Trong văn chương có người băn khoăn về một khái niệm
và ngay đời thường có người xem tình
tiết ngoài lề là chuyện đáng quan tâm…Cám ơn thư từ của bạn bè
nhắc nhở về những dư luận chung quang những bài viết về Trịnh Công
Sơn hiện nay ,VCV yêu mến anh và dĩ nhiên không chú ý xem
anh “ đã mặc bao nhiêu cái quần đùi và có cái quần đùi nào
màu đỏ.”
Nguyễn Hòa vcv
Mở đầu tập Ca khúc da vàng viết năm 1967, Trịnh
Công Sơn bày tỏ nỗi đau thống thiết: “Tất cả đã bể, đã vỡ toang. Tiếng
thét đã chìm xuống biển thành tiếng nói trầm tư, thành lời kêu uất về thân thế
Việt Nam. Tiếng nói vang lên từ những hố bom đào lên cùng khắp. Ơi những
bạn bè thân yêu đã chết từ đỉnh cao hay vực thẳm. Con người đã hóa thân làm vết
thương. Cái chết hóa thân làm biểu tượng vô nghĩa. Đã biến hình đổi dạng từ
những cơn hiểm họa cay nghiệt nhất của nhân loại. Lìa cha mẹ, anh em, bằng hữu
yêu dấu vô cùng. Hãy kết hỏa châu làm đèn đãi ngộ quỷ dữ. Đốt đuốc cho người
điên ấm phố mùa đông. Cả một hành trình hùng vĩ của giống nòi từ miền Triết
Giang đổ về bây giờ như thế đó. Hỡi người yêu da vàng của tôi hãy duỗi tay thật
dài về phía hố thẳm vốc lấy những hạt đất mềm mỏng đó mà hôn. Tôi sẽ làm người
tiều phu đi nhặt từng cánh tay, bàn chân, từng đốt xương, sọ người vung vãi
khắp nơi về làm củi đốt sáng cho đêm tìm lại dấu vết của một hành tinh Việt Nam da
vàng bặt tăm. Ám khí dày đặc, làm sao thấy rõ mặt nhau. Hãy thử bắt đầu bằng
tiếng hát như ca dao của tổ tiên ta ngày xưa đó”. ("Da vàng ca
khúc" Trịnh Công Sơn) (1)
Trong ca khúc Gia tài của mẹ sáng tác năm 1965,
Trịnh Công Sơn cho rằng đây là một cuộc chiến tranh nội chiến.
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ để lại cho con
Gia tài của mẹ là nước Việt buồn
Chính quan điểm này đã làm cho chính quyền Quốc Gia và Cộng
sản thời chiến tranh e ngại ông (2). Cho đến ngày nay, quan điểm về
tên gọi cuộc chiến vẫn là điều tranh cãi. Với tôi, tôi đồng cảm cùng suy nghĩ
của Trịnh Công Sơn, bởi vì đứng trên góc nhìn dân tộc, cái chết nào cũng đau
xót như nhau. Vì tất cả đều chung giòng máu Lạc Hồng(3). Đó chính là bi
kịch của người dân Việt. Với trái tim nhạy cảm và nhân ái vô cùng, Trịnh Công
Sơn đã nhận ra điều vô lý ấy. Trong bài nói chuyện “Trịnh Công Sơn vì hòa
bình và tình yêu” do “Hội văn hóa Trịnh Công Sơn” tổ chức tại Paris đêm
3-5-2003, giáo sư Cao Huy Thuần đặt câu hỏi: “Có cái gì nổi bật trong nhạc chống
chiến tranh của Trịnh Công Sơn?” và khẳng định: “Chẳng có gì ngoài chữ tình” (4). Đúng,
nhạc chiến tranh của ông bắt nguồn từ tình yêu thương, nó là những bài tự
tình dân tộc, ông nói hộ cho dân tộc thân phận khổ ải của kiếp người trong
chiến tranh, là tiếng kêu thương tuyệt vọng của người dân trong cảnh thịt
xương tan nát.
Ôi da vàng Việt Nam vỡ nát
Xương thịt đó thiêng liêng vô cùng
Khắp đất nước tràn đầy xác người:
Xác người nằm quanh đây, trong mưa lạnh này
Bên xác người già yếu, có xác còn thơ ngây
Xác nào là em tôi, dưới hố hầm này
Trong những vùng lửa cháy, bên những vồng ngô khoai
(Bài ca dành cho những xác người - 1968)
Là một trí thức, ông ý thức được thân phận nhược tiểu của đất
nước mình trong bối cảnh tranh giành ảnh hưởng của các thế lực quốc tế. Cảm
nhận được nỗi đau mất mát ấy, cho nên dù đang ở trong cái thế chống đối nhau,
tự trong thâm tâm của người dân Việt, họ vẫn thấy yêu nhau, gần nhau:
Tôi muốn yêu anh, yêu Việt Nam
Ngày gió lớn, tôi đi môi gọi thầm,
Gọi tên anh, tên Việt Nam,
Gần nhau
trong tiếng nói da vàng.
(Tình ca của người mất trí - 1967)
Cái bi thảm nhất là ở chỗ: cùng là người Việt Nam,
nhưng người Việt lại bắn giết người Việt. Trong thực tế cuộc đời, có khi họ
là anh em, cha con, là người yêu của nhau, nhưng vì khác chiến tuyến, nên
nhìn nhau xa lạ. Khi người Việt đó: Bỏ xác trôi sông, chết ngoài ruộng đồng
/ Chết rừng mịt mùng, chết lạnh lùng / Mình cháy như than, chết cong queo
/ Chết vào lòng đèo, chết cạnh gầm cầu / Chết nghẹn ngào, mình không manh áo (Tình
ca của người mất trí - 1967).
Những người yêu đó đã:
Chết thật tình cờ, chết chẳng hẹn hò
Chết không hận thù, nằm chết như mơ
Trịnh Công Sơn cho rằng, đây là cái chết do một trận địa chấn,
một cơn hồng thủy. Một cái chết không nằm trong dự tính của họ. Họ bị những
cơn hiểm hoạ cay nghiệt nhất của nhân loại, vô hình xô đẩy nhau vào mâu thuẫn,
hận thù. Nhưng trong sâu xa nơi tâm hồn, họ không thấy sự mâu thuẫn, hận thù
mà chỉ thấy một màu da thơm mùa lúa chín, thấy yêu nhau, thấy
gần nhau trong tiếng nói Việt Nam. (5)
Huế Sài Gòn Hà Nội
Hai mươi năm tiếng khóc lầm than
Huế Sài Gòn Hà Nội trong ta đau trái tim Việt Nam
(Huế Sài Gòn Hà Nội – 1969)
Như vậy thì quả dân tộc ta đang gặp một cơn đại nạn. Và triệu
người đã chết bất đắc kỳ tử, chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh phát xuất
từ đâu tới, chớ không phải từ trong lòng anh em Việt Nam, mà ngày nay có những
quan điểm cho rằng đó là cuộc chiến tranh “uỷ nhiệm” của các nước lớn.
Hai mươi năm là xác người Việt nằm
Làm sao ta giết hết những đứa con Việt Nam?
Xưa ta không thù hận
Vì đâu tay ta vấy máu?
Nói như Bửu Ý “… chiến tranh diễn ra không phải ở chiến
trường, không phải do người cầm súng, nó diễn ra ở bàn tròn, ở trong lòng người,
ở trong đầu óc những con người mua bán chiến tranh… Giữa một nền trời như vậy,
thân phận con người là một vấn nạn, ta nên nói ngay:
đây là một chủ đề tư tưởng, nếu không muốn nói là triết lý…” (6). Theo
Lê Trương, những bài ca nổi tiếng trong
giai đoạn này như Tình ca của người mất trí, Ca dao mẹ, Gia tài
của mẹ, Đi tìm quê hương là những bài hát có ca từ rất buồn thảm, giai
điệu blues dìu
dặt, thở than, kể lể như tiếng khóc của một người đàn bà trong góc phòng tối,
rồi bỗng nhiên nức nở, gào thét thảm thiết. Ông nói hộ những gì trong tâm hồn
họ bị nổ ra vì quá đau khổ, u uất, vì không thể đè nén lại được nữa. Những ước
mơ từ lâu họ không được quyền nói tới, phải được chôn sâu vào trong lòng, nay
bỗng bùng lên trong tiếng hát của người mất trí. (7)
Không chỉ riêng Trịnh Công Sơn, hầu như người dân miền Nam nào
cũng sống trong bi kịch ấy. Để minh chứng cho một thời đại đầy biến động này,
chúng ta hãy đọc bài thơ của Nguyễn Bắc Sơn khi viết về bộ đội miền Bắc với một
giọng thơ ngất ngưởng:
Kẻ thù ta ơi, những đứa xăm mình
Ăn muối đá và điên say chiến đấu
Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu
Đi hành quân, rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
Xem chiến cuộc như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi, vì ngươi bạc phước
Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau”...
(Chiến tranh Việt Nam và tôi - Nguyễn Bắc
Sơn) (8)
“Những đứa xăm mình”, những con người ấy cũng một dòng
máu như ta thôi. Trong lúc người lính Cộng hòa đã nhận ra cuộc chiến này “cũng
chỉ một trò chơi” thì... phần đông “Kẻ thù ta ơi” đều “điên
say chiến đấu”, đều tin chắc vào chính nghĩa của cuộc chém giết, đều hô
hào cổ võ tàn sát một cách trịnh trọng. “Kẻ thù ta ơi” là một thế hệ
tươi sáng, họ là những học sinh, sinh viên đầy nhiệt huyết, được đào tạo từ
nhỏ về lòng yêu nước, yêu nước ở đây đồng nghĩa với ý thức của chủ nghĩa cộng
sản về nhiệm vụ và sứ mệnh. Yêu nước ở đây đã gắn liền với một thể chế. Đây lại
là một bi kịch khác.“Nhiệm vụ của ta là phải đấu tranh cho lẽ phải. Mà đã đấu
tranh thì phải bỏ sức lực, phải suy nghĩ và phải hy sinh những quyền lợi cá
nhân, có khi là cả cuộc đời mình, cho lẽ phải chiến thắng” (Nhật ký Đặng Thùy
Trâm) (9).
Trong khi đó, ở chiến tuyến khác, trong bài Nghinh địch
hành Hà Thúc Sinh viết:
Giao thừa đâu mà vội
Hãy khoan đã chú mày
Cứ đóng xa vài dặm
mà ăn uống cho say
Ta cũng người như chú
cũng nhỏ bé trong đời
có núi sông trong bụng
mà bất lực hôm nay ...
Vì nói thật cùng chú
Trăm năm có là bao
Binh đao sao biết được
Sinh tử ở nơi nào.”
(Nghinh địch hành - Hà Thúc Sinh)
Một người lính Cộng hòa nói với một bộ đội miền Bắc, như
nói với anh em và quả thật họ là anh em cùng giống “da vàng mũi tẹt” mà ra. Ta
đối với chú mà nói được lời như thế vì lòng ta đã tới độ nguội lạnh, không
còn gì khuấy động nổi một cơn điên say nữa. Đao to búa lớn: vô ích. Danh từ
cao đẹp: vô ích. Lý tưởng thiêng liêng: vô ích (10).
Cũng như bao người trí thức miền Nam khác, Trịnh
Công Sơn đau đớn nhận ra điều ấy, những thảm cảnh mất mát mà ông thấy trong
trái tim của ông.
Chiều đi qua Bãi Dâu, hát trên những xác người
Tôi đã thấy, tôi đã thấy
Những hố hầm đã chôn vùi thân xác anh em
(Hát trên những xác người – 1968) (11)
Trịnh Công Sơn viết: “Ðã có điều gì không thật suốt
hai mươi năm nay. Một lầm lỡ đã lên đường và phải đi cho trót con đường máu
xương. Như một mũi tên vô tri bỗng lỗi thời trong một nhiệm kỳ vô định. Chúng
ta, dù muốn dù không, bị biến thành những mũi tên định hướng được bắn đi từ
những đồ hình huy hoàng tưởng tượng và ngắn hạn. Dân ta tàn phế hai mươi năm.
Nước mắt và máu đã làm thành những con suối lớn chảy mòn tiềm lực sáng tạo. Ðến
lúc chúng ta phải dừng tay và nhìn lại.
…Xin hãy dừng tay và cùng chờ nhìn một mặt trời tươi trẻ sẽ
được khai sinh ở phương Ðông. Xin hãy dừng tay để mọi căn nhà Việt Nam có
thể mở rộng cửa chờ đón một sớm mai hòa bình. Còn rất nhiều con đường mở ra
cho tương lai chúng ta. Những con đường đưa ta về dựng lại một tổ quốc đích
thực.
… Tiếng hát đã có thể cất lên để nuôi lớn ước mơ. Ta
đã có sẵn một hành trang quý giá của hơn bốn nghìn năm để còn mãi bước đi
trên những lộ trình mới về tương lai. Ta phải đi tới bằng con tim sứ giả mang
niềm tin và lời hứa hẹn của những người đã nằm xuống. Ta phải tìm
lại quê hương bằng sức sống mãnh liệt vì trong cơ thể ta đã luân lưu thêm
dòng máu của anh em không còn. Quanh đây, những trường học, những bệnh viện,
những đình làng, những phiên chợ, những cánh đồng sẽ được bắt đầu lại với những
ngày nhân đạo, với một dân tộc nhân bản. Xin đừng bao giờ làm kẻ phản bội với
một quá khứ hiển linh” (Kinh Việt Nam) (12)
Bửu Chỉ nhận định: “Tắt một câu, trong dòng nhạc phản chiến
của mình, Trịnh Công Sơn đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả. Mà tất cả
làm theo mệnh lệnh của con tim mình (…). Trái tim nhân ái, nhạy cảm, chỉ biết
nói lên những cảm xúc nồng nhiệt của mình đối với quê hương, dân tộc, dù thiếu
vắng một thái độ chính trị, nhưng trung thực. Nghĩa là tự đáy lòng mình thì
mình nói” (13)
Nhận định của Bửu Chỉ thật sâu sắc, tuy nhiên theo tôi, Trịnh
Công Sơn không phải không có thái độ chính trị. Thái độ chọn lựa của ông đã
thật rõ ràng. Ông dứt khoát không tham gia bên nào, vì đứng bên nào, ông cũng
thấy trái tim mình nhói đau. Như một trò chơi, bạn bè thân của ông chia đều ở
hai phía:
Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè
Ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương
(Xin mặt trời ngủ yên - 1964)
Người miền Nam thấy mình trong ca khúc Cho một người nằm
xuống, Trịnh Công Sơn thương tiếc Lưu Kim Cương, một Đại tá Không quân Việt
Nam Cộng Hòa tử nạn, là một người bạn hào hiệp của ông:
Anh nằm xuống cho hận thù vào lãng quên
Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn
Đất ôm anh đưa về cội nguồn...
Những xót xa đành nói cùng hư không.
(Cho một người nằm xuống - 1968)
Người miền Bắc lại bắt gặp mình khi ông chia sẻ nỗi đau:
Tôi mất trong chiến tranh này
Bao nhiêu bao nhiêu nụ cười
Em từ Hà Nội có bao giờ được yên vui…
(Tôi đã mất - 1970)
Trịnh Công Sơn đau đớn khi nhìn nước Việt ly tan:
Thuở đó yên vui
Mẹ Việt Nam ngồi
Ngày đêm tiếng cười
Rộn ràng khắp nơi
Một nước linh thiêng
Một màu da vàng
Người dân no lành
Hội hè suốt năm
…Nhưng hôm nay
Quê hương là miền Nam
Quê hương là trái sáng
Quê hương chở đầy hòm
…Nhưng hôm nay
Quê hương là Hà Nội
Quê hương là cuộc đời
Những đứa trẻ mồ côi
(Nhưng hôm nay – 1967)
Mùa hè đỏ lửa 1972, Trịnh Công Sơn viết: “Những thành phố
và những xác chết của tháng 5/1972, một lần nữa, tôi không thể nào quên đi tiếng
kêu thất thanh của đám người cùng khổ. Cuộc chiến đã không muốn ngừng, và có
lẽ còn mang nhiều bộ mặt mới mẻ, thảm khốc hơn. Phải chăng những hồi chuông
báo tử chưa đủ làm mềm lòng cuộc sinh sát”. (14)
Với Trịnh Công Sơn trên xác chết anh em sự vinh quang phải
dấu mặt. Không ai ca khúc khải hoàn trên thịt xương của cùng người Việt Nam.
Rồi trưa ngày 30 tháng tư năm 1975, chiến tranh chấm dứt,
người ta nghe tiếng ông hát Nối vòng tay lớn trên Đài phát thanh
Sài Gòn. Người miềnNam sửng sốt và thấy bị tổn thương như bị phản bội
khi mà trái tim họ vốn đã tan nát khi Sài Gòn vừa thất thủ.
Giải thích hành động này ra sao?
Văn Cao mấy chục năm trời im hơi lặng tiếng, bỗng vỡ òa niềm
vui với ca khúc Mùa xuân đầu tiên ở cùng thời điểm này, với những
ca từ đầy chất nhân văn:
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Người mẹ nhìn đàn con nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên…
Mùa xuân thanh bình đầu tiên của đất nước, không phải
là mùa xuân hoan ca chiến thắng. Với Văn Cao, đó là mùa xuân bừng tỉnh nhận
ra tính nhân bản của người Việt bị đánh mất trong chiến tranh giờ đây cần phải
được đánh thức trong mỗi con người:
Từ đây người biết quê người
Từ đây người biết thương người
Từ đây người biết yêu người.
( Mùa xuân đầu tiên – Văn Cao )
Phải chăng những nghệ sĩ lớn đều như vậy, như đứa trẻ chỉ
biết ca lên niềm hân hoan của dân tộc trong ngày vui chung của đất nước, sau
bao năm ngăn cách. Vẫn là niềm vui vượt trên mọi quan điểm chính trị.
Ở Việt Nam, cái logic tư duy của người Việt thường thấy
là: không bên này là bên kia. Điều này cũng dễ hiểu vì thực tiễn lịch sử Việt Nam trong
suốt nhiều thập kỷ đã đặt con người vào cách tư duy trên. Thái độ không thật
sự bên nào của Trịnh Công Sơn, đã khiến ông rơi vào cái nhìn nghi ngờ từ cả
hai phía.
Bên Cộng Hòa có người đã cho ông là “hèn nhát”: “Trịnh Công
Sơn, ông chỉ là một cây sậy, hơn thế nữa, là một cây sậy yếu hèn (cho dù có
là “cây sậy biết suy nghĩ” tới đâu). Trong lớp vỏ của một cây sậy, của một thể
chất yếu đuối, là một bản chất yếu đuối… Là cây sậy, ông khó mà đứng thẳng
trước những trận gió ào ạt, những trận cuồng phong. Ông phải cúi rạp xuống.
Là cây sậy, ông cũng tham sống sợ chết, cũng thích ăn ngon mặc đẹp, cũng run
sợ trước bạo lực, cũng lo âu trước những nỗi bất an, những mối đe dọa rình rập…” (15).
Người ta nói “ông phải cúi rạp xuống… cũng run sợ trước bạo
lực…”. Thế nhưng, khi nghiên cứu cuộc đời và nội dung các sáng tác của ông
(các bài viết và gần 300 ca khúc), tôi không hề bắt gặp điều đó. Thậm chí, Trịnh
Công Sơn rất ý thức khi không sáng tác một ca khúc nào có ca từ ca ngợi lãnh
đạo, lãnh tụ hay ca ngợi thể chế mình đang sống, dù trong thời chiến tranh
hay sau thời hậu chiến. Đó là lòng tự trọng của người trí thức mà không phải
ai ai cũng có được.
Bên Cộng Sản, những người quá khích thì “gạt ông qua
bên lề” vì thiếu vắng lập trường chính trị. Trịnh Công Sơn chênh vênh giữa
hai “lằn đạn”… mặc kệ những phán xét, ông sống theo suy nghĩ của riêng mình.
Tôi nghĩ rằng, thái độ kiên định lập trường sống và hoạt động nghệ thuật của
riêng mình chính là bản lĩnh hiếm có của một nghệ sĩ lớn. Là một nghệ sĩ, ông
dùng lời ca để hát lên thân phận con người trong chiến tranh, kêu gọi hòa
bình và tình yêu thương. Hành động dấn thân với tư cách là người nghệ sĩ đấu
tranh cho hòa bình, theo tôi là một chọn lựa dũng cảm, đầy tính nhân văn của
một trí thức. Và hành động ở lại Việt Nam sau ngày 30 tháng Tư, thở cùng nhịp
thở với đất nước, đau cùng nỗi đau của dân tộc là logic của một nhân cách lớn.
Chính điều ấy đã làm ông trở thành một công dân “ngoại hạng”.
Và một nghịch lý đã xảy ra: Người dân bên nào cũng đều
thích hát nhạc của ông, nhưng trớ trêu thay, chính quyền bên nào cũng đều cấm
đoán.
Tại sao các chính quyền phải run sợ trước những lời
ca phản chiến?
Vì quả thật, những gì Trịnh Công Sơn nói lên qua ca khúc của
ông đều là nỗi lòng và mơ ước chung của mọi người dân nước Việt. Đó chính là
tiếng nói của lương tâm con người. Năm trăm năm trước, Nguyễn Trãi cũng đã từng
nói lên nỗi phẫn nộ và đau xót trước cảnh tàn hại do giặc Minh xâm lược gây
ra: “…Dân chúng lưu ly, những nỗi lìa tan không kể xiết, binh sĩ đánh
chác, luôn năm chết chóc đáng thương thay!”. (Biểu Cầu Phong - bài
21) (16). Và trong Bình Ngô đại cáo, ông cũng nói lên thân phận
con người bị giày xéo trong chiến tranh:
Nướng con đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…
Người bị ép xuống biển, dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập
thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi, đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước
độc…
Nặng nề những nỗi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi. (17)
Lịch sử Việt Nam như chúng ta biết, là một đất nước
luôn luôn bị chiến tranh giày xéo, nội chiến phân ly. Vì vậy, những người dân
trong đất nước này từ bao đời phải luôn sống trong cảnh ly tan. Hết giặc nọ đến
giặc kia trùng trùng bủa vây. Đại thi hào Nguyễn Du cuối thế kỷ thứ 18 đầu thế
kỷ 19, cũng nói lên nỗi thống khổ của người dân trong cảnh loạn lạc: Lần
phố xin miếng ăn / Cách ấy đâu được mãi / Chết lăn rãnh đến nơi / Thịt da béo
cầy sói (Sở kiến hành).(18)
Trịnh Công Sơn, giữa thế kỷ 20 cũng nói lên bao cảnh thương
tâm diễn ra hằng ngày trên một đất nước tang tóc chiến tranh.
Từng chuyến bay đêm, con thơ giật mình,
Hầm trú tan hoang, ôi da thịt vàng…
Hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng.
Cửa nhà Việt Nam cháy đỏ cuối thôn
(Đại bác ru đêm - 1967)
Trần Hữu Thục đã rất tinh tế khi nhận ra: “Trong nỗi bi phẫn
vì chiến tranh, Trịnh Công Sơn lên tiếng kêu gọi tranh đấu, đồng thời nói lên
những khát khao hòa bình với những ca từ hùng hồn, mang tính đấu tranh thúc
giục và đầy niềm tin về tương lai: Việt nam ơi / Còn bao lâu những con
người ngồi nhớ thương nhau / Triệu chân em / Triệu chân anh / Hỡi ba miền
vùng lên cách mạng(Huế SàiGòn HàNội -1969) Hầu hết những ca từ mạnh mẽ hô hào
đó, không phải là những hô hào chém giết, mà là hô hào chiến đấu cho hòa
bình”. (19)
Trịnh Công Sơn vẽ ra hình ảnh một đất nước sau chiến tranh
rất huy hoàng:
Ta cùng lên đường
Đi xây lại Việt Nam
Bàn chân ta đi mau đi sâu vô tới rừng cao
Vác những cây rừng to
Về nơi đây ta xây dựng nhà
Dựng làng mới cho dân ta về
Dựng nhà mới cho miền quê
(Dựng lại người dựng lại nhà - 1968)
Cũng theo Trần Hữu Thục, ẩn đằng sau những ca từ cho một viễn
cảnh thanh bình đó, vẫn là những dòng nước mắt, là nỗi ưu tư nhân thế, là tâm
trạng đớn đau cùng cực của thân phận nhỏ bé của kiếp người. Vẫn là hạt bụi,
vẫn là nỗi khắc khoải siêu hình trước cuộc nhân sinh.
Chiến tranh, quê hương thân phận con người cuộn xoáy vào với nhau tạo thành một bi kịch. Rốt cuộc, thực chất cuộc đời ông là một kẻ suy ngẫm về kiếp người, một tên hát rong suốt đời lang thang, buồn bã. Chiến tranh cũng là bi kịch nhân sinh, như mọi bi kịch khác. Bởi vậy, có những lúc ông hô hào, reo ca đấu tranh cho hòa bình, thân phận ông cũng thế. Vẫn là một thân tượng buồn! (20)
Vẫn là:
Trên đời người trổ nhánh hoang vu
Trên ngày đi mọc cành lá mù
Những tim đời đập lời hoang phế
… Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa.
(Cỏ xót xa đưa - 1969)
Có lẽ từ bài đầu tiên đặt bút viết, Trịnh Công Sơn đã nghiệm
ra được chân lý riêng của mình: “cái khả năng to lớn sau cùng của ca khúc là
mang đến cảm thông giữa mọi người bằng tiếng hát. Đó là sứ mệnh truyền đạt những
âu lo, chờ đợi của con người khi đối diện với chính mình trước cuộc sống,
cũng như thông điệp tình yêu và nhân ái đến với những tâm hồn yêu chuộng hòa
bình và những con tim đang bị ngộ độc bởi ngòi thuốc nổ”. Cuối cùng gì, thân
phận ông cũng như một ngọn cỏ bên đường. Và chính ngọn cỏ bé nhỏ đó đã tạo
thành một Trịnh Công Sơn khác, mang ông đi vào vĩnh cửu.
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, thân phận da vàng
của một nước nhược tiểu được Trịnh Công Sơn đẩy đến tận cùng:
Người nô lệ da vàng ngủ quên
Ngủ quên trong căn nhà nhỏ
Đèn thắp thì mờ…
(Đi tìm quê hương - 1967)
Với cái nhìn tỉnh táo, Trịnh Công Sơn đã nhận ra thân phận
“nô lệ da vàng” của người Việt trong chiến tranh. Ông luôn nhắc nhở chúng ta
về một dòng giống Lạc Hồng trong bối cảnh tranh giành quyền lợi của các nước
lớn. Bởi vì, người Việt sống nhưng không có chủ quyền trong tay, sinh mạng bị
phụ thuộc vào ngoại bang cả ở hai phía, giá trị làm người bị phủ nhận, thì
khác gì một nô lệ. Trịnh Công Sơn hỏi: Vậy thì tại sao lại có cảnh nội chiến?
Đây là lời tố cáo:
Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu
Một trăm năm nô lệ giặc Tây Hai mươi năm nội chiến từng ngày Gia tài của mẹ, một bọn lai căng, Gia tài của mẹ, một lũ bội tình… (Gia tài của mẹ - 1965)
Sự xuất hiện của hai chữ lai căng trong ca từ
mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Lai căng tức là từ bỏ con người văn hóa dân tộc
của mình để biến thành một người khác. Lai căng là phụ thuộc ngoại bang từ
bên này hay bên kia, bằng cách này hay cách khác. Bọn lai căng đó trở thành một
lũ bội tình dân tộc. (21)Lời mẹ dặn con chớ quên màu da vàng, dặn con giữ
gìn màu da vàng chính là một cách phản kháng tâm thức nô lệ, một hình thức chống
lại những khuynh hướng lai căng đang đe dọa:
Dạy cho con tiếng nói thật thà
Mẹ mong con chớ quên màu da Con chớ quên màu da nước Việt xưa Mẹ trông con mau bước về nhà Mẹ mong con lũ con đường xa Ôi lũ con cùng cha quên hận thù (Gia tài của mẹ - 1965)
Dân tộc của ông là trăm trứng nở ra trăm con trong huyền
thoại lịch sử, cùng giống Con Rồng Cháu Tiên. Dân tộc của ông là thế: là tất
cả mọi người, không phân biệt Nam-Bắc, không phân biệt giai cấp. Vì sao? Vì
có người mẹ nào phân biệt con? Dân tộc, bởi vậy, mang hình ảnh bà Mẹ. Bà Mẹ
đó luôn ăn năn - ăn năn cả đến việc đã sinh ra con, bởi vì sinh ra con để làm
gì khi chúng sống một kiếp người đọa đày, thù hận? (22)
Mẹ nhìn quê hương nghe con mình buồn giọt lệ ăn năn
Giọt lệ ăn năn đưa con về trần tủi nhục chung thân
Chiến tranh là tủi nhục của bà Mẹ, vì xương thịt nào cũng từ
Mẹ mà ra, xương thịt nào cũng là Việt Nam. Cùng là đứa con của Mẹ mà
thôi. (23) Nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn là thế? Có người tán
thành, có người còn nghi ngại. Âu cũng là lẽ thường tình vì cách nghĩ của con
người có bao giờ là như nhau. Nó luôn vận động và nhận chân lại những giá trị,
lý giải lại những gì đã qua. Cuộc đời này mãi mãi là như vậy. Nhưng cho dù là
gì đi nữa, theo tôi, chắc không ai không thừa nhận Ca khúc da vàng của
Trịnh Công Sơn bắt nguồn từ lòng yêu thương con người. Mà cái gốc tình yêu thương
của ông chịu ảnh hưởng sâu đậm triết lý “Tứ hải giai huynh đệ”, là nhân loại
một nhà, vượt qua những hệ tư tưởng nhỏ bé, những hệ lụy đời thường. Ông đã đứng
lên trên tất cả mọi thiên kiến chính trị để nói lên nỗi đau của người dân da
vàng, của người dân nước Việt. Phải chăng, vì viết theo “mệnh lệnh của con
tim”, chứ không theo một thứ mệnh lệnh nào khác, mà người đời đã vinh danh
ông là “kẻ du ca bất khuất của ViệtNam”.
Năm 2004, Trịnh Công Sơn được hội đồng âm nhạc thế giới chọn trao “Giải thưởng âm nhạc hòa bình thế giới” (WPMA) vì lý tưởng hòa bình mà ông đã đấu tranh không mệt mỏi cho hạnh phúc nhân loại.
Ông ca tụng tình yêu thương, ông chống bạo lực và chống chiến
tranh. Kêu gọi đoàn kết, xoá bỏ hận thù. Phải chăng đó là những chủ đề không
chỉ có tính thời sự cấp thiết mà còn luôn luôn là vấn đề lớn của nhân loại của
muôn đời.
Cho đến ngày nay, sau hơn 30 năm kết thúc chiến tranh, nhìn
lại những chặng đường thăng trầm của đất nước, có lẽ đã đến lúc chúng ta dũng
cảm nhìn nhận lại cuộc chiến đã qua và thân phận các ca khúc phản chiến của
Trịnh Công Sơn.
Chúng ta hãy tự hỏi: thân phận da vàng người Việt ngày nay
đã thực sự thoát đời nô lệ ngoại bang chưa?
Hay vẫn còn đó nỗi niềm:
Ôi gian nan đời nước nhỏ
Sao đau thương nhiều lắm thế
(Quê hương đau nặng - 1971)
Chiến tranh hạt nhân, chiến tranh tôn giáo, chiến tranh giữa
những hệ tư tưởng... nội chiến... ngay lúc này, chúng ta có thể nghe thấy tiếng
bom nổ trong thành phố Baghdad, xung đột ở Palestin, khủng bố ở Thailand ...
cuộc chiến vẫn luôn chực chờ ở đâu đó và những ca từ kêu gọi hòa bình, yêu
thương con người của Trịnh Công Sơn vẫn luôn mãi còn giá trị.
Ghi chú:
(1) Trịnh Công Sơn, Da vàng ca khúc, nguồn http://www.suutap.com
(2) Báo Người Việt-Hoa Kỳ, trong bài tiểu sử Trịnh Công Sơn
viết: “Trước đây tại Sài Gòn, có người từng tuyên bố khi nắm được chính quyền
sẽ xử tử TCS về tội đã gọi chiến tranh Việt Nam là “nội chiến” (trong câu hát
“hai mươi năm nội chiến từng ngày”, thay vì phải gọi là “Chiến tranh chống Mỹ
cứu nước”.Vì vậy, sau 30/4 TCS phải về Huế ngay khi “những người chiến khu”
vào Sài Gòn…năm 1979, nguyên cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đứng ra che chở
ông, đánh tiếng gọi ông về lại Sài Gòn.”
(3) Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng có cái nhìn tương tự.
Tham khảo: “TCS cây đàn lya của hoàng tử bé”, NXB Trẻ, 2005,tr 62-70
(4) Cao Huy Thuần (2003), Nhạc chống chiến tranh của
Trịnh Công Sơn,http://www.tcs-home.org
(5) Lê Trương, Phong trào da vàng ca, http://www.suutap.com
(6) Bửu Ý (2003), Kẻ du ca về tình yêu, quê hương và
thân phận, in trong tập Trịnh Công Sơn, rơi lệ ru người, NXB Phụ Nữ.
(7) Lê Trương, Phong trào da vàng ca, http://www.suutap.com
(8) Võ Phiến. Tổng quan Văn học Miền Nam, nguồn http://www.tienve.org
(9) Đặng Thùy Trâm (2005), Nhật ký, NXB Hội
Nhà Văn, Hà Nội.
(10) Võ Phiến. Tổng quan Văn học Miền Nam, nguồn http://www.tienve.org
(11)Ca khúc “Hát trên những xác người”, Trịnh Công Sơn sáng
tác vào ngày 28-2-1968, sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968.
(12) Trịnh Công Sơn, Kinh Việt Nam. (suutap.com)
(13) Bửu Chỉ (2001), Về những ca khúc phản chiến của
Trịnh Công Sơn, báo Diễn Đàn Forum, tr29, tháng 9/2001, Paris.
(14) Phụ khúc da vàng (suutap.com)
(15) Lê Hữu, Ảo giác Trịnh Công Sơn, nguồn http://www.tcs-home.org
(16) Nguyễn Trãi toàn tập (1976), NXBKHXH.
(17) Giảng văn Văn học Việt nam (2002), NXBGD.
(18) Giảng văn Văn học Việt nam (2002), NXBGD.
(19) Trần Hữu Thục (2001), Một cái nhìn về ca từ
Trịnh Công Sơn, in trong Tạp chí Văn Học tháng 10&11/2001 California, Hoa
Kỳ.
(20) Trần Hữu Thục (2001), Một cái nhìn về ca từ
Trịnh Công Sơn, in trong Tạp chí Văn Học tháng 10&11/2001 California, Hoa
Kỳ.
(21) Lê Trương, Phong trào da vàng ca, http://www.suutap.com
(22) Lê Trương, Phong trào da vàng ca, http://www.suutap.com
(23) Lê Trương, Phong trào da vàng ca, http://www.suutap.com
|
Thứ Sáu, 12 tháng 6, 2015
Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Về Nhà văn Khái Hưng
Về Nhà văn Khái Hưng Khái Hưng tên thật là Trần Giư, nhưng ông thêm chữ Khánh thành Trần Khánh Giư để giống vị tướng Trần Khánh Dư đời Trầ...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét