Chủ Nhật, 2 tháng 8, 2015

Kể chuyện về Bét-tô-ven và Su- be

 Kể chuyện về Bét-tô-ven và Su- be
 Bét-tô-ven
Lút- vích van Bét-tô-ven là nhạc sĩ thiên tài người Đức, người được mệnh danh”Vị đại tướng của các nhạc sĩ”. Ông là người kết thúc chủ nghĩa âm nhạc Cổ điển Viên bằng một dấu chấm tròn chĩnh, đồng thời tạo tiền đề cho sự ra đời chủ nghĩa Lãng mạn. Những tác phẩm âm nhạc của Bét-tô-ven được  V. I. Lê-nin yêu thích hơn so với sáng tác của nhiều nhạc sĩ khác, bởi vì âm nhạc của Bét-tô-ven mang tính chiến đấu rất cao. Bét-tô-ven cũng đã nói rõ về mục đích âm nhạc của mình: “Âm nhạc cần phải làm cho ngọn lửa trong tâm hồn kiên cường bùng cháy !”. Mỗi lần khi nghe nhạc Bét-tô-ven, Lê-nin thường nhận xét “ Có lẽ không thể nói vào đâu được nữa!”, Người thường khuyên vợ là Kơ-rúp-xcai-a và những người thân cận nên dành thời gian để nghe nhạc của ông. Trong toàn bộ sáng tác âm nhạc của Bét-tô-ven, Lê-nin đặc biệt yêu thích bản Sô-nát số 23 viết cho đàn piano được gọi là Áp-pa-si-ô-na-ta. Bản nhạc là thiên trường ca diễn tả hoàn hảo và sâu sắc về lòng dũng cảm của con người vươn tới chiến thắng vinh quang qua cuộc đấu tranh gian khổ. Một lần khi nghe bản nhạc này, Lê-nin xúc động nói: “Tôi không biết còn tác phẩm nào có thể hay hơn Áp-pa-si-ô-na-ta, tôi sẵn sàng nghe lại bản nhạc này bất cứ lúc nào. Âm nhạc thật là tuyệt vời, quá sức người. Tôi luôn tự  hào và có lẽ hơi  ngây thơ khi nghĩ rằng, đấy, con người có thể làm nên được những điều kỳ diệu biết bao!”. Câu nói trên được M. Goóc-ki ghi lại và trở thành câu nói bất hủ, một lời nhận xét mẫu mực về những tác phẩm âm nhạc của thiên tài Bét-tô-ven. 
Bét-tô-ven sinh ngày 17 tháng 12 năm 1770 tại thành Bon ở nước Đức, trong gia đình có truyền thống âm nhạc. Từ nhỏ, Bét-tô-ven tỏ ra có tài trong lĩnh vực sáng tác và biểu diễn âm nhạc. Song vì không được học hành có hệ thống và sớm phải tự lo liệu cho cuộc sống, cuộc đời gặp nhiều khó khăn và bất hạnh, về sau lại phải đảm đương cả gánh nặng gia đình. Mặc dù rất tài năng nhưng đến năm 28 tuổi, ông mới là nhạc sĩ nổi tiếng châu Âu.
    Vào tháng Năm 1787, chàng thanh niên Bét-tô-ven lần đầu rời xa quê hương sang thành Viên (nước Áo) với mục đích tìm gặp Mô-da để xin học sáng tác âm nhạc. Bét-tô-ven mang theo lá thư của Van-stai, ông này là thầy dạy Bét-tô-ven đồng thời cũng là nhạc sĩ quen biết với Mô-da.
    Khi đến Viên và tìm được nơi ở ổn định, một buổi sáng Bét-tô-ven tìm đường đến nhà Mô-da và gõ cửa (người Đức và Áo đều dùng chung ngôn ngữ). May là hôm đó Mô-da đang ở nhà. Mô-da mở cửa và trông thấy một chàng thanh niên dáng người khoẻ mạnh, ánh mắt sáng đầy nhiệt tình. Bét-tô-ven khiêm tốn hỏi:
- Thưa ông, tôi xin được gặp nhạc sĩ Mô-da.
- Chào anh, tôi là Mô-da, có việc gì vậy ?
- Thưa nhạc sư- Bét-tô-ven rút ra lá thư từ trong túi - Tôi đến từ thành Bon và mang theo thư giới thiệu của nhạc sĩ Van-stai.
  Mô-da mời Bét-tô-ven vào nhà, anh ngồi xuống ghế, im lặng quan sát căn phòng lúc Mô-da đọc thư của Van-stai. Trong phòng, ngoài Mô-da và Bét-tô-ven lúc đó còn có hai chàng thanh niên, họ là học trò của Mô-da và đang chăm chú làm những bài tập hoà âm.
   Mô-da quay lại chỗ Bét-tô-ven khi đọc xong bức thư.
- Chàng trai, vậy là anh theo học với Van-stai đã lâu, như lời ông ấy nói, anh rất có năng khiếu âm nhạc. Có thể cho tôi biết anh đã học được những gì không?
  Vào thời đó, Mô-da là nhạc sĩ nổi tiếng bậc nhất thành Viên. Mặc dù cuộc sống gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn về tài chính, nhưng không phải ai xin học âm nhạc, Mô-da đều đồng ý. Trước khi nhận học trò, Mô-da luôn kiểm tra năng khiếu âm nhạc rồi mới quyết định có đồng ý dạy hay không. Mô-da từng chứng kiến, những ông bố dẫn con đến xin học, đều khẳng định con họ có tài năng về âm nhạc, nếu được Mô-da hướng dẫn chắc chắn sẽ trở thành những nhạc sĩ danh tiếng. Nhiều lần Mô-da phải từ chối vì thất vọng khi chứng kiến những khả năng nghèo nàn của các cậu bé tự nhận là thần đồng đó.
 Cũng với sự nghi hoặc đó, Mô-da mời Bét-tô-ven lại cây đàn piano, mở nắp đàn và nói:
- Chàng trai, hãy lựa chọn và chơi bản nhạc nào mà cậu thích nhất !
  Hồi hộp ngồi xuống ghế, rụt rè để đôi tay lên phím đàn, Bét-tô-ven bắt đầu chơi bản nhạc mà anh đã chuẩn bị kỹ càng, bản nhạc đòi hỏi kỹ thuật trình diễn công phu, phức tạp. Qua sự lúng túng ban đầu, Bét-tô-ven chơi nhạc say sưa và đầy cảm hứng, anh thầm hy vọng Mô-da sẽ đánh giá cao về kỹ thuật của mình.
Nhưng ngược lại, Mô-da tỏ ra không chú ý tới điều đó. Sau một lúc đứng bên cây đàn, Mô-da  nhanh chóng nhận ra khả năng và kỹ thuật trình diễn của người thanh niên. Điều đó chưa đủ sức thuyết phục Mô-da vì từ khi còn bé, ông đã thực hiện thành thạo những kỹ thuật này. Trong khi Bét-tô-ven mải miết đánh đàn, thậm chí Mô-da còn bước lại phía người học trò và hướng dẫn anh ta điều gì đó.
  Vẫn tiếp tục chơi đàn nhưng Bét-tô-ven cảm thấy tủi thân khi Mô-da không thật sự quan tâm đến mình. Bản nhạc kết thúc, Bét-tô-ven vẫn ngồi yên lặng, lo ngại chờ Mô-da đưa ra lời nhận xét.
- Được đấy chàng trai, anh có nhạc cảm và kỹ thuật tốt, hãy kiên nhẫn luyện tập, có thể anh sẽ trở thành một nhạc công piano giỏi đấy.
  Nhạc công ư ? Bét-tô-ven lặn lội từ Bon sang đây đâu phải với mục đích trở thành một nhạc công, anh muốn Mô-da hướng dẫn sáng tác âm nhạc. Tâm hồn Bét-tô-ven đầy ắp khát vọng, bao nhiêu cảm xúc và những điều muốn nói, nhưng có lẽ chỉ âm nhạc mới giúp anh diễn tả được điều đó. Thoáng thất vọng, nhưng Bét-tô-ven vẫn kiên trì:
- Thưa nhạc sư, tôi mong muốn được ngài hướng dẫn về cách thức sáng tác âm nhạc. Ngài có thể ra một chủ đề để tôi ứng tác được không ?
  Thấy vẻ nhiệt tình của Bét-tô-ven, Mô-da  suy nghĩ giây lát rồi nói:
- Được chứ, anh hãy phát triển chủ đề này xem !
   Vào thời gian đó, một nhạc sĩ giỏi phải thể hiện được ba yêu cầu. Thứ nhất, phải biểu diễn xuất sắc những bản nhạc đang thịnh hành, thứ  hai, phải sáng tác và biểu diễn thuần thục bản nhạc của mình. Thứ ba, người nhạc sĩ phải có khả năng ứng tác trên nhạc cụ, đây là yêu cầu rất khó với người sáng tạo nghệ thuật. Ứng tác âm nhạc là khi nghe một câu nhạc bất kỳ, người nhạc sĩ phải lập tức sáng tác trên cây đàn thành bản nhạc được trình bày hoàn chỉnh.
  Mô-da đánh trên đàn piano một câu nhạc ngắn, nét nhạc mềm mại, tươi sáng thể hiện tính cách và đặc điểm âm nhạc của ông.
   Khi tay Mô-da rời khỏi phím đàn, Bét-tô-ven có một thoáng suy nghĩ, liền đó anh đàn lại chủ đề âm nhạc vừa nghe và tự tin ứng tác các câu nhạc kế tiếp, đây là thế mạnh của Bét-tô-ven. Hàng ngày ở Bon, Bét-tô-ven thường hay ứng tác các chủ đề âm nhạc và thật sự có năng khiếu về lĩnh vực này. Anh thể hiện đầy cảm hứng chủ đề âm nhạc của Mô-da và không ngờ, bản nhạc gây nên sự ngạc nhiên với nhạc sĩ nổi tiếng. Bây giờ thì Mô-da không còn lơ đãng như lúc trước nữa mà đang bị cuốn hút bởi khả năng của chàng trai. Từ chủ đề âm nhạc của Mô-da với sự hồn nhiên, tươi tắn, được tâm hồn cháy bỏng của Bét-tô-ven biểu hiện qua tiếng đàn, bản nhạc đã chuyển dần sang một hướng đi mới, rất táo bạo và mới lạ. Ngôn ngữ âm nhạc lúc này khác nhiều so với câu mở đầu, bản nhạc mà Bét-tô-ven đang chơi thể hiện một sự bùng nổ đến mức chói sáng. Mô-da bất ngờ vì khả năng ứng tác tuyệt vời cũng như ngôn ngữ âm nhạc táo bạo của Bét-tô-ven. Cả những học trò của Mô-da từ  lúc nào đã không còn ngồi yên nữa, họ bước lại gần cây đàn và chứng kiến nhạc sĩ bậc thầy Mô-da thử tài chàng thanh niên mới xuất hiện, họ sửng sốt và im lặng. Một chàng trai khoảng mười bảy tuổi vừa tới thành Viên, đang chinh phục nhạc sĩ giỏi nhất thế giới. Khi đoạn nhạc lên đến cao trào, dòng âm thanh bùng nổ, không dấu được cảm xúc, Mô-da bất giác đưa bàn tay vỗ nhẹ lên trán như khám phá ra điều gì, nét mặt ông dãn ra biểu lộ sự mãn nguyện. 
   Bản nhạc kết thúc hồi lâu mà sự ngạc nhiên vẫn chưa hết, mọi người dường như vẫn đang chìm trong dòng chảy của âm thanh, chưa thoát ra để trở về với thực tại. Cả Bét-tô-ven cũng lặng yên như đang chờ đợi lời phán xét của Mô-da. Giây phút đó kéo dài khá lâu vì Mô-da chưa tìm được lời nói để diễn tả tâm trạng của mình, ông đặt nhẹ bàn tay lên vai Bét-tô-ven:
- Chàng trai, hãy nhắc lại tên anh lần nữa.
- Thưa nhạc sư, tôi là Lút-vích Van Bét-tô-ven.
- Bét-tô-ven ư ? Hãy nghe lời tôi- Mô-da nói rành rọt tựa như đang nói với chính mình- Có lẽ anh chẳng phải học thêm gì nữa. Hãy vững tin đi theo con đường mà anh chọn, tôi thấy một ngày không xa, lịch sử âm nhạc sẽ nhắc đến tên anh với cả lòng kính trọng.
  Bàng hoàng vì lời nói tốt đẹp đó, Bét-tô-ven cảm thấy tự hào, không còn sự e dè nữa, anh hỏi:
- Thưa nhạc sư, vậy ngài sẽ hướng dẫn tôi cách sáng tác âm nhạc chứ ạ ?
- Chúng ta sẽ nói chuyện đó sau- Mô-da trả lời nhũn nhặn.
  Thế là trong lần gặp gỡ đầu tiên đó, Mô-da đã nhận thấy một thiên tài âm nhạc đang tiềm ẩn trong con người Bét-tô-ven. Vì sắp có chuyến đi biểu diễn xa, Mô-da hẹn gặp Bét-tô-ven khi ông quay lại thành Viên. Điều đó làm Bét-tô-ven thấy rất vui lúc anh trên đường trở về nhà trọ.
  Tiếc rằng, đó là lần gặp gỡ duy nhất giữa hai nhạc sĩ thiên tài trong lịch sử âm nhạc. Không thể ở lại thành Viên khi Bét-tô-ven nghe tin mẹ ốm nặng, anh vội trở về quê hương nhưng người mẹ thân yêu đã qua đời. Vẫn thiết tha mong được Mô-da dạy bảo, Bét-tô-ven lại sang Viên lần nữa, nhưng lần này Mô-da không có mặt, ông về quê hương để chịu tang cha. Cứ như vậy, khi người này đến Viên thì người kia lại vắng mặt, điều đó làm Bét-tô-ven cảm thấy hối tiếc khi chưa được Mô-da trực tiếp dạy bảo.
    Sau đó ít lâu, một tin dữ làm giới nghệ thuật thành Viên sửng sốt. Mô-da đã qua đời ngày 5 tháng 12 năm 1791, trong lúc đang viết dở bản Requiem, Bét-tô-ven đau buồn khôn xiết và luôn than phiền về nỗi bất hạnh của mình là đã không được học người thầy vĩ đại ấy.
- Không bao giờ, không bao giờ tôi lại có thể thấy một nhạc sĩ thiên tài đến vậy!
   Bét-tô-ven đau buồn thốt lên khi anh được tin về cái chết của Mô-da.
Sau khi không có điều kiện được học với Mô-da, Bét-tô-ven có dịp làm quen và được Hay-đơn, một nhạc sĩ nổi tiếng người Áo hướng dẫn. Nhạc sĩ này đã có thời gian dạy âm nhạc cho Mô-da, ông được coi là cha đẻ của nhạc giao hưởng vì trong  cuộc đời mình, Hay-đơn đã viết được 104 bản giao hưởng. Tuy nhiên do khác biệt về tính cách cũng như quan điểm âm nhạc, Bét-tô-ven không tiếp thu được nhiều kiến thức từ  Hay-đơn.
   Một buổi tối năm 1794, tại nhà hoàng thân Lích-nốp-xki, một người bảo trợ của Bét-tô-ven, tác phẩm đầu tiên có giá trị được trình diễn. Gọi là đầu tiên bởi vì nó mang ký hiệu “Ô-pút số 1”. Điều đó chứng tỏ Bét-tô-ven coi những gì anh viết trước đó không đặc sắc lắm.
   Trong phòng hoà nhạc lộng lẫy của dinh thự, Bét-tô-ven ngồi trước cây đàn piano, với dáng vẻ xúc động. Mặc dù đã được những thính giả quen thuộc ấy hâm mộ, nhưng lần này anh đến với họ không phải ở cương vị một người chơi đàn giỏi, mà với tư cách một nhà sáng tác âm nhạc. Biết bao nhiêu lần, giới quý tộc ở đây đã từng nghe nhạc của Mô-da và Gơ-luých rồi. Trong căn phòng này, những kỷ niệm về hai bậc thiên tài ấy như còn đang phảng phất đâu đây. Cả Hay-đơn nữa, nhạc sĩ bậc thầy mà ai cũng thừa nhận, đang ngồi bên cạnh nhạc sĩ Xa-lia-ri. Hai người dù lớn tuổi và ăn mặc theo lối cổ, vẫn có dáng điệu trẻ trung. Với sự hiếu kỳ, họ đang chờ nghe tác phẩm của chàng trai, có tài thật đấy nhưng kỳ quái làm sao!.
Căn phòng lặng đi khi Bét-tô ven chơi đàn, hai bản nhạc nối tiếp nhau vang lên. Chúng chịu ảnh hưởng của Hay-đơn và được sáng tác theo khuôn mẫu quen thuộc, hai bản này được hoan nghênh nhiệt liệt. Bản thứ ba, ngược lại, đã toát ra phong cách mới lạ đối với người nghe. Lần này, thính giả chia làm hai phái, những người nhiều tuổi chau mày, quay sang nhìn nhau thăm dò, trong khi giới trẻ tỏ ra rất thích thú. Mọi người im lặng chờ xem,  Hay-đơn  sẽ nói gì?
    Hay-đơn đến bên người học trò và hết lời khen ngợi hai bản nhạc đầu tiên. Sau đó ông cúi xuống và nói nhỏ:
- Anh bạn trẻ, nếu anh tin tôi thì hãy từ từ, chưa nên xuất bản bài thứ ba vội. Hơi đột ngột quá đối với thính giả !
    Một người khác đã đến và cắt ngang câu chuyện và cả câu trả lời của Bét-tô-ven. Nhưng qua ánh mắt ngỡ ngàng mà anh đang ngước nhìn theo người thầy cao tuổi, người ta đã hiểu được ý nghĩa của chúng.
- Ông già ghen tỵ ! Anh làu bàu một mình.
  Sau đó ít lâu, cũng tại nhà Lích-nốp-xky, Bét-tô-ven đã kính tặng vị nhạc sư của mình ba bản Sô-nát viết cho đàn piano. Đó là bản Sô-nát mang ký hiệu “ Ô-pút số 2” để tặng Hay-đơn. Hay-đơn nhận sự đề cao ấy, nhưng phật ý vì Bét-tô-ven không chịu chú thêm dưới chữ ký “ Học trò của Hay-đơn”, ông mỉm cười nói với anh:
- Anh không thiếu tài năng, nhưng còn phải học thêm !
- Nhưng không phải lúc nào cũng học với ông ấy. Bét-tô-ven đi lại gần và nói với một người bạn đang đứng trong góc phòng- Bởi vì ông ấy đã bao giờ dạy cho mình điều gì đâu !
   Tuy vậy, va chạm nhỏ ấy không dẫn đến những xích mích nghiêm trọng. Chỉ ít lâu sau, những bản nhạc này của Bét-tô-ven đã được nhà xuất bản in và công bố rộng rãi. Chúng không chỉ đem đến cho Bét-tô-ven những khoản tiền cần thiết mà còn mang lại cho anh danh tiếng và niềm vui sáng tác. Một nhạc sĩ có tiếng người Đức là Cram-mơ đánh giá rất cao những sáng tạo này của Bét-tô-ven, ông mang các bản Sô-nát này sang Luân-đôn và tuyên bố:
- Các bạn, đây là người bù đắp cho chúng ta niềm tin sau cái chết của Mô-da!.
Năm 1798, Bét-tô-ven làm quen với Béc-na-đô là đại sứ Pháp ở áo, lúc này Bét-tô-ven là nhạc sĩ sáng tác bắt đầu có danh tiếng ở thành Viên. Tại nhà của ông đại sứ, Bét-tô-ven gặp gỡ với nghệ sĩ chơi violon rất tài năng người Pháp là Krây-xe. Mến tính tình giản dị, tự nhiên của Krây-xe nên Bét-tô-ven thường hay có các buổi hoà nhạc với ông ta, ông chơi piano còn Krây-xe chơi violon. Bê-tô-ven đã viết tặng Krây-xe bản Sô-nát cho đàn violon và piano, về sau được gọi là Sô-nát Krây-xe, một bản nhạc rất nổi tiếng.
    Khi tiếp xúc với Bét-tô-ven, vị đại sứ người Pháp đã  đánh giá rất cao về tài năng âm nhạc của ông. Béc-na-đô đề nghị ông viết một bản giao hưởng hoành tráng về người anh hùng của nước Pháp, đó là Na-pô-lê-ông Bô-na-pác - một vị tướng trẻ, đầy tài năng, chỉ huy quân đội hùng mạnh của nước Pháp - Qua những chiến công hiển hách của Na-pô-lê-ông trước các đế chế phong kiến già cỗi, trong suy nghĩ của Bét-tô-ven thì đó là người anh hùng đứng lên đấu tranh vì tự do, bình đẳng, bác ái. Béc-na-đô thuyết phục rằng chỉ có âm nhạc đầy nhiệt huyết của Bét-tô-ven mới diễn tả được sự vĩ đại của Na-pô-lê-ông. Bét-tô-ven đã nhận lời.
     Mùa thu năm 1799, Béc-na-đô mời Bét-tô-ven cùng đi nghỉ ở lâu đài Ngọc trai, thời đó là một toà lâu đài nổi tiếng vì sự sang trọng, thuộc miền tây nam nước Áo. Tại đây Béc-na-đô muốn tạo điều kiện để Bét-tô-ven có cảm hứng và bắt đầu sáng tác bản giao hưởng vĩ đại về Na-pô-lê-ông.
Cỗ xe ngựa sang trọng mang quốc huy của sứ quán Pháp đưa đại sứ Béc-na-đô và Bét-tô-ven về lâu đài Ngọc trai. Trời đã về chiều. Con đường hoàn toàn vắng lặng. Cỗ xe chạy qua khu rừng thưa sát với một hồ nước trong xanh. Trên mặt hồ, những tia nắng vàng lấp lánh, những gợn sóng lăn tăn ngời lên như được dát vàng. Chỉ một đoạn ngắn nữa là tới lâu đài. Khi cỗ xe chạy gần tới một chiếc cầu nhỏ, chợt Bét-tô-ven nhìn ra ngoài và thoáng trông thấy bóng một cô gái đứng ven hồ nước. Dường như giật mình vì bất ngờ thấy người lạ, cô gái vội quay đi. Tuy chỉ thoáng qua nhưng Bét-tô-ven cảm thấy đó là một cô gái trẻ, xinh đẹp và quí phái. Bét-tô-ven quay sang phía Béc-na-đô: “Ông có nhìn thấy cô gái vừa rồi không ? Một cô gái tuyệt đẹp, nhưng sao cô ta lại ở bên hồ nước một mình nhỉ ?”
Vị đại sứ nghiêng người nhìn ra ngoài nhưng không thấy gì, lúc đó cỗ xe đang chạy lên cầu, cô gái bị những tán lá ven đường che khuất.
Ít phút sau, cỗ xe dừng lại trong khoảng sân rộng trước toà nhà, Bét-tô-ven bước vào lâu đài nhưng hình ảnh cô gái xinh đẹp bên hồ vẫn hiện lên trong tâm trí ông.
Buổi tối hôm ấy trong lâu đài không khí thật sôi động, viên đại sứ tổ chức một dạ tiệc linh đình chiêu đãi Bét-tô-ven. Mọi người tha thiết đề nghị Bét-tô-ven chơi đàn. Ông nhiệt tình đáp lại bằng cách đàn và hát rất say sưa. Sau đó họ còn cùng nhau khiêu vũ đến tận khuya. Quá nửa đêm, Bét-tô-ven mới trở về căn phòng sang trọng dành cho mình. Ông ngả lưng xuống giường, hi vọng sẽ nhanh chóng chìm vào giấc ngủ để xua tan những mệt mỏi trong ngày. Tuy nhiên, Bét-tô-ven nằm khá lâu mà không thể ngủ được. Căn phòng oi bức, bầu không khí ngột ngạt, ông ngồi dậy và lại bên cửa sổ. Bét-tô-ven vươn người ra ngoài hít thở làn khí mát rượi từ vườn cây. Chà, đứng đây thật là dễ chịu.
Ban đêm khu vườn rất yên tĩnh. Qua khung cửa sổ mở rộng, Bét-tô-ven thấy hiện ra trước mắt một bức tranh tuyệt diệu, khu vườn tràn ngập ánh trăng, ánh sáng mờ mờ huyền ảo trải trên những lùm cây. Vẳng đâu đây vọng lại lúc gần lúc xa những âm thanh mơ hồ hoà với tiếng côn trùng run rẩy. Không khí ngát hương, một mùi hương tinh khiết của cỏ cây hoa lá. Hít một hơi dài, Bét-tô-ven thấy trong lòng thật nhẹ nhõm.
Như có điều gì thôi thúc, Bét-tô-ven mở cửa phòng và nhẹ bước xuống những bậc thang dẫn tới vườn cây. Mọi người trong lâu đài dường như đã ngủ say, các ô cửa sổ đều không còn ánh sáng, một sự yên lặng tuyệt đối bao quanh ông giữa đêm khuya thanh vắng. Bét-tô-ven dừng lại trên thảm cỏ, ông chợt nhớ tới hồ nước trong vắt mà chiều nay cỗ xe đi qua, hình ảnh cô gái xinh đẹp hiện lên trong tâm trí. Nảy ý định tò mò, Bét-tô-ven muốn quay lại hồ nước. Ông nhìn xung quanh và lắng nghe, vẫn yên lặng hoàn toàn, dường như sự tĩnh lặng đang thôi thúc ý định của Bét-tô-ven. Toà lâu đài như chìm dưới ánh trăng đầy mê hoặc. Yên tâm, Bét-tô-ven rảo bước rời lâu đài và đi trên con đường mát rượi ánh trăng. Chẳng bao lâu, ông đã nghe thấy tiếng nước chảy, tiếng sóng vỗ nhè nhẹ dưới chân cầu. Đây rồi, đây chính là nơi mà cô gái ban chiều đã đứng, Bét-tô-ven thầm nghĩ. Ông tiến lại gần một cây sồi già, cách hồ nước không xa.
Ở chỗ này, Bét-tô-ven có thể ngắm toàn bộ phong cảnh của hồ nước. Dưới ánh trăng, mặt hồ như rộng thêm ra và đẹp lên gấp bội. Mặt nước phản chiếu ánh trăng long lanh gợn sóng. Ven bờ, một con chim đi ăn đêm đột nhiên vỗ cánh, cỏ cây toả hương ngạt ngào. Dựa vào cây sồi và đưa mắt nhìn ra xa, Bét-tô-ven muốn dứt bỏ những ý nghĩ về cô gái xa lạ nhưng không được. Lạ thật, cô gái là ai nhỉ ? Tại sao lại ở một mình bên hồ nước, cô ta từ đâu tới đây ? Một ảo ảnh chăng ? Hay đó là một nàng tiên cá khao khát cuộc sống trần gian đã hoá thân thành nàng thiếu nữ ?
Cứ vẩn vơ trong dòng suy nghĩ, Bét-tô-ven ngả lưng xuống bãi cỏ ven hồ, gối đầu lên nhánh gốc sồi. Trong tư thế thoải mái, ông ngửa mặt nhìn bầu trời, mặt trăng đang mờ dần, chỉ còn vài vì sao lấp lánh, cây cối lao xao. Bét-tô-ven hít thật sâu và nhắm mắt lại, ông nhanh chóng thiếp đi.
Bét-tô-ven chợt giật mình tỉnh dậy khi thấy những giọt nước đang rơi xuống người. Thì ra trời đã đổ mưa, bầu không khí ngột ngạt lúc trước là dấu hiệu một cơn giông. Rất nhanh nước mưa đổ xuống xối xả. Bét-tô-ven nhỏm dậy và vội cất bước trở về lâu đài.  Nhưng đã muộn, cơn mưa to đã làm ông ướt hết áo quần. Chỉ có mưa tuôn và những tiếng sấm rền vang dữ dội khi Bét-tô-ven một mình hối hả trở về lâu đài.
Trong đêm khuya, Bét-tô-ven không muốn phiền ai. Ông cởi bỏ bộ quần áo ướt sũng và hong lên cửa sổ rồi nằm xuống giường. Nước lạnh ngấm vào người  làm Bét-tô-ven run rẩy, ông trằn trọc tới gần sáng mới ngủ thiếp đi. Ông đã qua đêm đầu tiên ở lâu đài Ngọc trai như vậy.
Sáng hôm sau, viên đại sứ Pháp ngạc nhiên khi không thấy Bét-tô-ven trong phòng khách. Ông ta lên phòng và thấy Bét-tô-ven nằm trên giường, người sốt cao, bộ quần áo ướt treo bên cửa sổ. Lập tức, viên đại sứ cho gọi bác sĩ tới. Đợt ốm kéo dài hơn mười ngày đã ảnh hưởng nặng đến sức khoẻ của Bét-tô-ven. Sự kiện này làm bản nhạc viết về Na-pô-lê-ông không hoàn thành như dự kiến. Trận ốm dữ dội đó còn mãi ảnh hưởng tới sức khoẻ của Bét-tô-ven cũng như với đôi tai nhạc sĩ về  sau này.
Tới năm 1804 bản giao hưởng mới được viết xong, nó là bản số ba trong số chín giao hưởng của Bét-tô-ven. Nhưng khi bản nhạc hoàn thành, thế sự có nhiều thay đổi. Lúc này, Na-pô-lê-ông đã lật đổ dòng họ Buốc-bông để lên ngôi hoàng đế. Thất vọng vì người anh hùng của mình giờ đây cũng chỉ là một kẻ đầy tham vọng và ham muốn quyền lực, Bét-tô-ven liền xoá lời tựa ghi ở đầu bản nhạc “Tặng Na-pô-lê-ông” và thay bằng “ Tặng những người anh hùng”. Bản nhạc về sau được gọi là Giao hưởng Anh hùng, một trong những tác phẩm xuất sắc của Bét-tô-ven.
Về sau, Bét-tô-ven cũng không tìm hiểu thêm về tung tích cô gái ven hồ nước. Đến cuối đời, ông vẫn sống độc thân và phải chăng cô gái là định mệnh trong cuộc đời người nhạc sĩ vĩ đại.
Còn có một sự tình cờ, lâu đài Ngọc trai mà Bét-tô-ven đã từng ở, ngày nay không còn nữa. Toà lâu đài sang trọng ấy đã bị thiêu cháy bởi chính quân lính của Na-pô-lê-ông khi đội quân này tràn vào nước Áo. Chuyện đó xảy ra vào năm 1809, trong cuộc chiến tranh giữa Pháp và các nước Châu Âu.
Một đêm trăng đẹp giữa mùa thu, tại một thị trấn ở nước Đức, nhạc sĩ Bét-tô-ven dạo bước trên hè phố. Các tháp chuông nhà thờ nhọn hoắt vươn lên nền trời. Cả thị trấn đã chìm trong tĩnh mịch.
Bét-tô-ven nghe vẳng ra từ một ngõ hẻm có ai chơi piano bản Mơ-nuy-ết của mình. Ngạc nhiên, ông rẽ vào ngõ nhỏ và dừng chân trước cửa một ngôi nhà cũ kĩ. Sau một lát lắng nghe, tiếng đàn yên lặng và Bét-tô-ven nghe thấy tiếng nói của người con gái:
- Cha ơi, liệu có đủ tiền mua vé đi nghe hoà nhạc tối mai không?
- Cha đã chữa năm đôi giầy rồi mà chưa đủ tiền. May ra chỉ mua được một vé cho con thôi.
Trong nhà lại im lặng sau tiếng thở dài của người con gái. Như có điều gì thôi thúc, Bét-tô-ven khẽ gõ cửa. Người đàn ông đứng tuổi bước ra mở cửa, còn cô gái vẫn ngồi yên lặng trước đàn.
-Thưa ông, tôi đi qua đây, nghe tiếng dương cầm nên xin phép vào thăm.
- Mời ông vào. Con gái tôi ham thích âm nhạc, nhưng cháu chơi đàn còn kém cỏi lắm!
Bét-tô-ven mạnh dạn:
- Thưa ông, tôi có biết qua âm nhạc, nếu ông và cô cho phép, tôi xin đàn một khúc.
- Ồ thưa ông, xin ông cứ tự nhiên.
Người con gái vội đứng dậy để nhường đàn cho khách, tay cô lần theo thành cây đàn, ánh mắt như nhìn vào vô định. Lúc đó, Bét-tô-ven mới nhận ra đó là một cô gái mù.
Niềm thương cảm trào lên trong lòng, Bét-tô-ven chơi đàn với sự xúc động mãnh liệt và tình cảm chân thành, day dứt... Người thợ giầy ngừng tay từ lúc nào và đang đứng cạnh cây đàn.
-Thưa ông, chắc hẳn ông là nhạc sĩ Bét-tô-ven nổi tiếng?- Cô gái mù ngập ngừng hỏi khẽ, chưa thấy câu trả lời, cô chậm bước đến cửa sổ đẩy nhẹ cánh cửa. Ánh trăng vàng tràn vào gian phòng nhỏ. Trên nền trời xanh thẳm có những ngôi sao lấp lánh. Hàng cây dương liễu và những nóc nhà thờ cổ kính hiện ra trước mắt Bét-tô-ven. Nhạc sĩ lướt nhẹ hai tay trên hàng phím đàn, một giai điệu vừa xuất hiện trong đầu. Những âm thanh vang lên bởi cảm xúc chợt đến khi ông chơi đàn trong căn phòng lạ, giữa không gian huyền ảo của ánh trăng và trước sự ngạc nhiên của cô gái mù. Hiếm khi Bét-tô-ven chơi đàn say sưa đến thế, âm thanh bay lên như hoà tan trong ánh trăng, theo làn gió toả khắp màn đêm. Tiếng đàn đã im từ lâu, hai cha con người thợ giầy mới chợt tỉnh.
-Thưa nhạc sĩ Bét-tô-ven, xin cảm ơn ông đã mang ánh sáng đến cho chúng tôi.- Người thợ run run chào vị khách đang bước ra cửa.
-Thưa ông, chính tôi mới là người chịu ơn ông và cô. Tôi xin phép được mời ông và cô tối mai đi nghe hoà nhạc tại nhà hát.
Rời khỏi xóm lao động nghèo, Bét-tô-ven rảo bước về nhà, ông muốn ghi lại nét nhạc vừa xuất hiện. Ngay đêm ấy, nhà soạn nhạc thiên tài đã hoàn thành tác phẩm tuyệt vời: Bản Sô-nát Ánh trăng.
Khi nhà hát trình diễn vở nhạc kịch Phi-đê-li-ô của Bét-tô-ven, đây là vở nhạc kịch duy nhất của ông. Một nhạc sĩ trẻ vì mến mộ tài năng của Bét-tô-ven đã bán đi tài sản cuối cùng của mình là những quyển sách để mua vé vào xem vở nhạc kịch. Đó là Phrăng Su-be, một người áo còn trẻ và chưa có tiếng tăm gì trong giới âm nhạc thành Viên.
   Theo lệ thường, khoảng một tuần Bét-tô-ven ghé qua nhà xuất bản âm nhạc Stay-nơ, là nhà xuất bản lớn ở thành Viên. Ông muốn xem những bản nhạc mới được in và tìm hiểu về giá trị của chúng. Giống như nhiều nhạc sĩ tài năng khác, có thể dễ dàng chơi bản nhạc dù mới được nghe một lần, hoặc chỉ đọc bản nhạc đã cảm nhận được dòng chảy âm thanh, ông thường đọc các bản nhạc một cách chăm chú nhưng ít khi cảm thấy hài lòng. Bét-tô-ven thường hay lẩm bẩm: “Sao lại nghèo nàn thế ! Cũng may mà mình điếc !”
            Nhưng không phải Bét-tô-ven chỉ đề cao bản thân mình, với những tác phẩm có giá trị, ông rất trân trọng. Có lần khi cầm tập bài hát của tác giả Phrăng Su-be, nhạc sĩ này phổ nhạc cho những bài thơ của nhà thơ  nổi tiếng người Đức là Sin-le. Bét-tô-ven ngạc nhiên về phong cách và ngôn ngữ âm nhạc độc đáo của nhạc sĩ này. Cầm cuốn sách trên tay, Bét-tô-ven vội lại gần ông chủ nhà xuất bản hỏi xem Phrăng Su-be là người như thế nào. Ông ta liền giới thiệu Bét-tô-ven với một chàng thanh niên còn trẻ, đeo kính cận và đứng gần đó. Khi bắt tay Su-be, Bét-tô-ven giữ nhẹ bàn tay anh rồi ôn tồn nói:
- Anh cũng không phải là một người bình thường đâu !
Cảm động, Phrăng Su-be lúng túng:
- Nhạc sư kính mến, tôi đã xem vở nhạc kịch Phi-đê-li-ô của ngài và rất yêu thích nó. Tôi vẫn mong có dịp nào đó được đi theo nhạc sư, dù ở phía sau đằng xa...
- Đừng tự đánh giá thấp mình, chàng trai trẻ. Anh sẽ đi sát tôi ! Bét-tô-ven khuyến khích.
  Còn nhớ mấy chục năm trước, Mô-da không nhầm khi nhận định về tương lai của Bét-tô-ven. Lần này Bét-tô-ven cũng đúng khi đánh giá về tài năng âm nhạc của  Su-be. Chỉ ít lâu sau, những tác phẩm âm nhạc của Su-be cũng được giới yêu nhạc thành Viên mến mộ. Đây là một người có đầy tài năng trong số các nhạc sĩ nổi tiếng ở thành Viên, được mệnh danh là ông vua của ca khúc. Phrăng Su-be là nhạc sĩ mở đầu cho trường phái âm nhạc mới- chủ nghĩa Lãng mạn trong âm nhạc.
   Trong những tài năng lớn của nền âm nhạc thế giới, Su-be là nhạc sĩ có cuộc sống rất ngắn ngủi, một năm sau cái chết của Bét-tô-ven, Phrăng Su-be cũng qua đời, khi  nhạc sĩ này mới chỉ 31 tuổi (1797-1828).
Bét-tô-ven từ trần ngày 26 tháng 3 năm 1827 tại Viên. Đám tang của ông có hàng chục ngàn người đưa tiễn, âm nhạc của ông có hàng triệu người ngưỡng mộ, những người biết nắm tay nhau đấu tranh với định mệnh, đấu tranh với những bất công để vươn tới cuộc sống hạnh phúc.

  Su-be
Phrăng Su-be (1797-1828) - nhạc sĩ người Áo - là thiên tài âm nhạc ở thế kỉ 19. Ông là người mở đường cho sự ra đời của chủ nghĩa lãng mạn trong âm nhạc. Trong cuộc sống ngắn ngủi của mình (ông mất khi 31 tuổi), Su-be đã sáng tác rất nhiều tác phẩm ở các thể loại: giao hưởng, Sô-nát, nhạc kịch, ca khúc... Riêng lĩnh vực ca khúc, Su-be viết hơn 600 tác phẩm, vì thế ông được mệnh danh là  “Ông vua ca khúc”.
Phrăng Su-be sinh ngày 31.1.1797 ở vùng Lich-ten-tan ngoại ô thành Viên trong một gia đình nhà giáo đông con, am hiểu âm nhạc. Từ nhỏ, Su-be đã có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc và hiểu biết sâu sắc về nền âm nhạc châu Âu.
Trong gia đình, Phrăng Su-be học chơi đàn violon và piano qua người cha và người anh cả. Về sau, nhạc sĩ - nhà chỉ huy hợp xướng Xôn-xe tiếp tục dạy Su-be chơi đàn và truyền thụ cho cậu những kiến thức về sáng tác âm nhạc. Cũng thời gian này, những sáng tác đầu tay của Su-be đã ra đời. Năm 1812, theo ý nguyện của gia đình, Su-be học trường sư phạm Côn-vin ở Viên. Lúc bấy giờ, thành Viên là thủ đô của nền âm nhạc thế giới. Các nhạc sĩ lớn thường đến đây để biểu diễn trong những phòng hoà nhạc sang trọng. Ngoài việc học kiến thức văn hoá, Su-be còn thường xuyên tiếp xúc với không khí âm nhạc của thành Viên qua sáng tác của các nhạc sĩ đi trước như Hay-đơn, Mô-da, Gơ-luých, Bét-tô-ven... Anh tham gia trong dàn nhạc học sinh, đôi khi còn chỉ huy dàn nhạc và là thành viên của dàn hợp xướng. Nhạc sĩ Ru-gi-ca là người đã nhận ra tài năng của Su-be và đưa khả năng sáng tác của Su-be được phát triển toàn diện. Trong thời gian này, Su-be đã sáng tác nhiều bản nhạc có giá trị.
Năm 1815, Phrăng Su-be tốt nghiệp trường Côn-vin, khi đó anh đã là tác giả của nhiều tác phẩm như khúc Phăng-tê-di cho piano, bốn bản U-véc-tuya, những tứ tấu và nhiều ca khúc.
Sau khi có bằng sư phạm, Phrăng Su-be làm giáo viên dạy môn toán cho một trường Tiểu học. Ngoài lúc đi dạy học, anh dành hầu hết thời gian rảnh rỗi để sáng tác âm nhạc. Chính niềm say mê sáng tác đó đã tạo nên đổi thay trong cuộc đời nhạc sĩ.
Một buổi sáng, Phrăng Su-be vừa đi vừa nhẩm một giai điệu âm nhạc. Trong giấc ngủ chập chờn đêm qua, khi cảm nhận được một nét nhạc thoáng qua, anh liền thức dậy và ghi nó lên bìa một cuốn sách trên bàn. Giờ đây giai điệu đó đang vang lên trong đầu, khiến Su-be cảm thấy rất phấn chấn trên đường đến trường.
Vào lớp học, Phrăng Su-be nhắc lũ trẻ chuẩn bị sách vở môn toán để thực hiện một vài bài tập, anh cầm sách lên và định chép đề bài lên bảng. Giai điệu trên bìa sách hiện lên trước mắt Su-be, anh lẩm nhẩm khẽ đọc nó và chợt nghĩ, mình phải phát triển giai điệu này. Và thế là thay việc chép bài tập toán lên bảng, Su-be lại kẻ khuông nhạc và viết những nốt nhạc lên đó.
Lũ học trò nhỏ rất ngạc nhiên khi thấy thầy giáo dạy toán bỗng dưng kẻ khuông nhạc và mải miết ghi chép. Đầu tiên chúng yên lặng và tò mò nhìn người thầy giáo trẻ, rồi một vài đứa bắt đầu phá lên cười. Lát sau, những đứa nghịch ngợm tung cặp sách, trèo lên bàn mà hò reo. Nhưng dường như Su-be không nghe thấy gì, tâm trí anh đã hoàn toàn bị cuốn hút vào bản nhạc.
Nghe tiếng cười đùa, la hét, ông hiệu trưởng đang ngồi trong phòng mình vội đi ra cửa. Ông thấy một số đứa bé từ lớp học chạy ra chạy vào, đuổi nhau dọc hành lang. Vội tới lớp này, nhìn qua cửa sổ, ông vô cùng ngạc nhiên khi thấy thầy giáo dạy toán Su-be đang mê mải chép nhạc trên bảng, lớp học thì vô cùng ồn ào, lộn xộn. Lại gần, ông kêu lên: “Thầy Su-be, ông đang làm gì vậy?”. Su-be giật mình quay ra, ngỡ ngàng vì sự có mặt của ông hiệu trưởng, anh bối rối và vội xoá những nốt nhạc chi chít trên bảng.
Cuối buổi học, Su-be được mời lên phòng hiệu trưởng, và thật đáng buồn, anh đã phạm phải một điều không thể tha thứ. Anh bị  nhà trường cho thôi việc.
Sự việc này đã làm gia đình Su-be, đặc biệt là người cha rất thất vọng. Để tránh không khí căng thẳng trong gia đình, Su-be theo một người bạn vào thành Viên. Anh tìm được công việc mới, đó là chơi đàn piano vào buổi tối cho quán rượu Hoàng hôn. Ban ngày, Su-be ở nhà trọ và sáng tác âm nhạc. Tối tối, anh đến quán chơi đàn phục vụ những vị khách cho đến tận đêm khuya bằng chính những bản nhạc của mình. Khách đến quán Hoàng hôn không phải là những người sành âm nhạc, họ không thấy tài năng trong những sáng tác của Phrăng Su-be .
Cho đến một buổi tối, có vị khách ghé vào quán Hoàng hôn, ông ta trông sang trọng và khá đặc biệt. Những bản nhạc mang phong cách sáng tạo mới mẻ của chàng thanh niên ngồi chơi piano đã thu hút sự chú ý của ông ta. Anh chàng đeo cặp kính cận có dáng thật hiền lành, ẩn sau cặp kính là đôi mắt sáng đầy vẻ chân thành. Lựa lúc Su-be ngừng chơi đàn, vị khách lại gần và giới thiệu mình là Hen-rích - một bá tước sống ở Man-hai-mơ, ông nhã nhặn đưa danh thiếp và mời Su-be ghé thăm nhà mình khi có dịp. Su-be cám ơn và nhận lời.
Ít ngày sau, Phrăng Su-be đến lâu đài của bá tước. Qua chuyện trò, Su-be thấy Hen-rích là một người am hiểu về âm nhạc. Anh trình bày những sáng tác mới của mình, Hen-rích chăm chú nghe và cho rằng, cách sáng tác của Su-be dường như đang hình thành một hướng đi mới trong âm nhạc. Đặc biệt, ông rất thích một bản nhạc Su-be mới sáng tác và có dự định viết thành bản giao hưởng. Bá tước cũng cho biết, ông sắp khánh thành phòng hoà nhạc trong lâu đài. Nhà quí tộc mời Su-be đến trình diễn bản nhạc này và Su-be đã đồng ý.
Trong phòng hoà nhạc tại lâu đài của bá tước Hen-rích, nhiều nghệ sĩ tên tuổi có mặt và trình diễn những tác phẩm đang được ưa chuộng. Lát sau, bá tước đứng lên giới thiệu về một sáng tác mới của chàng trai trẻ tên là Phrăng Su-be. Cúi chào mọi người, Su-be ngồi vào đàn, đặt bản nhạc trước mặt và chơi những nốt đầu tiên. Bản nhạc gồm 4 chương, Su-be trình bày chương I với nhiều sự mới mẻ, táo bạo. Chương nhạc này không mang phong cách của trào lưu âm nhạc thời bấy giờ, khi chủ nghĩa cổ điển đang chiếm ưu thế. Gian phòng chìm trong sự tĩnh lặng, bản nhạc dường như đã chinh phục được ngay cả những người khó tính và sành nhạc nhất. Dưới những ngón tay của Su-be, dòng âm thanh như đang tuôn trào, những giai điệu chứa đầy cảm xúc sâu sắc, những nỗi dằn vặt, những niềm lạc quan và cả những ước mơ cháy bỏng được diễn tả hết sức tinh tế.
Khi Phrăng Su-be đang chơi chương II của bản nhạc thì cửa phòng bật mở, một vị khách bước vào. Đó là một cô gái trẻ xinh đẹp. Cô mặc một bộ đồ đi ngựa, mang chiếc mũ rộng vành và vẫn cầm chiếc roi da trên tay. Một cô gái quí phái và đầy vẻ tự tin. Vị khách đến muộn không ngồi ở hàng ghế sau, cô ngẩng cao đầu, kiêu hãnh bước đi giữa căn phòng, rồi ngồi xuống chiếc ghế còn trống phía sau Su-be. Sự xuất hiệncủa cô gái không làm Su-be chú ý. Tất cả tâm trí anh đang dồn vào bản nhạc, căn phòng vẫn chìm trong tiếng nhạc êm đềm, mọi người vẫn chăm chú lắng nghe, nhưng cô gái thì không chú ý đến điều đó. Quay sang người đàn ông ngồi bên cạnh, cô chỉ tay vào Su-be và hỏi: “Ai vậy? Thưa ngài!”. Người đàn ông nghiêng đầu khẽ đáp: “Su-be”.
Không hiểu vì cớ gì, cô gái cất tiếng cười. Phrăng Su-be thoáng nghe thấy sau lưng mình tiếng cười của một người phụ nữ. Thật là khiếm nhã, nhưng Su-be vẫn kiên nhẫn chơi tiếp khúc nhạc của mình trong tiếng cười chưa dứt. Để thể hiện sự khó chịu, Su-be bấm tay mạnh hơn xuống phím đàn, trong khi lẽ ra đây là khúc nhạc có sắc thái êm dịu. Trong phòng, những tiếng xì xào nổi lên, phản đối sự mất lịch sự của cô gái. Vẫn chưa đủ, tiếng cười tắt đi giây lát, rồi lại tiếp tục vang lên.
Lúc đó, Phrăng Su-be đã chơi hết chương II của bản nhạc. Dừng tay trên phím đàn, ngồi thẳng người, mắt nhìn phía trước, anh không hề quay lại để xem ai là người đã làm dang dở khúc nhạc của mình. Su-be cố gắng chờ đợi thêm giây lát nhưng tiếng cười vẫn không sao dứt được. Bực mình, anh gập bản nhạc lại, đứng lên và bước ra khỏi phòng. Bá tước Hen-rích rảo bước theo, ông nói với vẻ mặt của người có lỗi: “Xin thứ lỗi, Su-be, đó là cháu gái tôi, Ca-ren. Anh hãy ở lại, tôi sẽ bảo nó sang phòng khác”. Nhưng Su-be đã khước từ và xin phép cáo lui.
Sau sự việc này, Phrăng Su-be lại trở về với việc chơi đàn tại quán Hoàng hôn. Khoảng hơn một tháng sau, Su-be nhận được một lá thư gửi từ Hung-ga-ri. Đó là lời đề nghị của quận công Uy-lem, ông ta mời Su-be sang Hung-ga-ri làm gia sư, dạy âm nhạc cho hai người con của mình, kèm theo là lời đảm bảo về điều kiện sống, điều kiện làm việc và mức lương khá tốt so với thu nhập hiện tại của Su-be. Sau khi suy tính, Su-be nhận lời và viết thư hẹn sẽ thu xếp sang Hung-ga-ri.
Một cuộc hành trình dài bằng xe ngựa đã đưa Phrăng Su-be từ áo sang Hung. Anh đến thủ đô Bu-đa-pét vào một ngày mưa lạnh. Cỗ xe đưa anh tới một toà lâu đài sừng sững trên ngọn đồi. Người đánh xe cho Su-be biết đây là gia đình quí tộc rất giàu có và nhiều thế lực ở vùng này.
Quận công Uy-lem tiếp Phrăng Su-be trong phòng khách của lâu đài, sau khi sai người xếp phòng cho anh, ông giới thiệu với Su-be về hai người học trò tương lai của anh, đó là hai người con của ông - hai cô gái rất xinh đẹp, Ca-ren 18 và Sten-li 16 tuổi. Cái tên Ca-ren nghe quen quen, gợi cho Su-be nhớ tới cô gái đã làm dở bản nhạc khi anh biểu diễn trong lâu đài của bá tước Hen-rích. Su-be không biết rằng, thực ra đó không phải là sự tình cờ, sau khi nghe Su-be đàn tại lâu đài của người chú, cô gái đã yêu cầu cha mình mời Su-be sang dạy đàn cho hai chị em. Gặp Su-be tại nhà mình, Ca-ren đã không còn vẻ kiêu hãnh như lần trước. Cô khiêm nhường cúi chào Su-be, người gia sư mới trong gia đình.
Trong thời gian Phrăng Su-be làm gia sư cho gia đình quận công Uy-lem, anh cố gắng cư xử đúng mực và làm tốt mọi bổn phận của mình. Cô em Sten-li tỏ ra có năng khiếu âm  nhạc và học đàn rất tốt, còn Ca-ren thì không được như vậy, cô hay trêu đùa Su-be và cũng chểnh mảng khi tập đàn. Nhưng tuổi trẻ có những qui luật riêng của nó, cái gì đến sẽ phải đến. ít lâu sau, tình cảm giữa Su-be và Ca-ren không chỉ đơn giản là tình thầy trò nữa, giữa hai người đã nảy nở một tình yêu. Mối tình đầu với cả hai người, một nhạc sĩ trẻ người áo với cô gái quí tộc Hung-ga-ri, đó là tình yêu rất chân thành và trong trắng. Trong cảm xúc dâng trào của tình yêu đầu tiên, họ không biết che dấu tình cảm của mình. Quận công Uy-lem sớm nhận ra và không thể đồng ý với việc này. Con gái ông- Ca-ren - một cô gái quí tộc giàu có và xinh đẹp lại có thể yêu một anh chàng nhạc sư nghèo và chưa có tên tuổi được ư. Gia đình ông đang nắm giữ nhiều quyền lực, con gái ông phải kết hôn với một chàng quí tộc người Hung-ga-ri, con của một gia đình cũng giàu có và quyền lực như thế. Không cần suy nghĩ lâu, quận công Uy-lem quyết định không để Su-be tiếp tục dạy đàn cho hai cô con gái nữa. Và Su-be được mời ra khỏi lâu đài. Tuy nhiên, anh vẫn ở lại Bu-đa-pét.
Trong thời gian ở Hung-ga-ri, Phrăng Su-be đã nếm trải những sự ngọt ngào và cả những nỗi niềm cay đắng của mối tình đầu vô vọng. Anh vùi đầu vào sáng tác. Đôi khi anh cũng được gặp nàng, ấy là khi Ca-ren tự tìm đến. Thời gian này, Su-be sáng tác rất nhiều, trong đó có tập liên khúc Cô chủ cối xay xinh đẹp, phổ thơ của Sin-le với ý định tặng Ca-ren. Anh là  nhạc sĩ đầu tiên sáng tác thể loại liên ca khúc. Trong tập Cô chủ cối xay xinh đẹp, Su-be đã ví mình là anh thợ xay nghèo, làm thuê cho cô chủ xinh đẹp. Anh thợ xay thầm yêu cô chủ nhưng không được đáp lại. Còn chàng quí tộc người Hung-ga-ri, xuất hiện trong tập bài hát qua hình ảnh người thợ săn.
Thấy con gái mình vẫn còn lưu luyến với Phrăng Su-be, quận công Uy-lem cho người sang Áo, yêu cầu cha mẹ Su-be viết thư gọi con trai về. Su-be phải từ giã Ca-ren để trở về quê hương.
Ở Áo, Phrăng Su-be lại lao vào sáng tác để quên đi mối tình đầu. Thời gian này, Su-be hoàn thành bản giao hưởng số 8 - bản nhạc mà anh đã trình diễn lần đầu trong lâu đài của bá tước Hen-rích. Vài năm sau, Su-be nhận được một lá thư từ Hung-ga-ri, Ca-ren báo tin cô sắp lấy chồng và mời Su-be tới dự đám cưới. Là người sâu nặng với mối tình đầu, Su-be thu xếp đi Hung-ga-ri lần nữa.
Phrăng Su-be đến Bu-đa-pét lần thứ hai cũng vào một ngày trời mưa, buồn và lạnh lẽo. Anh xuống xe và dừng lại bên đường, nhìn những cỗ xe ngựa sang trọng từ nhà thờ đi ra. Đây là một đám cưới được tổ chức rất linh đình, bởi cả hai bên đều là những gia đình quí tộc giàu có. Ngồi trên xe cùng chồng, Ca-ren vẫn dõi ánh mắt xuống đường, cô mong được thấy bóng người yêu cũ - giờ đã là một nhạc sĩ tài năng. Bất chợt, cô thấy Su-be đứng ven đường giữa những người khác. Ca-ren yêu cầu dừng xe, cho người xuống mời Su-be lên cỗ xe khác để cùng tới lâu đài, nơi tổ chức đám cưới.
Giữa rượu, hoa và những lời chúc tụng, Ca-ren vẫn không giấu được nét u buồn, trên môi cô phảng phất một nụ cười cay đắng. Cô lại gần Phrăng Su-be và nói:
- Nhiều năm trước, tôi đã một lần làm dang dở khúc nhạc của anh. Không hiểu anh có tha thứ cho tôi chưa? Nhưng hôm nay trong ngày cưới của mình, tôi mong được nghe lại bản nhạc này lần nữa.
   Trước lời yêu cầu tha thiết của Ca-ren, Su-be đã cố gắng dẹp đi tâm trạng đau buồn. Anh ngồi vào đàn piano và dạo những nốt nhạc đầu tiên. Người ta nói âm nhạc có thể xoa dịu được những nỗi đau, nhưng không phải bao giờ cũng đúng. Đến chương II của bản nhạc, ở chỗ mà lần trước Ca-ren cất tiếng cười, thì lần này giữa dòng âm thanh dịu dàng đó, nhìn Su-be chơi đàn, bỗng nhiên cô khóc nức nở. Căn phòng lặng đi. Su-be vẫn lặng lẽ chơi đàn. Cô dâu vẫn khóc. Chú rể bước ra phía cửa sổ. Chẳng có một lời nào an ủi Ca-ren.
            Hết chương II, Phrăng Su-be dừng tay rồi yên lặng nhìn bản nhạc. Anh thầm hỏi liệu bản nhạc này có phải là nguyên nhân gây nên những xáo động trong cuộc sống của anh và nàng. Rồi Su-be đứng lên, chậm rãi cầm bản nhạc tách làm đôi, tay cầm chương III và IV mà đã hai lần bị bỏ dở. Ngập ngừng giây lát, anh tiến lại phía lò sưởi, đưa tập nhạc vào ngọn lửa. Nhìn ngọn lửa đốt cháy bản nhạc, Su-be thầm nghĩ có lẽ anh đã tự thiêu cháy nửa sau của cuộc đời mình, nửa sau của những ước mơ không có hi vọng trở thành hiện thực? Anh lặng lẽ rời khỏi căn phòng, chỉ mang theo hai chương đầu của bản nhạc. Su-be cô đơn đi giữa tuyết trắng và giá lạnh của đất nước Hung-ga-ri.
            Trở về Viên, Su-be tiếp tục hoàn thành những tác phẩm khác. Nhưng giao hưởng số 8 - bản nhạc dang dở - là định mệnh của cuộc đời ông. Bản giao hưởng này là kỉ niệm về mối tình đầu dang dở của Su-be. Bản nhạc rất hay, sâu sắc và thấm đượm tình yêu cuộc sống, nó là một tuyệt tác âm nhạc của Su-be. Tuy nhiên, chỉ vài tháng sau khi bản nhạc này được trình diễn lần đầu tiên, Su-be đã qua đời.
Phrăng Su-be mất ngày 19 tháng 11 năm 1828 tại Viên. Ông để lại một tài sản âm nhạc vô giá cho đời sau, với khoảng hơn 1500 tác phẩm, trong đó có 9 giao hưởng và hơn 600 ca khúc. Trên ngôi mộ của Phrăng Su-be, tấm bia được nhà thơ vĩ đại người áo là Glin-pac-xe đề tặng: “Thần chết đặt tại đây một kho tàng quí báu, nhưng quí báu hơn là những hi vọng tươi đẹp của ông”.
Theo http://www.music.edu.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Người đàn bà bên kia sông

Người đàn bà bên kia sông Làng tôi nằm sát con sông Thương. Từ chân đê vào làng đi qua một con đường đất nhỏ, hai bên trồng phi lao, cắt q...