Thứ Ba, 11 tháng 8, 2015

Trí tuệ bậc Thầy

Trí tuệ bậc Thầy
TRẦN NHÂN TÔNG
Cư trần lạc đạo
Ở đời vui đạo mặc tùy duyên

Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền
Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm
Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.
Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm là vị vua thứ ba của nhà Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước Trần Anh Tông), ở ngôi 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng Hoàng 15 năm. Ông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam. Tác phẩm Trần Nhân Tông còn lưu lại đến nay sau 700 năm:
Cư trần lạc đạo phú
Đại Lãm Thần Quang tự
Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca
Đăng Bảo Đài sơn
Đề Cổ Châu hương thôn tự
Đề Phổ Minh tự thủy tạ
Động Thiên hồ thượng
Họa Kiều Nguyên Lãng vận
Hữu cú vô cú
Khuê oán
Lạng Châu vãn cảnh
Mai
Nguyệt
Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ
Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính
Sơn phòng mạn hứng
I
II
Sư đệ vấn đáp
Tán Tuệ Trung thượng sĩ
Tảo mai

I
II
Tặng Bắc sứ Lý Tư Diễn
Tây chinh đạo trung (tái chinh Ai Lao)
Thiên Trường phủ
Thiên Trường vãn vọng
Tống Bắc sứ Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai
Tống Bắc sứ Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng
Trúc nô minh
Tức sự
I
II
Vũ Lâm thu vãn
Xuân cảnh
Xuân hiểu
Xuân nhật yết Chiêu Lăng
Xuân vãn
Lên Yên Tử tìm đức Nhân Tông
Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu.
Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim…
(Trần Nhân Tông)
Người ơi con đến đây tìm
Non thiêng Yên Tử như tranh họa đồ
Núi cao trùng điệp nhấp nhô
Trời xuân bảng lãng chuông chùa Hoa Yên
Thầy còn dạo bước cõi tiên
Con ươm mầm sống  xanh thêm ruộng vườn
Mang cây lộc trúc về Nam
Ken dày phên giậu ở miền xa xôi
Cư trần lạc đạo (1) Người ơi
Tùy duyên vui đạo sống đời thung dung
Hành trang Thượng sĩ Tuệ Trung
Kỳ Lân thiền viện cành vươn ra ngoài
An Kỳ Sinh trấn giữa trời
Thơ Thiền lưu dấu muôn đời nước non …

Chùa Hoa Yên
Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn

Mang cây lộc trúc về Nam
Kỳ Lân thiền viện 
An Kỳ Sinh nối chùa Đồng
Khoai Hoàng Long nơi Yên Tử
THƠ THIỀN TRẦN NHÂN TÔNG
Cư trần lạc đạo
居塵樂道賦
( 竹林安子第一祖  陳仁宗 )
I
命憹城市
涅用山林
怺業朗安閑體性
挧耒自在身心
貪愛源停,庄群汝珠腰玉貴
是非
,特油牐燕鶯吟
制搩碧隱
,人間固饒勜得意
別桃紅処柳綠,天下能某主知音
月白暈青,芁每祖禪河淶焔
柳綿花
,屹群生慧日森林
慮換骨約飛升,丹神買服
咅長生衛上界,徃兔群耽
冊易
,腰性腰欣珠寶
經閒讀酉,重
耒重女黃金
Mình ngồi thành thị
Nết dụng sơn lâm
Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính
Nửa ngày rồi tự tại thân tâm
Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý
Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm
Chơi nước biếc ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý
Biết đào hồng hay liễu lục, thiên hạ năng mỗ chủ tri âm
Nguyệt bạc vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng
Liễu mềm hoa tốt, ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm
Lo hoán cốt ước phi thăng, đan thần mới phục
Nhắm trường sinh về thượng giới, thuốc thỏ còn đam
Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu
Sách Nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim
II
別丕
免特

庄群法恪
廛性
性買侯安
裵念妄念停庄錯
悉除人我時歯相實金剛
停歇貪嗔買老
牟圓覺
淨土羅
瑇瀝渚群疑坙典西方
彌陀羅性
芁罵沛辱衛極樂
察身心煉性識呵浪蒙果報舖誇
戒行敵無常儍固詫求名半角
迀業凩庄嫌所縙枾
運紙運檑身根固礙之顛白
戞皮道德間痆貴天宮
油能勉所仁義巴片瓦腰欣樓閣
Biết vậy!
Miễn được lòng rồi
Chẳng còn phép khác
Gìn tính sáng tính mới hầu an
Nén niềm vọng niềm dừng chẳng thác
Dứt trừ nhân ngã thời ra tướng báu kim cương
Dừng hết tham sân mới lảu lòng mầu viên giác
Tịnh độ là lòng trong sạch chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương
Di Đà là tính sáng soi mựa phải nhọc tìm về cực lạc
Xét thân tâm rèn tính thức há rằng mong quả báo phô khoe
Cầm giới hạnh địch vô thường nào có sá cầu danh bán chác
Ăn rau ăn trái nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay
Vận giấy vận sồi thân căn có ngại chi đen bạc
Nhược chỉn vui bề đạo đức nửa gian lều quý nửa thiên cung
Dầu năng miễn thửa nhân nghì ba phiến ngói yêu hơn lầu gác
III
裊麻谷
罪乙乑空
法學吏通
纏性
罵落邪道
所命學朱沛正宗
孛羅舍諳坙隊機馬祖
忘財對色乙
朱沛退龐公
盎資財性
庄貪呵為於歳鷂安子
聲色念停庄轉路之憹庵棧
塵俗麻年,福意強腰歇則
山林庄谷,禍箕實垰徒功
願蒙親近明師果菩提蔑店麻佂
福及情期知識花優曇亖劫耽厠
Nếu mà cốc
Tội ắt đã không

Pháp học lại thông
Gìn tính sáng mựa lạc tà đạo
Sửa mình học cho phải chính tông
Chỉn bụt là lòng sá ướm hỏi đòi cơ Mã tổ
Vong tài đổi sắc ắt tìm cho phải thói Bàng công
Áng tư tài tính sáng chẳng tham, há vì ở Cánh Diều Yên Tử
Răn tham sắc niềm dừng chẳng chuyển, lọ chi ngồi Am Sạn Non Đông
Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc
Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ công
Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ đề một đêm mà chín
Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông
IV

免谷蔑

時耒每惑
轉三毒買證三身
断六根年除六賊
唐換骨舍能服藥煉丹
坙法真空分之另
聲執色
別真如信般若,渚群
佛祖西東
證實相年無為,儍辱坙經禪南北
三藏教,乙學隊禪苑清規
五分香,庄損典栴檀詹蔔
積仁義修道德,埃処尼庄釋迦
戒行断慳貪,實意羅弥
Tin xem
Miễn cốc một lòng
Thời rồi mọi hoặc
Chuyển tam độc mới chứng tam thân
Đoạn lục căn nên trừ lục tặc
Tìm đường hoán cốt, chỉn xá năng phục dược luyện đan
Hỏi pháp chân không , hề chi lánh ngại thanh chấp sắc
Biết chân như, tin bát nhã, chớ còn tìm phật tổ tây đông
Chứng thực tướng nên vô vi, nào nhọc hỏi kinh nam bắc
Xem Tam Tạng giáo, ắt học đòi thiền uyển thanh quy
Đốt ngũ phần hương, chẳng tổn đến chiên đàn chiêm bặc
Tích nhân nghì tu đạo đức, ai hay này chẳng Thích Ca
Cầm giới hạnh đoạn ghen tham, chỉn thực ấy là Di Lặc
V
丕買処
孛於宮茹
庄沛
寻賒
因虧本年些

典谷処
孛羅些
禪午
,釀工圭何有
巴遍,憹宜買國新羅
瑇道義曠機關,它突吝場經

另是非稽声色,
制排淡柳塘花
德孛慈悲,蒙饒劫願朱親近
恩堯曠垰,律全身逋沒乑赦
襖免
潭蔭過務,或針或雉
共粥肁奴隊,油白油叉
垠八識裵八風,強提強倍
三玄箼三要,蔑拮沒磨
琴本少絃,舍彈酉控無生曲
笛庄固魯,共泛制唱太平歌
,群可惜俱胝長老
虧頭執俸,乙堪宼演若達多
律圈金剛,呵
侯通年艶
訥蓬栗棘,儍検沛綽像

Vậy mới hay
Bụt ở trong nhà
Chẳng phải tìm xa
Nhân khuây bản nên ta tìm bụt
Đến cốc hay chỉn bụt là ta
Thiền ngỏ năm câu, nằm nhãng cong quê Hà Hữu
Kinh xem ba bận, ngồi ngơi mái quốc Tân La
Trong đạo nghĩa, khoảng cơ quan, đà đụt lặn trường kinh cửa tổ
Lánh thị phi, ghê thanh sắc, ngại chơi bời dặm liễu đường hoa
Đức bụt từ bi, mong nhiều kiếp nguyền cho thân cận
Ân Nghiêu khoáng cả, lọt toàn thân phô việc đã qua
Áo miễn chăn đầm ấm qua mùa, hoặc châm hoặc xể
Cơm cùng cháo đói no đòi bữa, dầu bạc dầu thoa
Ngăn bát thức nén bát phong, càng đè càng bội
Lẩy tam huyền , nong tam yếu, một cắt một ma
Cầm vốn thiếu dây, xá đàn dấu xoang Vô sinh khúc
Địch chăng có lỗ, cũng bấm chơi xướng Thái bình ca
Lẩy cội tìm cành, còn khá tiếc Câu Chi trưởng lão
Quay đầu  chớp bóng, ắt kham cười Diễn Nhã Đạt Đa
Lọt quyển kim cương, há mặt hầu thông nên nóng
Nuốt bồng lật cức, nào tay phải xước tượng da.

VI
實世
唉舍無心
自然合道
停三業買
身心
達蔑
時通祖教
認文解義,落來年禪客巴為
証理知機,勁葛沛訥僧坤窖
嘆有漏嘆無漏,保朱処
律杓菱?
坙大乘坙小乘,
倘悉斅錢絲
認別漏漏
,庄皮時節因緣
搥朱域域性爯,儍固染根塵喧鬧
渚歇霚,舍須佂番篤佂番煉
祿庄群貪,免特蔑時齋蔑時粥
瀝戒
搥戒相,外年菩薩莊嚴
桰蜍主討蜍吒,
杜買丈夫忠孝
參禪見伴,涅身命買可回恩
學道蜍柴,
昌沃渚通晫報
Thực thế
Hãy xá vô tâm
Tự nhiên hợp đạo
Dừng tam nghiệp mới lặng tam thân
Đạt một lòng thì thông tổ giáo
Nhận văn nghĩa, lạc lài nên thiền khách bơ vơ
Chứng lý tri cơ, cứng cát phải nạp tăng khôn khéo
Han hữu lậu han vô lậu, bảo cho hay the lọt duộc thưng
Hỏi Đại thừa hỏi Tiểu thừa, thưa thẳng tắt sồi tiền tơ gạo
Nhận biết làu làu lòng vốn, chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên
Dồi cho vặc vặc tính gương, nào có nhuộm căn trần huyên náo
Vàng chưa hết quặng, xá tua chín phen đúc chín phen rèn
Lộc chẳng còn tham, miễn được một thì chay một thì cháo
Sạch giới lòng dồi giới tướng, nội ngoại nên bồ tát trang nghiêm
Ngay thờ chúa thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu
Tham thiền kén bạn, nát thân mình mới khá hồi ân
Học đạo thờ thầy, dọt xương óc chưa thông của báo
VII
丕買処
法孛重世
煉買谷処
無明歇菩提添

煩惱耒道德強蔢
經塁孛易朱体酉
學隊機祖詫禪空坤卒別尼
根本瀉塵緣罵底某毫氂當
我勝幢圓知見渚朱群禍宁工検
覺悟棱邪時訳
劍知慧撅朱空性識課尼
恩聖律吒蜍柴學道
勉德瞿經裴兀

感德慈悲底饒劫願朱親近
隊恩救渡涅怺身時召

義矣汝道庄涓香花供
群年討
凩浪信
吏磊玉蜍共渚歇
Vậy mới hay
Phép bụt trọng thay
Rèn mới cốc hay
Vô minh hết bồ đề thêm sáng

Phiền não rồi đạo đức càng say
Xem phỏng lòng kinh lời bụt thốt dễ cho thấy dấu
Học đòi cơ tổ sá thiền không khôn chút biết nơi
Cùng căn bản, tã trần duyên, mựa để mỗ hào ly đương mặt
Ngã thắng chàng, viên tri kiến, chớ cho còn họa trữ cong tay
Buông lửa giác ngộ đốt hoại thảy rừng tà thời trước
Cầm kiếm trí tuệ quét cho không tính thức thuở nay
Vâng ơn thánh, xót mẹ cha, thờ thầy học đạo
Mến đức Cù, kiêng bùi ngọt, cầm giới ăn chay
Cảm đức từ bi, để nhiều kiếp nguyền cho thân cận
Đòi ơn cứu độ, nát muôn thân thà chịu đắng cay
Nghĩa hãy nhớ, đạo chẳng quên, hương hoa cúng xem còn nên thảo
Miệng rằng tin, lòng lại lỗi, vàng ngọc thờ cũng chửa hết ngay
VIII
徵意
舍須煉
渚年

來意識渚執澄澄
裵念妄罵群觸觸
功名忙(-)意全羅仍打疑(-)
福慧兼奴
買可年勜實谷
鄧橋渡,搥廛塔,外莊嚴事相矣修
刪喜捨,軟慈悲,
自在經恒讀
乄孛,舍修蔑飭搥埋
待葛見
,群吏沛饒番瀘淥
經讀錄,乄朱朋所体所処
重孛修身,用罵磊蔑絲蔑

尼言句,庄兮蔑丿
栗所機關,罵群底
唏突祿
Chưng ấy
Chỉn xá tua rèn
Chớ nên tuyệt học
Lay ý thức chớ chấp chằng chằng
Nén niềm vọng mựa còn xóc xóc
Công danh mảng đắm, ấy toàn là những đứa ngây thơ
Phúc tuệ gồm no, chỉn mới khá nên người thực cốc
Dựng cầu đò, dồi chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu
Săn hỉ xả, nhuyễn từ bi, nội tự tại kinh lòng hằng đọc
Rèn lòng làm bụt, chỉn xá tu một sức dùi mài
Đãi cát kén vàng, còn lại phải nhiều phen lựa lọc
Xem kinh đọc lục, làm cho bằng thửa thấy thửa hay
Trọng bụt tu thân, dùng mựa lỗi một tơ một tóc
Cùng nơi ngôn cú, chỉn chăng hề một phút ngại lo
rất thửa cơ quan, mựa còn để tám hơi dọt lọc
IX
丕朱処
機關祖教
雖恪饒塘
庄隔某剛
舍吶自罒馬祖
乙乑涓課訳蕭皇
功德全無,性執癡強添磊
廓然不識,
愚渕乙群肹
生天竺,折少林,
肁真熊耳
身菩提,
明鏡,牌剶炦壁行廊
王老斬貓,辣
忛峼馭首坐
柴胡摳匵,
擼娂智珥昆床
悪盧陵
末過於,庄朱麻垰
所石頭廏瀾歇則,坤典

破灶拮棋,踏笹酉

俱胝移阮,用隊躡躡翁盎
劍臨,鑲秘魔,訳衲僧奴油自在
獅子翁端,
柴佑,檀越歛舍迎昂
扇子,拮竹篦,驗几學機關珥(-)
芻丸毬,
木杓,伴禪和所木誇光
船子耶掉,匇籑渚朱羨洗
道吾扄笏乾魔
体怪光
偃老訥乾坤,些娂㐱
蓊存昂世界,勜体乙揚
夛柏羅
,托歯訳沛方太白
丙丁屬火,吏呂罒磊向天罡
茶趙老餅韶陽,排禪子矣群肁渴
曹溪園少室,眾衲僧仍底留荒
招勑檜乃厠
,因芒買涅
祿桃花宜
,默
Vậy cho hay
Cơ quan tổ giáo
Tuy khác nhiều đường
Chẳng cách mấy gang
Chỉn xá nói từ sau Mã tổ
Ắt đã quen thuở trước Tiêu Hoàng
Công đức toàn vô, tính chấp si càng thêm lỗi
Khuếch nhiên bất thức, tai ngu mảng ắt còn vang
Sinh Thiên Trúc, tử Thiếu Lâm, chôn dối chân non Hùng Nhĩ
Thân bồ đề, lòng minh kính, bài giơ mặt vách hành lang
Vương lão chém mèo, lại trẩy lòng ngừa thủ tọa
Thầy Hồ khua chó, trỏ xem trí nhẹ con giàng
Chợ Lư Lăng gạo mắt quá ư, chẳng cho mà cả
Sở Thạch Đầu đá trơn hết tấc, khôn đến thưa đang
Phá Táo phất cờ, đạp xuống dấu thiêng thần miếu
Câu Chi day ngón, dùng đòi nếp cũ ông ang
Lưỡi gươm Lâm Tế, nạng Bí Ma, trước nạp tăng dầu tự tại
Sư tử ông Đoan, trâu thầy Hựu, răn đàn việt hượm xá nghênh ngang
Đưa phiến tử, cất trúc bề, nghiệm kẻ học cơ quan nhẹ nhẵn
Xô hòn cầu, cầm mộc thược, bạn thiền hòa thửa khoe khoang
Thuyền tử rà chèo, dòng xanh chửa cho tịn tẩy
Đạo Ngô múa hốt, càn ma dường thấy quái quàng
Rồng Yển lão nuốt càn khôn, ta xem chỉn lệ
Rắn ông Tồn ngang thế giới, người thấy ắt dương
Cây bách là lòng, thác ra trước phải phương Thái Bạch
Bính đinh thuộc hỏa,  lại trở sau hỏi hướng Thiên Cang
Trà Triệu lão, bánh Thiều dương, bầy thiền tử hãy còn đói khát
Ruộng Tào Khê, vườn Thiếu Thất, chúng nạp tăng những để lưu hoang
Gieo bó củi, nẩy bông đèn, nhân mang mới nát
Lộc đào hoa nghe tiếng trúc, mặc vẻ mà sang
X
象眾意
谷蔑真空
用隊根器
些旺執坤通
呵機祖
群所秘
眾小乘谷処渚典,垠寶所化城
等上士證寶麻年,埃技固山林城市
倂荒棱瓊,意羅尼逸士逍遙
廛永庵清,
實境道人逾
馭高傘垰,閻王儍計打迎昂
閣玉樓
,獄卒少之勜腰貴
拯功名籠人我,實意凡愚
蔢道德移身心,定年聖智
眉昂每獨,相雖羅
乙凭饒
,實隔忍萬萬千里
Tượng chúng ấy
Cốc một chân không
Dụng đòi căn khí
Nhân lòng ta vướng chấp khôn thông
Há cơ tổ nay còn thửa bí
Chúng Tiểu thừa cốc hay chửa đến, bụt xá ngăn Bảo sở hóa thành
Đấng Thượng sĩ chứng thực mà nên, ai ghẽ có sơn lâm thành thị
Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao
Triền vắng am thanh, chỉn thực cảnh đạo nhân du hí
Ngự cao tán cả, Diêm vương nào kể đứa nghênh ngang
Gác ngọc lầu vàng, ngục tốt thiếu chi người yêu quý
Chuộng công danh, lồng nhân ngã , thực ấy phàm phu
Say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí
Mày ngang mũi dọc, tướng tuy là xem ắt bẵng nhau
Mặt thánh lòng phàm, thực cách nhẫn vạn vàn thiên lý
居塵樂道且隨緣,
饑則飧兮困則眠。
家中有宝休尋覓,
對鏡無心莫問禪。
Kệ vân:
Cư trần lạc đạo thả trùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối kính vô tâm mạc vấn thiền
Sống giữa phàm trần, hãy tùy duyên mà vui với đạo
Đói thì ăn, mệt thì ngủ
Trong nhà sẵn của báu, đừng tìm đâu khác
Đối diện với mọi cảnh giới mà vẫn vô tâm, thì cần chi hỏi thiền nữa
Ở đời vui đạo mặc tùy duyên
Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền
Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm
Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.
Trúc lâm yên tử đệ nhất tổ Trần Nhân Tông
Tảo mai
Nguyên văn chữ Hán
五日驚寒懶出門,
東風先已到孤根。
影橫水面冰初泮,
花壓枝頭暖未分。
翠羽歌沉山店月,
畫龍吹濕玉關雲。
一枝迷入故人夢,
覺後不堪持贈君。
Phiên âm Hán Việt
Ngũ nhật kinh hàn lãn xuất môn,
Đông phong tiên dĩ đáo cô côn (căn).
Ảnh hoành thủy diện băng sơ bạn,
Hoa áp chi đầu noãn vị phân.

Thúy vũ[1] ca trầm sơn điếm nguyệt,
Họa long[2] xuy thấp Ngọc Quan[3] vân.
Nhất chi mê nhập cố nhân mộng,
Giác hậu bất kham trì tặng quân[4].
Dịch nghĩa
Chỉ năm ngày sợ rét lười ra khỏi cửa,
Mà gió xuân đã sớm đến với gốc cây cô đơn.
Bóng ngả trên mặt nước, băng giá bắt đầu tan,
Hoa trĩu nặng đầu cành, hơi ấm chưa định rõ.
Giọng ca Thúy vũ lắng chìm mặt trăng xóm núi.
Tiếng sáo Họa long ẩm ướt đám mây Ngọc Quan.
Một cành hoa lạc vào giấc mộng cố nhân,
Tỉnh dậy, không thể đem tặng anh được.
Chú thích 
 Tức “Thúy vũ ngâm”, tên một từ khúc. Cung điệu của khúc ngâm này còn thấy ở bài “Trúc sơn từ” của Tưởng Tiệp. Lời đề tựa của ông nói: Vương Quân Bản trao cho ta một khúc hát theo Việt điệu tên là “Tiểu mai hoa dẫn”, bảo ta lấy ý bay lên tiên, bước trong cõi hư không mà làm lời cho khúc hát…
 Có lẽ là một loại sáo hay tù và có vẽ hình con rồng. Từ hải dẫn lời của Thẩm Ước, Từ Quảng nói rằng tù và của người Hồ chỗ tay cầm vẽ con giao long có chân năm sắc
 Tên một cửa ải trên đường đi sang Tây Vực thuộc tỉnh Cam Túc, Trung Quốc. ở đây tác giả mượn để miêu tả tiếng sáo Họa Long làm ẩm ướt cả đám mây trên cửa ải.
 Hai câu cuối lấy ý trong điển Nhất chi xuân, rút từ câu thơ của Lục Khải tặng Phạm Diệp: “Chiết mai phùng dịch sử, Ký dữ lũng đầu nhân. Giang Nam hà sở hữu, Liêu tặng nhất chi xuân” (Bẻ cành hoa mai, gặp được người đưa thư trạm, gửi cho người ở Lũng Đầu. Đất Giang Nam có gì đâu, hãy tặng anh một cành xuân). Nhưng ở đây tác giả chỉ có cành mai trong giấc mộng nên không thể đem tặng bạn được.
Tuệ Trung Thượng Sĩ
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士; 1230- 1291) là Hưng Ninh Vương Trần Tung, danh tướng và thiền sư nổi tiếng đời Trần. Ông là con trưởng của An Sinh Vương Trần Liễu, anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm húy Thiều, vợ vua Trần Thánh Tông. Ông có công lớn trong ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông năm 1258, 1285 và 1288. Sau kháng chiến thành công, ông được phong chức Tiết độ sứ cai quản phủ Thái Bình. Nhưng không lâu sau ông lại lui về ấp Tịnh Bang (nay ở huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng) lập Dưỡng Chân trang để theo đuổi nghiệp Thiền. Vua Trần Nhân Tông hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ về tôn chỉ, Thượng sĩ đáp: “Hãy quay về tự thân chứ không tìm ở đâu khác”. Trần Nhân Tông bừng tỉnh ngộ, bèn xốc áo, thờ làm Thầy. Đức Nhân Tông có bài tán về Tuệ Trung: “Vọng chí di cao, Toàn chi di kiên. Hốt nhiên tại hậu, Chiêm chi tại tiền. Phu thị chi vị, Thượng sĩ chi Thiền. Nghĩa là: Nhìn lên càng thấy cao,/ Khoan vào càng thấy cứng./ Bỗng nhiên ở phía sau,/ Nhìn lại thấy phía trước./ Cái đó gọi là:/ Đạo Thiền của Thượng sĩ.” Quyển Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục nằm trong bộ “Trần Triều Dật Tồn Phật Điển Lục”, là bộ Phật điển còn sót của đời nhà Trần. Tập sách này rất quan yếu trong nhà Thiền, nhất là Thiền tông Việt Nam.“ Sách này do Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông khảo đính, Thiền sư Pháp Loa biên tập. Thiền sư Huệ Nguyên khắc in lại năm 1763. Chứng tích ở Kỳ Lân thiền viện (Hoàng Kim trích dẫn theo Thích Thanh Từ DL 1996 – PL 2540, Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục giảng giải)
HÀNH TRẠNG THƯỢNG SĨ
(TRẦN TUNG: 1230 – 1291)
Thượng Sĩ là con đầu của Khâm Minh Từ Thiện Thái Vương (Trần Liễu), là anh cả của Hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Khi Đại vương mất, Hoàng đế Thái Tông cảm nghĩa phong cho Thượng Sĩ tước Hưng Ninh Vương.
Lúc nhỏ, Thượng Sĩ nổi tiếng bẩm chất cao sáng thuần hậu. Được cử trấn giữ quân dân đất Hồng Lộ, hai phen giặc Bắc xâm lăng, Ngài chống ngăn có công với nước, lần lượt thăng chức Tiết độ sứ giữ cửa biển Thái Bình. Thượng Sĩ là người khí lượng uyên thâm, phong thần nhàn nhã. Tuổi còn để chỏm, Ngài đã mến mộ cửa Không. Sau Ngài đến tham vấn Thiền sư Tiêu Dao ở Tinh xá Phước Đường. Ngài lãnh hội được yếu chỉ, dốc lòng thờ làm thầy. Hằng ngày, Ngài lấy Thiền duyệt làm vui, không lấy công danh làm sở thích. Ngài lui về ở phong ấp Tịnh Bang, đổi tên là làng Vạn Niên. Hòa ánh sáng lẫn với thế tục (hòa quang đồng trần), Ngài cùng mọi người chưa từng chống trái, nên hay làm hưng thạnh hạt giống chánh pháp, dạy dỗ được hàng sơ cơ, người đến hỏi han, Ngài đều chỉ dạy cương yếu, khiến họ trụ tâm, tánh Ngài tùy phương tiện khi hiện khi ẩn, trọn không có danh thật.
Vua Thánh Tông nghe danh Ngài đã lâu, bèn sai sứ mời vào cửa khuyết. Ngài đối đáp với Vua đều là những lời siêu thoát thế tục. Nhân đó, vua Thánh Tông tôn Ngài làm Sư huynh, tặng hiệu là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Ngài vào cung thăm, Thái hậu mở tiệc thịnh soạn tiếp đãi. Dự tiệc, Ngài gặp thịt cứ ăn. Thái hậu lấy làm lạ hỏi: “Anh tu thiền mà ăn thịt, đâu được thành Phật?”
Thượng Sĩ cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật, Phật chẳng cần làm anh, không nghe Cổ đức nói: ‘Văn-thù là Văn-thù, Giải Thoát là Giải Thoát’ đó sao?”
Thái hậu qua đời, nhà Vua làm lễ trai tăng ở cung cấm. Nhân lễ khai đường, Vua thỉnh những vị danh đức các nơi, theo thứ lớp mỗi vị thuật bài kệ ngắn để trình kiến giải. Kết quả thảy đều quến sình ủng nước, chưa có chỗ tỏ ngộ. Nhà Vua lấy quyển tập đưa Thượng Sĩ. Thượng Sĩ cầm viết xóa một mạch, rồi làm bài tụng tự thuật rằng:
Kiến giải trình kiến giải
Tợ ấn mắt làm quái
Ấn mắt làm quái rồi
Rõ ràng thường tự tại.
Nhà Vua đọc xong, liền phê tiếp theo sau:
Rõ ràng thường tự tại
Cũng ấn mắt làm quái
Thấy quái chẳng thấy quái
Quái ấy ắt tự hoại.
Thượng Sĩ đọc, thầm nhận đó.
Sau Vua kém vui, Thượng Sĩ viết thơ hỏi thăm bệnh. Vua đọc thơ, trả lời bằng bài kệ:
Hơi nóng hừng hực toát mồ hôi
Chiếc khố mẹ sanh chưa thấm ướt.
Thượng Sĩ đọc kệ than thở giây lâu. Đến khi Vua bệnh nặng, Thượng Sĩ khập khễnh về kinh thăm, nhưng đến nơi Vua đã qui tiên rồi.
Riêng tôi (Sơ tổ Trúc Lâm) nay cũng nhờ ơn Thượng Sĩ dạy dỗ. Lúc tôi chưa xuất gia, gặp tuần tang của Nguyên Thánh mẫu hậu, nhân thỉnh Thượng Sĩ. Thượng Sĩ trao cho tôi hai quyển lục Tuyết Đậu và Dã Hiên. Tôi thấy Ngài thế tục quá sanh nghi ngờ, bèn khởi tâm trẻ con trộm hỏi rằng:
– Chúng sanh do nghiệp uống rượu ăn thịt, làm sao thoát khỏi tội báo?
Thượng Sĩ bảo cho biết rõ ràng:
– Giả sử có người đứng xây lưng lại, chợt có Vua đi qua sau lưng, người kia thình lình hoặc cầm vật gì ném trúng Vua, người ấy có sợ không? Vua có giận chăng? Như thế nên biết, hai việc này không liên hệ gì nhau.
Thượng Sĩ liền đọc hai bài kệ để dạy:
Vô thường các pháp hạnh
Tâm nghi tội liền sanh
Xưa nay không một vật
Chẳng giống cũng chẳng mầm.
Ngày ngày khi đối cảnh
Cảnh cảnh từ tâm sanh.
Tâm cảnh xưa nay không
Chốn chốn ba-la-mật.
Tôi lãnh hội ý chỉ hai bài tụng, giây lâu hỏi: “Tuy nhiên như thế, vấn đề tội phước đâu dè đã rõ ràng.”
Thượng Sĩ lại dùng kệ để giải rõ:
Ăn rau cùng ăn thịt
Chúng sanh mỗi sở thuộc.
Xuân về trăm cỏ sanh
Chỗ nào thấy tội phước?
Tôi thưa: “Chỉ như gìn giữ giới hạnh trong sạch, không chút xao lãng lại thế nào?”
Thượng Sĩ cười không đáp. Tôi lại thỉnh cầu. Ngài lại nói hai bài kệ để ấn định đó:
Giữ giới cùng nhẫn nhục
Chuốc tội chẳng chuốc phước.
Muốn biết không tội phước
Chẳng giữ giới nhẫn nhục.
Như khi người leo cây
Trong an tự cầu nguy.
Như người không leo cây
Trăng gió có làm gì?
Ngài lại dặn nhỏ tôi: “Chớ bảo cho người không ra gì biết.” Tôi biết môn phong của Thượng Sĩ cao vót. Một hôm tôi xin hỏi Ngài về “bổn phận tông chỉ”, Thượng Sĩ đáp: “Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.) Nghe xong, tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo thờ Ngài làm thầy.
Ôi! Tinh thần sắc vận của Thượng Sĩ thật trang nghiêm, cử chỉ thẳng thắn uy đức, lời bàn huyền nói diệu, dường gió mát trăng thanh, những hàng thạc đức đương thời đều bảo Thượng Sĩ tin sâu hiểu rõ, thuận hạnh nghịch hạnh thật khó lường được.
Sau Ngài bệnh ở Dưỡng Chân Trang, chẳng ở trong phòng thất. Kê một chiếc giường gỗ ở giữa nhà trống, Ngài nằm theo thế kiết tường, nhắm mắt mà tịch. Các người hầu và thê thiếp trong nhà khóc rống lên. Thượng Sĩ mở mắt ngồi dậy, đòi nước súc miệng rửa tay, rồi quở nhẹ rằng: “Sống chết là lẽ thường, đâu nên buồn thảm luyến tiếc, làm nhiễu động Chân tánh ta.” Nói xong, Ngài an nhiên thị tịch, thọ sáu mươi hai tuổi. Bấy giờ là ngày mùng một tháng tư năm Tân Mẹo, nhằm niên hiệu Trùng Hưng thứ 7 (1291) đời vua Trần Nhân Tông.
Tôi đích thân đến dinh của Ngài, có làm bài tụng “Thắp Hương Đền Ơn”, không chép lại đây.
Sau khi tôi được truyền nối pháp, mỗi khi khai đường thuyết pháp, tự nhớ đến tứ trọng ân, nhất là ân pháp nhũ khó đền. Tôi sai họa sĩ vẽ chân dung của Ngài, để được cúng dường, tự thuật bài tụng để tán thán. Đề rằng:
Lão cổ chùy này
Người khó diễn tả
Thủ xích Lương Hoàng
Cây dùi Tần Đế.
Hay vuông hay tròn
Hay dày hay mỏng
Biển pháp một mắt
Rừng thiền ba góc.
CÁC HÀNG MÔN ĐỆ TÁN TỤNG:
– Đệ tử nối pháp Trúc Lâm Đại Đầu-đà tán:
Trông đó càng cao
Dùi đó càng cứng.
Bỗng dưng ở sau
Nhìn đó ở trước.
Đây mới gọi là
Thiền của Thượng Sĩ.
– Trúc Lâm đàn cháu nối pháp đệ tử Pháp Loa cúi đầu kính cẩn tán:
Á!
Gang ròng nhồi lại
Sắt sống đúc thành.
Thước trời tấc đất
Gió mát trăng thanh.
Chao!
– Trúc Lâm đàn cháu nối pháp đệ tử Bảo Phác cúi đầu kính cẩn tán:
Linh Sơn chính tai nghe
Nhai tủy lão Hồ trọc
No rồi mớm cháu con
Chồn cáo hóa sư tử.
Gặp trường nói nín nhàn
Trăng tẩm nước sông thu
Muốn biết toàn vị mặn
Trả con chuột kia đi.
– Đệ tử Tông Cảnh cúi đầu kính cẩn tán:
Thiền thầy ta con quì một chân
Bờ dốc buông tay tâm như như.
Trên đầu cột phướn nấu quả chùy
Bỗng nhiên cỡi ngược lừa ba cẳng.
Năm trước tặng ta trâu đất rống
Ngày nay ngựa gỗ hí trả Ngài.
Trâu sắt đầu nhỏ sừng co quắp
Đêm về húc vỡ núi Tu-di.
Thảnh thơi nhảy thẳng hang rồng dữ
Cướp được san-hô quí một cành
Thần biển nâng lên sáng trời đất
Na-tra nổi giận uy đức mờ.
Ha! Ha! Ha! Cũng rất kỳ
Dương Xuân Bạch Tuyết hòa rất ít
Một mức sau cùng hội thế nào?
Án tố rô, tố rô, tất rị, tất rị.
– Đệ tử cư sĩ hiệu Thiên Nhiên, Vương Như Pháp cúi đầu kính cẩn tán:
Thật kỳ đặc! Thật kỳ đặc!
Trâu đất rống trăng không kẹt mắc
Viết ra sáu bảy trí tuệ môn
Chớ nói núi bút cùng rừng mực.
– Trúc Lâm Thị giả đệ tử Pháp Cổ cúi đầu kính cẩn tán:
Xưa Quốc sư, nay Thượng Sĩ
Cùng một trượng phu chia đây kia.
Tác giả Tỳ-da đứng dưới gió
Lão ngốc Bàng công một trái cà.
Giáo giáp ba huyền phá lao quan
Trên chớp lông mày thôi nghĩ suy.
Màn mắt che mất núi Tu-di
Trong miệng nuốt ngang nước biển cả.
Dưới hàm rồng dữ đục ly châu
Phóng sợi tơ sen cột cọp lớn.
Pháp vương vương pháp mặc tung hoành
Nắm tay chung đường quên mi tớ.
Rảnh rang đùa gẩy đàn không dây
Làng múa thôn ca câu: La lý!
Lý la la! La lý lý!
Chẳng thuộc cung thương giác vũ rành
Thầy tôi nối tiếng ông Như Điệu
Phong thái khác thường lại đẹp thêm.
Tử Kỳ mất rồi tri âm ít
Bao điều cao rộng ở nơi nao?
Người sau tiếp vang nối lời rỗng
Nhận được như xưa lại chẳng phải
Ôi!
– Trúc Lâm Thị giả Tuệ Nghiêm kính cẩn tán:
Lò hồng điểm tuyết
Tháng chạp hoa sen.
Chẳng bút khá viết
Chẳng lời khá phô.
Chọi đá nháng lửa
Điện xẹt chớp sáng.
Chẳng tìm khá tìm
Chẳng chốn khá chốn.
Đó là Thượng Sĩ
Khó lường cơ Ngài
Hòa cùng ánh sáng
Đồng với tục tăng.
Tỳ-da nắm tay
Hoành Dương kết mày
Vòng vàng lùm gai
Nuốt đó thấu đó.
Con trâu con khỉ
Đánh vào rừng Thiền
Vo tròn cọp dữ
Quỉ thần vườn pháp
Miệng trống rao truyền
Xuân vào cành vàng
Cổ chùy! Cổ chùy!
(Bớt bài tán của điệu Pháp Đăng)
HAI BÀI THƠ CỦA THƯỢNG SĨ 
Cây tùng ở đáy khe 
Thương cội tùng xanh tuổi bấy niên,
Đừng than thế mọc lệch cùng xiên;
Cột rường chưa dụng người thôi lạ,
Cỏ dại hoa hèn trước mắt chen. 
澗底松
最愛青松種幾年
休嗟地勢所居偏
棟樑未用人休怪
野草閑花滿目前 
Giản để tùng
Tối ái thanh tùng chủng kỉ niên,
Hưu ta địa thế sở cư thiên;
Đống lương vị dụng nhân hưu quái,
Dã thảo nhàn hoa mãn mục tiền. Nuôi dưỡng chân tính
Thân xác hao gầy há đáng than,
Phải đâu hạc cả lánh gà đàn;
Nghìn xanh muôn thuý mờ non nước,
Góc biển lưng trời: nơi dưỡng chân.
養真養真
衰颯形骸豈足云
非關老鶴避雞群
千青萬翠迷
海角天頭是養真
Dưỡng chânSuy táp hình hài khởi túc vân,
Phi quan lão hạc tị kê quần;
Thiên thanh vạn thuý mê hương quốc,
Hải giác thiên đầu thị dưỡng chân.Tài liệu tham khảo chính:
Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục
Những dòng thơ đời của Tuệ Trung Thượng sĩ
VN Phật giáo sử luận, tập 1, chương XI: Tuệ Trung Thượng Sĩ - Nguyễn Lang.
                                                 Hoàng Kim                               
 Theo ttps://hoangkimvietnam.wordpress.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sự liên hệ kỳ lạ giữa hai tác giả Tế Hanh và Sully Prudhomme

Sự liên hệ kỳ lạ giữa hai tác giả Tế Hanh và Sully Prudhomme Bạn đọc yêu thơ hẳn còn nhớ tới một trong những thi phẩm đầu tay của nhà thơ ...