Thứ Tư, 5 tháng 8, 2015

Thiên nhiên, người thầy ưu việt

Thiên nhiên, người thầy ưu việt
Trong bối cảnh các chính phủ trên thế giới đang thúc đẩy các chương trình giáo dục mang tính chất dạy trẻ em sớm biết đọc, sớm tiếp cận các phần mềm ứng dụng giáo dục trên máy tính bảng, điện thoại di động, v.v, có những quan điểm khác cho rằng trẻ em vẫn cần những sân chơi ngoài trời, nơi các em tự do thỏa thích nô đùa, khám phá thế giới xung quanh một cách trực tiếp.
Mối nguy của kiểu học “mắt-não-ngón tay”
Thiên nhiên đem lại cho trẻ em những minh họa
trực quan cho các hiện tượng trừu tượng như chu kỳ
sự sống, chuỗi thức ăn và tính trạng vật chất
Mối quan hệ giữa trẻ nhỏ với thế giới vật chất là sự tương tác bùng nổ giữa những tiềm năng sẵn có trong đứa trẻ với những tiềm năng mới mẻ bên ngoài. Nhà thần kinh học phát triển Alison Gopnik mô tả nhận thức ngây thơ của trẻ em đối với thế giới giống như ngọn đèn sáng. Bộ não trẻ nhỏ phát triển cực nhanh, tạo ra 700 kết nối thần kinh trong mỗi giây. Đến ba tuổi, đứa trẻ có 1.000 nghìn tỷ khớp thần kinh, gấp bốn lần bộ não người lớn; nhưng các khớp thần kinh này về sau bị loại bỏ dần.
Trong quá trình phát triển thần kinh, trẻ sẽ khám phá thế giới một cách toàn diện bằng tay, chân và cơ thể, bằng mắt, tai, mũi và miệng. Học bằng vận động cảm giác và sự tiếp xúc trực tiếp với thế giới vật chất là nền tảng cho sự tiến hóa của con người và giúp hình thành bộ não người như ngày nay. Trong cuốn The Ascent of Men xuất bản năm 1973 (Little, Brown), nhà toán học và sinh vật học Jacob Bronowski viết: “Bàn tay là công cụ tiên phong của tâm trí”. Điều mà mọi đứa trẻ khao khát khám phá thực nghiệm đầu tiên chính là con người, sự vật, cây cỏ, các thành viên thân thiết trong gia đình.
Việc trẻ nhỏ tìm hiểu sự vận động của thế giới vật chất và con người một cách hữu hình - dần dần nắm bắt mọi thứ theo nghĩa đen - đi ngược lại quan niệm rằng trẻ em cần sớm tiếp cận với môi trường học tập chỉn chu ngay từ khi dưới sáu tuổi để sau này trở thành các nhà sinh học tổng hợp hay kỹ sư năng lượng mặt trời. Điều đó, như nhà nhận thức học Guy Claxton lập luận, sẽ giản lược việc học các kỹ năng nghe và đọc, nói và viết.
Lối học tập thông qua các phương tiện điện tử phong phú thường được coi là sự bổ sung cần thiết để sửa sai cho quan điểm giản lược như trên. Nhưng ngày nay, khi quá nhiều trẻ em thường xuyên tiếp xúc với thế giới ảo - và thậm chí một số nhà trẻ còn gắn cả bảng trắng điện tử cỡ lớn - các thiết bị điện tử lại thành chủ đề tranh luận nóng đối với giáo dục mầm non. Dù kết luận cuối cùng ra sao thì rõ ràng là trẻ em không thể phát triển một cách toàn diện nếu chỉ dựa vào các trải nghiệm thực tại ảo: thời gian ngồi trước màn hình đã giới hạn trẻ em trong cái mà Claxton gọi là kiểu học “mắt-não-ngón tay”. Cách học này còn có thể ảnh hưởng đến việc học thông qua gặp mặt trực tiếp cũng như những trải nghiệm học tập ngôn ngữ và giao tiếp xã hội, vốn là trọng tâm trong giáo dục mầm non. (Được biết, những chuyên gia công nghệ hàng đầu, như nhà sáng lập Twitter Evan Williams, cũng rất hạn chế con cái họ dùng thiết bị điện tử.)
Các phát hiện mới đây về tầm quan trọng của thể lực và giao tiếp xã hội đối với trẻ nhỏ đang cho thấy sự đúng đắn của những quan điểm cải cách giáo dục hồi đầu thế kỷ 20. Một trong những nhà vật lý nữ đầu tiên của Italy, Maria Montessori (1870-1952) - khi quan sát và nhận ra rằng nhận thức có quan hệ mật thiết với vận động và học tập có quan hệ mật thiết với sự tự chủ - đã nhấn mạnh phương pháp giáo dục dựa trên sự vui chơi và tiếp xúc với thế giới vật chất. Các lớp học kiểu Montessori được ví như phòng thí nghiệm ở các trường đại học. Ở đó, trẻ em tự lựa chọn việc mình làm và tốc độ thực hiện, với những “cộng sự” cũng do chúng tự chọn, còn tài liệu thì được thiết kế cho các thí nghiệm đa chiều. Ví dụ, trẻ ba tuổi có thể chơi và sắp xếp các trụ gỗ kích thước khác nhau, và qua đó học được cách cầm nắm đồ vật một cách tinh tế và hiệu quả, cũng như các kỹ năng khác như suy đoán và so sánh, và cả kiến thức toán cơ bản nữa.
Một triết lý tương tự cũng lan truyền trong các hệ thống giáo dục khác để cải thiện kỹ năng ngôn ngữ, phản xạ cũng như khả năng tự kiểm soát của trẻ. Chương trình giáo dục cho trẻ em đến bảy tuổi của Phần Lan tập trung vào thể dục dựa trên chơi đùa và giao tiếp - và học sinh 15 tuổi của nước này đứng đầu châu Âu về các môn khoa học và đọc hiểu trong cuộc điều tra của Chương trình Đánh giá học sinh Quốc tế, thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD).
Cấp tiến hơn là mô hình trường rừng, bắt nguồn từ mô hình “nhà trẻ ngoài trời” của nhà cải cách giáo dục Margaret McMillan (1860-1931) cùng nhiều người khác. Mô hình này được du nhập từ Anh sang Mỹ và các nước Scandinavia giữa những năm 1910 đến 1990. “Phòng học” có thể là một bãi đất rừng; “bài học” là nhóm lửa hay nhận dạng côn trùng; phương pháp là chấp nhận rủi ro có giám sát và quan sát tỉ mỉ.
Giáo dục ngoài trời từng là nguồn cảm hứng cho các nhà sinh học, từ Charles Darwin đến E.O. Wilson, và mang lại nhiều lợi ích quan trọng cho cuộc sống cũng như công việc của chúng trong tương lai. Một nghiên cứu về các trường rừng ở Anh, do Ủy ban Lâm nghiệp đặt hàng Cơ quan Nghiên cứu Rừng [thuộc Ủy ban này] và Quỹ Kinh tế mới [một tổ chức tư vấn chính sách nhằm thúc đẩy công bằng xã hội, kinh tế, và môi trường], đã nhận thấy những tiến bộ trong sự tự tin, khả năng tập trung, kiểm soát vận động, kỹ năng làm việc nhóm ở trẻ em. Trường rừng cũng cung cấp những minh họa trực quan cho các hiện tượng trừu tượng như chu kỳ sự sống, chuỗi thức ăn và tính trạng vật chất (chẳng hạn như tại sao gỗ bị xém đen trong lửa).
Thiên nhiên là môi trường giảng dạy ưu việt, như nhận định của nhà sinh thái học xã hội Stephen Kellert. Đồng cỏ hay bờ biển là một trải nghiệm nhập vai hấp dẫn và thử thách trẻ em về mọi mặt, từ thể chất, xã hội, nhận thức đến cảm xúc. Phức tạp và bất ngờ, một khung cảnh mưa, gió, chim bay, bùn lầy và lá rơi… giúp thổi bùng trí tò mò, chưa kể mang lại một sân chơi miễn phí với vô vàn chi tiết nhỏ và những chân trời rộng mở.
Nhưng trong thời đại mà thiên nhiên hoang dã phải nhường chỗ cho đường nhựa với giao thông tấp nập, những nơi an toàn để chơi đùa (và học ngoài trời) càng trở nên quan trọng trong vai trò làm chỗ nghỉ ngơi và khám phá thử thách cho trẻ em. Vui chơi “có chất lượng” cần rèn luyện được các giác quan, trí tuệ, giao tiếp xã hội, thể lực và các kỹ năng vận động của trẻ, cả về lượng và chất. Việc đó đòi hỏi phải có không gian được thiết kế để đáp ứng các nhu cầu và hành vi của trẻ, như nhận xét của Günter Beltzig, nhà thiết kế không gian vui chơi.
Tuy các nhà lý luận giáo dục, giáo viên, các nhà quản lý giáo dục và các bậc phụ huynh tranh luận không ngừng về sự cần thiết của việc đọc, làm tính và thi cử ở trẻ em dưới tám tuổi, đôi lúc chúng ta lại quên mất rằng thiên nhiên cũng là một môi trường nuôi dưỡng con người quan trọng. Chúng ta phát triển với tư cách là một giống loài nhờ có trí tò mò mạnh mẽ - là động lực trong mọi phát kiến của nhà khoa học trong mỗi thế kỷ qua – trong quá trình chơi đùa, khám phá thế giới. Những thực tại vật chất nguyên sơ đến nay vẫn còn rất nhiều điều để dạy chúng ta theo cách này hay cách khác.
Hiện nay vẫn chưa có lý thuyết hàn lâm nào làm nền tảng cho thiết kế sân chơi, trong khi người ta đã có lý thuyết thiết kế nghĩa trang.
Học để chơi, chơi để học
Một sân chơi có thiết kế theo phong cách 
biophilia,khuyến khích sự tiếp xúc 
trực tiếp và gián tiếp với thiên nhiên.

Ngày nay, bất kỳ một không gian đô thị nào được trang bị cầu trượt và xích đu đều được gọi là sân chơi. Phần lớn những không gian như thế do các kiến trúc sư cảnh quan thiết kế. Hiện nay vẫn chưa có lý thuyết hàn lâm nào làm nền tảng cho thiết kế sân chơi, trong khi người ta đã có lý thuyết thiết kế nghĩa trang. Các kiến thức về hành vi của trẻ em do các nhà giáo dục, tâm lý học và thần kinh học tổng kết lại không có nội dung thiết kế sân chơi, vì vậy phần lớn các không gian này không khuấy động được trẻ em hứng thú chơi đùa và cũng không giúp trẻ em phát triển về mặt thể chất, tình cảm, xã hội và tâm lý như mục đích đặt ra cho chúng.
Nhà thiết kế được đào tạo về sáng tạo và giải quyết các vấn đề, về khoa học vật liệu và khoa học sản xuất. Nhưng để tạo ra một môi trường cho trẻ em, bạn cần phải hành xử như một nhà nhân chủng học, tôn trọng “sự khác biệt” của mỗi đứa trẻ. Bạn học làm việc đó bằng cách quan sát và đối chiếu để khám phá nhu cầu, khả năng và mục đích của trẻ. (xem “Sáu nguyên tắc cho không gian vui chơi”)

Là trẻ con nghĩa là thay đổi liên tục, không ngừng nghỉ. Những gì một đứa trẻ làm được ngày hôm nay không giống với những gì nó có thể làm ngày hôm qua, và cũng không giống những gì nó có thể làm vào ngày mai. Quá trình làm mới và thay đổi tâm lý một cách liên tục này đến thành từng đợt như những lớp sóng, và không có nhịp điệu nhất định. Một số thay đổi đến sớm, số khác thì đến muộn.
Sự thay đổi liên tục của cơ thể và tâm trí dẫn đến một kiểu diễn giải liên tục tùy theo khả năng của đứa trẻ. Chơi đùa thực sự nghĩa là tự chiêm nghiệm để tìm ra những khả năng ấy, để sử dụng trí tưởng tượng, óc sáng tạo và tính tò một cách ngẫu nhiên không thiên lệch. Đó là nguồn gốc của việc học, không phải chỉ bằng trí não mà còn là kết hợp với trực giác và cảm xúc, với cả cơ thể: học tập với tất cả bản thể trọn vẹn. Đó là sự khám phá không cần mục tiêu thông qua trải nghiệm, trong một thế giới nơi đứa trẻ là người ra quyết định chứ không phải nhờ người khác quyết định hộ. Với kiểu học này, đứa trẻ cần thời gian, sự tự do chọn lựa và không gian. Và đối với các cộng đồng ngày càng bị đô thị hóa thì không gian ấy là sân chơi.
Các đặc tính của cộng đồng sẽ quyết định việc thiết kế sân chơi ở một mức độ nào đó. Các khu dân cư khác nhau về kinh tế xã hội và nhân khẩu học cũng như về địa hình, cơ sở hạ tầng và mức độ đô thị hóa. Bên trong không gian vui chơi, cách bố trí và bản chất của các công năng sẽ xác định hành vi của trẻ em, và do đó đòi hỏi thiết kế phải đáp ứng các nhu cầu, mong muốn của các em, cá nhân cũng như tập thể.
Các công cụ để leo trèo và cân bằng - như thang, dây thừng và cầu treo - sẽ tạo điều kiện cho việc lập kế hoạch, giải quyết vấn đề, phối hợp thể chất, kiểm soát cơ thể, quản lý rủi ro và là cơ hội để rèn luyện thời gian phản ứng, cũng như sự hiểu biết về điểm mạnh yếu của trẻ em. Thiết bị leo trèo phải luôn là một phần của chỉnh thể thống nhất lớn hơn và gắn với mục tiêu cụ thể, chẳng hạn như tạo ra một lối tắt hoặc một cách leo lên một điểm cao. Nếu các công cụ này bị tách rời riêng lẻ, chúng sẽ dễ trở thành đối tượng bị tranh giành giữa bọn trẻ.

Tháp và nhà cao tầng cho trẻ em trải nghiệm được nhìn thấy thế giới một cách khác từ trên cao. Trải nghiệm cảm giác thay đổi này luôn dễ thu hút trẻ, vì vậy mà các công trình cao là rất phổ biến và cần có nhiều cách để trèo lên và xuống cùng lúc. Đồng thời, các công trình như thế phải có kết cấu vững chắc.
Những không gian tập thể để trẻ cùng chơi với nhau giúp phát triển tính quyết đoán và trí thông minh xã hội, nhưng trẻ cũng cần những không gian yên tĩnh để mơ mộng và thư giãn, đem đến cơ hội để chiêm nghiệm, suy nghĩ, hoặc thả lỏng tâm trí. Nhà gỗ nhỏ, hốc trong bụi cây hay những túp lều thấp để chơi các trò chơi nhẹ nhàng nên được đặt cách xa các khu vực có trò chơi tập thể đông người.
Hố cát nên bắt chước những hốc tự nhiên, được xây dưới mặt đất để tránh mất cát. Chúng sẽ khuyến khích trẻ em tìm hiểu các loại vật liệu và khi được kết hợp với các thiết bị như máy xúc và xe goòng dùng để đào và vận chuyển cát, tạo cơ hội cho trẻ rèn luyện thể chất, học hỏi về kỹ thuật và làm việc theo nhóm.

Diện mạo sân chơi không nên quá chú trọng vào tính trang trí, bởi trẻ em không nhất thiết có cùng gu thẩm mỹ của người lớn. Quan trọng hơn, trẻ em quan tâm đến các hình thù đơn giản, có tính cách điệu gợi mở thay vì mô phỏng chính xác các sự vật cụ thể. Những loại đồ chơi như vậy có thể được dùng cho các trò chơi sáng tạo: khúc gỗ có thể thành con ngựa hay xe máy, thùng rác thành tàu vũ trụ.
Không gian chơi hòa nhập cho trẻ em khuyết tật cần được thiết kế riêng. Trẻ em khiếm thính sẽ chỉ dùng được thị giác, vì vậy các thành phần chuyển động phải được thiết kế dễ phân biệt, chẳng hạn như khác màu nhau. Trẻ em khiếm thị cần khu vực an toàn, có rào chắn bao bọc, hoặc bề mặt sân chơi đặc biệt. Sân chơi cho người sử dụng xe lăn đòi hỏi phải lưu tâm đến bề mặt và kích thước, và vị trí của một số thành phần, chẳng hạn như bốt điện thoại ở vị trí thuận tiện trên lối đi lại.
Không có sân chơi nào là hoàn hảo. Khi xem trẻ em chơi trong một sân chơi do tôi thiết kế, tôi thấy các em sử dụng nó theo những cách tôi chưa từng nghĩ đến. Để trẻ em có thể thử nghiệm thoải mái và thỏa mãn trí tò mò khi chơi, các chuyên gia tâm lý và nhà thiết kế sân chơi phải tìm được tiếng nói chung. Thế giới đang trong tiến trình đô thị hóa của chúng ta về cơ bản không phù hợp với trẻ em, vì vậy việc tạo ra các không gian vui chơi phù hợp với nhu cầu của trẻ em và tôn trọng sở thích của các em là hết sức cần thiết.
Barbara Kiser
Hoàng Minh dịch theo nature.com
Theo http://tiasang.com.vn/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nguyễn Khải - Vui buồn một đời văn

Nguyễn Khải - Vui buồn một đời văn Xuất phát điểm từ một nhà báo cơ sở ở địa phương đã in đậm dấu ấn trong văn nghiệp của Nguyễn Khải: Mọi...