Thu Hương
Thu Hương
Niềm say mê thiên
nhiên, say mê cuộc sống của Xuân Diệu được thể hiện đầy đủ nhất, cao độ nhất có
lẽ là ở bài thơ Vội vàng. Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, nhà phê bình, nghiên
cứu văn học Hoài Thanh nhận xét: Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh đời, sống
vội vàng, sống cuống quýt… Đây là nhận xét tinh tế và chính xác bởi khi đặt tên
bài thơ là Vội vàng, Xuân Diệu đã tỏ ra rất hiểu mình. Có thể coi bài thơ này
là tuyên ngôn về lẽ sống của nhà thơ.
Xuân Diệu yêu cuộc
sống tha thiết, nồng nàn. Theo nhà thơ, cuộc sống là tất cả những lạc thú vật
chất, tinh thần cùng với những gì trần tục và thanh cao của nó. Bài thơ Vội
vàng cho người đọc thấy thi nhân đang trải lòng mình ra mà viết và bày tỏ cho
hết tình cảm chân thành đối với cuộc đời.
Bàn về lẽ sống của
Xuân Diệu, có rất nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng lẽ sống vội vàng
của nhà thơ bắt nguồn từ nhận thức về thời gian vô hạn và kiếp người hữu hạn.
Cái đáng quý nhất của con người là cuộc sống cho nên phải tranh thủ chớp lấy
từng khoảnh khắc để sống. Ý kiến khác cho rằng Xuân Diệu yêu tha thiết, yêu say
đắm cuộc sống nên rất sợ mất nó. Trong khi yêu, Xuân Diệu đã cảm thấy tình yêu
đang mất nên luôn ở trong tâm trạng hoảng hốt, lo âu, chợt vui, chợt buồn.
Chính vì vậy nên dù là yêu cảnh hay yêu người, Xuân Diệu cũng đều ngấu nghiến,
vồ vập, vội vàng.
“Cái tôi” của tác giả
trong bài thơ này được thể hiện ở hai trạng thái đối lập mà thống nhất của tâm
hồn: lúc mãnh liệt đến cuồng si, lúc lại da diết, lắng sâu. Đọc kĩ bài thơ,
chúng ta sẽ nhận ra diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình: lúc phơi phới
yêu đời, lúc sôi nổi, cuồng nhiệt như núi lửa phun trào, lúc lại bâng khuâng,
lo lắng.
Vội vàng tuy là bài
thơ trữ tình nhưng nó lại chứa đựng một triết lí sống cụ thể. Kết cấu bài thơ
có thể chia làm hai phần, được phân cách bằng câu thơ ngắn: Ta muốn ôm. Phần
trên nghiêng về trình bày những lí lẽ vì sao lại phải sống vội vàng ? Thái độ
sống ấy xuất phát từ nhận thức và quan niệm về hạnh phúc trần gian, thời gian
và tuổi trẻ. Theo Xuân Diệu thì cuộc sống trần thế giống như một thiên đường kì
thú với bao nguồn hạnh phúc dành cho con người. Nhưng những cảnh sắc ấy chỉ
thực sự mang vẻ đẹp thần tiên trong buổi xuân thì của nó và con người chỉ tận
hưởng được những lạc thú khi còn trẻ; trong khi đó tuổi trẻ lại vô cùng ngắn
ngủi. Thời gian có thể cướp đi tất cả. Vậy chỉ có một cách là chạy đua với thời
gian, là phải vội vàng mà sống. Đây là một triết lí tích cực và tiến bộ.
Phần dưới của bài thơ
thể hiện những hành động vội vàng của nhân vật trữ tình trong khi hưởng thụ vẻ
đẹp của đời. Nội dung cảm xúc thể hiện rõ ở những hành động vồ vập, ở trạng
thái chếnh choáng của một “cái tôi” đang muốn tận hưởng thật nhiều hương sắc
của khu vườn trần thế.
Hai phần này chuyển
tiếp rất tự nhiên về cảm xúc và rất chặt chẽ về luận lí. Nó khiến cho bài thơ
liền mạch và hoàn Chỉnh, giống như một dòng chảy ào ạt, tự nhiên của tâm trạng.
Đây chính là thành công đáng kể của bài thơ.
Bốn câu ngũ ngôn mở
đầu đoạn hai nêu lên ý tưởng táo bạo, dị thường đến mức như nghịch lí:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Nhà thơ muốn đoạt
quyền của tạo hóa, đảo ngược quy luật tự nhiên. Muốn tắt nắng đi, muốn buộc gió
lại, cái ham muốn lạ lùng ấy hé mở cho chúng ta thấy lòng yêu bồng bột, vô bờ
của nhà thơ đối với con người, cuộc sống, với thế giới thắm sắc đượm hương đang
trải rộng trước mắt. Dường như Xuân Diệu đã chỉ cho chúng ta thấy rõ cái nghiệt
ngã của tạo hóa để rồi sau đó từ từ lí giải lẽ sống vội vàng của mình.
Trước hết, thiên nhiên
và cuộc sống được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Với nhà thơ, đây là
một thiên đường trên mặt đất. Cái thiên đường đầy hương sắc đó hiện ra trong
bài thơ vừa như một khu vườn tình ái
của vạn vật đương buổi
xuân thì, vừa như một người tình đầy quyến rũ. Xuân Diệu cảm nhận thiên nhiên
mà thực chất là tình tự với thiên nhiên.
Xung quanh nhà thơ, cảnh vật tưng bừng, rạo rực một sức sống đang lên, đầy hấp dẫn, lôi cuốn, khiến không ai có thể thờ ơ:
Xung quanh nhà thơ, cảnh vật tưng bừng, rạo rực một sức sống đang lên, đầy hấp dẫn, lôi cuốn, khiến không ai có thể thờ ơ:
Của ong bướm này đây
tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tất cả tình và cảnh
trong đoạn thơ này được tác giả miêu tả rất cụ thể: Tuần tháng mật của ong
bướm, muôn hoa xuân nở rộ khoe sắc, khoe hương trên đồng nội xanh rì. Chồi non,
lộc nõn cành tơ phơ phất, khúc tình si rộn rã của yến anh, ánh sáng chớp hàng
mi. Đoạn thơ như tiếng reo vui hồn nhiên của đứa trẻ ngây thơ lạc vào khu vườn
đầy hương sắc, rộn rã, tưng bừng bàn nhạc đủ mọi thanh âm. Đối với Xuân Diệu,
mỗi ngày mới là một niềm vui mới và cuộc đời tưởng như là chuỗi vui vô tận: Mỗi
sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa.
Điệp từ này đây lặp
lại tới năm lần, như nhấn mạnh từng nét đẹp của vườn xuân, như giới thiệu sự
phong phú bất tận của thiên nhiên với niềm hào hứng lạ thường, để rồi đi đến
một so sánh rất độc đáo: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Xuân Diệu có lối
diễn tả tinh tế bằng sự chuyển đổi cảm giác, ông không nói tháng giêng đẹp mà
nói tháng giêng ngon để đặc tả một sức sống mơn mởn, non tơ, quyến rũ. Là thi
sĩ của tình yêu nên Xuân Diệu thấy giữa vẻ đẹp của thiên nhiên và vẻ đẹp thiếu
nữ đương xuân có những nét tương đồng.
Hai khổ thơ liên kết
chặt chẽ với nhau. Thi sĩ muốn tắt nắng đi, muốn buộc gió lại chính là để lưu
giữ mãi mãi hương sắc của vườn xuân trần thế. Nhưng tiếc thay, vẻ đẹp ấy chỉ
rực rỡ lúc xuân thì, mà xuân thì lại vô cùng ngắn ngủi. Nhà thơ đang hân hoan
đón nhận vẻ đẹp tuyệt vời mà tạo hóa ban cho
muôn loài thì bỗng chốc niềm vui tan biến, thay vào đó là nỗi ngậm ngùi trước hiện thực phũ phàng:
muôn loài thì bỗng chốc niềm vui tan biến, thay vào đó là nỗi ngậm ngùi trước hiện thực phũ phàng:
Xuân đương tới; nghĩa
là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Theo quan niệm của nhà
thơ thì mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu là những gì đẹp nhất, “là những phần
ngon nhất của cuộc đời”. Thiên nhiên đẹp nhất lúc xuân sang; đời người đẹp nhất
tuổi xuân thì; tình yêu đẹp nhất khi đi đôi với tuổi trẻ. Nhưng trớ trêu thay
là tạo hóa – đấng vô hình sáng tạo ra cái đẹp và cũng lạnh lùng huỷ diệt cái
đẹp. Mùa xuân và tuổi trẻ đều vô cùng ngắn ngủi. Thời gian sẽ cuốn trôi hết thảy:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Cho nên con người phải vội vàng tận hưởng mọi sắc màu cùng hương thơm, mật ngọt
của đời.
Xưa nay, quan niệm về
thời gian gắn liền với sự tuần hoàn của bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Nghĩa là
thời gian được hình dung như một vòng tròn quay liên tục hết một vòng lại trở
về điểm xuất phát, cứ trở đi trở lại mãi mãi như thế. Mà đã là vòng tuần hoàn
thì những thời khắc, thời đoạn của nó có ra đi rồi cũng sẽ quay trở về. (Xuân
đi thì xuân sẽ quay lại). Quan niệm đó xuất phát từ cái nhìn, lấy quy luật vũ
trụ làm thước đo thời gian.
Xuân Diệu lại quan
niệm rằng thời gian như một dòng chảy xuôi chiều một đi không trở lại, mà mỗi
một khoảnh khắc trôi qua là sự sống của đời người sẽ vĩnh viễn mất đi một ít.
Tức là lấy cái quỹ thời gian hữu hạn của con người để đo đếm thời gian. Thậm
chí, lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong đời người là tuổi trẻ để làm
thước đo. Cách cảm nhận về thời gian như vậy xuất phát từ ý thức sâu xa về giá
trị của sự sống cá nhân, mỗi khoảnh khắc đều vô cùng quý giá. Nó quý giá chính
vì một khi đã trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Quan niệm ấy khiến cho con người
phải biết quý từng giây phút của cuộc đời và biết làm cho mỗi khoảnh khắc của
đời mình cần phải tràn đầy ý nghĩa. Có như
thế mới là biết sống. Đây là nguyên nhân sâu xa của thái độ sống vội vàng. Xuân
Diệu cảm nhận rằng thời gian và tuổi trẻ một đi không bao giờ trở lại, cho nên
đã chua xót phủ nhận: Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, Nếu tuổi trẻ chẳng
hai lần thắm lại. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn rất biện chứng về vũ trụ,
về thời gian:
Xuân đương tới, nghĩa
là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Xuân Diệu đồng nhất
mùa xuân với tuổi trẻ và tình yêu, cho nên ông ngậm ngùi than: Mà xuân hết,
nghĩa là tôi cũng mất. Nhà thơ cảm thấy đời người quá ngắn ngủi trước thời gian
và không gian vĩnh cửu:
Còn trời đất, nhưng
chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Câu thơ như một tiếng
thở dài u hoài, tiếc nuối. Quy luật thiên nhiên giờ đây đã trở nên đối kháng
với con người:
Lòng tôi rộng… / lượng
trời cứ chật,
Xuân vẫn tuần hoàn… / tuổi trẻ chẳng hai lần thấm lại,
Còn trời đất… / chẳng còn tôi mãi.
Xuân vẫn tuần hoàn… / tuổi trẻ chẳng hai lần thấm lại,
Còn trời đất… / chẳng còn tôi mãi.
Vì thế, cảm nhận về
thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận về sự mất mát. Mỗi khoảnh khắc trôi qua là
một phần đời vĩnh viễn mất đi:
Mùi tháng năm đều rớm
vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Hai câu thơ này thể
hiện rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của Xuân Diệu. Mỗi khoảnh khắc
đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một cuộc chia li
vĩnh viễn. Và thời gian được coi như một dòng chảy vô tận của những mất mát, cho
nên thời gian thấm đẫm hương vị của chia phôi. Khắp sông núi là những lời than
thầm tiễn biệt của vạn vật. Sâu xa hơn là mỗi một sự vật dang ngậm ngùi tiễn
biệt một phần đời của chính nó. Tâm trạng phức tạp đã chi phối cách nhìn, cách
nghĩ của Xuân Diệu cho nên giữa tươi xanh thi sĩ đã nhìn thấy màu héo úa; giữa
hiện tại đã thấp thoáng quá khứ, giữa sum họp dã có mầm mống chia li:
Con gió xinh thì thào
trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi ?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sữa ?
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi ?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sữa ?
Cảm nhận của Xuân Diệu
về thời gian, không gian thật lạ. Dường như cái chất vui tươi, trẻ trung của
thiên nhiên không còn nữa: tháng năm rớm vị chia phôi, sông núi than thầm tiễn
biệt, gió xinh hờn vì phải bay đi, chim đứt tiếng reo thi vì sợ độ phai tàn sắp
sửa…
Thời gian được cảm
nhận bằng khứu giác – mùi tháng năm, thời gian được hình dung là hương hoa –
chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn buộc gió lại, cho hương đừng bay đi. Nhà thơ đã cảm
nhận sự trôi chảy vô tình của thời gian bằng tất cả các giác quan. Mỗi khoảnh
khắc thời gian đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ.
Không thể buộc gió,
không thể tắt nắng, cũng không thể níu kéo thời gian, thì chỉ có một cách thực
tế nhất là chạy đua với thời gian, phải tranh thủ sống, vội vàng mà sống:
Chẳng bao giờ, ôi!
Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Đó cũng là bi kịch của
đời. Dù cuộc đời đầy bi kịch nhưng khu vườn trần thế vẫn hết sức hấp dẫn đối
với con người – nhất là những người đa cảm, đa tình như Xuân Diệu. Cho nên thi
sĩ càng hối hả, vội vàng tận hưởng khi Mùa chưa ngả chiều hôm (nghĩa là khi
tiết xuân và tuổi trè vẫn còn đang độ).
Câu thơ não nuột,
tuyệt vọng: Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa đã khép lại phần lí giải cho
lẽ sống vội vàng của Xuân Diệu và mở ra phần biểu hiện của hành động vội vàng:
Ta muốn ôm Cả sự sống
mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu;
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu;
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây,
và cỏ rạng,
Đoạn thơ như là lời tình
tự của thi sĩ với thiên nhiên, với sự sống bằng những cảm xúc và ham muốn mỗi
lúc một si mê, cuồng nhiệt. Chỉ có thế mới diễn tả hết được khát vọng sổng mãnh
liệt của thi sĩ.
Cảm hứng thơ như những
đợt sóng đại dương mỗi lúc một dâng cao. Sự kết hợp hài hòa đến mức tài tình
giữa âm thanh, hình ảnh, từ ngữ trong đoạn thơ đặc tả sự cuồng nhiệt của tình
yêu cuộc sống. Tình yêu ấy làm sống dậy vẻ tươi đẹp, đầy sinh khí của thiên
nhiên. Điệp ngữ ta muốn khẳng định khát khao cháy bỏng muốn ôm trọn cả vũ trụ
trong vòng tay âu yếm muôn đời. Mỗi lần điệp ngữ đó xuất hiện là lại đi liền
với một động thái yêu đương, càng lúc càng mạnh mẽ, đếm say: ôm cả sự sống,
riết mây đưa và gió lượn, say cánh bướm với tình yêu, thâu trong một cái hôn
nhiều…
Khát khao gắn bó, yêu
thương và giao hòa với thiên nhiên, với con người và cuộc sống thôi thúc nhà
thơ, đẩy cảm xúc thơ lên tới tột đỉnh. Thi sĩ muốn được thưởng thức đầy đủ,
trọn vẹn tất cả vẻ đẹp của vườn đời đầy hoa thơm trái ngọt:
Cho chuếnh choáng mùi
thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Ta thấy Xuân Diệu như
con ong đã hút mật no nê, như một tình nhân dang tràn trề hạnh phúc. Niềm khao
khát vô biên được tận hưởng hạnh phúc đắm say bộc lộ qua những động từ quyết
liệt, táo bạo, gây ấn tượng mạnh với người đọc.
Phải nói rằng cách thể
hiện tâm trạng của Xuân Diệu trong bài thớ Vội vàng là rất mới, rất lạ, rất
Xuân Diệu, xưa nay chưa từng có. Cách dùng từ ngữ, hình ảnh thật táo bạo. Táo
bạo nhưng đặc sắc, tài tình bởi chỉ có thể nói bằng cách ấy mới bày tỏ hết sự
nồng nàn say đắm của lòng yêu. Bài thơ như lời giục giã yêu đương, lời kêu gọi
tuổi trẻ hãy sống cho sôi nổi và mãnh liệt.
Xuân Diệu yêu đời, tha
thiết gắn bó với cuộc sống. Thi sĩ đã hào hứng khẳng định: Sự sống chẳng bao
giờ chán nản. Ông thèm hưởng thụ và biết hưởng thụ mọi cái đẹp, cái vui của
cuộc sống và qua thơ, ông dâng tặng những của cải tinh thần quý báu đó cho mọi
người. Nhà thơ giúp chúng ta khám phá ra chân giá trị của cuộc đời mà nếu sống
hời hợt, nông nổi thì khó nhận ra được. Sự sống trong thơ Xuân Điệu phong phú
và đa dạng. Đó là mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu; là thế giới muôn hình muôn vẻ,
tràn đầy niềm vui và ánh sáng. Chính vì thế, Xuân Diệu và thơ tình Xuân Diệu
mãi mãi thuộc về tuổi trẻ – những con người sống để yêu thương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét