Lịch sử các loại chữ viết Việt Nam
Trong quá trình hình
thành và phát triển, chữ Việt cũng chịu nhiều ảnh hưởng của lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc Việt. Lịch sử chữ viết Việt Nam có thể tạm chia thành
ba giai đoạn nối tiếp nhau: Chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ.
1. Chữ Hán
Chữ Hán vào Việt Nam theo con đường giao lưu văn hóa bắt đầu từ
thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên. Hiện nay, ở Việt Nam còn lưu giữ được
số hiện vật như đỉnh cổ có khắc chữ tượng hình (chữ Hán cổ). Ðiều này là một
phần chứng minh được rằng chữ Hán cổ xuất hiện ở Việt Nam khá sớm và thực sự
trở thành phương tiện ghi chép và truyền thông trong người Việt kể từ những thế
kỷ đầu Công nguyên trở đi.
Ðến thế kỷ VII - XI chữ Hán và tiếng Hán được sử dụng ngày càng
rộng rãi ở Việt Nam. Thời kỳ này tiếng Hán được sử dụng như một phương tiện
giao tiếp, giao lưu kinh
tế thương mại với Trung
Quốc. Do Việt Nam bị ách đô hộ của phong kiến phương Bắc trong khoảng thời gian
hơn một ngàn năm, vì vậy hầu hết các bài văn khắc trên tấm bia đều bằng chữ
Hán. Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng chữ Hán có ảnh hưởng to lớn như thế nào
đối với nền văn hóa của nước Việt Nam xưa. Từ sau thế kỷ thứ X, tuy Việt Nam
giành được độc lập tự chủ, thoát khỏi ách thống trị của phong kiến phương Bắc,
nhưng chữ Hán và tiếng Hán vẫn tiếp tục là một phương tiện quan trọng để phát
triển văn hóa dân tộc.
2. Chữ Nôm
Chữ Nôm (nôm do đọc chệch từ nam, chữ người Việt trong thế đối lập
với chữ Hán của người Bắc tức Trung Quốc). Mượn từ tượng hình Hán để ghi lại âm
tiếng Việt. Gồm phần ghi nghĩa của tiếng Hán và phần ghi âm.
Dù chữ Hán có sức sống mạnh
mẽ đến đâu chăng nữa, một văn tự ngoại lai không thể nào đáp ứng, thậm chí bất
lực trước đòi hỏi, yêu cầu của việc trực tiếp ghi chép hoặc diễn đạt lời ăn
tiếng nói cùng tâm tư, suy nghĩ và tình cảm của bản thân người Việt. Chính vì
vậy chữ Nôm đã ra đời để bù đắp vào chỗ mà chữ Hán không đáp ứng nổi.
Chữ Nôm là một loại văn tự xây dựng trên cơ sở đường nét, thành tố
và phương thức cấu tạo của chữ Hán để ghi chép từ Việt và tiếng Việt. Quá trình
hình thành chữ Nôm có thể chia thành hai giai đoạn:
Giai đoạn đầu, tạm gọi là giai đoạn "đồng hóa chữ
Hán", tức là dùng chữ Hán để phiên âm các từ Việt thường là tên người, tên
vật, tên đất, cây cỏ chim muông, đồ vật... xuất hiện lẻ tẻ trong văn bản Hán.
Những từ chữ Nôm này xuất hiện vào thế kỷ đầu sau Công nguyên (đặc biệt rõ nét
nhất vào thế kỷ thứ VI).
Giai đoạn sau: Ở giai đoạn này, bên cạnh việc tiếp tục dùng
chữ Hán để phiên âm từ tiếng Việt, đã xuất hiện những chữ Nôm tự tạo theo một
số nguyên tắc nhất định. Loại chữ Nôm tự tạo này, sau phát triển theo hướng ghi
âm, nhằm ghi chép ngày một sát hơn, đúng hơn với tiếng Việt.
Từ thời Lý thế kỷ thứ XI đến đời Trần thế kỷ XIV thì hệ thống chữ
Nôm mới thực sự hoàn chỉnh. Theo sử sách đến nay còn ghi lại được một số tác
phẩm đã được viết bằng chữ Nôm như đời Trần có cuốn Thiền Tông
Bản Hạnh.
Ðến thế kỷ XVIII - XIX chữ Nôm đã phát triển tới mức cao, át cả
địa vị chữ Hán. Các tác phẩm như Hịch Tây Sơn, Khoa thi hương dưới thời Quang Trung
(1789) đã có bài thi làm bằng chữ Nôm. Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng được
viết bằng chữ Nôm là những ví dụ.
Như vậy, có thể thấy chữ Hán và
chữ Nôm có những khác nhau cơ bản về lịch sử ra đời, mục đích sử dụng và mỗi
chữ có bản sắc riêng về văn hóa.
3. Chữ Quốc Ngữ
hiện nay
Việc chế tác chữ Quốc Ngữ là một công việc
tập thể của nhiều linh mục dòng tên người châu Âu, trong đó nổi bật lên vai trò
của Francesco de Pina, Gaspar d'Amaral, Antonio Barbosa và Alexandre de RHODES
(Avignon, 1591 - Perse, 1660 )Ông Alexandre de RHODES viết quyển Từ điển
Portugais-Latin-Vietnamien và tham dự việc chuyển sang mẫu tự alphabet La Mã.
Trong công
việc này có sự hợp tác tích cực và hiệu quả của nhiều người Việt Nam, trước hết
là các thầy giảng Việt Nam (giúp việc cho các linh mục người Âu). Alexandre De
Rhodes đã có công lớn trong việc góp phần sửa sang và hoàn chỉnh bộ chữ Quốc
Ngữ.
Ðặc biệt là ông đã dùng bộ chữ ấy để biên soạn
và tổ chức in ấn lần đầu tiên cuốn từ điển Việt Nam - Bồ Ðào Nha - La Tinh
(trong đó có phần về ngữ pháp tiếng Việt) và cuốn Phép giảng tám ngày.Xét về góc độ ngôn ngữ thì cuốn diễn giảng
vắn tắt về tiếng An Nam hay tiếng đàng ngoài (in chung trong từ điển) có thể
được xem như công trình đầu tiên khảo cứu về ngữ pháp. Còn cuốn Phép giảng tám
ngày có thể được coi như tác phẩm văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Quốc Ngữ, sử
dụng lời văn tiếng nói bình dân hàng ngày của người Việt Nam thế kỷ XVII.
Tuy chữ Quốc ngữ của Alexandre De Rhodes năm 1651 trong cuốn từ điển Việt Nam -
Bồ Ðào Nha - La Tinh đã khá hoàn chỉnh nhưng cũng phải chờ đến từ điển Việt Nam
- Bồ Ðào Nha - La Tinh (1772), tức là 121 năm sau, với những cải cách quan
trọng của Pigneau de Behaine (Bá Ða Lộc) thì chữ Quốc ngữ mới có diện mạo giống
như hệ thống chữ Việt mà chúng ta đang dùng hiện nay.
*Theo VietSciences
http://langhoaxa.tphn.vn/



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét