Chủ Nhật, 2 tháng 8, 2015

Thuyết âm dương ngũ hành

Thuyết âm dương ngũ hành 
I. Học thuyết Âm dương bát quái ngũ hành
Trời Đất vạn vật nói chung là một đại vũ trụ và con người là một tiểu vũ trụ và cũng hàm chứa Âm Dương và Ngũ Hành. Khởi đầu là Thái Cực, chưa có sự biến hóa. Thái Cực này vận động biến thành hai khí Âm và Dương. Hai khí Âm Dương luôn luôn chuyễn hóa làm cho Vũ Trụ động và vạn vật sinh tồn. Người ta thường nói: Thái Cực thì sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái. Chủ ý rằng "thì sinh" ở đây không có nghĩa là từ cái "không" mà sinh ra cái "có", mà có nghĩa là đã có sẵn trong đó rồi, và có thể nhận thấy được khi phần hai (sinh) mà hoạt động. Thái (lớn quá, cao xa quá) Cực (là cho tận cùng, cho chấm dứt, và cũng có nghĩa là rất lạm, quá nhiều, quá lớn) là nguyên lí tạo dựng và chi phối Vũ Trụ. Lí Thái Cực là li Nhật Nguyên Lưỡng Cực có nghĩa là một nơi (Nhật Nguyên) khi nói chung (khi bất đồng) có hai phần Âm Dương (Lưỡng Cực) khi nói riêng ra (khi hoạt động). Nói ngược lại thì sự hoạt động của Âm Dương là cái lí của Thái Cực. Tòan thể cuộc Trời Đất này (Vũ Trụ) sinh tồn là do lí Thái Cực, và mọi vật đều do Âm Dương tác tạo, nên cũng có một lí Thái Cực cho riêng mình. Âm Dương là khí vô hình, có hai phần lạ khác nhau là Dương và Âm để bù đắp cho nhau mà sinh động lực.
Hai khí Âm Dương giao tiếp tuần hoàn sinh hóa ra vạn vật theo 4 trạng thái phát triển và suy tận được gọi là Tứ Tượng (Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm, Thái Âm). Tứ Tượng lại sinh Bát Quái. Bát Quái là tám tượng chính của Âm Dương, sinh hóa ra 5 khí chất chính là Ngũ Hành. Theo Đổng Trọng Thư thì "Khí của trời đất, hợp thì là một, chia thì là Âm và Dương, tách ra làm bốn mùa, bày xếp thành Ngũ hành." Âm Dương là một, nhưng Âm Dương thiên biến vạn hóa (Bát Trặc) để sinh Ngũ Hành, và với tính cách tương phân tương thành đã sinh hóa vạn vật, muôn loài, tạo ra một chuỗi nhân quả liên tục không dứt. Vạn vật trong Vũ Trụ này sở dĩ có được là do sự Diệu Hợp Nhị Ngung, phối hợp với nhau một cách kỳ diệu mà ngưng đọng lại của nhị ngũ (2, 5) tức Âm Dương Ngũ Hành từ Hình Nhi Thượng (khí nang, khi chất vô hình) qua Hình Nhi Hạ (Thế Chất, Hữu Hình). Khi biến thì Hình hóa, ở Trời là Tượng, ở Đất là Hình. Âm Dương chuyển hóa, tiêu trưởng, thuận nghịch, đáp đối cho nhau sinh ra Ngũ Hành, tạo nên vạn vật. Thái Cực động thì sinh Dương, động cực thì Tĩnh, tĩnh thì sinh Âm, tĩnh cực thì lại động, một tĩnh một động cũng làm căn bản cho nhau, đó là trở về cái gốc.
II. Các quy luật biến động của vạn vật 
Các hiện tượng của Vũ Trụ chỉ là trạng thái khác nhau trong vòng Sinh Tử, Tứ Sinh (tức là Thành Thịnh Suy Hủy, Thành Trụ Hoại Diệt, Sanh Lão Bệnh Tử) của vật thể biến động. Tư tưởng Đông Phương cho rằng Vũ Trụ có một mãnh lực vô hình chu du khắp không gian và thời gian gọi là Thái Cực, tác động do hai trạng thái động tĩnh của chính mình, tức là hai khí Âm Dương, đễ biến hóa muôn loài, tạo ra một cuộc sống động và vĩnh cữu. Đó là lí Nhật Nguyên Lưỡng Cưc, tức lí Thái Cực, Âm Dương.
Khởi thủy, Vua Phục Hi đã vạch và xếp Tiên Thiên Bát Quái và 64 trùng quái đễ biểu Tượng cho Âm Dương chuyển hóa, rồi tìm hiểu về sự sinh khắc chế hóa của Ngũ Hành, do tác động của Âm Dương sinh ra, biểu hiện nơi các con Số trên Hà Đồ. Đầy cả khỏang Trời Đất này duy chỉ có một cái lí ấy mà thôi, lí ấy là lí tự nhiên, lí của Thái Cực. 
Lí ấy nằm trong Tượng, nghĩa là trong các hào quái đã được dựng nên để biểu tượng cho sự chuyển hóa của Âm Dương. Sự chuyển hóa của Âm Dương là cái lí của Thái Cực. Âm Dương chuyển hóa tạo ra Ngũ Hành Khí, biểu hiện bởi các con số nằm trong Hà Đồ và Lạc Thư. Thái Cực là Lí tự nhiên, Hào Quái là Tượng của Âm Dương, Hà Đồ và Lạc Thư là số của Ngũ Hành. Có lí thì có Tướng, có Tướng thì có Số. Vũ trụ vạn vật chỉ có một cái lí chung và duy nhất nhưng mang nhiều Tướng Số, do đó mà mọi vật có từng nhóm số. Mọi vật đều có một Thái Cực (Các hữu Thái Cực), nghĩa là mọi vật, cũng như con người, đều là một Tiểu Vũ Trụ, Vũ Trụ có tính chất nào, tính cách nào thì mọi vật cũng có như vậy. Vua Phục Hi và các người đời sau đều đã dùng Tướng Số ấy mà tìm hiểu Vũ Trụ trong mọi quan hệ với nhân sinh. Vũ trụ và nhân sinh có mối liên hệ nhất quán, chỉ khác nhau ở chỗ cao thấp, thanh trọc, lớn nhỏ mà thôi. Đó là Thiên Địa vạn vật đồng nhất thể, đó là Thiên Nhân tương dữ và tương hợp. Lệ Trời sao thì lệ người vậy, việc trời sao thì việc người vậy.
Vạn vật đều biến động đổi dời tuân theo các qui luật như luật Biến Hóa, luật Tương Sinh Tương Khắc (Tướng Phần tướng Thanh), luật Tiêu Trưởng, luật Tương Ứng Tương Cầu, luật Tích Tiệm, luật Phần Phúc, luật Biến Dịch.  
     A- Luật Biến hóa nghĩa là:
     Biến động mãi mãi, chu lưu khắp chốn, lên xuống không chung, luân phiên thay đổi nhau: cứng mềm, nóng lạnh, sinh tử… cho nên không thể lấy cái gì làm chủ yếu điển hình được. Chết (tử) chi là Biến và Hóa, chết mà không mất (Tử nhi bất Vong). Biến la do Cùng: Cùng tắc Biến, Biến tắc Thông, Thông tắc Cửu, nghĩa là có Cùng thì mới có Biến, có Biến mới có Thông, có Thông mới có lâu bền. Một đóng, một mở gọi là Biến. Qua rồi lại, lại rồi qua, và qua lại không cùng gọi là Thông.  
     B- Luật Tương ứng tương cầu (Giao cảm) nghĩa là:
     Hai Khí Âm Dương có giao cảm với nhau thì vạn vật mọi hóa sinh, vạn vật sinh rồi lại tiếp tục sinh mãi đưa đến cuộc biến đổi trở thành vô tận. Âm Dương có hòa xuống là cái trạng thái bình, Âm Dương xung khắc là cái trang bĩ lọan. Vạn vật trong Vũ Trụ bao giờ cũng tìm bạn Đồng Thanh để tương ứng,Đồng Khí để tương cầu. Âm Dương tìm lẫn nhau, hoặc Âm cũng tìm Âm, Dương cũng tìm Dương nhưng phải là Đồng Vọng hay Đồng Độ, nghĩa là Nội Ngoại tương ứng và tùy thuộc vào Thời.
Do đó, trong một quẻ thì chỉ có hào Dương và hào Âm mới tương ứng, còn nếu toàn Âm hay toàn Dương thì có tượng sinh cũng không sinh được, có tượng khắc cũng không khắc được. Bởi vậy Âm Thủy mới sinh Dương Mộc, Dương Mộc mới sinh Âm Hỏa. Về tương khắc cũng theo lẽ ấy (thì mới có sự hóa sinh- TMT). (Chú ý để có sự hó­­­­a sinh thì cần phải khắc âm dương và ngũ hành phải tương sinh hoặc tương khắc. Tương khắc không đưa đến họa sinh mà đưa đến hủy diệt thì đòi hỏi phải cung Âm Dương và ngủ hành tương khắc, ví dụ Dương Kim thì khắc Dương Mộc (ví như kim khí cứng rắn mà gặp cây cứng rắn thì mọi khắc mạnh, mới đưa đến sự hủy diệt), còn Dương Kim tuy có khắc Âm Mộc nhưng không mạnh được, trái lại đưa đến sự hóa sinh).
     C- Luật Tích Tiêm: Tích có nghĩa là:
     chất chứa, tích lũy từ lâu­­ dài. Biến và Hóa đều có nghĩa là đổi rồi, nhưng Biến thì đổi từ từ, khó nhận thấy, còn gọi là Tiêm Biến, Họa xảy ra ngay khi cuộc chuyển biến đã hoàn tất, gọi là Đột Biến. 
     D- Luật Phần Phúc: trở lại nơi khởi điễm, trở về cái gốc củ. Sự tiến triễn của vạn vật không đi luôn mà sẽ trở lại. Vật cùng tác Phản, nghĩa là khi cùng cục thì trái nghịch trở về cái gốc, cái trước. Nếu không đi thì sẽ không trở lại, đã có đi thì sẽ có lại (Vô vãng bất phục).  
     E- Luật Bất Dịch (Bất Di Bất Dịch): sự biến hóa ở vạn vật diễn biến trong vòng trật tự, theo một qui luật nhất định, không thay đổi, thuờng hằng. Tất cả mọi vật đều rất động, nhưng nhớ qui luật này chi phối mà sự động ấy không bị rối loạn, không đổi khác. Tất cả sự vật đều cũng về một nguồn (gọi là Thái Cực), nhưng mọi vật theo con đường riêng của mình, chung về nhà mà đi khắc dương (Đồng qui nhi thù đồ). Luật thường hằng đó chi phối tất cả mọi cuộc biến hóa trong trời đất, điều hòa mọi trạng thái động tĩnh, không cho sự gì đi đến thái quá hay bất cập, thiếu thì nợ bù vào, thừa thì nợ bớt đi, đưa đến quân bình. 
III. Tượng của Âm dương
Dịch lý quan niệm Âm Dương là khí và Ngũ Hành là thể chất Âm Dương tượng trưng cho hai khí thiên nhiên trong vũ trụ. Nguyên lý của vũ trụ thì vô hình, không thể mô tả cụ thể được, mà dù cho có mô tả được đi chăng nữa thì cũng không bao giờ mô tả hêt được. Muốn mô tả nguyên lý của vũ trụ đó ta phải mượn hữu hình để mô tả cho chân lý vô hình đó, gọi là mượn Tướng để mô tả Hình
Khí Dương tượng trưng bởi nóng, cứng, dai, nhanh, khỏe, Nam, ban ngày, trời, số lẻ, phát triển, trẻ, Mặt Trời, mùa Xuân, Hạ, hướng Đông, hướng Nam, phía trên, phía ngòai, lửa, sáng, năng động, tích cực, cương quyết
Khí Âm tượng trưng bởi lạnh, mềm, ngắn, chậm, yếu, Nữ, ban đêm, đất, số chẳn, suy thoái, già, Mặt Trăng, ban đêm, Thụ, Động, hướng Tây, hướng Bắc, phía dưới, phía trong, nước, trầm tỉnh, ức chế, mờ tối, ở trong, hướng xuống, lùi lại, nhu nhược, tiêu cực.
Trong con người, Dương là mé ngoài, sau lưng, phần trên, lục phủ, khí...Âm là mé trong, trước ngực và bụng, phần dưới, ngủ tạng, huyết...
Âm Dương không phải là thứ vật chất cụ thể nào mà là thuộc tính nằm trong tất cả mọi sự vật. Nó giải thích sự biến hóa và phát triển của sự vật. Người ta dùng Thái Cực Đồ để tượng trưng cho hai khí Âm Dương năm trong Thái Cực. Người Trung Quốc khi vẻ hình thì Hướng Bắc bên dưới, Nam bên Trên, Đông bên Phải và Tây bên Trái của hình bởi vì Trung Quốc ở Bắc Bán Cầu nên người ta ngồi ơ Phía Bắc mà nhìn lên phía Nam, và theo đó mà đặt phương vị. Như vây trước mặt là Phương Nam, tay trái Phương Đông, bên phải Phương Tây. Trên Thái Cực Đồ thì phần màu trắng là Khí Dương nằm ở Phương Đông nơi Mặt Trời mọc, phần màu đen thì là Khí Âm nằm ở Phương Tây. Trong phần Dương có một chấm đen tượng trưng cho Âm Căn (mầm Âm), trong phần Âm có một chấm trắng tượng trưng cho Dương Căn (mầm Dương).
Điều này thể hiện Dương Trung hữu Âm căn, Âm Trung hữu Dương căn, khí Dương cực thí mầm Âm sẻ sinh ra và khì Âm cực thì mầm Dương sẻ sinh ra (Dương cực thì Âm sinh, Âm cực thỉ Dương sinh hay nói khác đi cực Dương sinh Âm và cực Âm sinh Dương, vật Cực tắc Biến) và nhấn mạnh ý nghĩa không bao giờ có trường hợp Cô Âm hay Cô Dương bởi vì trong Dương có Âm và trong Âm có Dương. Khí Dương nhiều hơn Âm thì gọi là Dương, khí Âm nhiều hơn Dương thì gọi là Âm. Âm Dương vận động chuyển hóa theo qui luật Dương Trưởng thì Âm Tiêu, Âm Trương thỉ Dương Tiêu, Dương Tiêu thì Âm Trưởng, Âm Tiêu thì Dương Trưởng. Đường đi của Âm và Dương đều theo chiều thuận, từ trái qua phải, từ Đông sang Tây.
Dương sinh ra ở phía Bắc, nóng và nhẹ nên đi lên về Phương Đông. Dương lớn lên ở Phương Đông, cực thịnh ở phía Nam (huớng Nam, giờ Ngọ thì nóng nhất nên Dương cực. Dương cực thì Âm sinh nên Âm sinh ở Ngọ, phía Nam) và tiêu mất ở phía Tây. Âm sinh ở Phương Nam, lạnh và nặng nên đi xuống Phương Tây. Âm lớn lên ở Phương Tây, cực thịnh ở Phương Bắc, giờ Tí thì lạnh nhất nên Âm cực, Âm cực thì Dương sinh nên Dương sinh tại Tí và tiêu mất ở Phương Đông. Khí Dương tiêu mất ở phía Tây thì Âm lớn lên, khí Âm tiêu mất ở phía Đông thì Dương lớn lên. Với bản chất như vậy, Âm Dương chuyển hóa theo qui luật Dương Thăng Âm Giáng và theo qui luật có thứ tự là Doanh (tràn đầy) Hư (hao hụt) Tiêu (mòn dần) Trưởng hay Túc (no ra, sinh ra). Khí Dương Doanh thì Âm Tiêu, Dương Trưởng thì Âm Hư và ngược lại để đáp đối cho nhau sinh hóa luân chuyển không ngừng. Dương có Tiêu thì nhờ cái mầm Dương ở trong Âm mà lại Trưởng, Âm có bị Tiêu thì nhờ cái mầm Âm trong Dương mà Âm lại Trưởng. Có người còn sử dụng qui luật theo thứ tự là Thành (sinh ra) Thịnh (cực độ) Suy Hủy (mất đi) để diển tả sự chuyển hóa của Âm Dương. Khí Dương Thành thì Âm Suy, Dương Thịnh thì Âm Hủy, Dương Suy thì Âm Thành, Dương Hủy thì Âm Thịnh. Tương tự như vậy đối với khí Âm: khí Âm Thịnh thì Dương Suy, khí Dương Thịnh thì Âm Hủy…  
     * Tiên Thiên Bát quái:
     Tiên Thiên Bát Quái là 8 quẻ thuộc về Trời, chỉ về Thiên Lí hay Lẽ Trời. Vì lúc đó chưa có chữ viết, vua Phục Hi sử dụng các vạch để diễn tả. Sử dụng vạch liên tục, vạch liền, tức vạch Lẻ, gọi là Cơ để tượng trưng cho phần Dương
Sự dụng vạch đứt đoạn, tức vạch Chẵn gọi là Ngẩu để tượng trưng cho phần Âm. Lưỡng Nghi (Âm Dương) được tượng trưng bằng hai vạch Dương và Âm gọi là Dương Nghi và Âm Nghi
      * Tứ Tượng:
      Đặt một vạch Dương lên trên Dương Nghi thì thành Tòan Dương nên gọi là Thái Dương (Thái có nghĩa là dà lớn). Đặt một vạch Âm lên trên Dương Nghi thì ta có một Dương làm chủ ở dưới nên gọi là Thiếu Dương (Thiếu có nghĩa là còn nhỏ). Đặt một vạch Âm lên trên Âm Nghi thành Toàn Âm gọi là Thái Âm. Đặt một vạch Dương lên trên Âm Nghi thì ta có một Âm làm chủ ở bên dưới gọi là Thiếu Âm.
Như vậy ta có Tứ Tượng theo đúng thứ tự là Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm, Thái Âm. Thiếu Dương đi trước Thái Âm và Thiếu Âm đi trước Thái Dương thể hiện Âm trung hữu Dương Căn, Dương trung hữu Âm Căn, nghĩa là trong Âm có mầm Dương, trong Dương có mầm Âm. Dương sinh ở Dưới thành ra Thiếu Dương có một vạch Dương mới sinh ở Dưới làm chủ. Dương Trưởng ở Trên thành ra Thái Dương với hai gạch Dương là Dương đả toàn thịnh. Âm sinh ở Trên cho nên Thiếu Âm có một Âm mới sinh ở Dưới làm chủ. Âm trưởng ở Dưới cho nên Thái Âm với hai gạch Âm là Âm đã toàn thịnh.  
      * Tiên Thiên Bát quái:
      Bát Quái là tám Quẻ, mỗi quẻ gồm có ba vạch (mỗi vạch còn gọi là Hào), còn được gọi là Quẻ Độn hay Độn Quái, dùng để diển tả 8 hiện tượng chính của hoạt động Âm Dương trong Vũ Trụ. Việc xếp đặt các vạch để tạo thành Bát Quái được thực hiện theo một thứ tự hoàn tòan theo tự nhiên: Dương trước, Âm sau, tay Măt trước, tay Trái sau. Thứ tự và tên gọi của Bát Quái như sau:
     * Quẻ Càn: đặt một vạch Dương lên trên Thái Dương thành tòan Dương gọi là quẻ Càn (trời, thiên. Càn vi Thiên). Quẻ này thì Dương đả Thịnh, và Âm đã hủy.
     * Quẻ Đoài: đặt một vạch Âm lên trên Thái Dương ta có quẻ Đoài (đầm ao. Đoài vi Trạch). Quẻ này thì Dương đả lớn và Âm sắp tàn.
     * Quẻ Ly: đặt một vạch Dương lên trên Thiếu Dương ta có quẻ Ly (lửa, hơi nóng. Ly vi Hỏa). Quẻ này thì Dương đã lớn và Âm sắp tan.
     * Quẻ Chấn: đặt một vạch Âm lên trên Thiếu Dương ta có quẻ Chấn (sấm sét, Chấn vi Lôi). Quẻ này thì Dương mới sinh và Âm bắt đầu suy.
     * Quẻ Khôn: đặt một vạch Âm lên trên Thái Âm thành tòan Âm gọi là quẻ Khôn (Đất, Địa. Khôn vi Địa). Quẻ này thì Âm đã thịnh và Dương đa hủy.
     * Quẻ Cấn: đặt một vạch Dương lên trên Thái Âm ta có quẻ Cấn (núi non. Can vi Sơn). Qủe này thì Âm đã lớn và Dương sắp tàn.
     * Quẻ Khảm: đặt một vạch Âm lên trên Thiếu Âm ta có quẻ Khảm (nước, chất lỏng. Khảm vi Thủy). Quẻ này thì Âm đã lớn và Dương sắp tan.
     * Quẻ Tốn: đặt một vạch Dương lên trên Thiếu Âm ta có quẻ Tốn (gió. Tốn vi Phong). Quẻ này thì Âm mới sinh và Dương bắt đầu suy.
Trong Bát Quái, có bốn quẻ bất dịch, nghĩa là không đổi dù đảo lộn, lật lên lật xuống là Càn Khôn Ly Khảm. Bốn qủe này là bốn qủe chính (vì Trời, Đất, Lửa, Nước là bốn yếu tố chính) được đặt vào bốn Phương chính, ở giữa hai trục chính Nam Bắc và Đông Tây: Phía Đông (tay Trái) là hướng Mặt Trời mọc nên thuộc Dương, gồm có Đông Bắc và Đông Nam. Phía Tây (tay Phải) là hướng mặt trởi lặn nên thuộc Âm, gồm có Tây Bắc và Tây Nam.
     * Càn ở Phương Nam vì Càn là toàn Dương nên nóng, Phương Nam là lúc giữa trưa nên nóng nhất.
     * Khôn ở Phương Bắc vì Khôn là Đất, toàn Âm nên lạnh, phía Bắc lúc gần nửa đêm thì rất lạnh.
     * Ly ở Phương Đông vì Ly là Lửa, thuộc Dương nên âm ấp, Phương Đông là nơi mặt trời mới mọc có hơi ấm.
     * Khảm ở Phương Tây vì Khảm là nước thuộc Âm nên mát, ở Phương Tây nơi mặt trởi lặn thì mát. Các nguồn nước cũng từ phương Đông mà ra bốn quẻ còn lại là bốn quẻ phụ, là những hiện tượng chính ở trên Trời và dưới Đất, được đặt ở bốn góc:
     *Chấn: ở Phương Đông Bắc. 
     *Cấn: ở Phương Tây Bắc.
     *Đoài: ở Phương Đông Nam.
     *Tốn: ở Phương Tây Nam.
     Tiên Thiên Bát Quái chỉ về lẽ Trời nên lấy Âm Dương làm trọng, do đó Càn - Khôn (Trời - Đất) ở trục chính Nam - Bắc và Ly - Khảm (Lửa - Nước) là hai nhân tố chính ở trục Đông - Tây. Trục chính Nam - Bắc này tạo lực cho trục ngang Đông - Tây xoay vần, gây sức sống cho Vũ Trụ mà yếu tố chính của sức sống không gì ngoài Lửa và Nước nên Ly - Khảm đất ở Đông - Tây.
Trong Tiên Thiên thì các quẻ đối xứng với nhau:
     * Càn với Khôn (Cha đối xứng với Mẹ),
     * Chấn với Tốn (Trưởng Nam với Trưởng Nữ),
     * Ly với Khảm (trai thứ với gái thứ), Cấn với Đoài (trai út với gái út).  
IV. Sự vận động của Âm dương trong Tiên Thiên Bát quái
Phần Dương gồm có Càn 1, Đoài 2, Li 3, Chấn 4, từ Cha xuống Con là Dương thuận. Phần Âm là Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8, từ Con lên Mẹ là Âm nghịch. Nói chung Âm Dương thì Dương từ Bắc đi lên, Dương thăng. Âm từ trên Nam đi xuống, Âm giáng. Trong Tiên Thiên thì Cha sinh gái (Càn sinh Âm quái) và Mẹ sinh trái (Khôn sinh Dương quái) đó là chỉ về cái lý tự nhiên Dương sinh Âm, Âm sinh Dương.
Chấn với một hào Dương làm chủ là Nhất Dương Sinh ỏ Phương Bắc đi lên và lớn dần ở Ly. Đoài đã có hai vạch Dương và tới Càn ở phương Nam bên trên đã có đủ ba vạch Dương (toàn Dương). Như vậy Dương đi trong phần Dương mà đi thuần từ trái qua phải, từ dưới Bắc đi lên trên (Dương thăng). 
Dương từ Cấn Khảm (1 vạch) qua Tốn (hai vạch) về Càn (3 vạch) nên Dương đi trong phần Âm mà đi nghịch từ phải qua trái. Đi nghịch ở đây là đi rút về.
Tốn với một vạch Âm ở dưới làm chủ là Nhất Âm Sinh đi xuống Khảm. Cấn đã có hai vạch Âm và tới Khôn ở dưới Bắc đã có đủ 3 vạch Âm (toàn Âm). Như vậy Âm đi trong phần Âm mà đi thuận từ trái qua phải, từ Nam đi xuống (Âm Giáng).
Âm đi từ Đoài Ly (1 vạch) qua Chấn (hai vạch) về Khôn (3 vạch). Âm đi trong phần Dương mà đi nghịch từ phải qua trái bên cạnh Thái Dương đã có 1 Âm xuất hiện ở Tốn, do Âm Căn ở Đoài. Cạnh Thái Âm đã có 1 Dương xuất hiện ở Chấn, do Dương Căn ở Cấn. Sự phối trí các quẻ cho ta thấy Sinh rồi Trưởng, Trưởng quá thì Tiêu, cái này tan thì cái khác lại sinh ra vì đã có mầm sẳn. Vòng Tiêu Trưởng xoay vần không đứt, tạo ra động lực làm cho vạn vật biến hóa không ngừng.                    
V. Sáu mươi tư quẻ kép (Trùng quái) của Tiên Thiên Bát quái
Trùng Quái là quẻ kép gồm sáu vạch (còn gọi là 6 Hào), do hai Quẻ Đơn xếp chồng lên nhau. Đơn quái ở trên gọi là Ngoại Quái hay Thượng Quái. đơn Quái ở dưới gọi là Nội Quái hay Hạ Quái. Khi viết thì viết Quái dưới trước, Quái trên sau. Tên gọi được căn cứ vào tên hai đơn Quái, dọc theo thứ tự từ trên xuống dưới. Trung Quái là tượng chỉ về sự chuyển hóa của Âm Dương nên gọi là Quái Tượng, và mỗi Hào còn được gọi là Hào Tượng.
Trùng Quái do Quẻ Càn sinh ra: đặt 8 đơn quái lên trên Quẻ Càn.
Trùng Quái do Quẻ Đoài sinh ra: lần lượt đặt 8 đơn quái lên trên Quẻ Đoài.
Trùng Quái do Quẻ Li sinh ra: lần lượt đặt 8 đơn quái lên trên Quẻ Ly
Trùng Quái do Quẻ Chấn sinh ra: lần lượt đặt 8 đơn quái lên trên Quẻ Chấn.
Trùng Quái do Quẻ Tốn sinh ra: lần lượt đặt 8 đơn quái lên trên Quẻ Tốn.
Trùng Quái do Quẻ Khảm sinh ra: l. lượt đặt 8 đơn quái lên trên Quẻ Khảm.
Trùng Quái do Quẻ Cấn sinh ra: lần lượt đặt 8 đơn quái lên trên Quẻ Cấn.
Trùng Quái do Quẻ Khôn sinh ra: l. lượt đặt 8 đơn quái lên trên Quẻ Khôn.
Trong sáu mươi bốn Quẻ thì có tám Trùng Quái bất dịch, còn lại 58 Quẻ, gồm 28 cặp, là điên đảo dịch, nghĩa là khi lật ngược thì Quẻ này thành Quẻ kia.
Trong 64 Trùng Quái thì có 12 Trùng Quái chính biểu thị cho qui luật Doanh Hư Tiêu Trưởng, Thành Thịnh Suy Huy, Dương Thăng Âm Giáng, Tiêu Trưởng, thuận nghịch, Tiến Thoái trong sự chuyển hóa của Âm Dương. Mười Hai Quẻ này được đặt trong Thiên Bản, hòa hợp với 12 năm. 12 tháng, 12 giờ, 12 Địa Chi, và bốn phương Tám Huớng, tứ Thời (Xuân Hạ Thu Đông), Bát Tiết:
      * Quẻ Phục (Đia Lôi Phục) ở Tí, một vạch Dương ở dưới (Nhất Dương Sinh). Phục có nghĩa là trở lại, là Dương đã trở lại. đất ở phương Bắc rất lạnh, giờ Tí, tháng 11, tiết Đông Chí giữa Mùa Đông.
* Quẻ Lâm (Địa Trạch Lâm) ở Sửu, hai vạch Dương ở dưới. làm có nghĩa là đã tới, ra mặt, Dương đã đủ góp mặt rồi, đó là Dương Tiến Âm Thoái, Dương Thịnh Âm Suy.
      * Quẻ Thái (Đia Thiên Thái) ở Dần, ba vạch Dương ở dưới và ba vạch Âm ở trên, Dương thì nhẹ lại ở dưới nên bọc lên trên, Âm thì nặng ở trên hạ xuống dưới nên Âm Dương tiếp xúc, Âm Dương quân bình. đất ở giờ Dần lúc mặt trời đang lên, tháng 1, đầu mùa Xuân
      * Quẻ Đại Tráng (Lôi Thiên Đại Tráng) ở Mão, bốn vạch Dương ở dưới. Đại Tráng là lớn mạnh, Dương lớn mạnh hơn Âm. Đặt ở phương Đông, vào tháng 2 ứng với tiết Xuân phân, giữa mùa Xuân.
      * Quẻ Quải (Trạch Thiên Quải) ở Thìn, năm vạch Dương ở dưới. Quải là quả quyết, dứt bỏ, Dương đã quyết dứt bỏ một Âm nằm một mình ở trên.
      * Quẻ Càn (Càn Vi Thiên) ở Tỵ, sáu vạch Dương, Toàn Dương, phương Nam, tháng 4, đầu Mùa Hạ.
   * Quẻ Cấu (Thiện Phong Cấu) ở Ngọ, một vạch Âm ở dưới (Nhất Âm Sinh). Câu có nghĩa là gặp gỡ. Âm đã tới gặp Dương. đặt ở phương Nam, ứng với tiết Hạ Chí.
    * Quẻ Độn (Thiện Sơn Độn) ở Mùi, hai vạch Âm ở dưới. Độn là lấn trọn.
   * Quẻ Bĩ (Thiện Địa Bĩ) ở Thân, 3 vạch Âm ở dưới và 3 vạch Dương ở trên, tuy Âm Dương quân bình nhưng Dương ở trên cứ bốc lên, Âm ở dưới lại hạ xuống nên Âm Dương không gặp nhau nên bế tắc. Bĩ là bế tắc.
   * Quẻ Quan (Phong Địa Quan) ở Dậu, bốn vạch Âm ở dưới. Quan là xem xét, Dương phải xem xét hoàn cảnh không hay của mình mà lo liệu. đặt ở phương Tây, ứng với tiết Thu phân
       * Quẻ Bác (Sơn Địa Bác) ở Tuất, năm vạch Âm ở dưới, một vạch Dương cheo leo ở trên. Bác là rơi rụng, Dương nằm ở thế cheo leo sắp sửa rơi rụng hết rồi.
       * Quẻ Khôn (Khôn Vi Địa) ở Hợi, sáu vạch Âm , toàn Âm , Âm khí cục đồ. đặt vào tháng 10, đầu mùa Đông, tiết trời trở sang lạnh giá.
Trên Thiên Bàn, các Quẻ đối nhau qua trục Âm Dương thì tính chất cũng đối nhau như Càn và Khôn, Phục và Cấu, Thái và Bỉ. Tốt nhất là Quẻ Thái vì Âm Dương quân bình và vào lúc sớm mai. Xấu nhất là Quẻ Bác vì Dương bị rơi rụng và vào lúc đêm tối. từ Quẻ Phục đến Quẻ Càn thì Dương Trưởng Âm Tiêu. từ Quẻ Cấu đến Quẻ Khôn thì Âm Trưởng Dương Tiêu. Âm Dương Tiêu Trưởng, Tiến Thoái nhưng luôn luôn trở về thế quân bình tại Quẻ Thái và Bĩ. Hai quẻ này nằm trên trục Đan Thần là trục đẹp nhất, là Dương đi của Mộc Tinh, tức Thái Tuế.
Như vậy trong Tiên Thiên Bát Quái thì hào quái là tượng của Âm Dương.
VI. Hà Đồ:
     Hà Đồ là một bảng về 10 số đếm từ một đến 10, được biểu diển bằng các chấm đen và trắng, xắp sếp thành hai vòng trong (nội) và ngoài (ngoại) theo đúng bốn phương chính là Nam (ở trên), Bắc (ở dưới), Đông (bên trái), Tây (bên phải). Các con số trên Hà Đồ chỉ về phương vị của ngũ hành Khí do Âm Dương ở Bát Quái chuyển ra, đây là số chỉ về cái Khí ngũ hành. Như vậy, Thái Cực thuộc về Lí (Lẽ), Âm Dương thuộc về tượng (Hình) và ngũ hành thuộc về Số.
     * Mười Số đếm trên được chia thành hai loại:
- Số Dương (Số Cơ) là Số lẻ, còn gọi là Số Trời (Thiện), được ghi bằng các vòng tròn trắng, bao gồm 1, 3, 5, 7, 9. Tổng Số Dương là 25.
- Số Âm (Số Ngầu) là Số lẻ, còn gọi là Số Đất (Địa), được ghi bằng các vòng tròn màu đen, bao gồm 2, 4, 6, 8, 10. Tổng Số Âm là 30, vì âm lớn hơn Dương (30/25) nên ta nói Âm Dương chủ không nói Dương Âm.
     * Mười Số trên lại được chia thành hai thành phần là Số Sinh (1, 2, 3, 4, 5) và Số Thành (6, 7, 8, 9, 10). Số 5 là Số cuối của Số Sinh, là Cực của Vô (Âm Dương), Số 10 là Số cuối của Số Thành là Cực của Hưu (Ngũ hành) được đặt ở giữa.
Số Sinh được định vị trí trên không gian bằng cách xắp xếp cho:
     * Số 1:  ở hướng Bắc.
     * Số 2:  ở hướng Nam.
     * Số 3:  hướng Đông.
     * Số 4:  hướng Tây.
     * Số 5: ở Trung Ương.
Hình thành vòng trong của Hà Đồ.
     * Với sự sắp xếp này ta nhận thấy trục Bắc - Nam tương ứng với chuỗi sao Bắc Đẩu, nên Số 1 ở hướng Bắc thì Số 2 phải ở hướng Nam. Trục Đông -Tây là hướng đi của Mặt Trời từ đồng sang Tây nên Số 3 phải ở hướng Đông, và Số 4 ở hướng Tây. như vậy thì sự sắp xếp các Số Sinh theo phương hướng hình thành một hệ trục tọa độ trong không gian mà góc tọa độ ở chinh giữa với trục hoành là trục Đông - Tây đi từ phải qua trái và trục tung là Bắc - Nam hướng từ trên xuống dưới.
     * Số Thành được sắp xếp ở vòng ngoài bằng cách cộng Số Trung Ương (Số 5) với các Số Sinh, và cộng với chính nó thành Số 10 để ở chính giữa. Với sự xắp xếp trên thì Số 1 (Âm) ở trên, Số 2 (Dương) ở dưới nên Hà Đồ được xoay 180 độ để cho Số 2 ở trên, Số 1 ở dưới, Số 3 bên trái, Số 4 bên mặt cho phù hợp với qui luật vận động của tạo hóa là cái trong nhẹ (Dương) bay lên thành Trời, cái đục nặng (Âm) lắng xuống thành Đất (qui luật Dương Thăng, Âm Giáng). Số 5, Số cuối của Số Sinh và Số 10, Số cuối của Số Thành là Số của Trời Đất, là "Thể" thì đặt ở chính giữa, các Số còn lại là "Dụng" thì hoạt động ở ngòai. Số của Trời Đất (5 và 10) khi cộng lại thì bằng 15, bằng tổng Số của các Số Sinh nên Trời Đất sinh ra vạn vật. ở vòng ngoài, tổng số của các Số Dương bằng tổng số của các Số Âm và bằng 20, nghĩa là Âm Dương quân bình.Năm hành chính cũng được định vị cùng với năm cấp Số Sinh và Thành trên Hà Đồ như sau:

* Số 1: (Trời) sinh hành Thủy.       * Số 6: (Đất) làm thành hành Thủy.
* Số 2 (Đất) sinh hành Hỏa.           * Số 7: (Trời) làm thành hành Hỏa.
* Số 3 (Trời) sinh hành Mộc.         * Số 8 (Đất) làm thành hành Mộc.
* Số 4 (Đất) sinh hành Kim.           * Số 9 (Trời) làm thành hành Kim.
* Số 5 (Trời) sinh hành Thổ.         * Số 10: (Đất) làm thành hành Thổ.
Như vậy mới hành đều được sinh ra và hình thành bởi sự kết hơp giữa Thiên và Địa và trong Hà Đồ ta có:
*Thủy (Số 1, 6) ở phương Bắc (bởi vì phương Bắc thì nhiều mưa và lạnh thuộc Thủy).
* Hỏa (Số 2, 7) ở phương Nam (bởi vì phương Nam là nơi nhiều nắng, nắng thuộc Hỏa. có nước rồi phải có hơi nóng thì cuộc sống mới hình thành).
* Mộc (Số 3, 8) ở phương đông (bởi vì phương đông là nơi mặt trời mọc và ấm áp, cây cối xanh tươi, thuộc Mộc).
* Kim (Số 4, 9) ở phương Tây (bởi vì phương Tây là nơi mặt trời lặn và mát mẻ, kim khí thì mát mẻ, thuộc Kim).
* Thổ (Số 5, 10) ở Trung ương (bởi vì ở giữa là Đất, đất nuôi dưỡng và thâu tàng các hành khác, động vật chết thì về Đất).
     Ở phương Bắc và Đông thì Dương ở trong (Nội), Âm ở ngoài (Ngoại). ở phương Nam và Tây thì Dương ở ngoài, Âm ở trong. ở Trung ương thì Dương ở trong (Số 5) Âm ở ngoài (Số 10). Sự chuyển hóa của Âm Dương trong Hà Đồ cũng giống như sự chuyển hóa của Âm Dương trong Bát Quái. Dương (Số 1) sinh ở phía dưới, nằm ở trong, phía Bắc, rồi đi thuận qua trái phía đông (Số 3) rồi ra ngoài (Số 7, 9) và tan dần ở Tây Bắc. Các hào Dương của Bát Quái cũng bắt đầu xuất hiện ở phía Bắc, nằm trong, tức ở dưới (Quẻ Chấn), đi thuận lên về phía trái, và lớn mạnh lên ở phía Nam (Quẻ Càn) rồi nằm ở ngoài tức hào trên (Quẻ Tốn) rồi tan dần ở Tây Bắc. Âm (Số 2) sinh ở bên trên, nằm ở trong, phía Nam rồi đi nghịch xuống qua phải, phía Tây (Số 4) rồi choán ra ngoài (Số 6, 8) và tan dần ở phía Đông Nam. Các hào Âm của Bát Quái cũng bắt đầu ở phía Nam (Quẻ Tốn) nằm trong, tức ở dưới, đi ngược xuống phía phải và lớn mạnh lên ở dưới phía Bắc (Quẻ Khôn) rồi nằm ở ngoài, tức hào trên (Quẻ Chấn) và tan dần ở Đông Nam. Cả hai khi mới sinh và còn non yếu thì đi ở phía trong (1, 2, 3, 4, 5), lúc lớn mạnh thì đi ra ngoài để hoạt động (6, 7, 8, 9, 10) nên gọi là Nội hướng Tịnh, Ngoại hướng Động, phù hợp với qui luật Doanh Hư Tiêu Tức.
     * Ở phương đông thì Dương ở Trong, Âm ở Ngoài, Dương làm chủ nên khí hậu ấm áp (mùa Xuân).
     * Ở phương Tây thì Âm ở trong, Dương ở ngoài, Âm làm chủ nên khí hậu mát mẻ (mùa Thu).
     * Ở phương đông thì Dương chủ (trong) Âm Khách (ngoại), Dương Trầm (dưới) Âm Phù (trên) nên thông thuận, tượng trưng cho Quẻ Thái ở hướng Đông Bắc.
     * Ở phương Tây thì Âm Chủ (trong) và Dương Khách (ngoại), Âm Trầm (dưới) Dương phù (trên) nên bế tắc, tượng trưng cho Quẻ Bĩ hướng Tây –Nam.
     * Số 1, 2, 3, 4 theo thứ tự thì tương ứng với từ Tượng: Thiếu Dương (Dương mới sinh), Thiếu Âm (Âm mới sinh), Thái Dương (Dương lớn), Thái Âm (Âm lớn). Số 5 thì tương ứng với Âm Trung Hữu Dương Cân (vì 1 + 4 = 5 hay Thiếu Dương + Thái Âm ) hoặc Dương Trung Hữu Âm Căn (vì 2 + 3 = 5 hay Thiếu Âm + Thái Dương). Do do Số 5 được coi là Số Thái Cực, của Trời Đất, chi về phần Dương, bao gồm hết từ Tượng, hết các Số sinh 1, 2, 3, 4. Số 5 là Số rất quan trọng vì Số này kết hợp với các Số Sinh khác (1, 2, 3, 4) mà bao trùm chuyển tiếp các Số Thành (6, 7, 8, 9) ở vòng ngoài (ví dụ 6 do 1 + 5, 7 do 2 + 5), không có số 5 ở giữa thì không có cái gì trong Vũ Trụ này cả. Số Thành 6, 7, 8, 9, 10 không những là số do số 5 chuyển tiếp mà ra mà cũng lại là do các số sinh giao hợp mà thành (ví dụ Số 6 do 1 + 5, 2 + 4, 3 + 3, 1 + 2 + 3).
     * Số 6, 7, 8, 9 cũng có tứ Tượng, theo thứ tự tương ứng với Lão Âm (Âm già), Suy Dương, Suy Âm , Lão Dương (Dương Già). Số 10 là số Thái Cực, của Trời Đất, chỉ về phần Âm , đất ở giữa, bao lấy số Dương 5. Ta lấy số Thành Âm lớn nhất (Số 10) so với số Sinh Dương nhỏ nhất (Số 1) ta có số 9 (10 - 1). Số 9 là số Dương lớn nhất và có ngậm Âm (Số 10) nên gọi là Lão Dương. So sánh Số Sinh Dương kế tiếp (Số 3) ta có Số 7 (10 - 3). Số 7 là Số Dương đứng liền với Số 9 Lão Dương nên gọi là Suy Dương (Dương đi theo chiều thuận từ 7 đến 9. Lấy Số Thành Âm lớn nhất mà so sánh với Số Sinh Âm lớn nhất (Số 4) ta có Số 6 ( 10 - 4). Số 6 có là do Âm lớn nên ta gọi là Lão Âm . So sánh với Số Sinh Âm kế tiếp (Số 2) ta có Số 8 (10 - 2). Số 8 có Số Sinh Âm nhỏ nên gọi là Suy Âm (Âm đi theo chiều nghịch từ 6 đến 8).
     * Số 1 là Thiếu Dương, Dương mới sinh, là Số khởi đầu của vì thế tạo lập các số khác, khởi đầu công cuộc tạo lập vũ trụ vạn vật (bởi vì Số 2 tạo ra do 1 + 1, Số 3 do 1 + 2, Số 4 do 1 + 3… từ Số 1 ta tạo ra Số 2 rồi lần lượt Số 3, Số 4 và tất cả các Số khác)
     * Số 2 là Thiếu Âm , Âm mới sinh, là Số tạo ra các Số Âm khác (bởi vì Số 4 tạo ra do 2 + 2, Số 6 do 2 + 4…), và Âm cộng Dương mới thành Dương (bởi vì 3 do 2 + 1, Số 5 do 2 + 3, Số 7 do 2 + 5…)
     * Số 3 là Thái Dương, Dương đã lớn, đã có mầm Âm , do Thiếu Dương 1 và Thiếu Âm 2 cộng lại. Dương cộng Dương mới thành Âm )bởi vì Số 4 do 3 + 1, Số 6 do 3 + 3, Số 8 do 3 + 5…)
     * Số 1 được coi là Số Trời (Dương), Số 2 là Đất (Âm), và Số 3 (do 1 + 2) là Số Thái Cực phần Âm Dương: Ta Có, Hữu Ngầu (trái Lẽ, phải Chấn). Số 3 có thể lìa nhau được thì gọi là Tam, không lìa nhau được thì gọi là Tham. Số 2 có thể lìa nhau được thì gọi là Nhị, không lìa nhau được thì gọi là Lưỡng. Trong các Số Sinh thì Dương có 3 Số (1, 3, 5) được gọi là Tham Thiên, Âm có 2 Số (2 và 4) được gọi là Lưỡng địa. Số 3 là Can Số của Dương, Số 2 là Can Số của Âm nên gọi là Tham Thiên Lương Địa. Số 5 là Số của Trời, chia ra thì được 3 và 2 nên cũng gọi là Tham Thiên Lưỡng Địa. Số 4 là Thái Âm , Âm lớn, do do hai Thiếu Âm cộng lai (2 + 2) hoặc do Thiếu Dương (1) và Thái Dương (3) cộng lại mà ra. Cục Dương thì biến thành Âm (bởi vì 4 do 3 + 1) còn cục Âm thì vẫn là Âm ( bởi vì 4 + 2 là 6, vẫn là Âm ), không biến nên ta nói Dương thì Động mà Âm thì Tĩnh.
     - Khi Âm Dương sinh hành Khí thì nước (Thủy) có trước nhất nên Thủy được mang Số 1.

- Có nước rồi thì cần hơi nóng (Hỏa) thì v. vật mới sinh nên Hỏa mang Số 2.
- Có nước và hơi nóng thì thảo Mộc (Mộc) mới sinh ra nên Mộc mang Số 3.
- Tiếp đến Kim khí hình thành nên Kim mang Số 4.
- Vạn vật sinh hóa từ đất (Thổ) mà ra và cuối cũng trở về đất nên Thổ mang Số 5.

Ngũ hành là khí do Âm Dương tác hóa nên cũng sinh hóa không ngừng. Năm hành trên tương tác với nhau như sau:
     - Ngũ hành tương sinh: Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ
     - Ngũ hành tương khắc: Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ.
     * Đông hành thì tị hỏa.
     Sinh khắc là hai trạng thái bù đắp nhau làm cho ngũ hành sinh động và trường tồn. Khi thông thuận thì cần Sinh để thăng tiến, khi bế tắc thì đôi khi cần khắc để biến hóa đi đến chổ tốt hơn. Sinh để xây dựng nên, khắc để biến hóa đi, có Sinh thì có hóa, có khắc mới hóa, và có hóa mới lại sinh ra. có vậy thì vạn vật mới trường tồn bất diệt.
Như vậy các quẻ trong Tiên Thiên Bát Quái là Tượng của Âm Dương chuyển hóa, các chấm trên Hà Đồ là những con Số của ngũ hành sinh khắc. Âm Dương hoạt động sinh ngũ hành, như vậy Bát Quái là Thể và Hà Đồ là Dụng. giữa Bát Quái và Hà Đồ có nhiều điểm tương đồng về Âm Dương như Khôn Âm và Thủy Âm đều ở phương Bắc, Càn Dương và Hỏa Dương đều ở phương Nam, Chấn Dương và Mộc Dương ở Đông, Khảm Âm và Kim Âm ở Tây. các quẻ đối đãi nhau ở Bát Quái và các số liền nhau của Hà Đồ đều cũng đối qua trục Bắc Nam và Đông Tây như Càn đối với Khôn thì 1 - 6 đối với 2 - 7. Li đối với Khảm thì 3 - 8 đối với 4 - 9… Nếu xét về Cơ Ngẫu thì các Số của Hà Đồ biểu thị cho phần Âm Dương sinh thành ra ngũ hành, nếu xét về phương vị và sự phối hợp giữa các con số thì đó là sự sinh khắc chế hóa của ngũ hành.
VII. Hậu Thiên Bát Quái:
Căn cứ vào Hà Ðồ và Lạc Thư, Vua Chu Văn Vương đã xếp đặt lại 8 quẻ Tiên Thiên, đặt ra Hậu Thiên Bát Quái, chỉ về hoạt động của Nhân Sự (việc người) và sắp xếp lại 64 Trung Quái cho hợp với cuộc sống con người, rồi viết Hào Từ, Thổán Từ để giảng giải về các vạch và quẻ. Phương vị và thứ tự của Hậu Thiên Bát Quái được sắp xếp theo lí trí của con người.
* Thứ tự của Hậu Thiên Bát Quái là:
     - Càn, Khảm, Cấn, Chấn (thuộc Dương Nghi).
     - Tốn, Ly, Khôn, Ðoài (thuộc Âm Nghi).
Trong đó Ly ở Nam và Khảm ở Bắc, khác với Tiên Thiên Bát Quái là Cấn ở Nam Khôn ở Bắc. Bát quái này chỉ về nhân sinh, do Thủy Hoả cần thiết cho đời sống con người nên được coi trọng và đặt Khảm Ly ở hai trục chính là trục Bắc Nam. Vật sinh do Thủy mà vật trưởng do Hỏa. Khí động thì Dương sinh và thành Hỏa, khí ngưng thì Âm sinh và thành Thủy. Như vậy Thủy Hỏa là Âm Dương, khi khởi động thì là Khảm Ly trong Hậu Thiân Bát Quái (và là Càn Khôn trong Tiên Thiên Bát Quái).
* Theo thứ tự sắp xếp thì:
     - Càn là trời: Đặt ở Tây Bắc nơi đó có núi thấp và có bình nguyên sa mạc nên bầu trời cao sáng. Càn ở giữa Khảm và Ðoài là nước trên trời đổ xuống đầm ao.
     - Khảm là Nước: đặt ở chính Bắc, lục nữa đêm vì phiá này lạnh và mưa nhiều.
     - Cấn là Núi: đặt ở Ðông Bắc vì nơi này có núi cao nổi tiếng. Cấn ở giữa Khảm và Chấn, núi cao hứng lấy mưa gió và sấm sét và cấn cần dụng giữa nưóc (Khảm) và cây (Chấn) thì cây mới sống được.
     - Chấn là Sấm: đất ở chính Ðông vì nơi đây là biển thường có sấm. Sấm động ở biển Ðông làm cho vạn vật tăng trưởng.
     - Tốn là Gió: đất ở Ðông Nam vì gió Ðông Nam nhiều và mát. Ðối diện với Càn là Tốn, gió Ðông Nam là gió mặt trên trời (Càn) thôi xuống. Tốn ở giữa Chấn và Li, sấm sét (Chấn) sinh ra lửa (Li), lửa sinh ra gió (Tốn).
     - Ly là Lửa: đất ở chính Nam vì hướng này nóng và vào lúc giữa trưa mặt trời chói chang.
     - Khôn là Ðất: đất ở Tây Nam vì nơi đây nhiều cao nguyên lớn (Ðất). Khôn ở giữa Li và Ðoài ngăn cách nước ở đầm ao và Hỏa Kim không cho khắc chế nhau.
     - Ðoài là Ðầm Ao: đất ở chính Tây vì nơi đây nhiều núi nên có nhiều đầm hồ, tưới nước nuôi vạn vật.
* Vì Hậu Thiên Bát Quái chỉ về nhân sinh nên:
- Càn tượng Cha.
- Khôn tượng Mẹ.
- Khảm tượng Thứ Nam.
- Cấn tượng Thiếu Nam.
- Chấn tượng Trưởng Nam.
- Tốn tượng Trưởng Nữ.
- Ly tượng Thứ Nữ.
- Đoài tượng Thiếu Nữ.
* Quẻ có một vạch Dương là Quẻ Dương, tượng là con trai.
* Quẻ có một gạch Âm là Quẻ Âm, tượng là con gái.
* Bốn quẻ Càn, Khảm, Cấn, Chấn ở phần Dương Nghi đều là quẻ Dương (1 vạch Dương làm chủ), đó là cha, dắt ba trai.
* Bốn quẻ Tốn, Ly, Khôn, Đoài ở phần Âm đều là Âm quái (1 vạch Âm làm chủ), đó là mẹ, dìu ba gái.
Theo thứ tự của Hậu Thiên Bát Quái thì ta thấy Cha (Càn) đi trước, còn Trưởng Nam (Chấn) thì đốc hậu, gái lớn (Trưởng Nữ) thì lấy chồng xuất gia trước, con gái út (Thiếu Nữ) thì nấp bóng mẹ và lấy chồng sau cùng, đúng như tổ chức của gia đinh loài người.
Trong Tiên Thiên Bát Quái thì cứ hai quẻ đối nhau thì công bằng 9 (Càn Khôn (1 + 8), Đoài Càn (2 + 7), Li Khảm (3 + 6), Chấn Tốn (4 + 5)) mà số 9 là số của Lão Dương (hào 9 hay hào Cửu), mà Dương chi về Trời. Ở Hậu Thiên thì cụ hai quẻ đối nhau, ngoài trừ Li Khảm là trực chính của Trời thì cộng bằng 9 (3 + 6), đều cộng lại bằng 6 (Càn Tốn (1 + 5), Khôn Cấn (8 + 7 = 15, 1 + 5 = 6), Chấn Đoài (4 + 2)) mà số 6 là số của Lão Âm (hào Lục) mà Âm thì thuộc về Đất (người và vật).
VIII: Ngũ hành của Hậu Thiên Bát quái:
Ở Tiên Thiên hào quái là Tượng của Âm Dương tự nhiên tự do tạo ra hành khí chứ không mang sẵn hành khí, còn Ngũ hành của Hậu Thiên Bát quái do con người xếp đặt ra theo thực tế môi trường xung quanh và cũng phù hợp với hành tự nhiên giống như Hà Đồ:

* Khảm là nước nên mang hành Thủy, đặt ở Phương Bắc, mùa Đông, nửa đêm, khí hậu lạnh.
* Ly là lửa nên mang hành Hỏa, đặt ở Phương Nam, mùa Hạ, giữa trưa, khí hậu nóng..
* Càn và Đoài ở Phương Tây, có nhiều núi non hầm mỏ kim khí nên thuộc Kim
* Chấn và Tốn ở Phương Đông, vùng giáp biển cả, cây cỏ xanh tốt nên thuộc Mộ.
*Cấn ở Tây Nam và Khôn ở Đông Bắc là hai nơi có nhiều cao nguyên và núi lớn, đều là đất nên thuộc Thổ.
  Nói rõ hơn:
* Càn thuộc Kim đối Thủy vì gần Khảm.
* Khảm thuộc Thủy đối Thổ vì gần Cấn.
* Cấn thuộc Thổ đối Mộc vì gần Chấn.
* Chấn thuộc Mộc đối Hỏa vì gần Li.
* Ly thuộc Hỏa đối Thổ vì gần Khôn.
* Khôn thuộc Thổ đối Kim vì gần Đoài.
* Đoài thuộc Kim.
     Riêng hành Thổ của Cấn Khôn thì xuyên qua hành Thổ ở Trung cung của Hà Đồ lại có tác dụng làm thay đổi sự sinh khắc giữa Thủy Mộc và Kim Hỏa: đặt Khôn Thổ giữa Ly Hỏa và Đoài Kim làm cho hai hành này đang tương khắc (Hỏa khắc Kim) lại thành tương sinh (Hỏa Ly sinh Thổ Khôn, Thổ Khôn sinh Kim Đoài). Đặt Cấn Thổ vào giữa Khảm Thủy và Chấn Mộc làm cho hai hành nay đang tướng sinh (Thủy sinh Mộc) lại thành ra tương khắc (Mộc Chấn khắc Thổ Cấn, Thổ Cấn khắc Thủy Khảm). Ở Hậu Thiên Bát Quái thì Khôn Cấn nguyên là Thổ, đối mặt nhau ở Tây Nam Đông Bắc, xuyên qua trung tâm Thổ để điều hòa sự sinh khắc giữa Hỏa Kim và Thủy Mộc của Ly Đoài, Khảm Chấn. Ở Hà Đồ thì Thổ ở trung cung yểm trợ cho các hành khác. Thổ đóng vai trò quan trọng là như vậy.
IX. Âm dương trong Hậu Thiên Bát quái:
     Ở Hậu Thiên Bát Quái thì bên Dương Nghi có đủ bốn quẻ Dương, bên Âm Nghi có đủ bốn quẻ Âm, nghĩa là Âm Dương đã phân tán như Âm Dương phân tán ở Lạc Thư. Âm Dương đã phân rõ lập thành một thế quân bình tuyệt đối để đi tới một thế mất quân bình tạm thời, rồi lại trở về quân bình, và cứ như thế mãi nên mới có sự sinh động và sinh hóa. Trái lại, ở Tiên Thiên thì phần Dương Nghi có hai quẻ Dương và hai quẻ Âm, phần Âm Nghi có hai quẻ Âm và hai quẻ Dương. Đó là sự quân bình Âm Dương và trong Âm có Dương, trong Dương có Âm theo lẽ tự nhiên của lí Thái Cực.
Đường phân Âm Dương Nghi hơi lệch theo hướng Tây Bắc - Đông Nam tạo ra một thế tạm thời mất quân bình để có thể trở về thế quân bình trong sinh hoạt của vạn vật. Trục Tây Bắc - Đông Nam là trục dọc của địa cầu, hơi lệch so với thiên cầu, như vậy sự sắp xếp hợp với tự nhiên. Ở Tiên Thiên thì đường phân Âm Dương Nghi theo trục Bắc Nam là theo lẽ tự nhiên của Vũ Trụ (Thiên Lý), là trục chính của bầu trời Vũ Trụ.
Ở Hậu Thiên, cả Âm và Dương đều từ trên hạ xuống. Ở Tiên Thiên Âm Dương lưu hành trong Vũ Trụ theo thể tự nhiên theo chiều thuận, từ trái qua phải, từ Đông qua Tây, Dương nhẹ ở dưới bốc lên, Âm nặng từ trên hạ xuống.
Âm Dương là nguyên lí cơ bản thì ở Tiên Thiên và Hậu Thiên đều tương tự và cùng hoạt động theo định luật cơ hữu Tiêu Trưởng Tiến Thoái chỉ có một điều khác là ở Hậu Thiên, khi lớn mạnh thì đi ra ngoài hoạt động.
* Thiếu Dương từ Chấn (1 vạch) qua Ly (hai vạch) là Dương sinh tức Thiếu Dương tới Đoài (2 vạch) và Càn (3 vạch) là Dương Trưởng, tức Thái Dương. Trong khi đó thì Âm ở Chấn (2 vạch) qua Li tới Đoài (đều 1 vạch) và chấm dứt ở Càn. Đó là Dương Trưởng, Âm tiêu.
* Thiếu Âm từ Tốn (1 vạch) qua Khảm (2 vạch) và Khôn (3 vạch) là Âm Trưởng tức Thái Âm. Trong khi đó thì Dương ở Tốn (2 vạch) qua Khảm (1 vạch) qua Cấn (1 vạch) và chấm dứt ở Khôn. Đó là Âm Trưởng Dương Tiêu. Đó cũng là Âm cực thì Dương Sinh, Âm Thịnh thì Dương Suy và ngược lại Dương Thăng (đi lên Nam) và Âm Giáng (đi xuống phía Bắc).
Ta cũng thấy rằng nếu theo Hào thì Dương từ Chấn dưới đi lên Càn cao (Nam) là Dương đi Thuận (Thăng), còn Âm thì từ Tốn trên đi xuống Khôn dưới (Bắc) là Khôn đi nghịch (Giáng). Theo Quái thì phần Dương có Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, từ Cha đến con là Dương đi thuận. Phần Âm có Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8, từ Con lên Mẹ là Âm đi nghịch.
X. Sáu mươi tư quẻ Kép (Trùng quái) của Hậu Thiên:
Sáu mươi bốn trùng quái ở Tiên Thiên được sắp xếp lại theo thứ tự, không đưa vào sự chuyển hóa của Âm Dương Ngũ Hành và được viết thành Chu Dịch để ứng dụng cho việc lập thân xử thế của con người.
XI. Phân biệt cách sử dụng Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát quái:
Khoa Lý Số sử dụng Hậu Thiên Bát Quái để hỏi về việc của con người, Tiên Thiên Bát Quái để hỏi về vấn để lớn có ảnh hưởng tới toàn xã hội được mất như thế nào. Về sau Hậu Thiên Bát Quái được đặt vào Địa Bàn để ứng dụng trong các môn học thuật để tìm nhận sự thuộc Hình Nhi Hạ Học, còn Tiên Thiên Bát Quái được đặt vào Thiên Bàn để ứng dụng trong Thiên Văn Học thuộc Hình Nhi Thượng Học.
Để vận dụng qui luật Âm Dương Ngũ Hành trong đời sống, cổ nhân đã tạo ra hệ Can Chi (10 Can, 12 Chi) để lập lịch theo Can Chi đo đạc thời gian.
XII. Nguyên tắc xác định Âm Dương ngũ hành, phương hướng của Thập Can:
Có 5 hành, 2 yếu tố Âm Dương thành ra sử dụng 10 Can để phối hợp cả hai yếu tố Âm Dương và Ngũ Hành.Thập Can gồm có 10 tên, mỗi tên được ứng vào một số như sau:
Giáp (1), Ất (2), Bính (3), Đinh (4), Mậu (5), Kỷ (6), Canh (7), Tân (8) Nhâm (9) Quí (10).
Sự phân định Âm Dương cho 10 Can được căn cứ vào số của Hà Đồ, Dương là số Lẻ, Âm là số Chẵn. Như vậy:
- Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm, thuộc: Dương.
- Ất, Đinh, Kỷ,, Tân, Quí thuộc: Âm.
Người ta cho rằng sự phân định Ngũ Hành của Thập can cũng dựa vào Hà Đồ. Trong Hà Đồ thì Thổ ở Trung Ương. Trong dãy số của Thập Can từ 1 đến 10 thì 5 và 6 (Mậu Kỷ) cùng ở chính giữa. Do đó Mậu Kỷ được xếp vào giữa, hành Thổ. Từ đó, theo nguyên tắc tương sinh của các hành để qui định hành của các Can còn lại:
- Thổ sinh Kim nên Canh Tân hành Kim..
- Kim sinh Thủy nên Nhâm Quí hành Thủy.
- Thủy sinh Mộc nên Giáp Ất hành Mộc.
- Mộc sinh Hỏa nên Bính Đinh hành Hỏa.
Như vậy Ngũ Hành:

- Giáp Ất hành Mộc.
- Bính Đinh hành Hỏa.
 - Mậu Kỷ hành Thổ.
 - Canh Tân hành Kim.
 - Nhâm Quý hành Thủy.
Căn cứ vào Âm Dương có người phân biệt như sau:
* Giáp là thời kỳ mầm sống của vạn vật nảy sinh bừng dậy nên Giáp là cây lớn.
* Ất khí hậu ấm áp, vạn vật tươi tốt nên Ất là loại cỏ.
* Bính nóng bức như hun nên Bính là lửa của mặt trời.
* Đinh nóng mà không gắt nên Đinh là lửa của đèn đuốc hay bếp lò.
* Mậu là đất cao ráo, đất ở thành quách hay bờ đê.
* Kỷ là đất ẩm thấp hay đất ở ruộng vườn.
* Canh khí hậu thu liễm nên Canh là đao kiếm.
* Tân khí hậu trong mát nên Tân là đồ vàng bạc trang sức.
* Nhâm nước đến lẫm liệt nên Nhâm là nước ở sông hồ  ẩm thấp ướt át.
* Quí là nước mưa hay nước sương rơi từng giọt.
Có người chỉ căn cứ vào Âm Dương mà cho rằng:
* Giáp là Dương Mộc, Mộc ở giai đoạn phát triển, tráng thịnh.
* Ất là Âm Mộc, Mộc ở giai đoạn suy yếu, tàn tạ.
* Bính là Dương Hỏa, Hỏa đang mạnh.
* Đinh là Âm Hỏa, Hỏa đang suy yếu lụn bại.
* Mậu là Dương Thổ, đất cao, đất cứng, đất màu mỡ.
* Kỷ là Âm Thổ, đất thấp, đất mềm, đất bạc màu.
* Canh là Dương Kim, Kim đang cứng.
* Tân là Âm Kim, Kim đang suy.
* Nhâm là nước mạnh.
* Quý là nước yếu.
Vì Thiên Can đã được gán ghép Ngũ Hành nên phải có qui luật sinh khắc của nó.
XIII. Sự sinh khắc giữa Thiên Can:
1- Thiên Can tương hợp (Thiên Can ngũ hợp):
Người ta lấy cặp số sinh thành của ngũ hành hợp nhau trong Hà Đồ phối hợp với vị trí thứ tự của THIÊN CAN tạo ra THIÊN CAN tương hợp. Trong Hà Đồ thì 1 - 6, 2 - 7, 3 - 8, 4 - 9, 5 - 10 đi cặp đôi với nhau. Đối với THIÊN CAN thì Giáp 1, Ất 2, Bính 3,...,Quí 10. Hai Can cùng cấp số thì tương hợp. Như vậy:
* Giáp (1, +) hợp Kỷ (6, -)
* Ất (2, -) hợp Canh (7, +)
* Bính (3, +) hợp Tân (8, -)
* Đinh (4, -) hợp Nhâm (9, +)
* Mậu (5, +) hợp Quí (10, -)
* Giáp hợp Kỷ còn được gọi là Giáp Kỷ tương hợp.
* NHẬN XÉT:
THIÊN CAN tương hợp thì tuân theo luật giao cảm (nguyên tắc Âm Dương gặp nhau thì hút nhau), và ở cùng vị trí (đi cặp với nhau) trên Hà Đồ. Tương hợp thì Cách 5 (5 là số trung cung trên Hà Đồ).
Căn cứ vào ngũ hành thì ta nhận thấy rằng THIÊN CAN tương hợp thì phải đủ hai yếu tố là phải ngũ hành tương khắc (nghĩa là khắc nhau để đưa đến sự hòa sinh như trên đã đề cặp), nghĩa là phải có sự trái ngược về Âm Dương thì mới có sự tương hợp.
* Giáp hợp Kỷ (Dương Mộc khắc Âm Thổ).
* Ất hợp Canh (Âm Mộc bị Dương Kim khắc).
* Bính hợp Tân (Dương Hoa khắc Âm Kim).
* Đinh hợp Nhâm (Âm Hỏa bị Dương Thủy khắc).
* Mậu hợp Quí (Dương Thổ khắc Âm Thủy).
2- Thiên Can tương khắc (Tương xung):
* Giáp phá (còn gọi là khắc hay xung) Mậu (Dương Mộc khắc Dương Thổ).
* Ất phá Kỷ (Âm Mộc khắc Âm Thổ).
*Bính phá Canh (Dương Hoa khắc Dương Kim).
*Đinh phá Tân (Âm Hỏa khắc Âm Kim).
* Mậu phá Nhâm (Dương Thổ khắc Dương Thủy).
* Kỷ phá Quí (Âm Thổ khắc Âm Thủy).
* Canh phá Giáp ( Dương Kim khắc Dương Mộc).
* Tân phá Ất (Âm Kim khắc Âm Mộc).
* Nhâm phá Bính (Dương Thủy khắc Dương Hỏa).
* Quí phá Đinh (Âm Thủy khắc Âm Hỏa).
* NHẬN XÉT:
Khi Hàng Can phá nhau thì cùng Âm Dương (nguyên tắc động khí thì đẩy nhau) và hành tương khắc. Tương khắc thì Cách 4 Như Giáp 1 Mậu 5, cách 4. Như vậy phải cùng Âm Dương và ngũ hành tương khắc thì mới có sự xung nhau (Như vậy xung nhau thì không đưa đến sự hóa sinh)
3- Thiên Can tương xung:
* Giáp (+ Mộc) xung Canh (+ Kim)(1 - 7).
* Ất (- Mộc) xung Tân (- Kim)(2 - 8).
* Bính (+ Hỏa) xung Nhâm (+ Thủy) (3 - 9).
* Đinh (- Hỏa) xung Quí ( - Thủy)(4 - 10).
* Mậu ( + Thổ) Kỷ (- Thổ) bất tương xung.
* NHẬN XÉT:
Tương xung thì Cách 6, và đòi hỏi cung Âm Dương, hành xung khắc. Nếu khắc Âm Dương hoặc hành không khắc thì không xung).
4- Thiên Can ngũ hợp hóa (hóa là biến thành cái khác):
Nếu hợp căn cứ theo cấp số của Hà Đồ ghép hai Can tương hợp với nhau thì hóa căn cứ vào ngũ vận của Đông Y, biến đổi tính chất ngũ hành của Thập Can gọi là Can đã biến hóa hay thiên can ngũ hóa. Theo Ngũ Vận của Đông Y thì thiên can ngũ hóa như sau:
- Giáp Kỷ hợp hóa Thổ.
- Ất Canh hợp hóa Kim.
- Bính Tân hợp hóa Thủy.
- Đinh Nhâm hợp hóa Mộc.
- Mậu Quí hợp hóa Hỏa.
* Giải thích:
Cụ Hải Thượng Lãn Ông thì căn cứ vào vợ (Can Âm) chồng (Can Dương) phối hợp, con cháu sinh thành để giải thích thiên can ngũ hợp hóa như sau:
- Giáp (chồng), Kỷ (vợ) Vượng ở Dần, sinh Dương Hỏa là Bính (trưởng nam), Hỏa Bính sinh hóa Thổ (trưởng Tôn). Vậy Giáp Kỷ hợp hóa Thổ.
- Canh (chồng), Ất (vợ), Vượng ở Tỵ, sinh Dương Thổ là Mậu (trưởng nam), Thổ sinh Kim (trưởng tôn). Vậy Ất Canh hợp hóa Kim.
 - Bính (chồng), Tân (vợ), Vượng ở Sửu, sinh Dương Kim là Canh (trưởng nam), Kim sinh Thủy (trưởng tôn). Vậy Bính Tân hợp hóa Thủy.
- Nhâm (chồng), Đinh (vợ), Vượng ở Hợi, sinh Dương Mộc là Giáp (trưởng nam), Mộc sinh Hỏa (trưởng tôn). Vậy Đinh Nhâm hợp hóa Mộc
- Mậu (chồng), Quí (vợ), Vượng ở Mùi, sinh Dương Thủy là Nhâm (trưởng nam), Thủy sinh Mộc (trưởng tôn). Vậy Mậu Quí hợp hóa Hỏa.
Theo Thiệu Vĩ Hoa thì Thập Can hóa hợp là do phương vị của 28 Thiên thể quyết định theo vận khí học thuyết.

* Chú ý: khi hợp (tức là khắc Âm Dương, ngũ hành tương sinh hoặc tương khắc) thì sẽ đưa đến hóa như đã đề cặp bên trên.
XIV. Thập can và phương hướng:
Sử dụng phương vị trên Hà Đồ căn cứ vào ngũ hành:
* Giáp Ất hành Mộc nên ở phương Đông (vì hành Mộc ở phương Đông).
* Bính Đinh hành Hỏa nên ở phương Nam.
* Mậu Kỷ hành Thổ nên ở trung ương.
* Canh Tân hành Kim nên ở phương Tây.
XV. Thập can và mùa:
* Giáp Ất thuộc mùa Xuân.
* Bính Đinh thuộc mùa Hạ.
* Mậu Kỷ thuộc Trưởng Hạ.
* Canh Tân thuộc mùa Thu.
 * Nhâm Quí thuộc mùa Đông.
XVI. Thập can và cơ thể:
* Giáp là đầu.
* Ất là vai.
* Bính là trán.
* Đinh là răng lưỡi.
* Mậu Kỷ là mũi mặt.
* Canh là gân.
* Tân là ngực.
* Nhâm là bắp chân.
* Quí là chân.
XVII. Thập can và tạng phủ:
* Giáp là mật.
* Ất là gan.
* Bính là ruột non.
* Đinh là tim.
* Mậu là dạ dầy.
* Kỷ là lá lách.
* Canh là ruột già.
* Tân là phổi.
* Nhâm là bàng quang.
* Quí là Tạng.
* Nhận xét : Số lẻ là phủ, số chẳn là Tạng.
XVIII. Nguyên tắc định Âm dương ngũ hành phương hướng của Thập nhị chi:
Thập Nhị Chi bao gồm tên của 12 con vật, mỗi tên được ứng vào một số như sau:
Ti'(1), Sửu (2), Dần (3), Mão (4), Thìn (5), Tỵ (6), Ngọ (7), Mùi (8), Thân (9), Dậu (10), Tuất (11), Hợi (12).
1- Phân định Âm Dương: theo số trên Hà Đồ, Dương là lẻ, Âm là Chẵn nên:
* Âm Dương:
     -  Tí Dần Thìn Ngọ Thân Tuất thuộc : Dương.
     - Sửu Mão Tị Mùi Dậu Hợi thuộc : Âm.
* Ngũ hành :
Vị trí của 12 Địa Chi là vị trí cố định theo hai trục Bắc Nam (Thủy Hỏa) và Đông Tây (Mộc Kim). Mười hai Chi được viết theo chiều thuận trên một vòng tròn, mỗi Chi cách nhau một góc 30 độ, Tí bắt đầu từ hướng Bắc. Để xác định hành cho các Chi một cách hợp lý nhất, người xưa đã chọn hành của các cung như sau:
* Hợi Tí (huớng Bắc) thuộc : Thủy.
* Dần Mão (huớng Đông) thuộc : Mộc.
* Tỵ Ngọ (huớng Nam) thuộc : Hỏa.
* Thân Dậu (hướng Tây) thuộc : Kim.
Còn hành Thổ ở chính giữa thì chia làm 4, nằm ở 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi để điều hòa quá trình sinh khắc giữa các hành (Thìn Tuất Dương Thổ, Sửu Mùi Âm Thổ)
* Nếu xét về các tiết trong năm thì trục Tí Ngọ tương ứng với hai tiết Đông Chí (Tí) và Hạ Chí (Ngọ), còn trục Mão Dậu thì tương ứng với hai tiết Xuân Phân (Mão) và Thu Phân (Dậu) trong năm. Theo lịch Kiến Dần (lịch sử dụng tháng 11 có tiết Đông Chí) thì tháng Giêng có tiết Lập xuân là tháng Dần. Như vậy theo lịch này thì 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi là 4 tháng giao mùa. Các tháng nay hành Thổ
Có người cho rằng:
* Dần dương Mộc.
* Mão Âm Mộc.
* Thìn dương Thổ, đất thấp.
* Tỵ Âm Hỏa.
* Ngọ dương Hỏa.
* Mùi Âm Thổ, đất khô ráo.
* Thân dương Kim.
* Dậu Âm Kim.
* Tuất dương Thổ, đất cao.
* Hợi Âm Thủy.
* Tý dương Thủy.
* Sửu Âm Thổ đất ướt mềm.
XIX. Địa chi và phương hướng:
* Dần Mão Thìn phương Đông, Mão thuộc chính Đông.
* Tỵ Ngọ Mùi thuộc phương Nam, Ngọ thuộc chính Nam.
* Thân Dậu Tuất thuộc phương Tây, Dậu thuộc chính Tây.
* Hợi Tị Sửu thuộc phương Bắc, Tị thuộc chính Bắc.
Các Chi khác tuy vị trí thuộc phương xen kẻ thiên về phương chính gần mình, ví dụ Dần thuộc Đông Bắc thiên Đông.
1- Địa chi Lục xung (tương xung):
* Tí và Ngọ tương xung (Dương Thủy khắc Dương Hỏa).
* Dần và Thân xung (Dương Kim khắc Dương Mộc).
* Mão và Dậu xung (Âm Kim khắc Âm Mộc).
* Tỵ và Hợi xung (Âm Thủy khắc Âm Hỏa).
Còn Sửu và Mùi xung, Thìn và Tuất xung trong một số sách đã coi là tương hóa nhau vì đều thuộc hành Thổ, hoặc coi là đồng lọai tương xung hay bằng hữu tương xung.
* NHẬN XÉT:
Khi hai Chi xung nhau thì cùng Âm Dương, Phương Hướng đối nhau và hành tương khắc. Địa Chi Tương xung thì Cách 6 giống như thiên can. Như vậy giống như thiên can, phải có sự cùng Âm Dương (và hành tương khắc) thì mới có tương xung. Bất cứ Chi nào khởi đếm theo thứ tự , Chi đó là 1 tới vị trí thứ 7, ta có Chi xung, xung tất khắc nên gọi là Thất Sát (Thất là 7, Sát là hung thần). Người xưa giải thích số 7 này là số tận cùng của Trời Đất, là khí cực Âm Dương.
Tương xung thực chất là xung khắc nhau, tương khắc nên không tốt.
* Giải Thích:
Thiệu Vĩ Hoa cho rằng Lục xung là sự đối địch giữa các ngôi của 12 Địa Chi, cũng tức là sự tương khắc của ngũ hành.
* Tí Ngọ tương xung: Quí Thủy ẩn tàng trong Tị khắc Đinh Hỏa ẩn tàng trong Ngọ. Kỷ Thổ ẩn tàng trong Ngọ phân khắc lại Quí Thủy ẩn tàng trong Tị nên nói Tị Ngọ tương xung.
* Sửu Mùi tương xung: Kỷ Thổ ẩn tàng trong Mùi khắc Quí Thủy ẩn tàng trong Sửu. Đinh Hỏa ẩn tàng trong Mùi khắc Tân Kim ẩn tàng trong Sửu nên nói Sửu Mùi tương xung.

* Dần Thân tương xung: Giáp Mộc ẩn tàng trong Dần khắc Mậu Thổ ẩn tàng trong Thân. Canh Kim ẩn tàng trong Thân phân khắc lại Giáp Mộc ẩn tàng trong Dần nên nói Dần Thân tương xung.
* Mão Dậu tương xung: Tân Kim ẩn tàng trong Dậu khắc Ất Mộc ẩn tàng trong Mão, nhưng Đông xung Tây mà không xung được (nghĩa là Mão Mộc chỉ có thể xung Dậu Kim chứ không thể khắc Dậu Kim).
* Thìn Tuất tương xung: Quí Thủy ẩn tàng trong Thìn khắc Đinh Hỏa ẩn tàng trong Tuất. Tân Kim ẩn tàng trong Tuất phân khắc lại Ất Mộc ẩn tàng trong Thìn nên nói Thìn Tuất tương xung.
* Tỵ Hợi tương xung: Canh Kim ẩn tàng trong Tỵ khắc Giáp Mộc ẩn tàng trong Hợi. Nhâm Thủy ẩn tàng trong Hợi phân khắc lại Bính Hỏa ẩn tàng trong Tỵ nên nói Tỵ Hợi tương xung.
2- Địa chi nhị hợp (địa chi lục hợp, địa chi tương hợp) và địa chi lục hợp hóa:
     A- Tương hợp với nhau thì tốt:
* Tí (+ Thủy) hợp Sửu (- Thổ).
* Dần (+ Mộc) hợp Hợi (- Thủy).
* Mão (- Mộc) hợp Tuất (+ Thổ).
* Thìn (+ Thổ) hợp Dậu (- Kim).
* Tỵ (- Hỏa) hợp Thân (+ Kim).
* Ngọ (+ Hỏa) hợp Mùi (- Thổ)
Nhận xét:
- Cung nhị hợp thì đối xứng qua trục thẳng đứng, hai cung đối nhau theo hàng ngang trên Địa Bàn.
- Chi Dương thì hợp với chi Âm và ngược lại (khác khí thì hút nhau). Như vậy thì phải khắc Âm Dương mới có sự hợp nhau (và phải có sự tương sinh hoặc tương khắc về ngũ hành như đã đề cập bên trên).
* Chú ý:
Thiệu Vĩ Hoa còn chia tương hợp ra thành trong hợp có khắc và trong hợp có sinh. Trong hợp có khắc nghĩa là hai Chi tuy hợp nhau nhưng ngũ hành thì khắc nhau như Tí (Thủy) hợp Sửu (Thổ). Trong hợp có sinh thì hai Chi hợp nhau và ngũ hành tương sinh như Dần (Mộc) hợp Hợi (Thủy). Hợp có khắc thì trước tốt sau xấu, hợp có sinh thì càng ngày càng tốt.
* Có người giải thích rằng:
Theo sự sắp xếp của Địa Chi trong 12 cung thì:
Tí Sửu ở dưới làm đất hợp Thổ.
Ngọ Mùi ở trên làm trời [Ngọ ở trên làm mặt trời (Thái Dương), Mùi làm mặt trăng (Thái Âm)] hợp Hỏa.
Thiên Khí của trời tỏa xuống, Địa Khí của đất bốc lên tạo ra 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông.
Dần Hợi ở dưới ngang hợp Xuân Mộc.
Xuân rồi đến Hạ nên Mão Tuất hợp Hạ Hỏa.
Hạ đến Thu nên tiến lên Thìn Dậu hợp Thu Kim.
Thu đến Đông nên Tỵ Thân hợp Đông Thủy.
* Một số người viết:
- Tí Sửu hợp hóa Thổ.
- Dần Hợi hợp hóa Mộc.
- Mão Tuất hợp hóa Hỏa.
- Thìn Dậu hợp hóa Kim.
- Tỵ Thân hợp hóa Thủy.
- Ngọ Mùi hợp hóa Hỏa.
* Thiệu Khang Tiết thì cho rằng:
- Tí và Sửu hợp hóa thành Thổ.
- Dần và Hợi hợp hóa Mộc.
- Mão và Tuất hợp hóa Hỏa.
- Thìn và Dậu hợp hóa Kim.
- Tỵ và Thân hợp hóa Thủy.
- Ngọ và Mùi hợp, Ngọ là Thái Dương, Mùi là Thái Âm, hợp với nhau thành Thổ.
Nhưng đa số các sách cho rằng Địa Chi thì chỉ hợp không có hóa, 6 cặp trên là lục hợp, căn cứ vào hợp với 4 mùa rồi từ đó hợp luôn với ngũ hành của 4 mùa, không có hóa như Thiên Can.
* Nhận xét:
Theo nguyên tắc đã đề cập trên , khi hợp thì sẽ có hóa, nên Địa Chi khi hợp thì phải có Hóa.
     B- Địa chi tương hình:
Là cản trở lẫn nhau, không hòa hợp:
- Tí (+ Thủy) Ngọ (+ Hỏa).
- Mão (- Mộc) Dậu (- Kim).
- Dần (+ Mộc) Thân (+ Kim).
- Tỵ (- Hỏa) Hợi (- Thủy).
- Thìn (+ Thổ) Tuất (+ Thổ).
- Sửu (- Thổ) Mùi (- Thổ).
* Nhận định:
Ít nhất cần phải có sự cùng Âm Dương mới có sự tượng hình. Theo Thiên y thì tương hình cần phải cùng Âm Dương và ngũ hành khắc nhau, do đó Thìn và Tuất, Sửu và Mùi không tương hình
     C- Địa chi tương hại (địa chi lục hại, địa chi nhị hại:
Là hại lẫn nhau, là chịu hại, bị hại tức là tương khắc. Tương hại thì không tốt. Trên Địa Bàn thì:
     * Nhị hại là hai cung đối nhau theo hàng dọc:
- Tị (+ Thủy) Mùi (- Thổ) tương hại.
- Sửu (- Thổ) Ngọ (+ Hỏa) tương hại.
- Dần (+ Mộc) Tỵ (- Hỏa) tương hại.
- Mão (- Mộc) Thìn (+ Thổ) tương hại.
- Thân (+ Kim) Hợi (- Thủy) tương hại.
- Dậu (- Kim) Tuất (+ Thổ) tương hại.
* Giải thích:
Thiệu Vĩ Hoa căn cứ vào sách Khảo Nguyên ghi rằng phàm bất cứ việc gì tốt nhất là gặp hợp, kỵ gặp Xung. Lục Hại phát sinh từ Lục hợp:
- Tí hợp với Sửu bị Mùi xung: Sửu bị xung, Tí không còn gì để hợp cho nên Tí Mùi tương hại.
- Sửu hợp với Tí bị Ngọ xung: Tí bị xung, Sửu không còn gì để hợp cho nên Sửu Ngọ tương hại.
- Dần hợp với Hợi bị Tỵ xung: Hợi bị xung, Dần không còn gì để hợp cho nên Dần Tỵ tương hại.
- Mão hợp với Tuất bị Thìn xung: Tuất bị xung, Mão không còn gì để hợp cho nên Mão Thìn tương hại.
- Thìn hợp với Dậu bị Mão xung: Dậu bị xung, Thìn không còn gì để hợp cho nên Thìn Mão tương hại.
- Tỵ hợp với Thân bị Dần xung: Thân bị xung, Tỵ không còn gì để hợp cho nên Tỵ Dần tương hại.
- Ngọ hợp với Mùi bị Sửu xung: Sửu bị xung, Ngọ không còn gì để hợp cho nên Ngọ Sửu tương hại.
- Mùi hợp với Ngọ bị Tị xung: Ngọ bị xung, Mùi không còn gì để hợp cho nên Mùi Tị tương hại.
- Thân hợp với Tỵ bị Hợi xung: Tỵ bị xung, Thân không còn gì để hợp cho nên Thân Hợi tương hại.
- Dậu hợp với Thìn bị Tuất xung: Thìn bị xung, Dậu không còn gì để hợp cho nên Dậu Tuất tương hại.
- Tuất hợp với Mão bị Dậu xung: Mão bị xung, Tuất không còn gì để hợp cho nên Tuất Dậu tương hại.
- Hợi hợp với Dần bị Thân xung: Dần bị xung, Hợi không còn gì để hợp cho nên Hợi Thân tương hại.
Sưu tầm & chỉnh sửa: Ngọc Sơn- Quang Bình
Theo http://nguyenngocson.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Người đàn bà bên kia sông

Người đàn bà bên kia sông Làng tôi nằm sát con sông Thương. Từ chân đê vào làng đi qua một con đường đất nhỏ, hai bên trồng phi lao, cắt q...