Giai đoạn 1945 -1975 là giai đoạn mà cảm hứng
sử thi, anh hùng ca được xem là cảm hứng chủ đạo, chi phối toàn bộ các
sáng tác trong đời sống văn học. Tuy nhiên, sau năm 1975, lịch sử đã mở ra một
trang mới cho cuộc sống của người dân nước Việt nói chung và giới văn nghệ sĩ
nói riêng. Văn chương cũng chuyển mình theo sự đổi mới ấy, thực hiện
nhiệm vụ phản ánh một cách chân thực hiện thực đời sống cũng như hiện thực tâm
lí con người. Nhà thơ không còn bị vướng bận với những quan niệm kiểu “hiện thực
chủ yếu” và “hiện thực thứ yếu”, không bị bó buộc trong những khung tư tưởng định
sẵn mà cố gắng thể hiện tính đa diện của hiện thực. Nói đúng hơn, hiện thực
trong văn học phải là thứ hiện thực của suy tư. Do đó, cảm hứng chủ đạo chi phối
sáng tác chuyển dần từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng cá nhân, cảm hứng đời tư,
thế sự. Các nhà văn, nhà thơ chuyển từ “bè cao” sang “giọng trầm”, tập trung
bút lực khai thác những mảnh đời nhỏ bé, bình thường nhưng lại mang ý nghĩa
nhân văn cao cả. Họ không nói đến những cái to tát, những cái lớn lao của tập
thể nữa mà đi sâu vào thân phận con người bình thường, thậm chí là những mảnh đời
nhỏ nhoi của thời hậu chiến.
Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, đặc biệt là lĩnh vực thi
ca, người nghệ sĩ muốn tạo dựng đứa con tinh thần có giá trị thì nhân tố đầu
tiên không thể không nói đến chính là cảm hứng. Thơ muốn hay thì cảm hứng phải
dồi dào, mãnh liệt. Tình cảm của nhà thơ do đó cũng phải lớn. Đó là thứ tình cảm
đã dồn nén tới mức trở thành một thứ năng lượng có khả năng giúp thơ hiện hình,
tỏa sáng. Song không phải lúc nào tình cảm nào cũng có thể giúp thơ lên ngôi.
Tình cảm ấy phải bắt nguồn từ hiện thực đời sống đã được nhà thơ đón nhận bằng
tất cả tài năng, tư tưởng và tâm hồn.
Ở Việt Nam, lịch sử chiến tranh liên miên đã để lại dấu ấn
không thể phai mờ trong tâm thức cộng đồng. Mặc dù chiến tranh đã lùi xa, nhiều
bài học đã được tổng kết, nhưng để hiểu hết thực tế chiến tranh thì quả là một
câu chuyện chưa bao giờ kết thúc. Chiến tranh - như một vết thương khó lành, mỗi
khi trái gió trở trời, cơ thể dân tộc lại trở nên nhức nhối.
Chính vì vậy, sau năm 1975, thơ ca chủ yếu viết theo khuynh
hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, nhằm ca ngợi những người anh hùng trong cuộc
kháng chiến vĩ đại của dân tộc, thì góc nhìn về chiến tranh đã có sự thay đổi.
Những mặt khuất lấp, những góc tối, sự đau đớn, mất mát, hậu quả đau lòng do
chiến tranh gây ra mà giai đoạn trước văn học e dè, đến nay được tập trung khai
thác, phản ánh chân thực và sâu sắc. Trong trường ca, các tác giả như: Trần Mạnh
Hảo, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh,… đã tái hiện bộ mặt chiến tranh một
cách sống động bằng những câu thơ thấm trải nỗi đau. Nhưng phải đến Trần Anh
Thái, nỗi đau ấy mới thực sự xoi buốt, day dứt và ám ảnh. Cũng từng là người
lính, dãi dầu đời sống trận mạc, chứng kiến sự cận kề cái chết trong gang tấc
nên khi viết về chiến tranh, với Trần Anh Thái là nhu cầu tự thân, để thỏa cơn
khát, để trả món nợ lòng và để tự vỗ về mình. Viết về nó là chạm vào thế giới của
biết bao kỉ niệm trận mạc, về phận người, về đồng đội và bè bạn. Để rồi trong
các trường ca của nhà thơ, mỗi cuộc chiến, mỗi tiếng súng, mỗi chiến
thắng, mỗi sự hi sinh đều được khái quát hóa, đẩy lên thành biểu tượng cho sức
sống dân tộc Việt.
Trong
trường ca Đổ bóng xuống mặt trời ra đời năm 1999 được đánh giá là một
bản huyền ca biểu tượng cho tinh thần văn hoá làng quê Việt. Tác phẩm
gồm 9 chương, trong đó có ba chương Trần Anh Thái dành riêng cho chiến tranh: “Chiến
tranh”, “Trận đánh”, “Ngày về”. Không phải quá khó hiểu khi chiến tranh trong
những trang thơ của Trần Anh Thái trở thành nỗi đau đáu khôn nguôi, bởi: “Trần
Anh Thái đã từng là người lính đánh vây lấn ở núi Đình Cương – một trận đánh
kéo dài và khốc liệt”. Nhà thơ cũng từng “uống nước dòng sông Vệ, như đã uống
nước sông quê miệt biển Thái Bình”. Nên hơn ai hết, Trần Anh Thái trải thấu đến
tận cùng nỗi đau, sự mất mát mà chiến tranh đã gây ra. Dòng hồi ức ấy bắt đầu từ
những ngày đầu tiên ở làng quê của nhà thơ.
Ngôi
làng ấy sau “thuở khởi nguyên tăm tối” đã bắt đầu một cuộc sống mới
bình yên: “Ruộng lúa nhà gặt ngày chín nắng/ Dải bóng vàng dịu cơn khát
ban trưa/ Con gà mái chiều qua nhảy ổ/ Cứ tác lên rối rít gác sàn ngang”. Nhưng
chẳng mấy chốc chiến tranh đã đổ bóng. Từ góc nhìn rất gần gũi, quen thuộc và
bình dị, nhà thơ đã dõi theo từng bước đi của cuộc chiến và thể hiện bằng một
nhát cắt tình huống rất đời thường nhưng thật đau đớn, xót xa: “Người đưa thư
báo tin chiến trận/ Mẹ đánh rơi nia gạo xuống sàn nhà”. Đột ngột và
bất ngờ, chiến tranh đã xáo trộn mọi hoạt động trong nếp sinh hoạt hàng ngày: “Chim
chích chòe sợ đông đi tránh rét/ Đu đủ đầu mùa héo lúc vỏ xanh/ Mèo khoang ngại
ra đồng đuổi chuột/ Nằm co ro xó bếp ngủ vờ”. Mặc dù nói tới chiến tranh không
bắt đầu từ tiếng gầm rú của máy bay, sức giật, rung của bom đạn nhưng những
dòng thơ của Trần Anh Thái đã “khiến cho bộ mặt của cuộc chiến tranh hiện lên
không còn sót khía cạnh nào của sự tàn bạo. Nó là kẻ thù muôn đời của mọi sự sống”.
Chiến tranh - chỉ cần nghe tiếng thôi cũng đã mang lại trạng thái hoang mang
trong đời sống vạn vật. Nó nhắc chúng ta nhớ tới những câu thơ của Nguyễn
Đình Chiểu khi Thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên vào thành Gia Định, mở đầu
cuộc xâm lược lục tỉnh: “Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,/ Một bàn cờ thế
phút sa tay./ Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,/ Mất ổ, đàn chim dáo dác
bay” (Chạy Tây). Điểm gặp gỡ giữa hai nhà thơ chính là việc lựa chọn những
đối tượng miêu tả để khắc họa tình cảnh hỗn loạn, thê lương mà chiến tranh gây
ra. Đó là trẻ thơ - lớp người cần được chở che, bảo vệ nhất. Chiến tranh với sự
tàn khốc của nó đã đảo lộn nhịp sống thường nhật của các em, lấy đi những giờ
phút hồn nhiên của tuổi ấu thơ: “Chuyện vui đùa con trẻ dửng dưng”, “Tiếng
cười trôi dạt về đâu”. Thay vào đó là những gương mặt nhớn nhác, “tái
xanh”: “Đám con gái khóc nhè co ro xó tối/ Chúng tôi như bầy gà hoảng sợ bóng
đêm”.
Như thế, chiến tranh mở màn cuộc tàn phá thảm khốc của nó
không phải bằng cái chết nơi chiến trường, không bằng cảnh “máu tung xối, chảy
tóe, ồng ộc…” ghê rợn như trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh, mà cuộc chiến với Trần Anh Thái lại được khởi đầu trên chính quê hương –
nơi hậu phương của người lính.
Khi
bước chân của chiến tranh đã “tràn vào nhà”, đi qua trạng thái hoảng loạn
ban đầu, con người bước vào tư thế đối mặt: “Anh tôi nhập ngũ”, “Ông hàng
xóm nghe đài đọc báo/ Giờ oang oang kể chuyện chiến trường”. Gia đình
không còn đông đủ, nỗi đau ban đầu mà chiến tranh gây ra chính là sự chia ly,
tan tác. Nó phá vỡ cảnh yên vui, sum họp của bao gia đình, reo rắc nỗi thấp thỏm
không yên ở bao mái nhà: “Nhà bớt dần tiếng nói”, khiến “cha hay đi
ra biển ít ngủ ở nhà”, làm cho:“tóc mẹ rụng những mảng buồn lối ngõ”. Như vậy,
ngay từ những giây phút đầu tiên, chiến tranh đã vung lưỡi hái tử thần ở nơi dường
như bình yên nhất.
Bộ
mặt của chiến tranh, trước hết, không gì khác là sự tàn phá, dữ dội và
chức năng hủy diệt: “Pháo kích rít bầu trời rực lửa/ Cỏ dưới chân vật vã
gió rền” (Đổ bóng xuống mặt trời), “Bầu trời đang vỡ ra/ Nổ tung mặt
đất”, “Đạn bay hỗn loạn”, “Đại bác rít qua bầu trời lửa, những chùm mây ám khói
đạn bom” (Ngày đang mở sáng). Trong trường ca của Thanh Thảo ta
cũng bắt gặp bộ mặt khốc liệt như thế:“Ôi lửa chiến tranh/ Dẫu chỉ còn lập lòe
như lửa đầu điếu thuốc/ Có thể bùng cháy mái nhà tranh”.
Từ
điểm nhìn hiện tại, với cái tôi trữ tình trải nghiệm “qua cuộc chiến đầy máu và
nước mắt”, Trần Anh Thái không nhằm tiếp tục xây cao tượng đài về người anh
hùng mang lí tưởng thời đại, cũng không nhằm khắc họa cái tư thế vinh quang và
vẻ đẹp của người chiến thắng mà nhà thơ đi vào khám phá tận cùng vẻ đẹp trong
tâm hồn họ.
Bỏ
lại giấc mơ sau lưng “giọng chị lạc chiều, nước mắt mẹ chảy khô đêm rét mướt”, người
em: “ánh mắt thẳm sâu/ Và hơi thở gấp gáp buổi chiều” (Ngày đang mở
sáng), không được chuẩn bị, không kịp chuẩn bị thứ hành trang tinh thần nào,
người lính bị ném vào hiện thực khắc nghiệt, gian khổ của chiến
tranh với sự bất lợi của thiên nhiên, thời tiết: “Chân trời/ Vực thẳm/ Ba lô sập
mắt/ Gió lặng hành quân/ Xơ tước cánh rừng/ Dốc người dựng ngược”, “Đường quành
quèo dốc dựng”. Đó cũng là những khó khăn mà người lính Tây Tiến gặp phải trên
đường hành quân chống Pháp những năm xưa : “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm
thẳm/ Heo hút cồn mây súng ngửi trời/ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
(Tây Tiến – Quang Dũng). Cuộc sống của người lính trong trường ca Trần Anh
Thái là những bữa ăn sơ sài, thiếu thốn:Chúng tôi ăn lương khô/ Muối hòa nước
suối/ Tuần không rau/ Tuần uống lẫn đất rừng (Đổ bóng xuống mặt trời).
Thậm chí người lính trong
trường ca Trần Anh Thái phải dấn thân trên con đường tắm bằng đạn và máu: “Đất
đỏ dọc chiến hào đẫm máu”, “Máu ròng ròng sẫm mặt trời trưa”, “Máu trộn đỏ rừng
cây Quảng Ngãi”…Phải chứng kiến cái chết xả thân đau đớn tàn khốc của đồng đội: “Những
xác chết ngổn ngang hình hài méo mó”, “Mặt bạn tôi bê bết máu chiến hào”, mới
thấm thía đến tận cùng: Chiến tranh là mất mát đau thương, là chết chóc, là
sinh li tử biệt nhưng không thể nào khác được, bởi “Chiến tranh không có
con đường thứ ba”. Và nó như ngưng đọng vĩnh viễn, như là điểm kết thúc của
mọi sự.
Và ngay trong chiến tranh, người lính trong trường ca Trần
Anh Thái có những khoảnh khắc hiện lên ở khía cạnh đời thường bởi họ cũng có
nhưng phút giây yếu đuối. Yếu đuối lúc ra đi:
Anh phải đi trước khi trời sáng
Để không ai biết anh khuỵu ngã
Cái khoảng trống này
Cỏ sẽ xanh
yếu đuối trong giấc mơ về cánh đồng hoa xuyến chi trắng muốt
khi kề cận bom đạn khốc liệt và lửng lơ cái chết. Có những lúc, trong khoảng lặng
của tâm hồn, Trần Anh Thái đã phát hiện người lính còn có niềm băn khoăn rất thật:
Trận
đánh ngày mai ai mất ai còn
Rừng nín thinh
Sương đổ đầm đìa.
Họ mang trong mình nỗi sợ hãi và cả tâm trạng hoài nghi
khắc khoải:
Tiếng ai nấc trong đêm
Mồ hôi tứa thấm vào sương ớn lạnh,
những cành khô lạo xạo vỡ hỗn mang,
Sau cái chết dai dẳng hãi hùng này
Có một vòm trời khác?.
Cảm nhận về chiến tranh qua dòng hồi ức của người lính, trường
ca Trần Anh Thái không mang hào khí hào hùng, hăm hở đầy quyết tâm như trong
sáng tác của Bằng Việt: “Cả một thế hệ giàn hàng gánh đất nước trên vai”,
không ám ảnh ghê rợn như Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh mà lặng lẽ thẳm
sâu, đau đáu những xúc cảm nhân sinh rất thực của con người. Bước qua chặng đường
cam go nhất của cuộc chiến, đến hồi vãn cuộc, người lính trong trường ca Ngày
đang mở sáng mới có đủ thời gian nhìn lại:
Đất đồi phơi xác bạn thù
Tiếng chim dại lửng lơ sườn núi
còn kẻ sống:
Kẻ thất trận dưới chân đồi lê bước
Kéo hoàng hôn rã rời
Kẻ thắng trận hai tay ôm mặt khóc
Thương tích tạc vào gió thổi ngàn sau
Không còn những phẫn nộ, căm ghét, hận thù mà là nỗi cảm
thương, chua xót với kiếp người nói chung phải trả giá cho sự tồn tại. Khác với
cách tiếp cận của Nguyễn Khoa Điềm: “Thằng Mĩ vào thì xác mà để đấy!/ Thằng
ngụy vào thì xác nó đừng chôn!/ Cho cháu con ta, ai sau nữa, được nhìn!”.
Người lính trong trường ca Trần Anh Thái có một tâm trạng, thái độ một cái nhìn và nghĩa cử cao đẹp, nhân bản bởi “vinh danh người nằm xuống, là ai, bạn hay thù đều thể hiện “phong độ” nhân bản như nhau ( Nhìn lại bến bờ- NXBHNV). Đó là một cái nhìn rất con người. Bởi chiến tranh đã san bằng giai cấp, địa vị, thành kiến nên dù ở chiến tuyến nào thì cái chết cũng như nhau. Người may mắn sống sót trở về dù thắng hay thua sẽ vẫn kinh hoàng khi nhìn lại.
Người lính trong trường ca Trần Anh Thái có một tâm trạng, thái độ một cái nhìn và nghĩa cử cao đẹp, nhân bản bởi “vinh danh người nằm xuống, là ai, bạn hay thù đều thể hiện “phong độ” nhân bản như nhau ( Nhìn lại bến bờ- NXBHNV). Đó là một cái nhìn rất con người. Bởi chiến tranh đã san bằng giai cấp, địa vị, thành kiến nên dù ở chiến tuyến nào thì cái chết cũng như nhau. Người may mắn sống sót trở về dù thắng hay thua sẽ vẫn kinh hoàng khi nhìn lại.
Nhưng
lúc chiến cuộc tạm ngừng, trên chiến trường sẽ còn lại điều gì? hay chỉ là những
nấm mồ rồi cũng sẽ bị bỏ hoang “Mộ bạn đắp vội ngày/ Hàng cây câm lặng”,
“Mồ các bạn lấy gì che bớt lạnh/ Sương giàn giụa đổ dày”, “Xóa đi tên đất, tên
người”.
Câu
chuyện nơi chiến trường là vậy, còn hậu phương thì phủ lên bầu không khí tang
tóc, thê lương. Các thế hệ trai làng lần lượt lên đường chiến đấu và bỏ xác nơi
sa trường:
Làng vài ngày một tin báo tử
Các anh tôi thành hương khói vu vơ.
Làng vắng bóng đàn ông càng trở nên mong manh trước thiên
tai, địch họa. Nếu có người trong cuộc chiến trở về thì trên mình cũng mang đầy
thương tật:“Làng có anh Pheo cụt chân xuất ngũ/ Chim khách bay cuống quýt ngọn
tre”. Nhưng dù sao“Có thêm đàn ông gió đồng bớt trống/ Râm bụt trước nhà sáng
sáng đỏ hoa”. Chiến tranh đến, duy trì mạng sống là cần thiết, hạnh phúc lứa
đôi tuy nhỏ bé, giản đơn cũng thành ra xa xỉ, trở thành niềm ước ao khao khát của
bao người:
Gái làng qua nhà anh lén nhìn lố ngõ
Và âm thầm xoa ngực đêm đêm
Hương cứ tỏa gió qua ai biết
Sương muối bay cay đắng phận người.
đôi khi còn gợi bao điều xót xa “Chị tôi tuổi
dậy thì mưa nắng/ Ngày đi về se thắt mắt mẹ tôi”, “Nước mắt lặng lẽ rơi phía
sau bóng tối/ Tiếng thở dài chôn nỗi buồn vào bao căn nhà thiếu vắng đàn ông”.
Đời sống hậu phương trong chiến tranh vốn là nơi cung cấp vật chất, là điểm tựa
tinh thần cho người lính, nhưng hiện thực ê chề, thật buồn tủi, đớn đau…
Chiến tranh dù khốc liệt, đau thương nhưng rồi cũng
đến hồi kết. Cuộc sống tiếp tục những vòng quay mới ở điểm khởi đầu.
Nhưng nỗi đau thương tích mà nó gây ra thì dai dẳng, nhức nhối. Nói
về trường ca Ngày đang mở sáng, nhà thơ Thanh Thảo chia sẻ: “đây là cuộc
chiến tranh sau chiến tranh, là mất mát sau mất mát, những nỗi đau sau những nỗi
đau”. Đó là nỗi đau, nỗi mất mát, là cuộc chiến của người mẹ mất chồng,
mất con như má Mừng: “Đôi khi buồn quá/ Đôi khi chống gậy tìm đường ra
sông Vệ/ Hai mắt ngây nhìn(/…)Gương mặt chồng và năm đứa con”, “Trong đôi
mắt mờ đục của mẹ/ Đốm sáng nhỏ nhoi/ Khắc khoải không màu” ( Ngày đang mở
sáng).
Trong các trường ca của Trần Anh Thái, chiến tranh còn gây ra
tội ác với những người chị:
- Giỗ tết
người ta mua hương hoa về viếng người thân trong nghĩa trang liệt sĩ
Nén nhang chị thắp trời không
- Ba mươi năm sóng thừa đầy biển
Chị chẳng
có cho mình
Nắm đất
thắp nhang riêng
- Chị
héo hon giữa dòng người đi tìm hài cốt…
- “Ba
mươi năm chị là cái bóng đi về không hay biết
Mảng
tóc trên đầu rụng tháng ngày rơi”
Dòng thời gian chảy trôi đã ném tuổi thanh xuân của người phụ
nữ vào chiến trường theo từng bước chân của người đàn ông. Người chị ấy cũng hiện
lên thật xót xa trong thơ của Hữu Thỉnh: “Chị chôn tuổi xuân trong má lúm
đồng tiền…Một mình ngồi một mâm cơm/ Ngồi bên nào cũng lệch”. Nỗi đau của những
người phụ nữ được diễn tả một cách thấm thía xúc động – bởi cuộc chiến tranh mà
họ đang đối mặt là cuộc chiến tinh thần: đầy khốc liệt, dai dẳng, ngậm ngùi và
ám ảnh.
Người lính sống sót trở về sau cuộc chiến, dù may mắn không
mang thương tật, nhưng vết thương lòng vẫn không thôi cắt cứa. Họ đã khóc cho
những người hi sinh và đau cùng với nỗi đau mất mát của con người trong hiện tại.
Cuộc sống và niềm vui không khi nào được trọn vẹn. Ngay cả trong giấc mơ, kí ức
dữ dội ấy vẫn trở về:
Giấc ngủ tôi quay vào bóng tối
Những chiếc gai đinh găm phía đầu giường
Có gì đó như đang vỡ
Tiếng bom rơi xé rít chân trời.
Sau bao năm lăn lộn chiến trường, giờ đây vật lộn để mưu
sinh, người lính chua xót nhận diện một hiện thực tăm tối đang tồn tại trong đời
sống thường ngày: “Mày mặt hốc hác/ Nheo nhóc vợ con/ Hai mắt mở tròn/ Đất
trời thườn thượt” (Ngày đang mở sáng). Đó là chuyện cơm áo, gạo tiền
muôn thuở. Những bận lòng này thật khác với sự hăm hở và khí thế lên đường đến
vùng đất hoang vu để khai mở khi chiến tranh kết thúc trong trường ca của tác
giả Thu Bồn: “Trong tiếng nổ phá mìn/ Hàng sư đoàn đi phá đất”.
Như vậy, nếu hình ảnh người lính trong trường ca Thu Bồn đạt
tới độ chuẩn mực, lí tưởng; nếu người lính trong trường ca Thanh Thảo gần gũi đến
trần trụi, có tính cách đặc trưng thế hệ; nếu người lính trong trường ca Nguyễn
Khoa Điềm mang vẻ đẹp tiêu biểu về tâm hồn, lương tri thời đại, thì
đến với trường ca Trần Anh Thái, ta bắt gặp chân dung người lính luôn đằm sâu
suy tư, day dứt và đầy nhân tính.
Có thể nói, viết về đề tài chiến tranh, trường ca Trần Anh
Thái đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân văn sâu sắc. Các nhân vật chiến tranh
dù cá nhân hay tập thể, dù có hay không tên đều hiện lên ở trạng thái đời thường
bình dị với tình cảm trong sáng, thuần khiết nhất. Nổi bật lên là hình tượng
người phụ nữ và hình tượng người lính. Họ không được khai thác nhiều ở phương
diện tính cách anh hùng, và Trần Anh Thái cũng không đứng trên lập trường chính
trị để tổng kết chuyện thắng – bại, được – thua, còn – mất . Dòng cảm xúc về
chiến tranh trong trường ca của nhà thơ dội lên mãnh liệt và giàu sức suy tư.
Có thể nói, Trần Anh Thái đã chạm vào tâm linh những nỗi đau qúa khứ, giúp ta
thấy được chặng đường nhân dân đã đi qua để có được cái nhìn sâu sắc, toàn diện,
nhân bản về chiến tranh, dân tộc.
Với
khoảng hơn 10 năm độc hành cùng trường ca, Trần Anh Thái là người lữ hành miệt
mài trên con đường của mình không màng đến chuyện mưa nắng nhân gian. Mặc dù đã
đi qua nửa chặng đường của cuộc đời nhưng nhà thơ vẫn nhận mình là người đi bên
lề cuộc sống. Có lẽ, chính vì thế mà Trần Anh Thái đã dồn toàn tâm, toàn sức, dồn
hết bút lực của mình cho một mục đích cao nhất của văn chương. Đó là tìm kiếm
những câu trả lời cho sự tồn tại số phận của con người và của cuộc đời.
Qua
ba tập trường ca, ta thấy thế giới nhân vật mà nhà thơ xây dựng khá phong phú:
Có nhân vật cụ thể, có tên: Ông Kháu, Anh Pheo, “Thằng Thời, thằng Tuyên,
thằng Hằng, thằng Văn, anh Chữ”,…lại có người không tên: mẹ tôi, anh tôi, chị
tôi,…Có nhân vật đám đông: họ, đoàn người, dòng người,…Có con người của thế giới
hiện tại, cũng có cả con người “muôn năm cũ”, trong thế giới tâm linh…Tất cả thế
giới nhân vật ấy được quy chiếu dưới cái nhìn mang cảm quan thân phận – thế giới
của con người thân phận.
Trước
hết phải kể đến hình bóng của tổ tiên – những con người lao động bình thường
trên con đường khai mở xuất hiện trong dòng tâm tưởng của nhà thơ ỏ trường ca Đổ
bóng xuống mặt trời: “Đoàn người đi lam lũ dưới hoàng hôn”, “Dân làng bước
ngàn năm sương giá”, “Dòng người lầm lũi đi/ Mắt sáng trong veo/ Nụ cười xiêu dại”, “mảnh
đất linh hồn ông cha/ Đêm chợt vọng bốn chiều người lầm lũi úp mặt vào bờ ruộng”,
“nghìn năm xa xẩm phận người”. Dấu chân của tổ tiên từ thuở hồng hoang mở đất
hiện lên với những ám ảnh về nỗi khổ đau, bất hạnh của cuộc đời và số phận. Bằng
những lời thơ đằm chất suy tư, Trần Anh Thái đã nhìn xuyên suốt chiều dài lịch
sử qua hành trình con người mò mẫm tìm lối đi trên con đường xa xăm mù tối và đầy
gai bụi. Đó là cuộc mưu sinh với sự dấn thân không có quyền lựa chọn, bởi“dừng
lại là đắm chìm”.
Trong
suốt hành trình khai mở ấy, những con người vùng biển đã phải đối mặt và chống
chọi với sự khắc nghiệt nhất của thiên nhiên và cuộc sống. Đó là cảnh đói khát: “Run
cơn khát/ Bóng người ngày đổ”, “ Cúc áo cài lộn ngược/ Cơn đói mờ run”, là trạng
thái thấp thỏm, bất an: “Tiếng quạ kêu rờn rợn dọc bãi đồi”, là tai ương
và dịch bệnh không bao giờ lường trước: “Bờ biển đầy chướng khí”, “những
đám mây bí ẩn trôi xa”, “thuở ấy mặt trời hay có giông che”, “cánh đồng hoa mơ
nở chậm/ Bão giật rụng đầy mặt sông” và khi “cơn bão qua/ Người sực tỉnh
giữa vùng tai họa”. Cuộc sống còn là cái chết cận kề “giữa bốn chiều tê
xót”: Người lên rừng và người xuống bể/ Những giấc mơ cất cánh trở về/ Hồn lãng
đãng sương mù cát bụi/ Đàn ông nước cuốn sông trôi.
Trong sự mưu sinh mòn mỏi, những con người đã sống mòn
và cũng chết mòn “cằn cỗi” với “nhịp thời gian biền biệt chảy
trôi”. Những mảnh đời bị giam hãm và tù túng trong đói nghèo, khổ ải: “Người
thợ cày nhâm nhi giọt máu của mình/ Chảy qua cánh đồng biển sâu lam lũ”, để
cuối cùng, “gieo cuộc đời vào ba thước đất”, “Người bị ruồng bỏ ở chính mảnh
đất của mình/ Lối đi gập khúc” (Ngày đang mở sáng). Nhưng những con người ấy bằng
dáng nét cuộc đời thực cũng hiện lên thật đẹp với nỗ lực vượt thoát: “người
làng âm thầm chèo chống”, “Người làng ngậm buồn thả vào trời biếc” và một
niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống: “sau chớp giật đường chân trời mở nắng/
Đất lại xanh nuôi máu của mình”.
Có
thể nói, khắc họa hình tượng người lao động – những số phận chung, Trần Anh
Thái đã mang lại một cái nhìn mới mẻ, sâu sắc về bản thể người. Đó
là những con người với vẻ đời thường, bình dị, lam lũ nhưng góp phần xây nên lịch
sử ViệtNam. Nó khác với sự huyền diệu trong cách miêu tả nhân dân của Thanh Thảo:
“khi các thần tiên đã an nghỉ tận trời/ Nhân dân tôi khởi lên từ phù sa vất vả/
Từ điệu múa hồn nhiên trên vách đá” (Những người đi tới biển). Tuy nhiên,
bằng mĩ cảm hiện đại, Trần Anh Thái đã có những phát hiện mới về con người ở một
chiều kích khác:“Người đánh cá già mải mê rũ sương tìm bình minh trên mắt lưới”.
Đã có lần nhà thơ từng lí giải “hiện thực tất nhiên chẳng có ông lão đánh
cá nào đi tìm bình minh làm gì cả. Nhưng trong cảm nhận và tưởng tượng của nhà
thơ, những màng nước biển đọng lại trên mắt lưới được mặt trời soi chiếu vào
trông như những tia sáng bình minh. Cách diễn đạt ấy sẽ tạo ra cho người đọc một
cách hình dung về con người bình thường ở một chiều kích khác. Con người hiện
ra với một vóc dáng cao lớn và bay bổng hơn - http://evan.vnexpress.net”
Trong
sáng tác của Trần Ánh Thái, hình ảnh người mẹ được xem là ngọn nguồn của cảm hứng
sáng tạo, trở đi trở lại, là điểm nhấn quan trọng trong suốt chặng trường ca của
nhà thơ. Lẽ đơn giản, “cũng như mọi người” với Trần Anh Thái “mẹ là
tất cả”.
Và
như thế, ngay từ những chương đầu tiên của trường ca Đổ bóng xuống mặt trời,
người mẹ đã xuất hiện trong hồi tưởng nhớ tiếc của tác giả: “Mẹ như chiếc
phao không bến”, “Mẹ đi trong đêm/ Sương khuya mò bóng”. Cũng như biết bao người
mẹ việt Nam khác, người mẹ của nhà thơ là người mẹ nông dân nhọc nhằn
vượt cạn trong đói nghèo:
Mẹ tôi sinh lần thứ ba bên bờ sông Cái
Ngày sau ra đồng nhặt ngọn rau lang
Mẹ tôi sinh lần thứ tư ở nhà mình bữa cơm có thêm niêu cá bống
Người mẹ ấy đã lam lũ, tảo tần:
Mẹ ngày cán quốc oằn vai
thời gian tấy máu mòn tay
Tóc mẹ rụng những mảng buồn lối ngõ
sự cực khổ sáng chiều ấy cũng giống như người mẹ của Hữu Thỉnh: “Sáng
úp mặt ngoài đồng/ Chiều còng lưng cuốc đất”(Đường tới thành phố). Cả
cuộc đời mẹ không lúc nào nguôi yên lo lắng: Lo cho cuộc mưu sinh: “Có hôm
đang trưa hè bất chợt/ Mẹ lo giông bão vào nhà”, lo cho con cái: “Anh tôi
vào đơn vị/ Mẹ ngồi vá áo/ mũi kim bật máu bàn tay (…) “Mẹ lặng lẽ gói áo quần
anh mặc trước đây”,“Chị tôi tuổi dậy thì mưa nắng/ Ngày đi về se thắt mắt mẹ
tôi”.
Người
mẹ ấy còn hiện lên với biết bao đau đớn cuộc đời – đau nỗi đau trước
thiên tai, địch họa, cũng từng ngấm trải cảm xúc tột cùng của mất mát chia li:
Em tôi chết ở mé đồi Lạng Sơn năm bảy chín
…Mẹ mấy năm liền nước mắt gối đêm
Thấm thía nỗi nhọc nhằn và lòng thương con của mẹ, giữa
những tháng ngày chiến tranh khốc liệt, trong giấc mơ của người lính, dáng mẹ
hiện về: Mẹ vẫn ngồi/ Cỏ rêu len đầy cửa bếp/ Một ngày/ Đầu gối run run/
hai tay chống đất/ bàn thờ nguội ngắt/ biền biệt khói hương
Đến
với trường ca Ngày đang mở sáng, ta còn bắt gặp hình ảnh một người mẹ nữa,
đó chính là má Mừng. Người mẹ ấy hiện lên trước hết ở cuộc đấu tranh sinh tồn với
đồng khô, cỏ cháy: “Mẹ bới ngày/ Hạt gieo héo đất”, đấu tranh với phần
nửa trước cuộc đời khi nửa phần sau là mất mát không gì bù đắp nổi:
Đôi khi buồn quá
Đôi khi chống gậy tìm đường ra sông Vệ
Hai mắt ngây nhìn
…Gương mặt chồng và năm đứa con
Điều tuyệt vời của người mẹ trong suy cảm của nhà thơ còn là
nội lực mãnh liệt, tiềm tàng để có thể vượt thoát, sống qua đau
thương, bất hạnh. Đây cũng là ý nghĩa của cuộc đời mà nhà thơ ngầm gửi gắm.
Viết
về mẹ, mặc dù các tác giả trường ca trước đây đã khá thành công như Nguyễn Khoa
Điềm: “Mẹ phả vào con nồng nàn mùi sữa/ Của cánh đồng xa nguyên vẹn như
mùa”, như Thanh Thảo: “Cho con xin bắt đầu từ mẹ/ để nói về chúng con lớp
tuổi hai mươi(…) Đã từng sung sướng/ đã từng ngọt ngào/ Vì làm con của mẹ” nhưng
đến Trần Anh Thái, người mẹ mới thực sự là biểu tượng của sự hi sinh, chịu đựng
trong dáng vẻ u buồn, trầm lặng. Không kể hết tấm lòng của mẹ, cũng không khắc
sâu nét tâm lí của “Người”, song Trần Anh Thái đã gieo niềm yêu
thương về cội nguồn sinh thành và gốc rễ dưỡng nuôi trong lòng người đọc: “Tôi
ra đi buổi sáng thiên thần da thịt vấy bùn trộn săn ngày tháng, và trở về nơi
ngong ngóng đợi chờ đêm đêm Người thao thức/ Dòng máu người rần rật chảy trong
tôi qua những mùa màng, những giấc mơ đêm đêm hổn hển mệt nhoài”.
Bên
cạnh hình ảnh người mẹ, trong những trang viết của Trần Anh Thái hình
ảnh người cha cũng hiện lên đầy nỗi nhớ thương, xa xót: “ Còn đâu bóng núi
trăng ngàn/ Trên mồ gió với nhang tàn ngẩn ngơ” “ Con đi qua những rộng dài/
Trước mồ cha bỗng hóa loài cỏ cây”. Khi Trần Anh Thái đến với trường ca, hình ảnh
người cha kính yêu ấy vẫn được nhà thơ khắc họa thật xúc động. Ngay ở bản trường
ca đầu tiên, người cha đã hiện lên với số phận của người trụ cột và gánh vác: “Anh
tôi chết không cơm không áo/ Cha ôm vùng đêm tối đi chôn” . “Cha
ngã vào bầm đêm sương muối”. “Cha vác khoeo đi dưới mặt trời/ Bóng gẫy
trên ngọn sóng”.
Đó là con người luôn gắn liền với công việc và những hành động
nối tiếp nhau. Gánh công việc, gánh cả những thương đau lặng lẽ, người cha
trong trường ca của Trần Anh Thái được miêu tả thật ám ảnh và giàu sức gợi.
Ngoài
hình ảnh người mẹ, người cha, những số phận riêng của con người trong sáng tác
của nhà thơ còn là người chị - tiêu biểu cho những tổn thất mất mát của con người
trong và sau chiến tranh. Trai làng lần lượt đi lính, làng không có đàn ông,
người phụ nữ bị dày vò bởi ước mong thầm kín, tuổi xuân thành vô duyên:
“Chiếc gối mỏng vô tình vò nát
Chim nhỏ chết vì sa mạc chờ mong.
Khi Chiến tranh kết thúc, người chồng không trở lại, chị
đối mặt với nỗi lo âu thường nhật chuyện cơm áo, gạo tiền: “Chị giật mình/
Gói mì tôm chuột tha đi mất / Bữa cơm chống đũa/ Con thơ đói sữa”. Kiếp người
vì thế càng trở nên nhỏ bé, lầm lụi, lẻ loi:“Chị tôi lẫn vào trời vào đất; chị
mỗi ngày bước mỏi, bàn chân héo hắt cánh đồng”.Hình ảnh này dường như lạc lõng
với niềm vui và hạnh phúc đơn sơ đầu tiên trong những ngày đầu sau chiến tranh
của người con gái trong sáng tác của Thanh Thảo:“các thiếu nữ gội đầu hong tóc/
trời khô ráo sao nở giòn tanh tách/ trâu cạ sừng chim về tổ ngủ yên” (Cỏ vẫn
mọc).
Tóm lại, hình tượng trung tâm trong trường ca Trần Anh Thái
là con người thân phận - con người được khai thác từ phương diện cá nhân và bằng
cảm quan thân phận với sự lí giải sâu sắc và mang chiều sâu nhân bản. Do thế,
người đọc “có thể chạm tới cả những gì rất riêng tư thẳm sâu của cõi người đầy
bí ẩn (…) người ta thấy được cái chung, cái đại diện của tính người mang ý nghĩa
phổ quát nhất. Những bi kịch cá nhân luôn tồn tại song hành cùng bi kịch của lịch
sử (…). Và lịch sử của một cộng đồng, theo nghĩa đó, cũng không phải là cái gì
quá chung chung trừu tượng, cao siêu mà là ở lịch sử hình thành và vận động của
tính người ấy - Đỗ Thu Thủy, Tạp chí thơ”…
Trong lịch sử trường ca, hầu hết các tác phẩm được viết với cảm
hứng lớn, truyền tải hơi thở và sức sống của lịch sử, thời đại. Đó là cảm hứng
về nhân dân, dân tộc. Cảm hứng này cũng cuồng nhiệt chảy trong các sáng tác trường
ca của Thu Bồn, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm,….Quyện mình vào những trang viết ấy
ta không thể nào quên các câu thơ mang sức nặng cảm xúc bốn nghìn năm lịch sử của
Thu Bồn:“chúng sợ An Dương Vương, Thánh Gióng/ sợ trăm dòng sông đều nổi sóng Bạch
Đằng/ những súng thần công cổ xưa không bao giờ bắn nữa?/ Nhưng chúng sợ lửa bắn
về từ phía bốn nghìn năm”.
Đến với trường ca Trần Anh Thái, ta có thể thấy chiều sâu mạch
cảm xúc làm nên giá trị nội dung tư tưởng được viết bởi cảm hứng mạnh mẽ và xuyên
suốt của tác giả. Đó là cảm hứng về cội nguồn lịch sử và văn hóa dân tộc theo
xu hướng bình thường hóa những phạm trù có ý nghĩa thiêng liêng cao cả. Cảm hứng
ấy đã kết tinh lại trong hình tượng một ngôi làng và xuyên suốt quá
trình hình thành cũng như sinh tồn của nó.
Trần
Anh Thái đã viết về những biến cố mang tính thời đại gắn với quá trình dựng
làng và giữ nước của nhân dân. Trong suốt quá trình ấy, bằng những nỗ lực không
ngừng, lịch sử làng và lịch sử tâm hồn, tinh thần của con người Việt Nam đã
được khơi dựng.
Ở trường ca đầu tiên, Trần Anh Thái đã làm một hành
trình tìm về cội nguồn lịch sử, văn hóa gắn với ngôi làng trong không gian huyền
thoại:
“Không dấu chân đi qua/ Bờ biển
đầy chướng khí/ Không có cánh buồm về/ Gió thừa đầy cửa bể/ Giấc
mơ chập chờn giữa ngọn sóng đen”
Đó là một không gian hoang sơ, “mù tối”, “thăm thẳm” với
âm thanh ghê rợn, chết chóc, thê lương: “Tiếng quạ kêu rờn rợn dọc bãi bồi…Làng bắt đầu từ một tiếng hú hoang”. Trong cõi hỗn mang nước réo, lửa
sôi và những vị thần không rõ mặt, con người đã xuất hiện. Bắt đầu bằng hình ảnh
người đàn ông: “mang theo búa rìu và con dao rựa”. Và khi ấy ngọn lửa trời
nguyên khởi đã bừng lên: “Lửa bừng lên ngọn sóng/ Lửa tràn cõi lang
thang/Lửa dịu ngày cơ nhỡ…”. Ngôi làng từ đó được khai sinh, lịch sử đời
người, lịch sử dân tộc được thiết lập. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử với
nhiều biến cố dữ dội, làng lớn dần lên. Ban đầu làng chỉ là: “lô xô mái cỏ
túp lều nghèo”, “…nhỏ nhoi mọc trước mặt trời”, và mỏng manh trước sức mạnh dữ
dội của thiên nhiên: “Sóng gió bập bùng” với “Bao ngổn ngang
sóng xiết sông sâu”. Sự sống cũng trở nên yếu ớt trước thiên tai, nghèo đói: “Hạt
giống bạc xơ / Giấc ngủ chập chờn”, “Người chết nghẹn đường năm đói”, yếu
ớt trước chiến tranh xâm lược:“Bao người đi không về làng nữa/ bao người chôn
xác giữa mây ngàn”. Nhưng vượt qua đau thương, mất mát ngôi làng với những con
người kiên cường ấy đã tồn tại, vượt qua và bước tiếp, thách thức với tai ương
và sự hủy diệt của bom đạn: “Làng trước biển trằn lưng che biển”. Và
theo thời gian làng đã lớn rộng cùng với bước chân con người mở cõi, kiếm tìm.
Lịch sử làng vì thế cũng dày hơn. Nó được viết lên bởi biết bao thế hệ con người
đã từng sống trên mảnh đất ấy. Đó là thế hệ tổ tiên trong huyền thoại về làng: “Ngôi
đền Thần hoàng tổ tông mười hai đời trước/ Máu người hằn khô vách đá lô xô” (Đổ
bóng xuống mặt trời), trong thế giới tâm linh đầy bí ẩn: “chiếc đỉnh thờ u
uất khói nhang”, “ngôi đình thiêng cao vút” (Ngày đang mở sáng). Lịch
sử ấy tiếp tục bằng cuộc đời ông nội: “Ông mài cuộc đời bằng phiến đá xanh
kê bên bậc cửa” và nối dài hơn đến đời người cha: “cha kế thừa chiếc
rìu và con dao rựa thuở xưa”. Tới thế hệ người con, nó vẫn được nâng niu,
gìn giữ “…chiếc rìu và con dao rựa kê dưới đầu tôi”. Đây là một sự chuyển
giao thế hệ đầy ý nghĩa của những con người biết giữ lửa. Các thế hệ con
người nối tiếp nhau trong dòng chảy liên tục của lịch sử, bằng phần đời nhỏ bé,
giản dị của mình, họ đã giữ gìn và phát triển những giá trị tinh thần tốt đẹp.
Đó là ý chí chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, vượt lên trên số phận để
sinh tồn: “Giông bão đổ về đâu/ (…) Người làng âm thầm chèo chống”, “Làng
trước biển gió rền bão sóng/ Người đứng lên đổ bóng xuống mặt trời”. Đó là
sức sống bất diệt mà bom đạn chiến tranh không thể nào hủy diệt: “sau chớp
giật đường chân trời mở sáng/ Đất lại xanh nuôi máu của mình”. Đó là giấc mơ
vươn tới ánh sáng văn minh và nỗi khát khao vượt thoát: “Trong bóng tối dò
tìm sự sống/ Bầu trời không sao sáng/ Những con thuyền ra đi”. Là sự kiếm
tìm hành trình sống của cha ông trong quá khứ: “…Tôi lang thang khắp cánh
đồng tìm dấu chân tổ tiên/ Mảnh đất im lìm tầng tầng máu đổ/ Mảnh đất linh hồn
ông cha”. Đó cũng là tâm hồn tràn đầy tình yêu và
tâm thế chủ nhân hướng về ánh sáng với một niềm tin mãnh liệt vào tương lai:
“Đừng e ngại em ơi
Con đường nhọc nhằn gai bụi
Tất cả quanh ta
Cánh đồng núi đồi biển cả
Nâng bước chân qua u tối đau buồn
Không có mặt trời cho một mặt trời
Ánh sáng nơi nơi tỏa rạng
vang ca sự sống hồi sinh”
(Ngày
đang mở sáng)
Có
thể nói, qua sự cảm nhận sâu sắc và chiều sâu suy tư của cái tôi trữ tình - tác giả, lịch sử văn hóa dân tộc được Trần Anh Thái nhìn nhận ở chính sự lưu giữ
và kế thừa những giá trị tinh thần quý báu của nhân dân. Đó là sự đổi mới trong
tư duy và mĩ cảm về hiện thực lịch sử của nhà thơ. Nó đã khẳng định tầm nhận thức
sâu sắc, sự trải nghiệm rộng lớn và những nỗ lực khám phá về ý nghĩa sự sống
cũng như tâm hồn dân tộc của người nghệ sĩ có tài năng và nhân cách.
Con
người trong quan niệm của Trần Anh Thái vẫn là con người trong mối quan hệ với
thời đại, dân tộc. Con người ấy vẫn làm nên lịch sử, nhưng không còn là cái lịch
sử hào hùng với tầm vóc sử thi hoành tráng như trong cảm quan của Thu Bồn, Nguyễn
Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo… những năm xưa nữa. Con người trong quan niệm
nghệ thuật của Trần Anh Thái là con người mang ý nghĩa những thân phận nhân
sinh; con người đó cũng chính là hiện thân của nhân dân cần lao, thầm lặng gánh
chịu những biến thiên lịch sử.
Quan
niệm nghệ thuật đó cũng chi phối và quy định quan điểm sáng tác, quan niệm thi
ca và cảm hứng chủ đạo trong các trường ca của tác giả. Xuyên suốt các trường
ca của Trần Anh Thái là cảm hứng sâu xa, thao thiết về chiến tranh, về ngọn nguồn
lịch sử và thân phận nhân dân và sức sống của đất nước, con người. Có thể nói:
Cảm hứng chủ đạo trong trường ca Trần Anh Thái đồng điệu với cảm hứng của Bảo
Ninh trong Nỗi buồn chiến tranh. Với chủ đề chiến tranh, anh có thể nói được
rất nhiều điều về phận người, về sự sống nhân sinh và lịch sử dân tộc. Rất dễ
nhận thấy nỗi buồn chiến tranh trong các trường ca Trần Anh Thái. Đó chính là một
trong những nét đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ.
Bùi Thị Thủy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét