một đòi hỏi quá lớn, vì chúng ta đã được giáo dục, được
thuần thục hóa với sự chấp nhận thẩm quyền bởi lẽ đó là cách sống thoải mái và
dễ dãi nhất. Đặt để tất cả niềm tin và sự trông cậy của chúng ta vào người
nào đó, tư tưởng nào đó, cách giải quyết nào đó, hoặc cách giáo dục nào đó, và
rồi dồn hết tâm trí vào, hy vọng sẽ tìm được sự thỏa mãn sâu xa và niềm an lạc
vững bền -- đã có đạo sư và những lời thuyết giảng đó chu toàn mọi sự và bạn
chỉ có việc tuân theo.
Bây giờ một người thông minh, sáng suốt, có trình độ nhận thức
một cách tương đối, phản kháng lại tất cả những chuyện đó. Sống trong một
xứ tự do như thế này, nơi có tự do ngôn luận, vân vân, bạn phản kháng
mạnh mẽ đối với một thể chế độc tài; nhưng lại sẵn sàng chấp nhận thẩm quyền
của các nhà tâm lý học, các linh hướng, đạo sư, những lời thuyết giảng hứa hẹn
về một tương lai huy hoàng, nhưng không phải là hiện tại; bạn chấp nhận tất cả
những điều đó vì thấy rất thỏa mãn.
Vậy thì chúng ta sẽ dẹp sạch tất cả, -- nếu bạn muốn -- bởi vì
nếu không thì bạn sẽ không thể đánh thức được cái trí tuệ mà chúng ta đang bàn
tới.
Krishnamurti -- Reflections on the
Self
LẮNG NGHE NỘI TÂM BẠN
Hỏi :
Trong lúc ngồi tại đây nghe ông nói thì có vẻ như là tôi hiểu,
nhưng khi ra khỏi đây, tôi lại chẳng còn hiểu gì cả, dù rằng tôi đã cố áp dụng
theo những lời ông nói.
Krishnamurti :
. . . Bạn hãy lắng nghe từ tâm bạn, chứ đừng nghe theo lời
diễn giả. Nếu bạn nghe theo diễn giả thì hắn ta sẽ trở thành kẻ lãnh đạo của
bạn, sẽ trở thành đường lối để bạn hiểu biết -- điều đó quả là khiếp hãi, ghê
tởm, bởi vì như vậy là bạn đã thiết lập một đẳng cấp của thẩm quyền. Cho nên
công việc của bạn tại đây là hãy lắng nghe từ chính tâm bạn. Bạn đang nhìn vào
hình ảnh mà diễn giả vẽ lên, đó là hình ảnh của chính bạn chứ không phải là
hình ảnh của diễn giả. Nếu bạn đã hiểu rõ rằng bạn đang nhìn vào chính bạn, vậy
thì bạn có thể nói, " À há, tôi thấy rõ chính tôi, tôi không cần làm gì
khác về "cái tôi" đó nữa" -- thế thì kể như là xong
chuyện. Nhưng nếu bạn nói, "Tôi thấy rõ chính tôi, và phải có sự thay
đổi," và bạn bắt đầu giải quyết theo với sự hiểu biết của chính bạn --
điều đó hoàn toàn khác hẳn vớisự áp dụng những điều diễn giả nói. . . Nếu trong
khi diễn giả nói mà bạn cũng nghe cả tiếng nội tâm bạn thì ngoài sự nghe đó ra
còn có sự trong sáng, còn có sự nhậy cảm; ngoài sự nghe đó tâm trí trở nên lành
mạnh, vững vàng.
Không nhắm mắt tuân theo, không chống đối, tâm hồn trở nên
sống động, mẫn cảm -- và chỉ có lớp người như thế mới có thể tạo dựng một thế
hệ mới, một thế giới mới.
Collected Works of J. Krishnamurti, Vol. XV,
p. 239
Danny Việt dịch
Khi lắng nghe tâm được buông xả
Có người đang nói và bạn lắng nghe. Chính cái hành động lắng
nghe đó làm cho tâm bạn được buông xả. Khi bạn thấy một sự vật, ngay chính nhận
thức của nhìn giải tỏa bạn khỏi sự vật. Chính sự nghe, chính sự nhìn vào thực
thể tự nó có hiệu quả phi thường không cần đến sự cố gắng của suy nghĩ .
. . . Chúng ta thử xét một chuyện - thí dụ tham vọng. Chúng ta
đã biết quá rõ về tham vọng, nó làm chuyện gì, hậu quả ra sao rồi. Một lòng dạ
đầy tham vọng thì không bao giờ biết đến cái gì là cảm thông, thương xót, yêu
đương. Một tâm hồn đầy tham vọng là một tâm hồn tàn nhẫn - hoặc thuộc về
tinh thần, hay là đối với ngoại cảnh, hoặc trong nội tâm. Chúng ta đã nghe nói
như vậy. Nghe như vậy, cho nên ngày nay, khi nghe nói về tham vọng, chúng ta
diễn dịch thành: "Làm sao mà tôi có thể sống trong cái thế giới này, cái
thế giới đã được xây dựng bởi tham vọng." Như thế là bạn đã không nghe.
Bạn đã trả lời ngay, bạn đã phản ứng với lời phát biểu, với sự kiện, cho nên
bạn đã không nhìn rõ được chính sự kiện. Bạn chỉ diễn dịch sự kiện hoặc đề ra
một ý kiến về sự kiện, hoặc đáp ứng sự kiện; cho nên bạn đã không thấy rõ sự
kiện...
Nếu người ta chịu lắng nghe - chỉ lắng nghe trong cung cách
không có bất cứ sự đánh giá, nhận xét, phản ứng, ý kiến nào - khi đó chắc chắn
là thực tế sẽ nẩy sinh ra năng lực để xua tan, xóa bỏ, quét sạch cái ý nghĩ về
tham vọng vốn gây nên mâu thuẫn...
Chú ý mà không chống đối
Bạn hẳn đã biết khoảng không là gì. Trong phòng này có khoảng
không. Khoảng cách từ đây tới quán trọ của bạn, từ cây cầu tới nhà bạn, từ bờ
sông bên này tới bờ bên kia - tất cả đều là khoảng không. Bây giờ tôi xin hỏi
rằng có khoảng không nào trong tâm bạn không? Hay là nó quá chật cứng đến nỗi
không còn lấy một khe hở? Nếu tâm bạn có khoảng trống, thì trong khoảng trống
đó có sự an tịnh - và vì có sự an tịnh đó mà mọi thứ khác có thể xen vào được,
nhờ thế bạn có thể lắng nghe, bạn có thể chú ý mà không có sự phản kháng. Do
đó, sự có khoảng trống trong tâm là rất cần thiết. Nếu tâm bạn không quá đầy
ắp, không bị bận rộn suy nghĩ liên lục, thì nó có thể lắng nghe tiếng chó sủa,
tiếng đoàn xe lửa chạy qua cầu từ xa, đồng thời cũng nhận thức được rõ ràng
điều một người đang nói tại đây. Tâm trí khi đó hoàn toàn sống động, nên không
bị mất tác dụng.
Chú ý mà không cố gắng
Có sự chú ý mà tâm không bị cuốn hút vào chăng?
Có sự chú ý mà không tập trung vào một đối tượng chăng?
Có sự chú ý mà không có bất cứ loại động lực, ảnh hưởng,
hoặc ép buộc nào chăng?
Cái tâm có thể hoàn toàn chú ý mà không có một cảm giác bị ngăn cản nào chăng?
Chắc chắn là nó làm được, và đó chính là tình trạng chú tâm độc nhất, ngoài ra chỉ là sự nuông chiều hoặc mánh lới của cái tâm. Nếu bạn có thể hoàn toàn chú tâm mà không bị lôi cuốn vào cái gì, không có cảm giác bị ngăn cản nào, bạn sẽ biết thế nào là thiền định, bởi vì trong sự chú tâm đó, không có cố gắng, không có phân chia, không có nỗ lực, không có tìm tòi kết quả.
Cái tâm có thể hoàn toàn chú ý mà không có một cảm giác bị ngăn cản nào chăng?
Chắc chắn là nó làm được, và đó chính là tình trạng chú tâm độc nhất, ngoài ra chỉ là sự nuông chiều hoặc mánh lới của cái tâm. Nếu bạn có thể hoàn toàn chú tâm mà không bị lôi cuốn vào cái gì, không có cảm giác bị ngăn cản nào, bạn sẽ biết thế nào là thiền định, bởi vì trong sự chú tâm đó, không có cố gắng, không có phân chia, không có nỗ lực, không có tìm tòi kết quả.
Tóm lại, thiền định là một quá trình khai phóng tâm linh ra khỏi
sự ràng buộc của mọi loại hệ thống, và là sự chú tâm mà không bị lôi cuốn hoặc
cố gắng để tập trung tư tưởng.
Krishnamurti -- The Book of Life
NGUỒN GỐC CỦA SỢ HÃI LÀ GÌ?
Sự sợ hãi là cái gì, nó xuất hiện ra sao? Phải chăng có sự sợ
hãi ở mức độ này mà không ở mức độ khác? Phải chăng có sự sợ hãi ở mức ý thức
hoặc mức vô thức? Hay là có sự sợ hãi bao trùm? Vậy xin hỏi, sự sợ hãi nẩy sinh
ra như thế nào? Tại sao nó lại tồn tại trong đầu óc con người? Và con người đã
phải chịu đựng chuyện đó từ thế hệ này qua thế hệ khác, họ sống với nó.
Sợ hãi làm cho hành động trở thành méo mó, làm mất sự nhận thức
trong sáng và sự suy nghĩ khách quan, là điều cần thiết cho một tâm hồn lành
mạnh, minh mẫn.
Sợ hãi làm cuộc đời chúng ta trở thành đen tối. Tôi không biết
là bạn có nhận ra điều đó không? Chỉ với một chút xíu sợ hãi thôi là đã đủ
khiến cho toàn bộ các giác quan của chúng ta bị co rút lại rồi. Và phần lớn
chúng ta đều sống với cái dạng sợ hãi quái gở đó trong bất cứ mối liên hệ nào
mà chúng ta có.
Câu hỏi cho chúng ta là, liệu tâm trí và toàn bộ con người của
chúng ta có khi nào thoát khỏi hẳn nỗi sợ hãi chăng? Giáo dục, xã hội, nhà
nước, tôn giáo, tất cả đều cổ võ thêm cho sự sợ hãi này. Tôn giáo đặt nền tảng
trên sự sợ hãi. Và sự sợ hãi được vun bồi thêm qua sự sùng mộ thẩm quyền --
thẩm quyền của cuốn sách, thẩm quyền của vị linh hướng, thẩm quyền của những
người hiểu biết những điều gì đó, vân vân. Chúng ta được nhồi sọ sự sợ hãi một
cách rất chu đáo. Rồi chúng ta lại hỏi là liệu chúng ta có thể được giải thoát
ra khỏi nỗi sợ hãi đó một cách triệt để chăng!
Vậy chúng ta hãy tìm hiểu coi sợ hãi là gì. Nó là sự mong muốn
có được cái gì đó chăng? - có nghĩa là ao ước, khao khát. Là sự bấp bênh của
tương lai chăng? Là sự đau đớn và nỗi thống khổ trong quá khứ chăng? Là sự phân
cách này giữa bạn và tôi vốn chẳng có mối liên hệ nào với nhau cả chăng? Là cái
tâm điểm mà từ đó tư tưởng đã tạo ra cái "Tôi" - cái Tôi thành ra một
hình thái, thành cái tên, thành biểu hiệu, - sợ rằng sẽ mất cái "Tôi"
này chăng? Đó có phải là một trong những nguyên nhân của sợ hãi chăng? Hay sợ
hãi nẩy sinh vì ta hồi tưởng lại những niềm hoan lạc, hạnh phúc, sợ rằng sẽ
mất. Hay sợ hãi phải chịu đựng những nỗi thống khổ về thể xác hoặc tinh thần.
Phải chăng có một tâm điểm mà từ đó nỗi sợ hãi nẩy sinh? - như cái cây, mặc dầu
nó có hàng trăm cành, nhưng nó chỉ có độc nhất một cái thân và chùm rễ, nếu
chúng ta chỉ tỉa cành thì chẳng thay đổi được gì. Cho nên chúng ta phải tìm tới
tận nguồn gốc của sự sợ hãi. Bởi vì nếu bạn có thể được giải thoát ra khỏi sự
sợ hãi một cách triệt để, tức là bạn đang sống trong thiên đường.
Nguồn gốc của sợ hãi là gì? Phải chăng nó là thời gian? Xin nhớ
cho là chúng ta đang nghiên cứu, tìm hiểu, chúng ta không lập thuyết, chúng ta
không đi đến bất cứ một kết luận nào, bởi vì chẳng có cái gì để mà kết luận.
Giây phút mà bạn THẤY được nguồn gốc của sợ hãi, thấy thật sự, bằng mắt bạn,
bằng cảm giác của bạn, bằng trái tim của bạn, bằng tâm hồn bạn, - thật sự THẤY
nó -, thì bạn có thể giải quyết được chuyện sợ hãi, nếu bạn muốn giải quyết một
cách nghiêm túc.
Chúng ta hỏi, có phải nó là thời gian không? - thời gian không
chỉ là thời gian tiến hành tuần tự theo cái đồng hồ, như là hôm qua, hôm nay và
ngày mai, nhưng cũng còn có thời gian tâm lý, là sự hồi tưởng về quá khứ, về
những niềm hoan lạc, những nỗi đau khổ, buồn rầu, lo lắng đã qua. Chúng ta hỏi
rằng có phải nguyên nhân của sợ hãi là thời gian. Thời gian để thực hiện, thời gian
để trở thành, thời gian để đạt được, thời gian để nhận ra được Thượng Đế, hoặc
bất cứ từ ngữ nào mà bạn muốn dùng để gọi tên. Một cách tâm lý thuần túy, thời
gian là gì? Liệu thật ra thì có cái - xin hãy nghe kỹ – được coi như là thời
gian tâm lý chăng? Hay chính chúng ta đã tạo ra cái thời gian tâm lý? Tâm lý có
còn tới ngày mai không? Nếu có ai nói rằng không có thời gian tâm lý ở thời
tương lai, thì bạn sẽ rất sửng sốt, phải vậy không? Bởi vì bạn nói: "Tương
lai tôi sẽ vui sướng; tương lai tôi sẽ đạt được cái gì đó; tương lai tôi sẽ trở
thành viên chức điều hành của cơ sở nào đó; tương lai tôi sẽ trở thành người
giác ngộ; tương lai đạo sư hứa hẹn điều gì đó và tôi sẽ đạt được".
Đối với chúng ta, thời tương lai vô cùng quan trọng. Vậy thì có
cái thời tương lai một cách tâm lý chăng?
Chúng ta đã chấp nhận nó, đó là toàn bộ nền giáo dục truyền
thống của chúng ta, rằng có một cái thời tương lai.
Và khi bạn nhìn, về mặt tâm lý, tìm hiểu chính nội tâm mình, ở
đó có một cái thời gian tương lai chăng? Hay là chính sự suy nghĩ, tự nó là
manh mún, đã phóng chiếu ra một cái gọi là thời tương lai.
Xin thưa, chúng ta sẽ đi sâu vào vấn đề này, đó là điều rất quan
trọng cần phải được hiểu thấu đáo.
Krishnamurti -- Truth & Actuality
CẢM XÚC CÓ VAI
TRÒ GÌ TRONG ĐỜI SỐNG ?
Những cảm xúc hình thành bằng cách nào? Rất đơn giản. Chúng hình
thành qua sự kích thích, qua bộ thần kinh. Bạn châm kim vào tôi, tôi nhẩy dựng
lên. Bạn khen ngợi tôi, tôi thấy thú vị. Bạn sỉ nhục tôi, tôi không thích. Qua
các giác quan của chúng ta, cảm xúc hình thành. Và phần đông chúng ta, hiển
nhiên là chúng ta hành động dựa theo cảm xúc của khoái lạc, bạn ạ.
Bạn muốn được thừa nhận như là một người Ấn giáo. Thế là bạn đã
thuộc về một nhóm, một cộng đồng, một truyền thống, dù là truyền thống cổ xưa;
và bạn thích thế, với Áo Nghĩa Thư, và với cả núi truyền thống cổ điển. Người
Hồi giáo thì cũng vậy, họ thích cái của họ, v.v... Cảm xúc của chúng ta hình
thành từ sự kích thích, từ môi trường sống, vân vân, thật là quá rõ.
Vậy thì, trong đời sống, cảm xúc có vai trò gì?
Cảm xúc là đời sống chăng? Bạn nhận ra không? Tình yêu là lạc
thú chăng? Tình yêu là thèm muốn chăng? Nếu cảm xúc là tình yêu thì sẽ có sự
thay đổi liên tục, phải vậy không? Bạn thấy rồi chứ ?
Vậy thì người ta cần phải nhận thức được rằng xúc động,
tình cảm, nhiệt tình, cảm tưởng tốt đẹp, v.v..., tất cả những điều đó đều chẳng
dính dáng gì với tình yêu thương và lòng trắc ẩn chân thật.
Tất cả những tình cảm, xúc động mà phải qua sự suy nghĩ tính
toán thì rồi ra cũng sẽ đưa tới khoái lạc và đau khổ. Tình yêu thuần túy thì
không có đau khổ và phiền muộn hối tiếc, bởi vì nó không phải là kết quả của
lạc thú hoặc khát vọng.
Hỏi :
- Tại sao chúng ta cảm thấy thấp kém khi đối diện những người bề
trên của chúng ta?
Krishnamurti đáp :
- Bạn coi ai là những bề trên của bạn? Những người hiểu biết
chăng? Những người có chức tước hoặc bằng cấp chăng? Những người mà bạn muốn
xin xỏ họ điều gì đó, đại khái như phần thưởng hoặc địa vị chăng? Ngay
khi mà bạn coi ai đó là bề trên, thì đồng thời phải chăng bạn đã coi người khác
nào đó là thấp kém?
Tại sao chúng ta lại có cái chuyện phân chia người trên kẻ dưới
này? Nó chỉ tồn tại khi chúng ta muốn điều gì đó, phải vậy không? Tôi cảm thấy
không thông minh bằng bạn, không có nhiều tiền bạc hoặc khả năng như bạn, không
có hạnh phúc như là cái vẻ hạnh phúc của bạn, hoặc là tôi muốn xin bạn cái gì,
thế là tôi cảm thấy mình thấp kém hơn bạn. Khi tôi khởi tâm ganh tị với
bạn, hoặc cố gắng bắt chước bạn, hoặc muốn xin bạn cái gì, thế là lập tức tôi
trở thành thấp kém hơn bạn, bởi vì tôi đã nâng bạn lên bệ, tôi đã dâng bạn cái
thế thượng phong. Cho nên, về mặt tâm lý, từ đáy lòng, tôi tạo ra cả hai vị
trí, người bề trên và kẻ thấp kém; tôi tạo ra tình trạng bất bình đẳng giữa
người có và kẻ không có.
Giữa con người với nhau, đã có một sự bất bình đẳng lớn lao
về khả năng, phải vậy không? Có người thì thiết kế máy bay, có kẻ thì lặn lội
cầy bừa. Những sự khác biệt lớn lao này về khả năng tri thức, ngôn từ,
thể chất là chuyện không thể tránh. Nhưng như bạn thấy, chúng ta đã coi
một số chức vụ nào đó là có ý nghĩa lớn lao, phi thường. Chúng ta đánh giá các
chức vụ thống đốc, thủ tướng, nhà phát minh, khoa học gia, là những nhân vật
quá sức quan trọng so với người làm công; rồi thì chức vụ thành ra địa vị trong
xã hội. Khi mà chúng ta còn cho một số chức vụ những địa vị thì chắc chắn vẫn
còn có quan niệm về sự bất bình đẳng, và khoảng cách giữa những người có khả
năng với những người không có sẽ chẳng thể nào nối liền được. Nếu chúng ta có
thể tước bỏ địa vị của chức vụ thì cái cảm tưởng về bình đẳng thực sự mới có cơ
hội xuất hiện. Muốn thế, phải có tình yêu thương, bởi vì chính tình thương yêu
này sẽ phá tan cái quan niệm về kẻ hạ đẳng và người thượng cấp.
Trên thế giới, người ta phân biệt ra thành một phía là những
người có - có của cải, có quyền lực, có khả năng, những người có đủ mọi thứ -
và một phía là những người không có gì cả. Vậy thì chúng ta có thể nào xây dựng
được một thế giới trong đó không tồn tại sự phân chia giữa "những người
có" và "những người không có" chăng?
Thật sự thì chuyện đang xảy ra là, nhìn thấy cái lỗ hổng,
cái hố sâu ngăn cách giữa người giầu và kẻ nghèo, giữa người đầy khả năng và kẻ
có ít, hoặc không có chút khả năng nào, các nhà chính trị và kinh tế đang
cố gắng giải quyết vấn đề qua sự cải tổ kinh tế và xã hội. Điều đó cũng
có thể là tốt đấy. Tuy nhiên, một sự chuyển biến triệt để sẽ không thể xảy ra
khi mà chúng ta còn chưa hiểu thấu toàn bộ quá trình thù nghịch, ganh tị, ác
tâm; để mà thấy rằng chỉ khi nào cái quá trình này được cảm thông và chấm dứt,
thì tình thương yêu mới có thể nẩy nở trong lòng chúng ta.
Krishnamurti – Life Ahead
CẦU NGUYỆN
Hỏi :
- Cầu nguyện là gì? Cầu nguyện có quan trong trong đời sống
thường nhật không?
Krishnamurti đáp :
Phần lớn nội dung sự cầu nguyện chỉ là xin xỏ, nài nỉ. Khi bạn
đau khổ, bạn thả mình vào cái loại cầu nguyện này để tự an ủi. Khi bạn cảm
thấy quá cô đơn, xuống tinh thần, phiền muộn, bạn cầu Thượng Đế
giúp; cho nên bạn coi cầu nguyện như một cuộc van xin.
Hình thức cầu nguyện có thể khác nhau, nhưng mục đích tiềm ẩn
phía sau thì thường là giống nhau. Cầu nguyện, đối với đa số quần chúng, là xin
xỏ, van lơn, nài nỉ. Bạn có cầu nguyện theo kiểu như vậy không? Tại sao bạn cầu
nguyện? Tôi không nói rằng bạn "nên" hay "không nên" cầu
nguyện. Nhưng tại sao bạn cầu nguyện? Bạn cầu nguyện để được tăng thêm kiến
thức, thêm bình an chăng? Bạn cầu nguyện để cho thế giới có thể thoát khỏi đau
khổ chăng?
Có còn cách cầu nguyện nào khác chăng?
Có cách cầu nguyện, đúng ra thì không phải là cầu nguyện, mà là
tỏa rộng thiện chí, lòng thương yêu, quảng bá tư tưởng đẹp. Vậy thì bạn cầu
nguyện ra sao?
Phải chăng khi cầu nguyện, thường là bạn xin Thượng Đế, hoặc các
vị Thần Thánh, hãy cho bạn được đầy bát cơm? Bạn không thỏa mãn với cái
bạn đã được, bạn muốn cái bát của bạn được đầy theo ý bạn muốn. Cho nên sự cầu
nguyện chỉ vẻn vẹn là một cuộc xin xỏ, một đòi hỏi phải được thỏa mãn, vậy thì
hiển nhiên nó không còn là cầu nguyện nữa. Bạn nỉ non với Thượng Đế: "Con
đau khổ quá, xin hãy vì con, trả em con, con trai con lại cho con. Xin cho con
được giầu có". Bạn nài nỉ dai dẳng, chắc chắn đó không phải là cầu nguyện
rồi.
Chính ra bạn phải tự tìm hiểu để coi tại sao bạn cứ nằn nì van
vỉ để được cái gì đó, tại sao từ trong nội tâm của bạn lại có cái sự thôi
thúc nó bắt bạn phải đi khẩn cầu xin xỏ này.
Càng hiểu rõ mình qua sự tỉnh thức về những điều mình suy tư, về
cảm giác của mình, bạn càng phát hiện ra thực tại, cái chân lý này sẽ giúp bạn
hoàn toàn giải thoát.
Krishnamurti -- Life Ahead
CHẤM DỨT SỰ GIẬN DỮ
Tôi tin chắc rằng tất cả chúng ta đều cố gắng chế ngự
sự giận dữ nhưng dường như khó mà xóa tan cơn giận cho nổi.
Vậy thì còn có cách nào làm tan biến được cơn giận không?
Thân và tâm đều có thể là lý do để cơn giận bùng lên. Người ta
nổi giận có thể vì bị cản trở, vì phản ứng tự vệ bị thất bại, hoặc sự an toàn
mà người ta đã dầy công xây dựng nay bị đe dọa, v.v...
Chúng ta đều rất quen thuộc với sự giận dữ. Làm sao để cho
người ta thấu hiểu và xua tan được cơn giận. Nếu bạn cho rằng những sự tin
tưởng, quan điểm, ý kiến của bạn là điều quan trọng nhất thì bạn sẽ phản ứng dữ
dội khi bị người khác tỏ ý thắc mắc. Thay vì bám chặt vào những sự tin tưởng và
ý kiến, nếu bạn bắt đầu tự hỏi coi chúng có là điều thiết yếu cho sự hiểu
biết về cuộc đời chăng, từ đó, qua sự thấu triệt nguyên nhân gây ra mâu thuẫn,
sự giận dữ sẽ tan biến.
Vì lý do xã hội và tôn giáo, hoặc vì tiện nghi, chúng ta có thói
quen tự kiềm chế, nhưng muốn trị tận gốc thói giận dữ, chúng ta cần phải rất
tỉnh thức.
Bạn nói rằng bạn nổi giận khi bạn nghe nói về một câu chuyện bất
công. Bạn làm vậy là vì bạn thương người, vì bạn có lòng từ bi bác ái chăng?
Liệu lòng thương xót và sự giận dữ có thể đi đôi với nhau chăng? Liệu có thể có
công lý khi mà người ta đem lòng căm giận, ghét bỏ chăng?
Bạn có thể nổi giận trước những sự bất công, tàn nhẫn, nhưng sự
giận dữ của bạn không thay đổi được tình thế, mà chỉ đem lại sự tai hại. Để có
được những điều bạn muốn, thì bạn, chính bạn, phải có từ tâm, phải có những suy
tư sâu sắc.
Hành động thoát thai từ sự thù ghét chỉ có thể làm tăng thêm thù
ghét.
Nơi nào có sự căm giận thì không có công chính. Công chính
và căm giận không thể đi đôi với nhau.
Collected Works of J. Krishnamurti,
Vol.III
MỘT TÂM HỒN PHONG
PHÚ TRONG SÁNG
Thực Tại, Thượng Đế đích thực - Thượng Đế đích thực, không
phải là vị Thượng Đế do loài người tạo ra - không hài hòa với một tâm hồn đã bị
tàn phá, nhỏ nhen, nông cạn, thiển cận, hẹp hòi. Phải là một tâm hồn lành mạnh
mới thẩm thấu nổi. Nhu cầu để hòa nhập với Thực Tại phải là một tâm hồn phong
phú -- phong phú ở đây không phải là giầu kiến thức mà là một tâm hồn an nhiên,
vô tư ; một tâm hồn chưa hề bị trầy trụa vì kinh nghiệm, một tâm hồn không bị
ràng buộc bởi thời gian. Những thần thánh do quý vị sáng chế ra để tự an ủi thì
chịu đựng được sự giày vò; loại thần thánh đó chấp nhận được một tâm hồn đã bị
làm cho u mê trì trệ. Nhưng "thứ thật" thì không phù hợp với
điều đó. Thực Tại hài hòa với cái toàn hảo, với con người trọn vẹn có trái tim
trong sáng, đầy ăm ắp niềm cảm xúc nồng nàn, có khả năng thấu suốt cái đẹp của
thiên nhiên, cây cỏ, nụ cười của em bé, và nỗi đau của người đàn bà chưa bao
giờ có được bữa cơm no. Bạn phải có được niềm cảm xúc đặc biệt này, có sự nhậy
cảm này đối với tất cả -- đối với loài vật, từ con mèo bước qua bức tường kia,
từ sự bê bối, bệ rạc, dơ dáy, bẩn thỉu, thô lỗ của những người nghèo khổ, tuyệt
vọng. Bạn phải có một tâm hồn bén nhậy, một trái tim nồng nàn cảm thông, không
với đường lối riêng biệt nào, không phải là sự xúc động tới lui bất chợt,
mà là sự nhậy cảm sâu xa từ trong tâm hồn, bằng mắt, bằng tai, bằng giọng nói
tiếng cười, bằng toàn thể con người của bạn. Bạn phải là người luôn luôn nhậy
cảm, bất cứ lúc nào.
Trừ phi bạn thật là nhậy cảm, nếu không, sẽ không thể có trí
tuệ. Trí tuệ chỉ tới với sự nhậy cảm và quan sát.
Krishnamurti -- The Book of Life
SỰ THỨC TỈNH HÓA
GIẢI MỌI VẤN ĐỀ
Sự suy nghĩ hiển nhiên là đã bị điều kiện hóa; không có cái gọi
là suy nghĩ tự do. Suy nghĩ không bao giờ có thể được tự do, mà nó thoát thai
từ một quá trình được tôi luyện lâu dài với những quan điểm về văn hóa, đời
sống, xã hội, kinh tế, chính trị của chúng ta. Mỗi điều suy nghĩ của bạn đều
phải là kết quả được rút ra từ chính những cuốn sách mà bạn đã đọc, từ
chính những điều mà bạn đã lãnh hội, đã thực hiện. Cho nên nếu chúng ta có thể
nhận ra - và ngay bây giờ đây nếu chúng ta có thể thấy điều đó được biểu thị,
thấy ý nghĩa của nó, thấy rõ - may ra chúng ta có khả năng cởi bỏ được sự
thằng thúc tư tưởng mà không cần phải tận lực, không cần phải dùng đến ý chí
quyết tâm. Bởi vì ngay khi bạn quyết tâm, thì lập tức có ngay một thực thể xuất
hiện để đòi hỏi, một thực thể phát biểu ý kiến: "Tôi phải làm cho tâm trí
tôi thoát được hoàn cảnh bị điều kiện hóa". Cái thực thể phát biểu đó
chính là hiện thân của niềm khao khát gặt hái thành quả nào đó của chúng ta,
như thế, sự xung đột vẫn còn y nguyên đó. Vậy thì, liệu có thể có sự nhận thức,
chỉ thuần túy nhận thức, về tình trạng bị điều kiện hóa của chúng ta chăng? -
được vậy thì sẽ không có sự xung đột, va chạm trong nội tâm.
Chính sự thức tỉnh thuần túy đó, nếu được, sẽ có thể hóa giải
mọi vấn đề.
Collected Works of J. Krishnamurti, vol. IX,
p. 35
QUAN SÁT COI TẬP QUÁN
HÌNH THÀNH RA SAO
Không thoát ra khỏi được sự ám ảnh của quá khứ, sẽ chẳng thể nào
có tự do, bởi vì tâm hồn sẽ không thể mới mẻ, tươi mát, hồn nhiên. Chỉ có cái
tâm hồn tươi mát, hồn nhiên là được tự do thôi. Tự do chẳng liên hệ gì với tuổi
tác, chẳng liên hệ gì đến với kinh nghiệm, và theo ý tôi thì dường như điều cốt
tủy để có tự do nằm ngay trong sự thấu hiểu guồng máy tập quán, thói quen,
từ ý thức tới vô thức. Đây không phải là câu hỏi làm thế nào để chấm dứt
được thói quen, nhưng là nhìn rõ cấu trúc của nó. Bạn phải quan sát coi thói
quen hình thành ra sao và sự kiện chối bỏ hoặc chống lại thói quen thì lại tạo
ra một thói quen khác như thế nào. Cần phải rất sáng suốt để ý thức được
tập quán, nhờ vậy, bạn sẽ nhận ra rằng tập quán sẽ không còn hình thành được nữa.
Chống đối thói quen, tiễu trừ nó, chối bỏ nó, chỉ là sự tiếp nối của thói quen.
Khi bạn chống lại một thói quen là bạn đã cho phép một thói quen mới hình
thành, và chính sự chống đối đó bây giờ lại trở thành một thói quen mới. Nhưng
nếu bạn chỉ đơn thuần nhận thức được toàn bộ cấu trúc của tập quán mà không
khởi tâm chống đối, bạn sẽ thấy được sự giải thoát khỏi tập quán, và trong cảnh
giới tự do, khai phóng ấy, điều mới mẻ xuất hiện.
Chỉ có những đầu óc trì trệ, mơ mơ màng màng mới tạo ra và bám
chặt vào thói quen. Một tâm hồn tỉnh thức từng giây, từng phút -- chăm chú nghe
từng lời, chăm chú vào hoạt động của đôi tay, của sự suy nghĩ, của những cảm
giác -- sẽ phát hiện được rằng sự hình thành một thói quen mới đã chấm dứt.
Đây là sự kiện rất quan trọng cần thấu triệt, bởi vì khi tâm trí
phá vỡ một thói quen, thì ngay chính trong quá trình đó, nó tạo nên một thói
quen khác, như thế, chẳng bao giờ nó được giải thoát khỏi thói quen cảû. Nhưng
mà, chỉ có một tâm trí đã giải thoát, hoàn toàn tự do, không bị thói quen choán
chỗ, thì mới có khả năng lãnh hội điều vượt quá giới hạn của nó được.
Collected Works of J. Krishnamurti, vol. XIII,
p. 240
TÌNH YÊU
Chúng ta không thể nói ngay lập tức tình yêu là cái gì, bởi vì
tình yêu không phải là loại có thể sẵn sàng cho ta giải thích bằng ngôn từ.
Không dễ dàng thế đâu. Ấy vậy mà không có tình yêu thì đời sống sẽ rất khô
khan, hiu quạnh, không có tình yêu thì cây cối, chim chóc, nụ cười, cây cầu bắc
ngang sông, người lái đò, loài vật, v . v..., sẽ chẳng có nghĩa gì cả. Không có
tình yêu, cuộc đời là cái hồ cạn nước. Sự phong phú dưới lòng sông sâu đã nuôi
sống biết bao nhiêu loài thủy tộc; nhưng cái hồ cạn thì chẳng bao lâu sẽ khô
khốc dưới ánh nắng mặt trời, chẳng còn lại gì ngoài bùn và rác.
Đối với phần đông chúng ta, tình yêu là cái gì quá mức khó hiểu,
bởi vì đời sống của chúng ta rất là nông cạn. Chúng ta muốn được yêu, đồng thời
chúng ta cũng muốn yêu, và phía sau từ ngữ "yêu", thấp thoáng có nỗi
niềm e sợ ẩn hiện. Vậy thì, liệu không phải là điều rất quan trọng đủ
khiến cho mỗi người trong chúng ta phải tìm hiểu coi cái sự kiện đặc biệt này
thực tế là cái gì chăng?
Chúng ta chỉ có thể tìm ra lời giải đáp nếu chúng ta nhận thức
rõ được cách chúng ta quan tâm tới mọi người, cách chúng ta để ý tới cây cối,
sinh vật, kẻ xa lạ, kẻ đói khát ra sao. Chúng ta phải nhận thức rõ được cách
chúng ta quan tâm tới bè bạn, tới bậc thầy, nếu chúng ta có, hoặc là cung cách
chúng ta quan tâm tới cha mẹ của chúng ta như thế nào.
Jiddu Krishnamurti - On Love and Loneliness
- With young people in India - Harper San Francisco
NGUYÊN NHÂN CHÍNH CỦA
BẠO LỰC
… " … Tôi nghĩ rằng nguyên nhân chính của bạo lực là vì
từ trong thâm tâm, mỗi người chúng ta đều tìm kiếm điều bảo đảm an ninh
cho mình. Trong mỗi chúng ta, niềm khao khát an ninh -- cái cảm giác an ổn --
đã phóng ra sự đòi hỏi để đạt cho bằng được.
Chắc chắn là từ đáy lòng, mỗi người trong chúng ta đều mong mỏi
được an toàn, nhất định là như vậy. Đó là lý do chúng ta có các loại luật hôn
nhân này, để chúng ta có thể chiếm hữu một người đàn bà, hoặc một người đàn
ông, và được an toàn trong mối quan hệ vợ chồng của chúng ta. Nếu mối quan hệ
đó bị xâm phạm, chúng ta trở nên thô bạo, đó là nhu cầu tâm lý, là sự đòi hỏi
từ nội tâm, để cho mối quan hệ này được bền chặt trước mọi sự.
Khốn nỗi, chẳng có cái gì trên đời này được coi là chắc chắn,
bền vững trong bất cứ mối quan hệ nào. Từ đáy lòng, về mặt tâm lý, chúng ta
muốn được an toàn, bền vững, nhưng chẳng có cái gì được coi là an toàn, bền
vững mãi mãi...
Vì vậy, tất cả những nỗi bất an đó chính là những nguyên nhân
gây ra sự tàn bạo hiện đang lan tràn, hoành hành trên khắp thế giới.
Tôi nghĩ rằng bất cứ ai đã quan sát, dù chỉ sơ sơ, những
chuyện đang xẩy ra khắp hoàn cầu, và nhất là trên đất nước bất hạnh này,
thì chẳng cần phải có một sự hiểu biết sâu xa, uyên bác, cứ tìm kiếm những điều
này nơi bản thân, mà khi phóng chiếu ra, nó chính là những nguyên nhân của sự
tàn bạo, chai đá, thờ ơ lãnh đạm và hung dữ vượt mức này …
Collected Works of J. Krishnamurti, 17 Vols.
Dubuque, IA: Kendall/Hunt publishing, 1991,1992
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét