“Ngấm khúc ca dao”
Ca dao, tục ngữ có trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam được lưu truyền từ đời này sang đời khác, và trong mỗi chúng ta ai cũng đã từng “ngấm” những câu ca dao từ lời ru của mẹ, của bà từ thưở nhỏ, đến bây giờ những câu ca ấy vẫn ở mãi trong ta. Trong đó có Bùi Huyền Tương và anh đã đặt tên cho tập thơ của mình:
“Ngấm khúc ca dao”. Quê Bùi Huyền Tương ở vùng Đông huyện Sơn Tịnh, một vùng quê nghèo đất cát bạc màu, chỉ có những loài
cây cỏ chịu hạn mới có thể mọc lên nổi dưới trời nắng hanh hao, như anh tự giới thiệu:
“Em biết đấy, đất quê mình toàn cát/ Dẫu mưa dầm cũng chẳng thấm vào đâu”. Anh kể rằng: “Bố mẹ mình khi xưa nghèo lắm! Chân lấm tay bùn quanh năm thu hoạch mùa màng và chăn nuôi chẳng được là bao. Rồi mẹ mình mất sớm, người chị phải tảo tần nuôi em ăn học, chính vì sự học mình mới có được ngày hôm nay. Do đó, ước nguyện của mình là tập trung dạy bảo, đầu tư kiến thức cho các con...”.
Nhìn những vật dụng anh trang bị trong nhà, ta mới thấy anh chị thương con biết nhường nào: đàn organ, máy vi tính nối mạng, cho con trọ học ở trên phố... Vợ anh cũng là giáo viên cùng trường, một gia đình nhà giáo kiểu mẫu biết vượt qua khó khăn, phấn đấu vươn lên trong cuộc sống.
Đầu tháng 8/2010, Bùi Huyền Tương có đưa tôi tập bản thảo thơ “Ngấm khúc ca dao”. Một tập thơ không dày về số lượng bài, chất lượng và nỗi niềm anh trao gửi trong thơ thì mỗi người đọc có quyền tự cảm nhận riêng mình. Tập thơ là tập hợp những bài thơ được chọn đăng trên các báo, tạp chí và một số bài mới sáng tác chưa công bố. Khi đọc xong tập thơ, ta có thể hình dung những
gì mà Bùi Huyền Tương đã trải qua, chính cuộc sống là thước đo độ dày của trải nghiệm và thơ anh đã “chín”
trong từng câu chữ. Tôi xin trích một số khổ thơ, câu thơ có thể là tiêu biểu đầy xúc cảm theo cảm nhận của riêng tôi:
“Trong mưa/ vọng tiếng chim kêu/ Khàn hơi gọi Mẹ/ tím chiều/ chiều buông” (Tiếng mưa), “Con lặng thầm/ gói khúc cao dao / đặt vào miền sâu thẳm/ để chiều chiều/ ngồi nhớ/ Mẹ ơi!...” (Ngấm khúc ca dao). Hoài niệm về người Chị đã nuôi dạy đứa em thơ : “Góc vườn chim vịt cứ kêu/ rưng rưng... chị gắng dắt dìu đàn em!” (Hoài niệm chị tôi). Với người vợ yêu của mình: “Một nửa đời đi qua/ anh và em vẫn thế/ vẫn như sông như bể/ sóng mãi ru đôi bờ” (Một nửa), ta nghe anh tâm tình: “Hình như.../ ai đợi người yêu/ bên sông lặng gió/ liu riu lục bình/ run run/ nhặt khúc tự tình/ lơ thơ lau lách / ngỡ mình chiêm bao” (Nỗi chiều) hay: “Em đi về phía đường quê/ Câu thơ lục bát chợt về với tôi/ Câu thơ chẳng vọng nên lời/ Mà âm âm mãi/ Mà ngời ngợi vươn” (Lục bát cho em). Anh thương con và dặn dò: “Học nghe con, con của ba yêu/ Thời gian trôi chẳng bao giờ trở lại” (Đưa con đi học trường xa). Tự ru mình: “Thời gian lặng lẽ trôi qua/ Liêu xiêu bóng đổ la đà trăng treo/ Ngoái nhìn/ Thoắt/ Đã trôi vèo/ Ai gây vực thẳm dốc đèo được chi ?!” (Ru mình). Anh viết về quê hương đất nước cũng thật sâu đậm,
chan chứa nghĩa tình: “Thôi đừng hát nữa người ơi/ Câu ca vọng tím góc trời chớm đông/ Mưa bên sông, gió bên sông/ Bên kia có thấu nỗi lòng bên nây!” (Nghe khúc dân ca đất Quảng). Theo những bước chân du khách anh tìm đến: “Hà Nội sương giăng/ tiếng đàn rơi/ xao xuyến/ phía Hồ Tây, cứ gợn sóng ru tình” (Một thoáng Hà Nội). Những câu thơ về xứ Huế mộng mơ cũng thật gợi: “Hoàng hôn trải xuống dòng sông/ Huế thơ soi bóng mây bồng bềnh trôi/ Còn tôi ở chốn xa xôi / Chạm tay dòng nước để rồi đa mang” (Chạm dòng Hương Giang). Một lần lên Tây nguyên vào tháng ba, anh tìm hoa cúc quỳ, mùa không có hoa cúc quỳ nở: “Màu hoa xưa thầm lặng rơi rơi/ Con đường nhỏ gập ghềnh sao quen quá/ Tôi vẫn đi qua bỗng dưng thành lạ/ Cúc quỳ ơi nỗi nhớ cứ quay về” (Đi tìm hoa cúc quỳ), hay: “Ơi! Gia Lai/ Sao tôi lại đến
tháng ba?! / Khói đốt rẫ / Lênh loang/ Chiều tôi đến...” (Nỗi hẹn Gia Lai). Về thăm người bạn thơ ở làng Yên Mô (Đức Lợi, Mộ Đức), anh tự sự: “Khúc sông xưa.
Vẫn xưa/ Vẳng đôi bờ ai gọi / Bóng tre cong dấu hỏi/ Cho lòng cứ rưng rưng” (Về làng Yên). Viết về ngành giáo dục, về ngôi trường thân yêu và những học trò nhỏ của mình: “Có một người/ thầm lặng đứng nhìn mưa/ Cứ rơi chéo về phía cổng trường bao năm trước...” (Mùa thu đứng trước cổng trường) và trái tim cô giáo cùng lớp học ca ba dạt dào cảm xúc: “Em đang về/ miền sâu thẳm - Trái tim/ Của người mẹ dạt dào trên bục giảng/ Những phép tính em ghi đều trên bảng/ Có phép nào mang nặng nghĩa tình em!?” (Cô giáo trẻ và lớp học ca ba). Những lúc rảnh rỗi, anh ngồi một mình trước hiên nhà nhìn ra: “Nắng dát vàng chiều xuống cánh đồng xưa/ Sương lãng đãng và gió thu mỏng quá!/ Khói lênh loang trên đồng chiều cuốn rạ/ Xuôi ta về với nỗi nhớ nôn nao” (Miên man thu muộn). Từng đêm, từng đêm trắng với bao tâm sự, nỗi niềm tuôn chảy: “Ta đứng giữa đôi bờ hư thực/ đếm thời gian hay đếm bước xưa về/ Thềm xưa cũ cứ dập duềnh bến thức/ bao đêm thâu rưng rức một nỗi niềm” (Lời ru tháng Giêng), tri âm ta cùng ngồi lại: “Mang mang/ sương khói bên trời/ Trăm năm/ còn lại/ tình người/ tri nhân” (Ngẫm). Một cuộc tình thơ thoáng qua bây giờ chỉ là: “Tất cả đã xa rồi/ nhắc làm chi/cho lòng thin thít nhớ/ ngồi bên em/ cùng xúyt xoa /một thuở.../ biết tìm đâu/ cổ tích của riêng mình?!” (Cùng em ngắm bóng trong chiều)...Thời gian không bao dừng lại, phải không Bùi Huyền Tương? Ai cũng có một thời để nhớ, để thương, nhưng bóng thời gian đã phủ mờ tất cả, kỉ niệm cũ bây giờ chỉ là hoài niệm, là nỗi nhớ khôn nguôi.
Ngấm khúc ca dao để mà “chợt khững” (lời Bùi Huyền Tương) chứ không dừng lại những cảm xúc! Thơ của thầy giáo Bùi Huyền Tương là vậy, giàu nhạc điệu, giản dị, thân thương, tình cảm đến nao lòng và thăm thẳm khúc ca dao. Và lời kết của tác giả bài viết này bằng khổ thơ thật hay của Tương:
Vẫn xưa/ Vẳng đôi bờ ai gọi / Bóng tre cong dấu hỏi/ Cho lòng cứ rưng rưng” (Về làng Yên). Viết về ngành giáo dục, về ngôi trường thân yêu và những học trò nhỏ của mình: “Có một người/ thầm lặng đứng nhìn mưa/ Cứ rơi chéo về phía cổng trường bao năm trước...” (Mùa thu đứng trước cổng trường) và trái tim cô giáo cùng lớp học ca ba dạt dào cảm xúc: “Em đang về/ miền sâu thẳm - Trái tim/ Của người mẹ dạt dào trên bục giảng/ Những phép tính em ghi đều trên bảng/ Có phép nào mang nặng nghĩa tình em!?” (Cô giáo trẻ và lớp học ca ba). Những lúc rảnh rỗi, anh ngồi một mình trước hiên nhà nhìn ra: “Nắng dát vàng chiều xuống cánh đồng xưa/ Sương lãng đãng và gió thu mỏng quá!/ Khói lênh loang trên đồng chiều cuốn rạ/ Xuôi ta về với nỗi nhớ nôn nao” (Miên man thu muộn). Từng đêm, từng đêm trắng với bao tâm sự, nỗi niềm tuôn chảy: “Ta đứng giữa đôi bờ hư thực/ đếm thời gian hay đếm bước xưa về/ Thềm xưa cũ cứ dập duềnh bến thức/ bao đêm thâu rưng rức một nỗi niềm” (Lời ru tháng Giêng), tri âm ta cùng ngồi lại: “Mang mang/ sương khói bên trời/ Trăm năm/ còn lại/ tình người/ tri nhân” (Ngẫm). Một cuộc tình thơ thoáng qua bây giờ chỉ là: “Tất cả đã xa rồi/ nhắc làm chi/cho lòng thin thít nhớ/ ngồi bên em/ cùng xúyt xoa /một thuở.../ biết tìm đâu/ cổ tích của riêng mình?!” (Cùng em ngắm bóng trong chiều)...Thời gian không bao dừng lại, phải không Bùi Huyền Tương? Ai cũng có một thời để nhớ, để thương, nhưng bóng thời gian đã phủ mờ tất cả, kỉ niệm cũ bây giờ chỉ là hoài niệm, là nỗi nhớ khôn nguôi.
Bàng hoàng tay đỡ con
tim
Vịn câu thề cũ đi tìm
tình nhau
Thì thôi, ai cũng qua
cầu
Đưa tay anh vuốt mái đầu...
Tóc xanh.
(Thăm thẳm ca dao).
10/8/2010
Tiếng mưa
Kính dâng hương hồn Mẹ
tôi
Tôi ngồi
nghe tiếng mưa rơi
Mẹ tôi ngày ấy đâu rồi?
Trời mưa!
Mưa rơi
lúc nhặt
lúc thưa
Để tôi nghe tiếng võng
đưa
trong chiều
Trong mưa
vọng tiếng chim kêu
Khàn hơi gọi Mẹ
tím chiều
chiều buông!
Ngấm
khúc ca dao
Kính dâng hương hồn Mẹ
tôi
1.
Lời cha kể
dắt con đi dọc theo
triền ký ức
đôi mắt cha rưng rưng
nghẹn dừng
đây khúc ca dao
này cánh cò
này bờ ao, bến vắng
này ước mơ xa
cho con
lả la cùng nắng
đong đưa hoài trong tiếng
mẹ ru
2.
Góc vườn trưa ru rúc
tiếng chim gù
thu đang xanh
mà lời ru chợt khững
bóng đổ dài
vĩnh viễn mẹ đi
con mới lên năm
ngày ấy chẳng biết gì
chỉ nhớ qua loa lời mẹ
trối
hắt hiu buồn
đoạn cuối khúc ca
dao...
3.
Lời cha kể
ngậm ngùi
chiều
con ngắm
con lặng thầm
gói khúc ca dao
đặt vào miền sâu thẳm
để chiều chiều
ngồi nhớ
Chợt nhìn thấy tổ chim
cài
Cheo leo cành lá một
vài chim non
Chít chiu gọi mẹ chon
von
Ngậm ngùi thương trẻ mỏi
mòn: “Mẹ ơi !”
Hết rồi lại gặp
Tặng Bích Thủy
Hết rồi một thưở học
sinh
Sao đèn vẫn thức với
mình suốt đêm
Hết rồi một thưở cùng
em
Đếm từng bóng nắng,
canh chừng sao khuya
Bao nhiêu kỷ niệm xưa
kia
Bỗng xuôi trở lại khẽ
chia cuộc đời
Thương thương những giọt
mưa rơi
Cho em nghiêng vành
nón thời học sinh...
Bây giờ về với chính
mình
Cũng đèn sách thêm yêu
tình tuổi thơ
Bây giờ đâu phải giấc mơ
Chắc em đang thức cho giờ sáng mai
Phải chăng trong phút giây này
Em đang sống lại với ngày xa xưa...
Đêm đông dai dẳng cơn mưa
Sao vẫn thức nghe lời xưa vọng về
Hết rồi sao vẫn say mê
Bởi em thương cái ngô nghê thưở nào
Em đem gió mát trên cao
Lời ru ngọt lịm gieo vào tuổi thơ
Em đem ánh sáng ước mơ
Tình thương dào dạt - Trái tim mẹ hiền
Với em tôi ngỡ lặng yên
Lại mênh mông lắm cái miền bên trong
Hết rồi lòng vẫn gặp lòng
Em đi về phía đường
quê
Câu thơ lục bát chợt về
với tôi
Câu thơ chẳng vọng nên
lời
Mà âm âm mãi, mà ngời
ngợi vươn
Thì thầm tôi hát “Mười
thương”
Heo may sửng lại. Con
đường nắng reo
Quê tôi vốn dĩ đất
nghèo
Dù trong khoai sắn vẫn
theo Thánh hiền
Thơm từ quả thị bà Tiên
Em bông hoa trắng lung liêng bên trời
Dẫu còn hạt sạn rãi rơi
Em mênh mông quá ! Bằng lời lặng im
Xin dành cho cả trái tim
Cụ Đồ ơi có nỗi niềm này không ?!
Nao nao ngọn gió trên đồng
Có con cò trắng đầu đông bay về
Chiều quê, chiều quê, chiều quê
Em - Cô giáo trẻ đi, về cùng tôi...
Một nửa
Vâng. Cũng từ một nửa
đôi ta lại tìm nhau
để bây giờ thành một
cho đến khi bạc đầu
Một nửa đời đi qua
anh và em vẫn thế
vẫn như sông như bể
sóng mãi ru đôi bờ
Trong
cõi thực, cõi mơ
chẳng bao giờ thái quá
đâu là nhân là quả
để gởi lại đời sau!
Giá một nửa này thôi
cơn say đâu nghiệt ngã
ừ, thì thôi em ạ!
trong khôn. Dại đôi lần
Một nửa... Chiều vang ngân
Em thả hồn về xa xăm
kỷ niệm xưa xuôi về đầy
ắp
nghe chiều rơi
loi lẻ gót chân mềm
Ơi, ngọn đèn chong đêm
không mỏi soi ước mơ
thời mười tám
ơi, hạt nắng sân trường
có ai xâu chuỗi
cho em vay
ngắm lại bóng riêng
mình
ơi, những giấc mơ vàng
lung linh thần tượng
níu dùm em phía hun
hút cổng trường
giờ cố giấu lại vương
vào tiếng nấc
chiều nghiêng nghiêng
chao chát nỗi buồn
trôi Tất cả đã xa rồi
nhắc làm chi
cho lòng thin thít nhớ
ngồi bên em
cùng xúyt xoa
một thuở...
biết tìm đâu
cổ tích của riêng mình?!
Bóng thức
chợt nghe tu hú gọi
nôn nao kỷ niệm xưa
ngỡ như đà trầm lặng
trong tóc chiều lưa
thưa
tu hú kêu khắc khoải
chiều hạ về nghiêng
chao
ta ngồi cùng bóng thức
người xưa ơi! giờ đâu?
lặng lẽ thời gian trôi
chạm vào miền ẩn tích
chiều xuôi về cô tịch
càng quay quắt tim mình
chênh chếch vầng trăng non
cố với tay chạm bóng
tàn hơi, thôi mỏi mòn...
đành riêng mình xao sóng
đã nửa đời neo đậu
vẹt mòn nơi bến quê
vẫn bời bời cỏ rối
Ta về với biển chiều thu
Anh đưa em về với biển chiều nay.
Thu gõ nhịp vào biển
xanh biêng biếc. Bãi cát vàng sóng sánh nắng vàng thu. Nghiêng nghiêng bóng, hàng dương vi vu gió, con sóng dịu dàng nối biển - bờ - Vệt trắng. Nghiêng phía nào ta cũng chạm vào nhau.
Biển bây giờ có khác
xưa không? Thời gian đã đẽo mòn em nhỉ! Còn sót lại chút tình ta dung dị. Em chớ buồn anh sẽ hát cho em nghe. (Bài hát ngày xưa em thích lại e dè và ngơ ngẩn sợ tình ta không thật). Bài hát ngày xưa, nắng chiều vàng nửa bãi, khản tiếng thùy dương đằm thắm mộng đôi bờ. Hoa trinh nữ còn đâu em nhỉ!(*) Chỉ còn “gai” thương níu chuyện đôi mình.
Anh biết vì sao, em lại lặng
thinh. Phả vào cát, tìm dấu chân mình thuở trước. Dáng thu xưa, gió cuốn tận phương nào? Em nắm tay anh, sa cánh hải âu. Tìm chút hương xưa nẻo thu vời vợi. Đủ sưởi lòng ru giấc những đêm thâu.
Anh đưa em về với biển chiều nay.
Tìm lại dấu xưa, nơi mình hò hẹn. Trễ mất rồi, đã có lứa đôi thay. Thôi, ta tựa vào nhau ở góc này. Vẫn như thể ngày xưa có gì
là lạ... Kìa. Còng gió giật mình chạy ngược gió. Em vô tình, cứ hỏi: - Vì sao? Em đã quên. Ngày xưa anh tìm em vậy đấy!
Trăng sắp lên. Này em,
ta nán lại. Ngắm dải lụa vàng trên sóng nước mênh mang. Biển và trăng có điểm hẹn thời gian, còn đôi ta sẽ là mãi mãi... Nếu được ước điều chi ? Ta chẳng ngại - Được mỗi chiều ngồi với biển bao dung. Và thời gian vốn dĩ khôn cùng, trên vai ta ngày thêm dày nắng gió. Vẫn không quên - Với biển chiều Thu.
Tao ngộ
Tặng Quang, Sung, Hiếu,
Bờ, Hồ Hải và các bạn cùng lớp
25 năm tình cờ chúng
mình gặp lại
Tiếng hú gọi bầy nhiễu
sóng Quy Nhơn
25 năm bao dâu bể vô
cơn
Nay gặp lại mái đầu đã
xen nhiều sợi bạc
Ngồi bên nhau, chiều
Quy Nhơn nghe
biển hát
Mà tiếng lòng cứ xao
xác trong nhau
25 năm chẳng dễ gặp
đâu
Bởi mỗi đứa một phương
trời xa lắc
Quay nỗi nhớ về Thiên
Bút xa trầm mặc
Bao sắc màu thuở ấy chẳng
hề phai
Những buổi tan trường
ai đứng đợi ai...
Xuôi về đấy. Buổi
trùng phùng không hẹn
Bạn hữu ơi ! Gừng vẫn cay, muối vẫn mặn
Để chiều nay ta nhắc lại từng người
Kỷ niệm xưa, kỷ niệm xưa ơi!
Trỗi ăm ắp cho ta quên quên nhớ nhớ
(Chỉ một điều đến giờ vẫn nhớ
Buổi đầu tiên lạ lớp, lạ tên người
Buổi đầu tiên quy tụ khắp mọi nơi
Chung số phận của người thi hỏng)
Thôi khép lại nhắc làm chi thêm bận
Hãy nâng ly xin chúc buổi trùng phùng
Dẫu chưa trọn chiều nay cuộc vui chung
Dăm bảy đứa mượn góc trời, góc phố
Nói sao hết nỗi lòng duyên tao ngộ
Nề! Phương xa điện réo gọi chúc mừng
Nề! Phương xa có đứa gọi rưng rưng
Cứ nhắc mãi bạn mình ơi L8!
Tâm sự
Có thể, những vần thơ
tôi viết
Đã cũ mèm theo lối mòn
xưa
Ngắm sợi buồn giăng
tím chiều mưa
Gặp bóng ai đang nhớ về
cố xứ
Tiếng vạc kêu đêm chạnh
lòng - Thôn nữ!
Trăng rọi lối về. Lối
đã xanh rêu
Gọi nỗi gì, ơi tiếng cuốc kêu
Bao cảm nhận... Tôi rơi vào khắc khoải
Điều xưa cũ như dòng sông vẫn chảy
Lẽo đẽo tôi tìm mong gặp tri âm
Vịn thời gian lặng lẽ âm thầm
Nghe cơm áo oằn vai thêm mỏi mệt
Gió nhắn gì... đã bao người nói hết
Tôi ngược chiều biết nói gì đây
Đành gởi thơ mình vào gió, vào mây
Ru mình man mác khói sương...
Tôi chưa được lần nào
gặp Bùi Huyền Tương, hai anh em biết và thân nhau khi tôi còn làm tờ Tuổi Ngọc, và Tương là một cộng tác viên nhiệt tình, viết nhiều thể loại. Cảm giác ban đầu khi đọc
Bùi Huyền Tương, dễ đoán tác giả là một người hiền hậu và đằm thắm. Sau này, khi biết Tương là một thầy giáo dạy toán - lý, là giáo viên mạng lưới chuyên môn của ngành, lại là người có khả năng viết thư pháp, từng viết - vẽ trang trí quảng cáo lâu năm, tôi biết mình đã đoán gần đúng và hiểu vì sao thơ của Tương luôn rưng rưng hoài niệm, luôn man mác khói sương...Đa số những bài thơ Tương viết là những khúc “tự ru”. Cho dù Tương viết về cha mẹ, anh chị, vợ con, bạn bè... hay về quê hương, thân phận, thế sự thăng trầm... thì vẫn hiện rõ “chân dung” hiền lành và đằm thắm của Tương trong đó. Tôi thích những khúc “tự ru” nhẹ nhàng và sâu lắng ấy của Tương: “Nghiêng nghiêng che nón qua cầu/ Sợ nhìn bóng nước mà nhàu tình xưa/ Xin trời cho vịn sợi mưa/ Vịn vầng trăng lẻ mới vừa chạm đêm...” (Tự khúc qua cầu). Qua cầu, sự
chênh vênh của Tương không khởi từ sóng xô của nước hay lắt lẻo của cầu, mà sự chênh vênh lại đến từ hoài niệm, từ tình xưa. Và Tương cần đến tay vịn cho bớt
chênh vênh, nhưng tay vịn ấy lại là những sợi mưa đang rót mềm lòng, là vầng trăng lẻ loi chính mình vừa chạm vào bóng đêm sầu khởi. Tương là vậy! Tự biết mình là người bị “ngấm ca dao”, có thể xem đó là lời “tuyên thệ - tuyên ngôn” của Tương khi tự ràng buộc mình vào những hệ lụy của thơ. Lợi thế của người làm thơ tôn thờ cadao là luôn có một nền tảng rộng và chắc làm bệ phóng, nhưng để có thể bay lên được từ bệ phóng ấy, người viết phải rất dày công và bền chí. Ca dao là ca dao, thơ là thơ. Nhưng khi một vài câu thơ được người đọc, người nghe nhận xét “tưởng là ca dao” thì đó là một lời khen tặng cho thơ. Tôi tin Bùi Huyền Tương sẽ bay lên rất đẹp từ “bệ phóng ca dao”, sẽ vẽ được những đường bay mượt mà và kỳ diệu cho riêng mình. Tôi tin, vì Tương hội đủ tố chất để bay, và vì “hành trang bay” của Tương cũng đã có khá nhiều những câu thơ gần với ca dao: “Chênh chao bãi vắng sông dài/ Thân cò vẫn phải miệt mài bến sông!” (Chị tôi); “Ẩn trong hoa - cỏ - lách - lau/ Linh hồn tre trúc ngàn sau vọng về...” (Ẩn); “Ru mình phận cỏ mình ơi!/ Hãy xanh, xanh để lả lơi nhumì...” (Ru mình)...
Chúc Tương thành công!.
Sài Gòn, 10/2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét